Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

MỘT SỐ LỖI CHÍNH TẢ THƯỜNG GẶP Ở HỌC SINH LỚP 3 NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH CHỮA pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.59 KB, 17 trang )

MỘT SỐ LỖI CHÍNH TẢ THƯỜNG GẶP Ở HỌC SINH LỚP 3
NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH CHỮA

I/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Như chúng ta đã biết, mục tiêu tổng quát giáo dục tiểu học đã được
xác định phù hợp với xu thế phát triển của thời đại bao gồm cả thái độ, năng lực, kỹ
năng, kiến thức, cách học, cách làm, cách sống, nhằm đào tạo con người tự chủ,
năng động và sáng tạo, có năng lực giải quyết thực tiễn và có năng lực tự học sáng
tạo. Hay nói cách khác, mục tiêu giáo dục tiểu học nhằm đào tạo con người toàn
diện. Vì thế, quá trình dạy học có hứng thú, tích cực hay không, có phát huy trí
thông minh cho trẻ được hay không tất cả phụ thuộc vào khả năng nghe, nói, đọc,
viết Tiếng Việt của trẻ. Mà việc viết đúng chính tả là một trong những yếu tố quan
trọng nhất giúp trẻ hình thành và phát triển tư duy. Nhưng học trò tiểu học của
chúng ta hiện nay còn mắc nhiều lỗi chính tả đáng lo ngại. Đây là vấn đề khiến cho
giáo viên tiểu học phải trăn trở, suy tư, luôn tìm ra mọi nguyên nhân - biện pháp
nhằm giảm tối thiểu việc học sinh mắc lỗi chính tả Làm thế nào để giúp các em
nghe - nói và viết đúng Tiếng Việt ? Đây là vấn đề không phải dễ trong thực tế.
Thật vậy, chính tả Tiếng Việt là một vấn đề luôn luôn được nhiều
người quan tâm. Với tư cách là một phân môn ở trường tiểu học, Chính tả dạy các
em viết đúng, viết đúng hợp với chuẩn chính tả của tiếng việt _ Vả lại, đối với học
sinh tiểu học hoạt động chủ đạo của các em thiên về cảm tính nhưng các em có điều
kiện sống trong thời kỳ hiện đại, thông tin bùng nổ, học sinh được tiếp cận với cái
mới và với đặc điểm tâm sinh lý, trẻ thích tìm tòi, học hỏi, khám phá cái mới trong
nhận thức và trong cuộc sống xã hội.
Do đó, nhận thức của học sinh tiểu học ngày càng mở rộng, năng
khiếu, nhu cầu, hứng thú, thị hiếu, của trẻ ngày càng trở nên phong phú và đa
dạng.
Với những đặc điểm trên, việc giúp cho học sinh tiểu học viết đúng
chính tả càng khó hơn trước vì giáo viên phải biết tổ chức cho trẻ hoạt động tốt trong
học tập cũng như trong lĩnh hội tri thức chung của nhân loại để biến thành tri thức
riêng của mình qua quá trình học tập.


Vì thế, hy vọng rằng đề tài này sẽ giúp chúng ta tìm ra những nguyên
nhân và giải pháp tốt để giải quyết vấn đề “Lỗi chính tả” của học sinh tiểu học. Bởi
vì các em có viết đúng thì mới hiểu đúng, rồi từ đó các em mới cảm thấy yêu quý và
“tự làm giàu” vốn từ, nâng cao hiểu biết và phát triển toàn diện nhân cách và đặc
biệt là phát triển tốt kỹ năng: Nghe - nói - đọc - viết Tiếng Việt.
II/ NỘI DUNG - BIỆN PHÁP - CÁCH GIẢI QUYẾT:
1.Mô tả lỗi sai:
Thế nào là chính tả? Chính tả là một phân môn dạy các em viết đúng.
Viết đúng hợp với chuẩn chính tả của Tiếng Việt. Chính tả là sự quy định của xã hội,
mang tính chất bắt buộc, không cho phép sự sáng tạo cá nhân. Ví dụ “quốc” - trong
Tiếng Việt không có âm đệm đứng trước ô. Chữ “quốc” đây là chữ sai nhưng phải
sử dụng vì chữ viết mang tính toàn dân. Một điều đáng chú ý nữa là trong trường
phổ thông thì chỉ có trường tiểu học mới dạy chính tả. Điều này nói lên tầm quan
trọng của chính tả nên việc dạy chính tả phải có hệ thống để giúp các em nắm được
quy luật viết đúng. Từ đó giáo dục cho các em tính cẩn thận, óc thẫm mĩ, hình thành
lòng yêu quý tiếng mẹ đẻ.
Trong giờ chính tả, về cơ bản học sinh xác định được cách viết đúng
bằng cách tiếp nhận chính xác âm thanh của lời nói nhưng chúng ta biết rằng chính
tả Tiếng Việt còn dựa theo nguyên tắc ngữ nghĩa. Bởi vì, Tiếng Việt của chúng ta có
nhiều phương ngữ cho nên việc “nghe thế nào viết thế ấy” là không thể thực hiện.
Vì thế, các em còn phải dựa vào yếu tố chính âm. Chính âm là các
chuẩn mực phát âm của một ngôn ngữ có giá trị và có hiệu lực về mặt xã hội. Ngoài
ra, các em còn phải dựa vào chuẩn chính tả mới có thể viết đúng. Chuẩn chính tả là
việc chuẩn hoá hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Chuẩn chính tả phải được quy định
cụ thể, rõ ràng tới từng chữ và phải được mọi người tuân theo.
Ví dụ như chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối; có
tính ổn định cao rất ít thay đổi tạo nên tính bảo thủ trong cách viết ( i - y: Mĩ -
Mỹ). Mặc dù có tính ổn định cao nhưng chuẩn chính tả cũng có nhiều thay đổi. Ví
dụ “trằm trồ” là cách viết cũ; còn bây giờ thì viết “trầm
trồ” hoặc ngày xưa viết “đầy tớ” còn bây giờ “đày tớ”.

Ngoài ra, muốn viết đúng chính tả các em còn phải nắm vững cấu tạo
của âm tiết. Am tiết Tiếng Việt là một tổ hợp âm thanh có tổ chức chặt chẽ được
biểu thị sơ đồ sau:

Thanh
Vần
Âm đầu
Âm đệm Âm chính Âm cuối

- Vần là một khối rất chặt.
- Thanh phủ trùm lên đầu các phần âm đầu và vần.
- Thanh và vần kết hợp rất chặt chẽ. Ví dụ chỉ có âm chính thôi cũng
thành tiếng được, như ô (dù) - gồm có: Âm chính + thanh ngang.
Trên cơ sở lý luận đó, tôi thấy học sinh lớp 3 ở Trường Tiểu học “A”
Thị trấn An Châu thường mắc những lỗi chính tả như sau:
1.1/ Sai âm đầu:
TR - CH: Thống kê 50 bài của học sinh thấy có 08 em - chiếm 16 %
viết sai tr thành ch.
Ví dụ như em Nguyễn Văn Xuyên lớp 3B viết: “Mưa thối đất thối cát,
hết chận này qua chận khác đã tới, ráo riết hung tợn hơn”.
X - S: Có 05/ 50 em viết sai - 10%.
Ví du như em Kim Chi lớp 3A viết: “ dổ hết suống đất” hoặc em
Loan lớp 3B viết: “Xoạn nồi nấu cơm”.
V - D: Có 10/ 50 em - 20% viết sai V thành D. Ví dụ như em Mỹ
Phụng lớp 3A viết: “ do gạo nấu cơm ”, em Tâm lớp 3B viết “Hôm nay em đi học
dề không thấy mẹ đâu cả”
GI - D : Có 03 em - 6% viết sai GI thành D. Ví dụ như em Bành Quốc
Huy lớp 3B viết ”dúp đỡ ”, em Mành lớp 3A viết: “ mẹ dục con sớm lên đường
”.
Tóm lại, qua thống kê cho thấy học sinh lớp 3 ở đây sai khá nhiều về

âm đầu, có 26 lượt sai gần bằng 52%. Cụ thể theo biểu đồ sau:


20%

16%


V - D

Tr - Ch
10%
X - S

6%
Gi


SAI ÂM ĐẦU

1.2/ Sai âm chính:
Ít sai hơn âm đầu, có 7/ 50 em - 14% viết sai. Đó là trường hợp sai ă -
â. Ví dụ như em Phụng lớp 3D viết “Mưa tối tâm mặt mũi ”, em Phước Toàn 3D
viết “Hai trung đoàn bộ đội được điều động cắp tốc tới ”
1.3/ Sai âm cuối:
Sai khá phổ biến:

N - NG: 11/ 50 - 22% viết sai.
Ví dụ: như em Hồng Tính lớp 3D viết: “ em nhườn anh cây khế
này ”, “Chị Bưởi trường như con thằng lằng ”.


Và có sai N - NH khoãng 4/ 50 gần bằng 8%.
Ví du như em Tuyền lớp 3A viết “nước lên láng khắp mọi nơi”, em
Nghĩa lớp 3D viết “ em xinh kể lại câu chuyện ” em Thư 3D viết “ hai bênh bờ
quãng sông này ”.
T - C : sai khoảng 5/ 50 - 10%. Ví dụ như em Dương 3D viết “ trả cụt
vàng ”, “ ngạt nhiên





22%

N - NG

10%

T - C

8%
N - NH


SAI ÂM CUỐI

1.4/ Sai dấu thanh:
Đặc biệt ở trường “A” An Châu học sinh lớp 3 không sai âm đệm mà
lại sai dấu thanh nhất là dấu hỏi và dấu ngã. Có 12/ 50 - 24% viết sai.
Ví dụ như em Minh Hùng lớp 3B viết dấu ngã thành dấu hỏi “Mưa rả

rích” hoặc “ lội bì bỏm qua đồng ”
Lại có em Thuỷ Ngân viết dấu hỏi thành dấu ngã “bếp lữa hồng ”.
Tất cả các lỗi sai thường gặp ở học sinh Trường Tiểu học “A” An
Châu được thống kê bằng biểu đồ sau:


52%


40%


24%

Âm đầu Âm cuối Dấu thanh 14%
Âm chính


Âm đệm 0%

2.Nguyên nhân và cách chữa:
Qua nghiên cứu thực tế, học sinh ở đây mắc lỗi chính tả có hai nguyên
nhân chính đó là do phát âm sai và do không nắm quy tắc chính tả. Ngoài ra, cũng
có trường hợp bất cẩn, lo ra nên dẫn đến mắc nhiều lỗi chính tả.
Thật vậy, tại địa phương này, đại đa số nhân dân phát âm sai “tr” thành
“ch” như “một trăm nghìn” thì nói là “một chăm ngàn” hoặc “về quê” thì nói “dề
quê” thậm chí còn nói “dìa quê”.
Học sinh chúng ta phần nhiều do ảnh hưởng gia đình cho nên các em nói thế
nào thì viết thế ấy. Để sửa chữa lỗi này, giáo viên nên chú trọng đến cách phát âm
cho học sinh, phân tích cách phát âm, ví dụ như cong đầu lưỡi “tr” và hướng dẫn học

sinh phân biệt nghĩa của từ, khi nào viết “tr” khi nào viết “ch”
Ví dụ: Tr - “ánh trăng” , “chẻ tre”
Ch - “phải chăng”, che nắng”
Những từ có phụ âm đầu là “v -d , x - s” cũng thế. Khi dạy, không
riêng môn chính tả mà ở bất kỳ môn học nào, từ nào có phụ đầu “tr - ch, v - d, x -
s” giáo viên đều phải chú ý nhấn mạnh nghĩa của từ, cách đọc, cách viết.
Ví dụ: vó; dó; gió - vó ngựa, cây dó, gió thổi.
Đối với âm chính, âm cuối cũng vậy, muốn sửa sai cho học sinh thì
giáo viên chú ý nhấn mạnh, giúp học sinh rèn luyện ở mọi lúc mọi nơi, ở tất cả các
phân môn.
Riêng vế lỗi sai dấu thanh, do đặc thù của địa phương chịu ảnh hưởng
phương ngữ Nam bộ nên khi phát âm khó mà phân biệt được dấu hỏi hay dấu ngã.
Trường hợp này ta nên giúp học sinh phân biệt nghĩa của từ, nắm mẹo luật chính tả
để viết đúng, hiểu đúng.
Ví dụ: Đối với từ láy thì đưa mẹo luật để phân biệt dấu hỏi, dấu ngã
như sau:
Chị Huyền mang Nặng Nga đau
Anh Sắc Không Hỏi một câu gọi là.
Nghĩa là các dấu đi theo nhóm:
Huyền ( \ ), nặng ( . ), ngã ( ~ )
Sắc ( / ), không dấu ( - ), hỏi ( ? ).
Như trường hợp trên “bì bõm” ta viết dấu ngã (bõm), hoặc từ láy : lồng
lộng, trắng trẻo, thướt tha,
Hoặc đối với từ Hán Việt thì giáo viên cũng nên giới thiệu “Mẹo” để học sinh
dễ nhớ:
Mình Nên Nhớ Viết Liền Dấu Ngã.
Nghĩa là đối với các từ có chữ cái M, N, Nh, V, L, D, Ng (Ngh) đều mang
dấu ngã.
Ngoài ra, để giúp các em hiểu, viết đúng chính tả thì nên cho các em
sử dụng “Từ điển chính tả”, hướng dẫn các em biết tự tra Từ điển, tìm hiểu nghĩa từ

phân biệt cách viết.
3. Hiệu quả:
Tóm lại, các hình thức, các biện pháp nêu trên phải được tổ chức đúng
theo từng đối tượng, hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học và tuỳ
tình hình thực tế của từng lớp mà vận dụng trong sự kết hợp hài hoà, có hiệu quả.
Nhờ vậy mà chấtlượng Dạy - Học lớp tôi giảng dạy đạt kết quả khá
cao, đặc biệt là đối với phân môn chính tả. Từ việc các em viết sai chính tả khá
nhiều (giai đoạn đầu năm), tôi đã áp dụng các biện pháp nêu trên, đến cuối năm thì
việc viết sai chính tả ở lớp tôi không đáng kể.
Ví dụ:
- Âm đầu “tr - ch” , đầu năm viết sai trên 50%, đến cuối năm còn sai
khoảng 02% (đối với học sinh yếu).
- Âm cuối “n - nh”, đầu năm viết sai trên 30%, đến cuối năm còn sai
khoảng 01% (đối với học sinh yếu).
Thống kê kết quả chung về phân môn chính tả của lớp tôi trong 3 năm
gần đây như sau:
* Năm học 2001 - 2002: Đạt 72,2% - học sinh viết đúng chính tả.
* Năm học 2002 - 2003: Đạt 82,7% - học sinh viết đúng chính tả.
Sau khi thực hiện đề tài (tính đến hết học kỳ I - năm học 2003 - 2004)
đạt 96,5% học sinh viết đúng chính tả.
III/ KẾT LUẬN:
Tóm lại, từ vị trí và nhiệm vụ của phân môn ở tiểu học; chính tả được
dạy, được chú ý trên tất cả các phân môn Tiếng Việt như Tập đọc, Tập làm văn, Từ
ngữ, Ngữ pháp, và còn dạy với tính cách là một phân môn độc lập. Chính vì vậy,
để giúp các em học tốt phân môn Chính tả hay nói cách khác là để giúp học sinh Nói
- Viết - Hiểu đúng Tiếng Việt thì giáo viên phải giải quyết hai phần việc liên quan
chặt chẽ với nhau đó là dạy lý thuyết và dạy cả thực hành cho các em, để từ đó tạo
cho các em năng lực thực hành đồng thời rèn luyện kỹ năng Nghe - Nói - Đọc - Viết
đúng Tiếng Việt.
Ngoài ra, việc dạy học ở phân môn Chính tả phải đảm bảo hầu hết các

nguyên tắc của giáo dục học, có như thế việc học chính tả mới đảm bảo một cách
khoa học. Nếu dựa vào tâm lý của trẻ, việc dạy chính tả phải phù hợp theo từng lứa
tuổi, theo từng đối tượng một cách chặt chẽ. Bên cạnh đó, giáo viên cần phải chú ý
vận dụng các kết quả của tâm lý học như các quy luật tiếp thu tri thức, hình thành kỹ
năng, kỹ xảo, để từ đó khi dạy học chính tả ta có thể biết được sản phẩm của lời
nói được sản sinh ra như thế nào, vai trò của ngôn ngữ trong sự phát triển tư duy để
hình thành kỹ năng nói, viết ra sao
Nói chung, muốn đạt được mục đích dạy học, người giáo viên phải hết
sức linh hoạt, sáng tạo trong công tác dạy học mà chủ yếu là phương pháp truyền thụ
kiến thức và kỹ năng thực hành cho học sinh ( Ví dụ như ở phần củng cố tiết dạy, có
thể tổ chức thêm trò chơi thi ghép chữ, tìm từ và viết từ, ) , để từ đó học sinh có
thể nắm bắt và khắc sâu kiến thức một cách chủ động, có hệ thống và khoa học, giúp
các em nghiên cứu tự học, tự sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức.
Song song đó, để việc dạy học chính tả đi vào chất lượng thật sự trong
quá trình giảng dạy ở trường tiểu học. Qua nghiên cứu thực nghiệm ở phần lý luận
so với thực tiễn, bản thân xin có lời kiến nghị như sau:
Một là, việc chỉ đạo, cải tiến phương pháp dạy học cần có sự kế thừa
giữa phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại một cách hài hoà vì trình
độ của học sinh vùng nông thôn chưa đồng đều và ít hoạt bát.
Hai là, về phía sách học sinh, nên có những bài tập ( sau phần bài viết
chính tả) có nội dung liên quan đến bài tập ở lớp nhiều hơn bài tập ở nhà vì thời gian
học tập của học sinh ở vùng nông thôn quá khó khăn, các em phải dành nhiều thời
gian giúp gia đình, cha mẹ ít quan .
Ba là, nên có thêm “chú thích” theo phương ngữ Bắc - Trung - Nam.
Bởi vì, hiện nay ở sách học sinh có những từ mà giáo viên phía Nam không hiểu hết
nghĩa thì khó mà giảng cho học sinh được.

An Châu, ngày 20 tháng 3 năm 2004.
Người viết



Lý Thị Ngọc Mãi.


×