Lời cảm ơn
Trong 4 năm học tại trường ĐH Quy Nhơn em đã nhận được rất nhiều sự
giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong trường đặc biệt là các thầy
cô giáo trong khoa Địa lý. Với lòng cảm ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn
các thầy cô trong trường nói chung và trong khoa Địa lý nói riêng.
Đặc biệt để hoàn thành đợt thực tập tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực cố
gắng học hỏi của bản thân, em còn nhận được sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình
của thầy giáo Nguyễn Trọng Đợi – giảng viên khoa Đia lý - Trường ĐH Quy
Nhơn, cùng cán bộ của Phòng địa chính - nhà đất - xây dựng - đô thị của phường
Thanh Xuân Nam là đơn vị đã trực tiếp giúp đỡ em trong thời gian nghiên cứu đề
tài, sự động viên quan tâm giúp đỡ của gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện thuận
lợi để em hoàn thành đợt thực tập.
Đồ án tốt nghiệp sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, nên em mong nhận
được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy cô cùng các bạn sinh viên để em có thể
vững bước hơn trong chuyên môn sau này.
Quy Nhơn, tháng 3 năm 2009
Sinh viên
Lương Thị Thu Hương
1
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CSHT : Cơ sở hạ tầng
HĐND : Hội đồng nhân dân
KH-UB : Kế hoạch-Uỷ ban
KD : Kinh doanh
KT : Kinh tế
KTXH : Kinh tế - xã hội
GCN : Giấy chứng nhận
GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo
GPMB : Giải phóng mặt bằng
GTVT : Giao thông vận tải
NĐ : Nghị định
NQ : Nghị quyết
QLNN : Quản lý nhà nước
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TDTT : Thể dục thể thao
THCS : Trung học cơ sở
TN&MT : Tài nguyên và môi trường
TP : Thành phố
UBND : Uỷ ban nhân dân
UBTV : Uỷ ban thường vụ
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành
phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây
dựng cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, văn minh, quốc phòng. Trải qua nhiều thế
3
hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập và bảo vệ vốn đất
như ngày nay. Đất đai là tài nguyên có hạn về số lượng, có vị trí cố định trong
không gian, không thể thay thế và di chuyển được theo ý muốn chủ quan của
con người. Chính vì vậy, việc quản lý và sử dụng tài nguyên quý giá này một
cách hợp lý không những có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế
đất nước mà còn đảm bảo cho mục tiêu chinh trị và phát triển xã hội.
Đất đai luôn là yếu tố không thể thiếu được đối với bất cứ quốc gia nào.
Ngay từ khi loài người biết đến chăn nuôi, trồng trọt, thì vấn đề sử dụng đất đai
không còn đơn giản nữa bởi nó phát triển song song với những tiến bộ của nền
khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội, chính trị... Khi xã hội càng phát triển thì giá
đất (giá Quyền sử dụng đất) ngày càng cao và luôn giữ được vị trí quan trọng
như Mác đã khẳng định: “Lao động là cha, đất là mẹ sản sinh ra của cải vật
chất”. Do đó, việc quản lý đất đai luôn là mục tiêu Quốc gia của mọi thời đại
nhằm nắm chắc và quản lý chặt quỹ đất đai đảm bảo việc sử dụng đất đai tiết
kiệm và có hiệu quả.
Nước ta, với tổng diện tích tự nhiên là 32.924.061 ha (chỉ tính riêng phần
đất liền) thuộc loại trung bình đứng thứ 60 trong số 160 nước trên thế giới, đứng
thứ 4 trên tổng số 11 nước trong khu vực Đông Nam Á; dân số khoảng 80 triệu
người, đứng thứ 13 trên thế giới và thứ 2 khu vực Đông Nam Á. Bình quân diện
tích đất tự nhiên tính theo đầu người rất thấp chỉ khoảng 4500 m
2
. Bình quân
diên tích đất nông nghiệp theo đầu người thấp chỉ khoảng hơn 1000 m
2
. Vì vậy,
để việc quản lý và sử dụng đất đai ngày càng có hiệu quả, góp phần vào công
cuộc cải tạo xã hội - xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện Luật Đất đai cũng như các quy định
khác vẫn còn nhiều hạn chế trong khâu tổ chức thực hiện. Nhiều văn bản tính
chất pháp lý còn chồng chéo và mâu thuẫn, tình trạng chuyển dịch đất đai ngoài
sự kiểm soát của pháp luật xảy ra. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho các hộ gia đình còn chậm đặc biệt đối với đất ở… Đối với vấn đề cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đô thị và quyền sở hữu nhà ở thì triển khai còn
4
chưa đồng bộ, kết quả đạt được thấp. Việc tranh chấp đất đai diễn ra dưới nhiều
hình thức, việc phát triển các khu dân cư mới ven đô thị lấy từ đất lúa còn đang
diễn ra ở nhiều nơi. Đứng trước thực trạng đó, để đưa vào việc quản lý và sử
dụng đất đai ngày càng có hiệu quả, góp phần vào công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa, cần phải rút kinh nghiệm từ thực tế trong quá trình quản lý và sử dụng
đất. Trên cơ sở đó, xây dựng các biện pháp nhằm quản lý và sử dụng đất hiệu
quả hơn, bền vững hơn.
Để đánh giá được một cách đầy đủ và khoa học tình hình quản lý đất đô thị
trên địa bàn một phường của thành phố Hà Nội. Được sự phân công của khoa
Địa lý, dưới sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Trọng Đợi, em tiến hành nghiên cứu
đề tài: “Thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất đai tại phường Thanh
Xuân Nam - quận Thanh Xuân – thành phố Hà Nội”.
2. Mục đích
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc quản lý và sử dụng đất theo hiến pháp và
pháp luật đất đai.
- Tìm hiểu công tác quản lý nhà nước về đất đai của phường Thanh Xuân
Nam - quận Thanh Xuân - thành phố Hà Nội.
- Tìm hiểu nguyên nhân gây áp lực đến công tác quản lý nhà nước về đất đai
tại phường và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý và sử
dụng đất của phương Thanh Xuân Nam trong thời gian tới.
3. Yêu cầu
- Số liệu đưa ra phải phản ánh trung thực khách quan thực trạng quản lý và sử
dụng đất đai của phường.
- Những kiến nghị và đề xuất phải có tính khả thi phù hợp với thực trạng của
phường.
5
- Có những đề xuất và kiến nghị với tình hình thực tế của địa phương.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài thực hiện trong phạm vi của phường Thanh Xuân Nam - quận Thanh
Xuân - thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu các văn bản luật, dưới luật về quản lý và sử dụng đất do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ban hành.
- Phương pháp thống kê, thu thập và xử lý số liệu.
+ Thông tin được thu thập chủ yếu là cơ sở lý luận và các quy định của
các cơ quan Nhà nước ở trung ương và các cơ quan Nhà nước ở địa phương về
quản lý đất đô thị, trên cơ sở đó thu thập được những số liệu về việc sử dụng đất
ở địa phương. Nguồn thông tin này được thu thập chủ yếu qua Công báo, các
trang web của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
+ Phương pháp thống kê được dùng để xử lý các tài liệu, đặc biệt là các
số liệu thực tiễn về việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý và sử
dụng đất đô thị. Qua đó, có được các số liệu, thông tin tin cậy trình bày trong đồ
án.
- Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu.
Phương pháp này được sử dụng để tập hợp, phân tổ và phân tích các
quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đô thị và phân tích thông tin về
thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về nội dung này. Ngoài ra,
phương pháp tổng hợp và phân tích thông tin cũng được sử dụng để có được kết
quả tổng hợp, có được các đánh giá, nêu ra các luận cứ khoa học trình bày trong
đồ án.
- Phương pháp so sánh: so sánh giữa lý thuyết và thực tế về tình hình quản
lý và sử dụng đất đô thị của phường.
6
Sử dụng để so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam với quy định
của pháp luật một số nước khác từ đó chỉ ra các quy định tương thích, các quy
định không tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước đó;
thấy được nguyên nhân của những thành công và hạn chế của việc thực hiện các
quy định của pháp luật Việt Nam về quản lý và sử dụng đất đô thị.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐẤT ĐAI Ở NƯỚC TA
7
1.1. Đất đai và quản lý nhà nước về đất đai trong chế độ sở hữu toàn
dân ở nước ta
1.1.1. Đất đai
* Vai trò của đất đai
Đất đai là tặng vật quý giá mà thiên nhiên ban tặng, không do con người
tạo ra. Đất đai không tự sinh ra và cũng không tự nhiên mất đi, nó chỉ chuyển
hoá từ mục đích sử dụng này sang mục đích sử dụng khác nhằm phục vụ nhu
cầu thiết yếu của con người.
Lịch sử phát triển của nhân loại luôn gắn liền với đất đai. Tất cả các cuộc
chiến tranh trên Thế giới và các cuộc đấu tranh dựng nước, giữ nước đều có liên
quan đến đất đai bởi đất đai là yếu tố cấu thành lên mỗi quốc gia, là điều kiện
không thể thiếu đối với môi trường sống và mọi ngành kinh tế.
Đất đai là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, có đất
đai mới có các hoạt động sống diễn ra. Đất đai ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
sinh thái của con người và các sinh vật trên trái đất.
Đất đai là địa bàn phân bố dân cư, địa bàn sản xuất của con người. Trong
công nghiệp, đất đai có vai trò là nền tảng, cơ sở, địa điểm để tiến hành các thao
tác, hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất
đai có vai trò đặc biệt, không những là địa điểm thực hiện quá trình sản xuất mà
nó còn là tư liệu lao động để con người khai thác và sử dụng.
Trong mọi nền kinh tế – xã hội thì lao động, tài chính, đất đai và các
nguồn tài nguyên là ba nguồn lực đầu vào và đầu ra là sản phẩm hàng hóa. Ba
nguồn lực này phối hợp với nhau, tương tác lẫn nhau, chuyển đổi qua lại để tạo
nên một cơ cấu đầu vào hợp lý, quyết định tính hiệu quả trong phát triển kinh tế.
Ngày nay, đất đai trở thành nguồn nội lực quan trọng, nguồn vốn to lớn của mọi
quốc gia.
Có thể khẳng định rằng, đất đai là tài nguyên quan trọng, không thể thay
thế được nhưng đất đai chỉ có thể phát huy vai trò của nó dưới những tác động
8
tích cực của con người một cách thường xuyên. Ngược lại, đất đai không phát
huy tác dụng nếu con người sử dụng đất một cách tùy tiện. Dù trong thực tế, mỗi
quốc gia đều có cách tiếp cận riêng, thống nhất với đặc điểm chung của đất đai
và hoàn cảnh lịch sử của mình song mọi cách tiếp cận đều nhằm mục tiêu bảo
đảm nguồn lực đất đai để phát triển kinh tế đất hiệu quả và xác lập quyền bình
đẳng về hưởng dụng đất đai để tạo ổn định kinh tế – xã hội. Do đó, đất đai trở
thành mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia.
* Đặc trưng của đất đai
Với vai trò hết sức quan trọng, đất đai được nhìn nhận dưới nhiều góc độ
khác nhau, có những đặc trưng riêng không giống những vật thể khác. Bởi đất
đai có những đặc trưng:
− Có nguồn cung giới hạn trong khi số lượng người và của cải do con
người tạo ra ngày càng tăng. Như vậy, có thể so sánh tương đối thì nguồn cung về
đất đai ngày càng hạn hẹp trong khi giá trị sử dụng của đất ngày càng tăng.
− Đất đai luôn tồn tại trong tự nhiên, liên quan đến nhiều yếu tố khác
nhau trong xã hội, người có quyền đối với đất không thể cất giấu được cho riêng
mình, khi sử dụng phải tuân theo các nguyên tắc chung của xã hội.
− Đất đai không do con người tạo ra, không bị tiêu hao trong quá trình
sử dụng. Do đó, khả năng sinh lợi của đất đai phụ thuộc vào khả năng sử dụng,
khai thác của con người.
1.1.2. Vai trò của quản lý nhà nước về đất đai trong chế độ sở hữu
toàn dân ở nước ta
Ở Việt Nam hiện nay, đất đai là tài nguyên quốc gia, thuộc sở hữu toàn
dân, chỉ có Nhà nước mới đủ tư cách là người đại diện hợp pháp. Do đó, đất đai
phải được sự thống nhất quản lý của Nhà nước.
9
* Vai trò của quản lý nhà nuớc về đất đai trong chế độ sở hữu toàn dân
ở nớc ta
Ở Việt Nam, do hoàn cảnh lịch sử riêng, trong điều kiện kinh tế – xã hội
cụ thể và mục tiêu phát triển đã xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước thống nhất quản lý (Điều 19 Hiến pháp 1980 và Điều 17 Hiến pháp 1992).
Đây là cơ sở pháp lý cao nhất xác định rõ Nhà nước ta là đại diện chủ sở hữu
đối với toàn bộ quỹ đất quốc gia.
Căn cứ để xác lập chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam:
− Đất đai là tặng vật của thiên nhiên, do đó chế độ sở hữu tư nhân về
đất đai là vô lý bởi không ai có quyền chiếm hữu những thứ không phải do
mình tạo ra ;
− Các cuộc chiến tranh chống xâm lược từ xưa đến nay của cha ông
đều phải trả bằng xương máu và sức lực của toàn dân tộc mới giữ được chủ
quyền quốc gia;
− Mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dựa
trên nguyên tắc một số tư liệu sản xuất chủ yếu trong đó có đất đai phải thuộc
sở hữu tập thể (toàn dân);
− Trong xã hội công nghiệp, quyền chiếm hữu, sử dụng và quyền quản
lý có thể tách rời nhau mà không ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng về mặt kinh
tế, xã hội. Do đó, quan trọng là phải xác định rõ quyền, nghĩa vụ của người sử
dụng đất khi được Nhà nước trao quyền sử dụng thông qua các hình thức giao
đất, cho thuê đất…
− Nước ta đã trải qua thời gian chiến tranh lâu dài với sự thay đổi của
nhiều chế độ chính trị, biến động về đất đai cũng như chủ sử dụng rất phức tạp,
lịch sử quan hệ đất đai để lại cũng rất phức tạp. Việc thống nhất chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai sẽ tạo điều kiện thiết lập một nền chính trị ổn định, cải
thiện hệ thống hành chính công, tạo công bằng xã hội, phát triển kinh tế, bảo
vệ môi trường và đảm bảo an ninh – quốc phòng.
10
− Nhà nước nắm quyền định đoạt chủ yếu thông qua hệ thống quản lý
đất đai sẽ gây động lực để người sử dụng phải nỗ lực tạo hiệu quả trong việc sử
dụng đất cao nhất. Đất đã giao để sử dụng mà không sử dụng, sử dụng không
hiệu quả hoặc sử dụng sai quy định của pháp luật sẽ bị thu hồi.
* Chế độ sở hữu đất đai ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là người đại diện
duy nhất. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai. Nhà nước thực hiện các quyền
của một chủ sở hữu như sau:
Quyền định đoạt đối với đất đai
− Quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định, xét duyệt
quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất;
− Quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất;
− Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với
người đang sử dụng đất, thu hồi đất;
− Định giá đất.
Quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài
chính về đất đai
− Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất;
− Thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất;
− Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người
sử dụng đất mang lại.
Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình
thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử
dụng đất ổn định, quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Nhà nước thống nhất quản lý về đất đai trong cả nước.
11
Nhà nước có chính sách đầu tư cho việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý
nhà nước về đất đai, xây dựng hệ thống quản lý đất đai hiện đại, đủ năng lực,
bảo đảm quản lý đất đai có hiệu lực và hiệu quả.
* Chế độ sử dụng đất đai
Với chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước quy định chế độ sử
dụng đất đai như sau:
Nhà nước giao quyền sử dụng đất như một tài sản cho người sử dụng đất
trong hạn mức phù hợp với mục đích sử dụng và Nhà nước công nhận quyền sử
dụng đất đối với người sử dụng đất hợp pháp.
Người sử dụng đất được Nhà nước cho phép thực hiện các quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh,
góp vốn, tặng cho đối với một số chế độ sử dụng đất cụ thể và trong thời hạn sử
dụng đất.
Nhà nước thiết lập hệ thống quản lý nhà nước về đất đai thống nhất trong
cả nước. Mô hình này tạo được ổn định xã hội, xác lập được tính công bằng
trong hưởng dụng đất và bảo đảm được nguồn lực đất đai cho quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp với mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Mối quan hệ của Nhà nước và người sử dụng đất thể hiện qua sơ đồ hình
vẽ dưới đây:
12
Chủ sở hữu đất
đai (Nhà nước)
Quyền
Nghĩa vụ
Người sử dụng
đất
Quyền
- Nghĩa vụ
Đất đai:
Chế độ sở hữu
Chế độ sử dụng
Quản lý nhà nước về đất
đai:
Nhiệm vụ quản lý
Trách nhiệm quản lý
Chuyển giao, cho thuê,
Mượn, thuê nhân công
Luật pháp, quy hoạch, kinh tế
Định đoạt,
chiếm hữu,
sử dụng và
hưởng lợi
Giúp đỡ
và giám
sát thực
hiện quyền
và nghĩa
vụ
Đăng ký, hồ sơ địa chính,
cấp giấy chứng nhận về đất
Sử dụng
Hưởng lợi
Hình 1 : Sơ đồ về mối quan hệ giữa người sử dụng đất và Nhà nước
* Vai trò của công tác quản lý nhà nước về đất đai
Có vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội loài người và có những
đặc trưng riêng, đất đai được Nhà nước thống nhất quản lý nhằm:
− Bảo đảm sử dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Đất đai
được sử dụng vào tất cả các hoạt động của con người, tuy có hạn về mặt diện
tích nhưng sẽ trở thành năng lực sản xuất vô hạn nếu biết sử dụng hợp lý. Thông
qua chiến lược sử dụng đất, xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Nhà
nước điều tiết để các chủ sử dụng đất sử dụng đúng mục đích, đúng quy hoạch
nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược đã đề ra.
− Thông qua đánh giá, phân loại, phân hạng đất đai, Nhà nước nắm được
quỹ đất tổng thể và cơ cấu từng loại đất. Trên cơ sở đó có những biện pháp thích
hợp để sử dụng đất đai có hiệu quả cao nhất.
− Việc ban hành các chính sách, các quy định về sử dụng đất đai tạo ra
một hành lang pháp lý cho việc sử dụng đất đai, tạo nên tính pháp lý cho việc
bảo đảm lợi ích chính đáng của người sử dụng đất đồng thời cũng bảo đảm lợi
ích của Nhà nước trong việc sử dụng, khai thác quỹ đất.
13
− Thông qua việc giám sát, kiểm tra, quản lý và sử dụng đất đai, Nhà
nước nắm bắt tình hình biến động về sử dụng từng loại đất, đối tượng sử dụng
đất. Từ đó, phát hiện những mặt tích cực để phát huy, điều chỉnh và giải quyết
những sai phạm.
− Việc quản lý nhà nước về đất đai còn giúp Nhà nước ban hành các
chính sách, quy định, thể chế, đồng thời bổ sung, điều chỉnh những chính sách,
nội dung còn thiếu, không phù hợp, chưa phù hợp với thực tế và góp phần đưa
pháp luật vào cuộc sống.
Để thực hiện được chức năng quản lý của mình, Nhà nước phải dựa trên
các nguyên tắc cơ bản:
− Nguyên tắc đảm bảo quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước;
− Nguyên tắc bảo đảm sự kết hợp giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng
đất đai;
− Nguyên tắc bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa các lợi ích thu được từ
đất đai;
− Nguyên tắc sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả cao nhất.
1.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với đất đai
Là tổng hợp các hoạt động của cơ quan Nhà nước về đất đai. Đó là các
hoạt động trong việc nắm và quản lý tình hình sử dụng đất đai, trong việc phân
bổ đất đai vào các mục đích sử dụng đất theo chủ trương của Nhà nước, trong
việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng đất đai.
Muốn đạt được mục tiêu quản lý, Nhà nước cần phải xây dựng hệ thống
cơ quan quản lý đất đai có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng để thực thi có hiệu quả
trách nhiệm được Nhà nước phân công, đồng thời ban hành các chính sách, chế
độ, thể chế phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước đáp ứng được nội
dung quản lý nhà nước về đất đai. Điều này thể hiện chức năng của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa là quản lý mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội trong đó có quản lý đất
14
đai. Mục đích cuối cùng của Nhà nước và người sử dụng đất là làm sao khai thác
tốt nhất tiềm năng của đất đai để phục vụ cho các mục tiêu kinh tế, xã hội của
đất nước. Vì vậy, đất đai cần phải được thống nhất quản lý theo quy hoạch và
pháp luật.
1.2.1. Luật Đất đai 1987
Ra đời đánh dấu bước tiến quan trọng trong công tác quản lý nhà nước
về đất đai ở Việt Nam. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai của Luật này được
quy định tại Điều 9, bao gồm:
− Điều tra, khảo sát, đo đạc, phân hạng đất đai và lập bản đồ địa chính;
− Quy hoạch, kế hoạch hóa việc sử dụng đất;
− Quy định các chế độ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực
hiện các chế độ, thể lệ ấy;
− Giao đất và thu hồi đất;
− Đăng ký đất đai, lập và giữ sổ địa chính, thống kê đất đai, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất;
− Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất đai;
− Giải quyết tranh chấp đất đai.
Luật Đất đai 1987 mới chỉ giải quyết mối quan hệ hành chính về đất đai
giữa Nhà nước (tư cách là chủ sở hữu) với người sử dụng đất. Do đó, nội dung
quản lý nhà nước về đất đai không có những nội dung về đánh giá đất, kinh tế
đất, cho thuê đất... Do không thừa nhận đất có giá nên Nhà nước nghiêm cấm
chuyển dịch đất đai dưới mọi hình thức. Những quy định này làm cho quan hệ
đất đai không được vận động theo hướng tích cực.
1.2.2. Luật Đất đai 1993
Ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/1993. Đây là một trong
những luật quan trọng thể hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
Những kết quả đạt được trong việc thực hiện Luật Đất đai 1993 là tích cực, thúc
15
đẩy phát triển kinh tế, góp phần ổn định tình hình chính trị – xã hội của đất
nước.
Nội dung quản lý nhà nước về đất đai được quy định tại Luật Đất đai
1993 bao gồm:
− Điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá và phân hạng đất, lập bản đồ địa
chính;
− Quy hoạch, kế hoạch hóa việc sử dụng đất;
− Ban hành các văn bản về đất đai và tổ chức thực hiện;
− Giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất;
− Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, quản lý các hợp đồng
sử dụng đất, thống kê, kiểm kê đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
− Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất
đai;
− Giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết các khiếu nại, tố cáo vi phạm
về quản lý, sử dụng đất đai.
Luật Đất đai 1993 đã thừa nhận đất có giá và cho phép được chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, đồng thời Nhà nước đã xây dựng hệ thống các văn
bản pháp quy, tạo hành lang pháp lý cho quan hệ đất đai vận động tích cực.
Cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội, nhất là trong giai đoạn công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, đất đai đã trở thành nguồn nội lực quan trọng tạo nên
hiệu quả nền kinh tế đất nước. Nội dung của Luật Đất đai 1993 chưa đủ cơ sở
pháp lý để phù hợp với hoàn cảnh mới.
1.2.3. Luật Đất đai 2003
Ra đời (có hiệu lực thi hành từ 01/7/2004) và hiện nay gọi là Luật Đất đai
hiện hành. Luật này chi tiết hơn và đưa ra nhiều nội dung đổi mới. Nội dung quản
lý nhà nước về đất đai gồm 13 nội dung được quy định tại Khoản 2 Điều 6:
16
− Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai
và tổ chức thực hiện các văn bản đó;
− Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính,
lập bản đồ hành chính;
− Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất, lập bản đồ địa chính, bản
đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất;
− Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
− Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử
dụng đất;
− Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất;
− Thống kê, kiểm kê đất đai;
− Quản lý tài chính về đất đai;
− Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất
động sản;
− Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất;
− Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất
đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai;
− Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo vi phạm
trong việc quản lý và sử dụng đất đai;
− Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
So với các Luật Đất đai trước đây, nội dung quản lý nhà nước về đất đai của
Luật Đất đai 2003 được bổ sung, đổi mới ở các nội dung:
1.2.3.1. Xác định địa giới hành chính
17
Đây là một trong những nhiệm vụ về quản lý nhà nước về đất đai. Trên
cơ sở nội dung Chỉ thị số 364/TTg và Nghị định số 119/CP của Chính phủ về
quản lý địa giới hành chính, Luật Đất đai năm 2003 quy định rõ trách nhiệm của
Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân các cấp,
lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính. Cụ thể, Điều 16
của Luật quy định:
1. Chính phủ chỉ đạo việc xác định địa giới hành chính, lập và quản lý
hồ sơ địa giới hành chính các cấp trong phạm vi cả nước.
Bộ Nội vụ quy định về trình tự, thủ tục xác định địa giới hành chính,
quản lý mốc địa giới và hồ sơ địa giới hành chính.
Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về kỹ thuật và định mức kinh tế
trong việc cắm mốc địa giới hành chính, lập hồ sơ địa giới hành chính các cấp.
2. Uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện việc xác định địa giới hành
chính trên thực địa, lập hồ sơ địa giới hành chính trong phạm vi địa phương.
Hồ sơ địa giới hành chính là hồ sơ phục vụ quản lý nhà nước đối với địa
giới hành chính. Gồm các loại tài liệu: quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về việc thành lập đơn vị hành chính hoặc điều chỉnh địa giới hành chính
(nếu có); bản đồ địa giới hành chính; sơ đồ vị trí các mốc địa giới hành chính;
bảng toạ độ mốc địa giới hành chính; các điểm đặc trưng trên đường địa giới
hành chính; bản mô tả tình hình chung về địa giới hành chính; biên bản xác nhận
mô tả đường địa giới hành chính; phiếu thống kê về các yếu tố địa lý có liên
quan đến địa giới hành chính; biên bản bàn giao mốc địa giới hành chính; thống
kê các tài liệu về địa giới hành chính của các đơn vị hành chính cấp dưới.
Bản đồ địa giới hành chính là tài liệu rất quan trọng trong hồ sơ địa giới
hành chính. Bản đồ địa giới hành chính là bản đồ thể hiện các mốc địa giới hành
chính và các yếu tố địa vật, địa hình có liên quan đến mốc địa giới hành chính.
Bản đồ hành chính là bản đồ thể hiện ranh giới các đơn vị hành chính
kèm theo địa danh và một số yếu tố chính về tự nhiên, kinh tế, xã hội.
18
Các tài liệu trên là cơ sở cho các cấp hành chính quản lý lãnh thổ địa
phương, thực hiện các nội dung quản lý tài nguyên tới từng thửa đất.
1.2.3.2. Quản lý tài chính về đất đai
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, nó vừa là tư liệu lao động, vừa là đối
tượng lao động. Đầu tiên, đất không phải là hàng hoá song trong quá trình phát
triển của xã hội, con người đã xác lập quyền sở hữu đất đai và đất trở thành hàng
hoá - một thứ hàng hoá đặc biệt, đất (quyền sử dụng đất) cũng được mua bán,
chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế …
Thực tế ở Việt Nam, trong những năm trước khi có Luật Đất đai 1993,
mặc dù Luật Đất đai 1987 đã nghiêm cấm việc mua bán đất đai, nhưng thị
trường đất đai luôn sôi động (cho dù đó là thị trường ngầm). Thị trường đất đai
đặc biệt sôi động kể từ khi Nhà nước ta có chủ trương xoá bỏ cơ chế quan liêu,
bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, cơ chế của nền kinh tế sản xuất hàng
hoá. Luật Đất đai năm 1993 đã ghi nhận “đất có giá” và Luật Đất đai năm 2003
thừa nhận giá đất được hình thành do Nhà nước quy định, do thực tế chuyển
dịch đất đai trên thị trường. Đây là một quy định quan trọng, thể hiện sự có mặt
của quan hệ đất đai trong cơ chế thị trường. Hay nói cách khác, Nhà nước đã tạo
điều kiện thuận lợi để đất đai tham gia vào nền kinh tế sản xuất hàng hoá, từng
bước tham gia vào thị trường bất động sản.
Có thể nói, khẳng định đất có giá tức là thừa nhận đất đai và quyền sử
dụng đất là hàng hoá - loại hàng hoá đặc biệt. Xác định giá của loại hàng hoá
này không thể căn cư vào số vốn đã bỏ ra, không thể căn cứ vào lao động đã đầu
tư, vào thời hạn sử dụng. Giá đất phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố (kinh tế, xã hội,
điều kiện tự nhiên, pháp luật… và cá biệt còn phụ thuộc vào yếu tố tâm lý). Do
vậy, việc định giá đất ở Việt Nam vẫn phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện với
mục đích là đảm bảo quyền lợi của Nhà nước, bảo đảm quyền lợi của người sử
dụng đất. Giá đất ban hành phải được quy định chi tiết cho từng vị trí, từng thời
gian, bảo đảm được chức năng quản lý và sự điều tiết của Nhà nước phù hợp với
quy luật của nền kinh tế thị trường.
19
Luật Đất đai 2003 quy định nguyên tắc về định giá đất, bảo đảm sát với
giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện
bình thường. Khi có chênh lệch lớn so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng
đất thực tế trên thị trường thì phải điều chỉnh cho phù hợp.
Về thẩm quyền xác định giá đất, Điều 56 Luật Đất đai 2003 quy định:
− Chính phủ quy định phương pháp xác định giá đất; khung giá các loại
đất cho từng vùng, theo từng thời gian; trường hợp phải điều chỉnh giá đất và việc
xử lý chênh lệch giá đất liền kề giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
− Trên cơ sở nguyên tắc, phương pháp định giá đất và khung giá đất đã
được quy định, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây
dựng giá đất cụ thể tại địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp cho ý kiến
trước khi quyết định.
− Giá các loại đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương quyết định phải sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị
trường trong điều kiện bình thường là cơ sở để giải quyết hợp lý về mối quan hệ
kinh tế – tài chính giữa người sử dụng đất với nhau, giữa người sử dụng đất với
Nhà nước (tính thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất;
tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi giao đất, cho thuê đất; tính giá trị quyền
sử dụng đất khi giao đất không thu tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất; tính tiền bồi thường đối với người có hành vi vi phạm
pháp luật về đất đai mà gây thiệt hại cho Nhà nước). Khi có chênh lệch lớn so
với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường thì phải điều
chỉnh cho phù hợp.
− Giá đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
quy định được công bố vào ngày 01/01 hàng năm để người sử dụng đất thực
hiện các nghĩa vụ tài chính về đất đai của năm đó.
Luật cho phép tổ chức có khả năng chuyên môn làm dịch vụ tư vấn về
giá đất để tạo thuận lợi cho việc giao dịch quyền sử dụng đất.
20
Luật bổ sung quy định về đấu giá quyền sử dụng đất và đấu thầu dự án
trong đó có quyền sử dụng đất nhằm khắc phục những tiêu cực trong cơ chế “xin -
cho” quyền sử dụng đất và để tăng thu nhập cho ngân sách Nhà nước.
1.2.3.3. Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị
trường bất động sản
Luật Đất đai đã cho phép quyền sử dụng đất tham gia thị trường bất
động sản. Bước đầu đặt nền móng cho việc quản lý chặt chẽ thị trường bất động
sản, trong đó có quyền sử dụng đất. Tại các Điều 61, 62, 63 của Luật Đất đai
2003 quy định cụ thể những loại đất được tham gia thị trường bất động sản, các
điều kiện để đất tham gia thị trường bất động sản.
Các loại đất sau đây được tham gia vào thị trường bất động sản:
− Đất mà Luật Đất đai 2003 cho phép người sử dụng đất có một trong
các quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho
quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất;
− Đất thuê mà trên đó có tài sản được pháp luật cho phép tham gia vào
thị trường bất động sản.
Điều kiện để đất tham gia vào thị trường bất động sản:
− Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
− Đất không có tranh chấp;
− Quyền sử dụng đất không bị kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án;
− Trong thời hạn sử dụng đất.
Đối với đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện các dự án đầu tư
thì phải đầu tư vào đất theo đúng dự án đã được Nhà nước có thẩm quyền xét
duyệt mới được tham gia vào thị trường bất động sản.
Luật quy định Nhà nước quản lý đất đai trong việc phát triển thị trường
bất động sản bằng các biện pháp chính sau:
21
− Tổ chức đăng ký hoạt động giao dịch về quyền sử dụng đất;
− Tổ chức đăng ký hoạt động phát triển quỹ đất, đầu tư xây dựng kinh
doanh bất động sản;
− Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tham gia giao dịch về quyền sử
dụng đất trong thị trường bất động sản;
− Thực hiện các biện pháp bình ổn giá đất, chống đầu cơ đất đai.
1.2.3.4. Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất
Hoạt động quản lý việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất được tiến hành thông qua hệ thống tổ chức cơ quan hành chính các cấp
và hệ thống tổ chức ngành địa chính các cấp. Trên cơ sở những quy định chung
về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất (Điều 105, 106, 107 Luật Đất đai
2003), quyền và nghĩa vụ của tổ chức sử dụng đất (Điều 109, 110, 111, 112 Luật
Đất đai 2003), cán bộ địa chính và các cơ quan chức năng hướng dẫn các chủ sử
dụng đất thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất ngay từ
các đơn vị hành chính cấp cơ sở là xã phường, thị trấn, bảo đảm các quy định
của pháp luật được thực hiện và thực hiện đúng trên từng thửa đất và từng chủ
sử dụng đất.
1.2.3.5. Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai
Luật Đất đai 2003 cho phép phát triển các dịch vụ công về đất đai như tư
vấn về giá đất và hình thành thị trường bất động sản và cũng đưa ra những quy
định để quản lý các dịch vụ này.
Hoạt động dịch vụ công về đất đai là hoạt động của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền trong việc làm các dịch vụ về đất đai theo yêu cầu và quyền lợi
của cộng đồng.
22
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoạt động dịch vụ công về đất đai ở
nước ta là Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh và Văn phòng đăng
ký quyền sử dụng đất cấp huyện, hoạt động theo loại hình sự nghiệp có thu. Các
hoạt động của dịch vụ công là:
− Đăng ký sử dụng đất và chỉnh lý biến động về sử dụng đất theo quy
định của pháp luật khi thực hiện các quyền của người sử dụng đất.
− Cung cấp số liệu địa chính cho các cơ quan chức năng để xác định
mức thuế có liên quan đến đất đai, tiền thuê đất, mức thu tiền sử dụng đất…
− Xây dựng, quản lý và phát triển hệ thống thông tin đất đai, cung cấp
bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính, các thông tin khác về đất đai phục vụ
yêu cầu quản lý nhà nước và nhu cầu của cộng đồng.
− Thực hiện việc thu phí, lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai, thực hiện
các dịch vụ có thu về cung cấp thông tin đất đai.
Nhìn chung việc đổi mới nội dung quản lý nhà nước nói riêng và Luật
Đất đai nhằm các mục đích chủ yếu:
− Tạo một hành lang pháp lý đầy đủ, cụ thể để điều tiết các quan hệ đất
đai vận động phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường có định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
− Gắn việc đổi mới nói trên với chủ trương cải cách thủ tục hành chính
mà Nhà nước đang thực hiện.
− Nhà nước coi việc đổi mới nội dung quản lý là phân cấp mạnh các sự
vụ cho cấp dưới (chủ yếu là huyện rồi đến tỉnh), ở Trung ương – Chính phủ chỉ
quản lý ở tầm vĩ mô - chiến lược thông qua việc kiểm tra, giám sát việc thực
hiện pháp luật ở các địa phương, đồng thời làm rõ trách nhiệm ở từng cấp, quy
trách nhiệm và xử lý theo trách nhiệm khi có vi phạm pháp luật.
1.3. Những nhiệm vụ chủ yếu của quản lý nhà nước về đất đai trên địa
bàn cấp phường của thành phố Hà Nội.
23
Trên địa bàn cấp phường thành phố Hà Nội cũng như trong cả nước,
những nhiệm vụ chủ yếu của quản lý nhà nước về đất đai được thực hiện theo
đúng thẩm quyền mà luật của Nhà nước quy định. Trước đây khi chưa có Luật
Đất đai 1993, thực hiện theo thẩm quyền quy định tại Nghị định 04, Hiến pháp
1992. Ngay sau khi Luật Đất đai 1993 được ban hành và đi vào cuộc sống cùng
hàng loạt các văn bản dưới luật nhằm chi tiết và đồng bộ hoá Luật Đất đai cũng
được ban hành thì địa bàn phường cũng thực hiện nhiệm vụ của mình theo luật
quy định cùng các công văn, chỉ thị do Sở Địa Chính - Nhà đất thành phố Hà
Nội và các công văn do UBND quận yêu cầu.
Và đến nay, khi Luật Đất đai 2003 đã có hiệu lực thi hành thì những
nhiệm vụ chủ yếu của quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn cấp phường của
thành phố Hà Nội cũng chính là những nhiệm vụ của cấp xã, phường, thị trấn
(cấp cơ sở) được hướng dẫn trong Luật Đất đai hiện hành.
Hệ thống tổ chức cơ quan quản lý đất đai được thành lập thống nhất từ
Trung ương đến cơ sở. Trên địa bàn cấp cơ sở (cấp phường) có cán bộ địa chính,
cán bộ địa chính có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân phường trong việc quản
lý đất đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định tại luật.
Những nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp phường, xã, thị trấn trong
quản lý nhà nước về đất đai được quy định trong Luật Đất đai năm 2003, cụ thể
như sau:
- Tại Khoản 2 Điều 16 Mục 1 Chương II (Luật Đất đai 2003): Uỷ ban
nhân dân các cấp tổ chức thực hiện việc xác định địa giới hành chính thực địa,
lập hồ sơ địa giới hành chính trong phạm vi địa phương.
- Tại Khoản 4 Điều 17 Mục 1 Chương II (Luật Đất đai 2003): Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm quản lý mốc địa giới hành chính
trên thực địa tại địa phương; trường hợp mốc địa giới hành chính bị xê dịch, hư
hỏng phải kịp thời báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thành phố, thị xã
thuộc tỉnh.
24
- Tại khoản 4 Điều 20 Mục 1 Chương II (Luật Đất đai 2003): Uỷ ban
nhân dân có trách nhiệm thực hiện việc kiểm kê đất đai ở địa phương nào thì tổ
chức thực hiện việc lập bản đồ hiện trạng sử dụng của địa phương đó.
Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch sử
dụng đất của địa phương nào thì tổ chức thực hiện lập bản đồ quy hoạch sử dụng
đất của địa phương đó.
- Tại Khoản 1 Điều 28 Mục 2 Chương II (Luật Đất đai 2003): Uỷ ban
nhân dân xã, phường thị trấn có trách nhiệm công bố công khai quy hoạch sử
dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết của địa phương tại trụ sở Uỷ ban
nhân dân trong thời hạn không quá 30 ngày làm việc, kể từ ngày được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định hoặc xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất.
- Tại Khoản 1 Điều 29 Mục 2 Chương II (Luật Đất đai 2003): Uỷ ban
nhân dân xã, phường thị trấn tổ chức, chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất của địa phương phát hiện, ngăn chặn các hành vi sử dụng đất trái với
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố.
- Tại Khoản 3 Điểm 37 Mục 3 Chương II (Luật Đất đai 2003): Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng
vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.
- Tại Khoản 2 Điều 53 Mục 5 Chương II (Luật Đất đai 2003): Uỷ ban
nhân dân các cấp tổ chức thực hiện việc thống kê đất đai của địa phương.
- Tại Khoản 1 Điều 103 Mục 4 Chương III (Luật Đất đai 2003): Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm quản lý, bảo vệ đất chưa sử dụng
tại địa phương và đăng ký vào hồ sơ địa chính.
- Tại Khoản 2 Điều 135 Mục 2 Chương VI (Luật Đất đai 2003): tranh
chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hoà giải được thì gửi đơn đến Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp.
25