Khãa luËn tèt nghiÖp
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
4 CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI.
7
1.1. Sự hình thành của bảo hiểm tiền gửi trên Thế giới và Việt Nam. 7
1.1.1. Vài nét về bảo hiểm tiền gửi trên Thế giới và Việt Nam. 7
1.1.2. Mô hình bảo hiểm tiền gửi trên Thế giới và Việt Nam. 10
1.2. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi. 13
1.3. Mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi. 15
1.4. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi. 15
1.5. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm tiền gửi. 18
CHƯƠNG II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT
NAM 20
HIỆN NAY.
2.1. Vị trí và cơ cấu của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. 20
2.1.1. Vị trí pháp lý của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và mối quan hệ giữa
Bảo hiểm tiền gửi với các cơ quan Nhà nước khác. 20
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. 22
2.1.3. Nội dung các quyền và nghĩa vụ cơ bản của Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam. 23
2.2. Các quy định điều chỉnh về tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. 29
2.3. Các quy định về chủ thể được hưởng quyền lợi bảo hiểm. 32
Ph¹m ThÞ V©n Anh
1
Khãa luËn tèt nghiÖp
2.4. Các quy định về loại tiền gửi và hạn mức tối đa được bảo hiểm, 34
mức phí bảo hiểm tiền gửi.
2.4.1. Các loại tiền bảo hiểm. 34
2.4.2. Hạn mức tiền gửi tối đa được bảo hiểm. 35
2.4.3. Mức phí bảo hiểm tiền gửi. 37
2.5. Sự kiện bảo hiểm và thủ tục chi trả bảo hiểm. 40
2.5.1. Sự kiện bảo hiểm. 40
2.5.2. Thủ tục chi trả bảo hiểm. 40
CHƯƠNG III. NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM
43
TIỀN GỬI VIỆT NAM.
3.1. Chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. 43
3.1.1. Về tổ chức nhận bảo hiểm tiền gửi. 43
3.1.2. Về tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. 45
3.2. Về hạn mức tiền gửi tối đa được bảo hiểm, mức phí bảo hiểm 46
tiền gửi.
3.3.Về sự kiện bảo hiểm tiền gửi và thủ tục chi trả bảo hiểm. 47
3.3.1. Sự kiện bảo hiểm tiền gửi. 47
3.3.2. Thủ tục chi trả bảo hiểm tiền gửi. 48
3.4. Thông tin tới người gửi tiền 49
3.5. Về cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh 50
trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi.
Ph¹m ThÞ V©n Anh
2
Khãa luËn tèt nghiÖp
KẾT LUẬN
51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
52
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX về Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội năm 2001 – 2010 đã nhấn mạnh: “Phải đảm bảo sự phát triển an toàn, lành
mạnh của thị trường tài chính tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế”, theo đó nhiệm
vụ trước mắt là “Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn
các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ – ngân
hàng”{1,tr.197}. Để thực hiện nhiệm vụ này, việc nghiên cứu và hoàn thiện
pháp luật về bảo hiểm tiền gửi – một thiết chế mới hình thành ở Việt Nam về an
toàn trong kinh doanh tiền tệ – ngân hàng là một việc làm hết sức cần thiết.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế chậm phát triển và đang từng bước
chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước xu thế mở cửa và hội
nhập kinh tế quốc tế trên phạm vi toàn cầu, đây sẽ là một thách thức to lớn đối
với nền kinh tế chậm phát triển như Việt Nam. Hoạt động ngân hàng tại Việt
Nam và hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức
của quy luật thị trường đầy rủi ro trong hoạt động kinh doanh luôn đe dọa sự ổn
định của từng ngân hàng nói riêng và cả hệ thống ngân hàng nói chung.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đảm bảo an toàn lạnh mạnh cho
hoạt động kinh doanh tiền tệ – ngân hàng, ngăn ngừa sự đổ vỡ hàng loạt tổ chức
tín dụng, cũng như để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền,
Ph¹m ThÞ V©n Anh
3
Khãa luËn tèt nghiÖp
ngày 01/09/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP về bảo
hiểm tiền gửi, là cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi đầu tiên ở Việt
Nam ra đời, bảo hiểm tiền gửi được coi là một thiết chế, một công cụ mới trong
việc đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng ở Việt Nam. Tiếp theo đó, ngày
09/11/1999 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 218/1999/QĐ-TTg
về việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam; Nghị định số 109/2005/NĐ- CP
về sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định số 89 . Như vậy, cùng với sự ra
đời của hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam thì pháp luật về bảo hiểm tiền
gửi cũng được hình thành nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực
bảo hiểm tiền gửi.
Tuy pháp luật đã hoàn thiện ở một mức độ nhất định nhưng pháp luật về
bảo hiểm tiền gửi trong giai đoạn hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập: các
quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi chưa thống nhất, đồng bộ, chưa đầy
đủ và không rõ ràng nên đã gây khó khăn cho việc áp dụng các quy định về bảo
hiểm tiền gửi vào thực tiễn. Điều này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục nghiên cứu và
hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam đạt được hiệu
quả, thực hiện được mục tiêu trọng tâm là đảm bảo sự ổn định cho cả hệ thống
tài chính, vì những lý do trên tác giả đã chọn đề tài “Một số vấn đề pháp luật
Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu.
2. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định hiện hành của pháp luật
điều chỉnh hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, mối quan hệ của các quy
định này trong tổng thể hệ thống pháp luật về tài chính ngân hàng và sự tác
động của hệ thống pháp luật đối với thực tiễn hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Ph¹m ThÞ V©n Anh
4
Khãa luËn tèt nghiÖp
Khoá luận lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử
làm cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu và thực hiện đề tài này.Các phương
pháp cụ thể được sử dụng trong việc nghiên cứu và thực hiện khoá luận gồm:
phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp nhằm làm sáng tỏ vấn đề
đặt ra trong quá trình nghiên cứu đề tài.
4. Bố cục khoá luận.
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khoá luận gồm 3 chương.
Chương I. Một số vấn đề cơ bản về Bảo hiểm tiền gửi.
Chương II. Một số nội dung pháp luật hiện hành về Bảo hiểm tiền gửi ở Việt
Nam và thực tiễn áp dụng.
Chương III. Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam.
Ph¹m ThÞ V©n Anh
5
Khãa luËn tèt nghiÖp
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI.
1.1. SỰ HÌNH THÀNH CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT
NAM.
1.1.1. Vài nét về bảo hiểm tiền gửi.
Trên Thế giới, an toàn trong kinh doanh và yêu cầu bức thiết đối với hoạt
động của các tổ chức tín dụng. Để đảm bảo an toàn trong kinh doanh của các tổ
chức tín dụng, mỗi nhà nước đều đưa ra những quy định pháp luật về an toàn
trong kinh doanh của các tổ chức tín dụng, ví dụ như giới hạn cho vay đối với
một khách hàng; tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn qua đó nhằm bảo đảm hơn độ an
toàn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng. Trên thực tế, các biện pháp này
cũng đã hạn chế được phần nào những rủi ro, tạo ra môi trường ổn định cho
hoạt động của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, dường như những biện pháp đó
vẫn chưa đủ tạo niềm tin cho người gửi tiền cũng như đảm bảo an toàn đến mức
cao nhất cho các tổ chức tín dụng.
Nhận thức được rằng ổn định tài chính không những là lợi ích của công
chúng mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với cả nền kinh tế quốc gia nên việc
bảo vệ tiền gửi từ lâu đã được nhiều quốc gia quan tâm. Khi hoạt động bảo
Ph¹m ThÞ V©n Anh
6
Khãa luËn tèt nghiÖp
hiểm tiền gửi công khai chưa ra đời thì bảo vệ tiền gửi đã được nhiều quốc gia
thực hiện dưới các hình thức “bảo vệ ngầm”. Hình thức bảo vệ ngầm là việc
Ngân hàng Trung ương hay Chính phủ có cam kết không công khai rằng sẽ đảm
bảo hoàn trả tiền gửi cho người gửi tiền nếu có hiện tượng đóng cửa ngân hàng
xảy ra hay một ngân hàng không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Vì
đây là cam kết không công khai nên không hình thành hợp đồng bảo hiểm giữa
người gửi tiền, ngân hàng và Ngân hàng Trung ương hay Chính phủ và cũng
không có những quy định pháp luật cụ thể rõ ràng để điều chỉnh vấn đề này.
Qua thực tế thì nhiều quốc gia nhận thấy việc đưa ra một lời đảm bảo
chính thức đối với người gửi tiền rằng số tiền mà họ gửi tại ngân hàng sẽ được
hoàn trả ngay khi cả ngân hàng mà họ gửi tiền bị phá sản sẽ là một biện pháp
hữu hiệu để ổn định hệ thống ngân hàng và bảo vệ người gửi tiền khỏi những
thiệt hại. Đây là tiền đề cho việc hình thành cơ chế chính sách công khai trong
việc bảo vệ tiền gửi và từ yêu cầu này bảo hiểm tiền gửi đã ra đời. Bảo hiểm
tiền gửi được xem như một lời đảm bảo công khai và hữu hiệu để củng cố lòng
tin của công chúng, góp phần làm giảm khả năng của những người gửi tiền tại
một ngân hàng nào đó về tình trạng tài chính kém lành mạnh của ngân hàng nào
đó cho dù có cơ sở thực tế hay không, làm hạn chế khả năng người gửi tiền đổ
xô đi rút tiền hàng loạt tại ngân hàng và ngay cả khi thực sự có đổ vỡ ngân
hàng xảy ra thì sự đổ vỡ này cũng khó ảnh hưởng dây truyền sang tổ chức tín
dụng đang hoạt động lành mạnh khác.
Bảo hiểm tiền gửi lần đầu tiên ở Mỹ năm 1934 sau những vụ vỡ nợ ngân
hàng hàng loạt vào những năm 1930-1933, đó là Bảo hiểm tiền gửi liên bang
của Mỹ (FDIC), FDIC là cơ quan thực hiện việc bảo hiểm đối với hoạt động
ngân hàng. Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ đã tạo lập và duy trì niềm tin của
công chúng vào ngành ngân hàng thông qua việc bảo hiểm có mức đối với tiền
gửi của công chúng trong hệ thống ngân hàng. Tiếp theo FDIC, trong những
năm 1960, trên thế giới có thêm 6 quốc gia thành lập bảo hiểm tiền gửi, những
Ph¹m ThÞ V©n Anh
7
Khãa luËn tèt nghiÖp
năm 1970 có thêm 4 quốc gia thành lập bảo hiểm tiền gửi. Đến thập kỷ 90, có
tới 30 hệ thống bảo hiểm tiền gửi được thành lập. Việc tu chỉnh các hệ thống
bảo hiểm tiền gửi được thực hiện phổ biến hơn kể từ khi có Chỉ thị Liên Minh
Châu Âu năm 1994. Tính đến đầu năm 2002, trên thế giới đã có 74 hệ thống
bảo hiểm tiền gửi{21;25}. Đặc biệt, ngày 06/5/2002 Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi
Quốc tế được thành lập, có trụ sở tại Thụy Sỹ với sự tham gia của nhiều hệ
thống bảo biểm trên thế giới. Điều đó, đánh dấu tầm quan trọng của bảo hiểm
tiền gửi đã được các quốc gia cùng quan tâm và cùng phát triển hoạt động bảo
hiểm tiền gửi trên toàn thế giới.
Ở nước ta, sự đổ vỡ của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân vào cuối những
năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ trước đã để lại hậu quả không tốt về
mặt kinh tế, chính trị và xã hội trong khoảng một thời gian dài sau đó. Sau sự
đổ vỡ trên thì Nhà nước ngành ngân hàng đã nghĩ đến việc thiết lập mô hình
bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, góp phần
duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng, đảm bảo sự phát triển an toàn lành
mạnh của hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, ý tưởng này ban đầu được hình
thành một cách chậm chạp do những hạn chế về mặt nhận thức nói chung cũng
như khó khăn về mặt tài chính của Nhà nước. Việc bảo hiểm tiền gửi cho người
gửi tiền tại thời điểm này rất manh mún và mang tính chất tình thế, thể hiện qua
việc mới chỉ có Bộ tài chính ban hành Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn và Bảo Việt là tổ
chức thực hiện nghiệp vụ này. Việc nghiên cứu tìm ra một mô hình bảo hiểm
tiền gửi ở Việt Nam chỉ thực sự được nghiên cứu một cách nghiêm túc từ năm
1997 khi Quốc hội thông qua hai đạo luật quan trọng trong lĩnh vực ngân hàng
vào tháng 12 năm 1997 là Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật các tổ
chức tín dụng. Sau khi nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, những thuận lợi và khó
khăn của Việt Nam, tháng 5/1998 Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản giao
trách nhiệm cho ngân hàng Nhà nước phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây
Ph¹m ThÞ V©n Anh
8
Khãa luËn tèt nghiÖp
dựng Nghị định của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và đề án thành lập tổ chức
bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam. Sau hơn một năm nghiên cứu khảo sát và thẩm
định, thông qua; ngày 01/09/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
89/1999/NĐ-CP về bảo hiểm tiền gửi, ngày 09/11/1999 Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg về việc thành lập bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam. Cùng với sự ra đời của tổ chức bảo hiểm tiền gửi thì pháp luật bảo
hiểm cũng được hình thành, hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật hướng
dẫn về bảo hiểm tiền gửi ra đời, tạo ra một hành lang pháp lý cho bảo hiểm tiền
gửi hoạt động có hiệu quả như Thông tư số 03/2000/QĐ-NHNN ngày
16/3/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thi hành Nghị định
89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi; Quyết
định số 75/2000/QĐ-TTg ngày 28/6/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban
hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, Nghị
định 109/2005/ NĐ-CP Theo các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động
bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm bắt
buộc. Việc áp dụng chế độ bảo hiểm bắt buộc đối với tiền gửi không chỉ nhằm
xử lý rủi ro đối với tổ chức nhận tiền gửi, bảo vệ lợi ích của người gửi tiền mà
còn bảo vệ an toàn cho cả hệ thống tổ chức tín dụng, sự ổn định tiền tệ quốc
gia.
1.1.2. Mô hình bảo hiểm tiền gửi trên Thế Giới và Việt Nam.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều mô hình bảo hiểm tiền gửi, phù hợp với
nền tảng pháp luật và đặc điểm kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Song có thể
phân thành hai loại chính, bao gồm:
- Bảo hiểm tiền gửi là một tổ chức tài chính Nhà nước, ví dụ như ở Mỹ,
Canada ;
- Bảo hiểm tiền gửi là một tổ chức tương hỗ nghề nghiệp tư, ví dụ như ở Đức,
Thụy Sỹ ;
Ph¹m ThÞ V©n Anh
9
Khãa luËn tèt nghiÖp
Ngoài hai mô hình chủ yếu trên, có thể có những mô hình khác được kết hợp
giữa hai loại này áp dụng theo nhiều mức độ khác nhau.
Bảo hiểm tiền gửi là một tổ chức tài chính Nhà nước:
* Đặc trưng chủ yếu:
- Được Nhà nước cấp vốn ban đầu khi thành lập.
- Thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước chịu trách nhiệm giám sát, thanh
tra. Sự can thiệp của Nhà nước vào loại hình tổ chức này là trực tiếp, mang tính
hành chính – kinh tế, và thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với những
người gửi tiền nhỏ.
- Việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm hay áp dụng các biện pháp hỗ trợ tài
chính cho các tổ chức tham gia bảo hiểm hoàn toàn do cơ quan bảo hiểm tiền
gửi quyết định.
- Tuy nhiên, quy mô can thiệp của cơ quan bảo hiểm tiền gửi là có giới
hạn, tùy thuộc vào thực lực tài chính của bảo hiểm tiền gửi và chi phí giới hạn
theo luật định.
- Việc hỗ trợ, giám sát, xử lý của cơ quan bảo hiểm tiền gửi được thực
hiện với tư cách Nhà nước.
* Ưu điểm: của mô hình này là việc tham gia bảo hiểm tiền gửi là bắt
buộc theo luật định nhằm bảo vệ những người gửi tiền, đặc biệt là những người
gửi tiền nhỏ một cách trực tiếp. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi này có quyền hạn
như một cơ quan trực thuộc Chính phủ, được ban hành các quy định mang tính
pháp lý, vì vậy hoạt động của nó tuân thủ các quy tắc luật định, ít hoặc không
phụ thuộc vào người quản lý, mang tính ổn định đối với những người được bảo
hiểm. Với sự tham gia trực tiếp của Nhà nước, bảo hiểm tiền gửi tạo ra một cơ
chế giám sát, đánh giá, phân loại các tổ chức tín dụng, xử lý những khó khăn
của các tổ chức tín dụng, đồng thời có thể nhận được sự hỗ trợ về tài chính của
Chính phủ khi cần thiết.
Ph¹m ThÞ V©n Anh
10
Khãa luËn tèt nghiÖp
* Nhược điểm: của mô hình là thường dựa trên cơ chế cấp vốn trước nên
pháp luật về bảo hiểm tiền gửi của các quốc gia đều có quy định về hạn mức bồi
thường tối đa đối với mỗi khách hàng gửi tiền sau khi một tổ chức tín dụng
thành viên thực sự bị phá sản. Quá trình giải quyết khi có vụ phá sản Ngân hàng
xảy ra thường phải tuân theo các thủ tục rờm rà mất nhiều thời gian.
Bảo hiểm tiền gửi là một tổ chức tương hỗ nghề nghiệp tư:
* Đặc trưng chủ yếu:
- Không có sự hỗ trợ về vốn của Nhà nước khi thành lập mà vốn hoạt
động ban đầu chủ yếu do các thành viên góp vốn và bằng cách thu phí của các
thành viên như mô hình bảo hiểm tiền gửi tư nhân của Đức, ý, Hà Lan, Thụy
Sỹ
- Nhà nước không can thiệp trực tiếp mà chỉ định ra các điều kiện pháp lý
cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi thành lập và hoạt động. Tổ chức này thuộc sở
hữu các Ngân hàng thành viên trong một hiệp hội, hoạt động mang tính tương
hỗ vì lợi ích chung của các thành viên không vì mục tiêu kinh doanh chia lợi
nhuận. Sự can thiệp này thể hiện quan tâm của từng thành viên hiệp hội đến
những người gửi tiền.
- Hiệp hội có thể quyết định một cách chủ động để cứu vãn tình hình
hoặc chủ động can thiệp trước khi một thành viên xảy ra tình trạng mất khả
năng trả nợ.
- Quy mô can thiệp có giới hạn tùy theo mức độ phát triển của tổ chức
nhận bảo hiểm, song có cơ hội mở rộng tùy thuộc vào sự chủ động của Hiệp hội
và khả năng phát triển của hội viên.
- Hỗ trợ, giám sát mang tính tự quản với mục tiêu để tự cứu mình của các
Ngân hàng thành viên.
* Ưu điểm: Mô hình này phát huy được quyền chủ động, tự chịu trách
nhiệm của các tổ chức tín dụng thành viên, không dựa vào Nhà nước, vì vậy các
Ph¹m ThÞ V©n Anh
11
Khãa luËn tèt nghiÖp
tổ chức tín dụng thành viên tự mình có ý thức giữ cho hoạt động của tổ chức
mình lành mạnh.
* Nhược điểm: Mô hình này là tổ chức do các tổ chức thành viên tự quản
nên không dễ dàng xác định được trách nhiệm của các thành viên trong việc
chia xẻ chi phí bồi thường cho người gửi tiền. Mô hình này cũng thiếu sự hỗ trợ
về vốn khi cần thiết của Chính phủ . Việc thanh toán tiền bảo hiểm, ngoại trừ
một số ít quốc gia trả bảo hiểm ở mức cao, đa số còn lại thường trả bảo hiểm ở
mức thấp, ví dụ như áo, Luxembuorg, Hà Lan, Thụy Sỹ đều đưa ra mức thanh
toán tiền bảo hiểm thấp hơn GDP bình quân đầu người. Chỉ có ý là đưa ra mức
thanh toán bảo hiểm cao hơn 5 lần so với bình quân GDP/đầu người và Đức có
mức thanh toán bảo hiểm cao là gấp 2 lần so với bình quân GDP/đầu người
{23}. Ngoài ra, thông tin về tình trạng tài chính của tổ chức tín dụng thành viên
từ Ngân hàng Trung ương hoặc tổ chức giám sát thuộc Chính phủ đến hệ thống
bảo hiểm tiền gửi thường khó khăn hoặc chậm trễ.
ở Việt Nam áp dụng mô hình bảo hiểm tiền gửi duy nhất trực thuộc
Chính phủ quản lý: Được Nhà nước cấp vốn ban đầu khi thành lập; Thuộc sở
hữu Nhà nước, do Nhà nước chịu trách nhiệm giám sát, thanh tra. Sự can thiệp
của Nhà nước vào loại hình tổ chức này là trực tiếp, mang tính hành chính –
kinh tế, và thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với những người gửi tiền
nhỏ; Việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm hay áp dụng các biện pháp hỗ trợ tài
chính cho các tổ chức tham gia bảo hiểm hoàn toàn do cơ quan bảo hiểm tiền
gửi quyết định;Sự can thiệp của cơ quan bảo hiểm tiền gửi chỉ giới hạn, tùy
thuộc vào thực lực tài chính của bảo hiểm tiền gửi và chi phí giới hạn theo luật
định;
1.2. Khái niệm về bảo hiểm tiền gửi
Do nhu cầu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền ngày càng gia tăng, cũng
như để ổn định nền kinh tế quốc gia, các nhà quản lý về tài chính – ngân hàng
Ph¹m ThÞ V©n Anh
12
Khãa luËn tèt nghiÖp
trên thế giới đã kêu gọi mỗi quốc gia cần có một định nghĩa mang tính chất rõ
ràng về bảo hiểm tiền gửi, thông qua đó nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi
tiền. Tuy nhiên đến nay, chưa có một định nghĩa độc lập và chính thống về bảo
hiểm tiền gửi trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam. Để tìm hiểu khái niệm
bảo hiểm tiền gửi, có thể xem xét quan điểm của một số chuyên gia hay trong
pháp luật về bảo hiểm tiền gửi của một số nước.
Theo tài liệu chuyên khảo “Bảo hiểm tiền gửi và quản lý khủng hoảng”
do Quỹ tiền tệ quốc tế phát hành của tác giả Carl Johan Lindgren và Gilian
Garcia thì “Bảo hiểm tiền gửi được định nghĩa như một chơ chế có giới hạn
nhưng chính thức cung cấp sự bảo đảm mang tính pháp lý cho các khoản gốc
(và thường là cả lãi) của các khoản tiền gửi” {31}.
Theo tài liệu của tác giả Choi J.B (2000) “Cơ cấu của những hệ thống
bảo hiểm tiền gửi ở Châu á thì “bảo hiểm tiền gửi là chính sách bảo đảm tất cả
hoặc một phần tiền gửi cùng lãi nhập gốc trên tài khoản tiền gửi sẽ được thanh
toán cho người gửi tiền khi ngân hàng nhận tiền gửi bị phá sản hay mất khả
năng thanh toán, theo cơ chế hợp đồng hoặc cam kết công khai” {24}.
Theo Pháp lệnh Bảo hiểm tiền gửi năm 1985 của Đài Loan thì thuật ngữ
bảo hiểm tiền gửi được định nghĩa như sau: “Thuật ngữ bảo hiểm tiền gửi được
sử dụng trong Pháp lệnh này, có nghĩa là một loại hình bảo hiểm áp dụng cho
các loại tiền gửi và quỹ tín thác được liệt kê cụ thể tại điều 4 của Pháp lệnh
này”.
Như vậy, có thể khái quát bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ
chức bảo hiểm tiền gửi đối với tổ chức giam gia bảo hiểm tiền gửi về việc tổ
chức tổ chức tín dụng sẽ trả tiền gửi bao gồm phần gốc và lãi cho người gửi tiền
khi tổ chức giam gia bảo hiểm tiền gửi bị chấm dứt hoạt động và không có khả
năng thanh toán cho người gửi tiền. Cam kết công khai này được thể hiện dưới
hình thức hợp đồng bảo hiểm giữa ba chủ thể: tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tổ
chức huy động tiền gửi (tổ chức thiam gia bảo hiểm) và người gửi tiền.
Ph¹m ThÞ V©n Anh
13
Khãa luËn tèt nghiÖp
1.3. Mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi.
Mục tiêu cụ thể của mỗi mô hình bảo hiểm tiền gửi có khác nhau nhưng
tựu chung lại đều nhằm đạt được 4 mục tiêu sau:
- Bảo vệ quyền lợi của người gửi đặc biệt là những người gửi tiền nhỏ, đối
tượng có hạn chế nhất định trong tiếp cận thông tin về điều hành và tình hình
hoạt động của các tổ chức tài chính .
- Góp phần đảm bảo cho hệ thống tài chính ổn định và tạo điều kiện cho
các giao dịch tài chính có hiệu quả hơn bằng cách phòng tránh đổ vỡ ngân
hàng;
- Góp phần xây dựng một thị trường bảo hiểm tiền gửi có tính cạnh tranh
và bình đẳng cho các tổ chức tài chính có quy mô và trình độ phát triển khác
nhau;
- Xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của người gửi tiền, tổ chức bảo
hiểm tiền gửi, Chính phủ và giảm thiểu rủi ro cho nền kinh tế trong trường hợp
có ngân hàng đổ bể {25}.
Còn theo tác giả Garci G.G.H 2001 thì mục đích của bảo hiểm tiền gửi là
nhằm cô lập các hoạt động xấu, các đổ vỡ trong hoạt động tài chính và ngân
hàng; nhằm bảo vệ người đóng thuế; và nhằm loại bỏ tình trạng thiếu minh
bạch trong hoạt động kinh doanh tài chính và ngân hàng {26}. Theo chuyên gia
Kuritzkes và các nhà nghiên cứu khác thì bảo hiểm tiền gửi được thiết kế nhằm
ngăn chặn người gửi tiền khỏi các “phản ứng quá đỗi” đối với các thông tin thất
thiệt về ngân hàng {27}.
Người gửi tiền nhỏ mà bảo hiểm tiền gửi đề cập và “giành” quan tâm
nhất ở đây là tầng lớp dân cư có thu nhập thấp. Tầng lớp dân cư này có những
hạn chế nhất định trong việc tiếp cận và phân tích thông tin về hoạt động của tổ
chức huy động tiền gửi. Đời sống của những người gửi tiền thuôc tầng lớp dân
Ph¹m ThÞ V©n Anh
14
Khãa luËn tèt nghiÖp
cư có thu nhập thấp thường bị tác động nhiều hơn các khách hàng gửi tiền khác
khi có đổ bể ngân hàng xảy ra.
Mục đích của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam quy định tại điều 1 nghị định số
89/1999/NĐ-CP là ‘hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của
các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân
hàng’.
1.4. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi.
Vai trò của bảo hiểm tiền gửi đối với quốc gia được thể hiện trên nhiều
góc độ, xuất phát từ bản chất của bảo hiểm tiền gửi là bảo hiểm rủi ro về tiền
gửi tại các ngân hàng thì vai trò nổi bật của bảo hiểm tiền gửi là có tác dụng
thúc đẩy sự kết hợp hài hòa giữa nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động ngân
hàng hướng tới thu hút được tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong cộng
đồng và sự cộng tác tích cực của các thành viên trong xã hội trên cơ sở các bên
cùng có lợi, từ đó tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Với ý
nghĩa đó, bảo hiểm tiền gửi có các vai trò sau:
a. Bảo hiểm tiền gửi góp phần củng cố niềm tin của công chúng đối với
hệ thống ngân hàng.
Để thực hiện được mục tiêu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, tổ chức
bảo hiểm tiền gửi tập trung vào các hoạt động sau:
- Cung cấp đầy đủ hơn cho công chúng thông tin về các ngân hàng trong chừng
mực nhất định;
- Hỗ trợ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi gặp khó khăn, trong đó có hỗ
trợ tài chính về giúp các ngân hàng giải quyết các khó khăn nhằm duy trì hoạt
động có hiệu quả;
- Chi trả kịp thời tiền bảo hiểm cho người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng
nhận tiền gửi của họ bị đóng cửa và mất khả năng thanh toán;
Ph¹m ThÞ V©n Anh
15
Khãa luËn tèt nghiÖp
- Tham gia vào quá trình thanh lý tài sản sau khi chi trả bảo hiểm tiền gửi để
tiếp tục bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền chưa được thah toán hết tiền gửi tại
ngân hàng bị chi trả bảo hiểm tiền gửi và duy trì quỹ bảo hiểm tiền gửi để bảo
vệ người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khác.
Như vậy, tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã giúp ngân hàng gặp khó khăn tiếp
tục thực hiện phần cơ bản của chức năng thanh toán của họ là thanh toán cho
người gửi tiền. Mặc dù, đối với ngân hàng bị đóng cửa và phải yêu cầu cầu
được chi trả tiền bảo hiểm, việc duy trì lòng tin của công chúng đối với ngân
hàng lúc này không còn là yếu tố quan trọng nữa. Song điều đó lại rất quan
trọng đối với uy tín của cá ngân hàng khác đang hoạt động tốt và rộng hơn là
đối với phần còn lại của hệ thống ngân hàng quốc gia. Điều này sẽ được đảm
bảo khi có can thiệp kịp thời và hiệu quả của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
b. Bảo hiểm tiền gửi tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống ngân hàng của
quốc gia phát triển.
Vai trò của hoạt động bảo hiểm tiền gửi đối với tiến trình phát triển hệ
thống ngân hàng được thể hiện dưới ba góc độ:
- Hoạt động bảo hiểm tiền gửi có tác dụng tạo điều kiện thuận loại cho
các ngân hàng mới ra đời hoặc ngân hàng với quy mô hoạt động hạn chế có
điều kiện phát triển tốt hơn.
Thông thường người gửi tiền thường cảm thấy yên tâm khi gửi tiền ở
ngân hàng có quy mô hoạt động lớn và có bề dày phát triển, bởi vì học có tâm
lý cho rằng các ngân hàng lớn nếu có vấn đề thì sẽ có hỗ trợ của nhà nước để
tránh tình trạng đóng cửa xảy ra. Khi có hoạt động bảo hiểm tiền gửi với các
quy định của pháp luật về việc bảo hiểm tiền gửi là bắt buộc, tất cả các ngân
hàng đều được yêu cầu tham gia bảo hiểm tiền gửi. Vì vậy, tâm lý lo ngại có thể
mất tiền gửi do ngân hàng nhận tiền gửi “bị đóng cửa” dù tại ngân hàng nhỏ
hay ngân hàng mới đi vào hoạt động không còn phổ biến trong cộng đồng
Ph¹m ThÞ V©n Anh
16
Khãa luËn tèt nghiÖp
người gửi tiền. Điều này tạo điều kiện cho các ngân hàng nhỏ hoặc ngân hàng
mới đi vào hoạt động có điều kiện huy động vốn thuận lợi hơn.
- Hoạt động bảo hiểm tiền gửi giúp các ngân hàng thực sự yếu kém,
không thể tiếp tục duy trì hoạt động có thể rút khỏi lĩnh vực kinh doanh ngân
hàng một cách có trật tự, không ảnh hưởng tới các ngân hàng khác.
Thông qua hoạt động của nghiệp vụ kiểm tra và giám sát của mình, tổ chức bảo
hiểm tiền gửi có khả năng đánh giá kịp thời thực trạng hoạt động của các ngân
hàng tham gia bảo hiểm tiền gửi. Đối với ngân hàng được đánh giá là hoạt động
độc lập, tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ thực hiện các biện pháp hỗ trợ như:
+ Đưa ra phương án sáp nhập với ngân hàng khác;
+ Chi trả bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền thuộc đối tượng bảo hiểm
tiền gửi;
+ Tham gia vào quá trình thanh lý tài sản của ngân hàng đó để tiếp tục
bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền có tiền lớn hơn hạn mức chi trả bảo hiểm
tiền gửi và những đối tượng có tiền gửi không thuộc đối tượng bảo hiểm tiền
gửi v.v
Những hoạt động đó của tổ chức bảo hiểm tiền gửi có tác dụng giúp các
ngân hàng này có thể chấm dứt hoạt động, xử lý nhanh gọn các trách nhiệm đối
với chủ nợ (bao gồm một số lượng lớn chủ nợ quan trọng là người gửi tiền) mà
không gây ra các xáo trộn hay ảnh hưởng đến các ngân hàng khác.
- Hoạt động bảo hiểm tiền gửi tạo động lực để các ngân hàng giám sát
lẫn nhau, thúc đẩy nhau nâng cao chất lượng hoạt động.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi hoạt động trên cơ sở thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau trong
cộng đồng các tổ chức huy động tiền gửi để giải quyết các khó khăn vướng mắc
(đặc biệt là tình trạng khó khăn gây đóng cửa ngân hàng) của mỗi tổ chức tham
gia bảo hiểm tiền gửi bằng chính nguồn nhân lực huy động từ cộng đồng các
thành viên
Ph¹m ThÞ V©n Anh
17
Khãa luËn tèt nghiÖp
c. Bảo hiểm tiền gửi thúc đẩy huy động tiền tiết kiệm phục vụ đầu tư bền
vững và khuyến khích phát triển kinh tế.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi với các hoạt động của mình thực chất là tạo
điều kiện cho ngân hàng hoạt động có hiệu quả để ngân hàng có thể cung cấp
các điều kiện thuận lợi và thỏa đáng đối với người gửi tiền. Nếu ngân hàng thực
sự gặp khó khăn, tổ chức bảo hiểm tiền gửi với những hoạt động bảo vệ người
gửi tiền thực chất là cung cấp bảo đảm cho người gửi tiền. Như vậy, tổ chức
bảo hiểm tiền gửi đã tạo ra các yếu tố gián tiếp để tạo điều kiện thuận lợi cho
ngân hàng trong huy động tiền gửi của dân cư {33, tr 97}.
1.5. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.
Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi là tổng thể các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh những mối quan hệ phát sinh trong lĩnh
vực bảo hiểm tiền gửi, bao gồm các quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể tham gia bảo hiểm tiền gửi, hạn mức bảo hiểm, đối tượng được bảo hiểm
tiền gửi, các trình tự, thủ tục chi trả bảo hiểm tiền gửi.
Kết luận :
Bảo hiểm tiền gửi là việc đảm bảo nghĩa vụ chi trả trong tương lai của tổ
chức bảo hiểm tiền gửi cho các khoản tiền gửi khi các tổ chức tín dụng tham gia
bảo hiểm tiền gửi gặp rủi ro dẫn đến mất khả năng thanh toán, đây là loại hình
bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Đối tượng được bảo hiểm tiền gửi là nghĩa vụ
thanh toán các khoản tiền gửi (bao gồm cả gốc và lãi) của tổ chức nhận tiền gửi
đối với người gửi tiền.
Thông qua việc thực hiện các quy định pháp luật về hoạt động bảo hiểm
tiền gửi thì cơ quan Bảo hiểm tiền gửi đã góp phần bảo vệ quyền lợi của người
gửi tiền và đảm bảo, duy trì tính an toàn của hoạt động ngân hàng trong một
quốc gia, sự ổn định cho cả hệ thống tài chính.
Ph¹m ThÞ V©n Anh
18
Khãa luËn tèt nghiÖp
Ph¹m ThÞ V©n Anh
19
Khãa luËn tèt nghiÖp
CHƯƠNG II: MỘT SỐ NỘI DUNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BẢO
HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.
2.1. VỊ TRÍ VÀ CƠ CẤU CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT
NAM.
2.1.1. Vị trí pháp lý của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và mối quan hệ
giữa Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam với các cơ quan quản lý Nhà nước khác.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là chủ thể nhận bảo hiểm tiền gửi ở Việt
Nam và là một tổ chức tài chính Nhà nước được thành lập theo Quyết định
218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ. Bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam có thên giao dịch quốc tế là Deposit Insurance of Vietnam (viết
tắt là DIV).
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ do nhà
nước cấp là 1000 tỷ đồng Việt Nam và được bổ sung tự nguồn thu phí hàng
năm. Với việc quy định như vậy, cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ độc
lập về tài chính và được tự chủ trong quá trình hoạt động.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận,
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự
ổn định của tổ chức tín dụng, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt
động ngân hàng.Vì vậy bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được miễn các loại thuế
theo quy định pháp luật, được mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc
Nhà nước và nước ngoài; có bảng cân đối tài khoản và được lập các quỹ phù
hợp với quy định pháp luật.
a. Quan hệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 7 Quyết định 218/1999/QĐ-TTg ngày
09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
thì Thống đốc Ngân hàng Nhà nước được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền giám
Ph¹m ThÞ V©n Anh
20
Khãa luËn tèt nghiÖp
sát hoạt động của Hội đồng quản trị Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và có thẩm
quyền:
- Tham dự các cuộc họp của Hội đồng quản trị khi cần thiết;
- Nhận các loại báo cáo định kỳ và đột xuất, bao gồm cả báo cáo kiểm soát
của Ban kiểm soát. Nghị quyết của Hội đồng quản trị. Trong trường hợp phát
hiện những sai phạm trong báo cáo, không đồng ý với nội dung Nghị quyết của
Hội đồng quản trị thì trực tiếp làm việc với Hội đồng quản trị xem xét để thống
nhất xử lý hoặc điều chỉnh lại nội dung Nghị quyết, trường hợp các sai phạm
trong hoạt động và nội dung Nghị quyết của Hội đồng quản trị trái với Nghị
định của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và các văn bản khác thì báo cáo Thủ
tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Tại điều 26 Điều lệ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg ngày 28/6/2000 quy
định thì Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước
trong việc chấp hành các quy định về bảo hiểm tiền gửi. Bên cạnh đó, bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam còn phải chấp hành chế độ thông tin báo cáo về các vấn đề
liên quan đến hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo quy định tại Nghị định
89/1999/NĐ-CP về bảo hiểm tiền gửi và phối hợp với Ngân hàng Nhà nước
trong một số lĩnh vực như: giám sát và kiểm tra các tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi; áp dụng các biện pháp xử lý đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi.
b. Quan hệ giữa Bộ Tài chính và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Theo quy định tại điều 25 Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg ngày
28/6/2000 thì Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tài chính
đối với Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện và
kiểm tra hoạt động thu chi tài chính, các chế độ tài chính, kế toán và tổ chức bộ
máy hạch toán, kế toán của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Ph¹m ThÞ V©n Anh
21
Khãa luËn tèt nghiÖp
Bên cạnh đó, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam còn chịu sự quản lý của Bộ
Tài chính với tư cách là cơ quan được Chính phủ giao thực hiện một số chức
năng chủ yếu của chủ sở hữu trong các lĩnh vực: xác định nguồn vốn và các
nguồn lực khác mà Nhà nước giao cho bảo hiểm tiền gửi Việt Nam quản lý, sử
dụng; kiểm tra việc sử dụng có hiệu quả, phát triển vốn và các nguồn lực khác
được giao trong quá trình hoạt động; thanh tra, kiểm tra nội dung báo cáo kết
quả hoạt động tài chính và quyết toán hàng năm.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Theo Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Việt Nam Việt Nam (gọi tắt là
Điều lệ) ban hành kèm theo Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg ngày 28/6/2000
của Thủ tướng Chính phủ thì bộ máy tổ chức của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
bao gồm Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát và bộ máy điều hành gồm Tổng
Giám đốc và bộ máy giúp việc, cụ thể là:
- Hội đồng quản trị của bảo hiểm tiền gửi có 5 thành viên, trong đó có
thành viên chuyên trách là Chủ tịch, một ủy viên kiểm Tổng Giám đốc, một ủy
viên kiêm Trưởng ban kiểm soát, hai ủy viên kiêm nhiệm là Thứ trưởng Bộ Tài
chính và Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Các thành viên này được Thủ
tướng Chính phủ bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm theo đề nghị của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước và Bộ trưởng Bộ nội vụ. Hội đồng quản trị thực hiện chức năng
quản lý và chịu trách nhiệm về hoạt động hàng năm của Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng quản trị được quy định cụ thể tại
điều 12 của Điều lệ. Cơ cấu Hội đồng quản trị như trên thể hiện mối quan hệ
chặt chẽ giữa hai cơ quan quan trọng của Chính phủ là Bộ Tài chính và Ngân
hàng Nhà nước với bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, qua đó nâng cao uy tín của bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam và tạo dựng niềm tin cho hàng chục triệu người gửi
tiền, góp phần tăng cường khả năng huy động vốn cho nền kinh tế và tạo sự ổn
định cho hệ thống ngân hàng. Hội đồng quản trị của bảo hiểm tiền gửi Việt
Ph¹m ThÞ V©n Anh
22
Khãa luËn tèt nghiÖp
Nam có vai trò rất quan trọng trong việc phối hợp công tác với các cơ quan
quản lý Nhà nước như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính.
- Ban Kiểm soát có 3 thành viên chuyên trách và một số thành viên kiêm
nhiệm, trong đó có một thành viên là Trưởng Ban. Các thành viên Ban Kiểm
soát (ngoài Trưởng Ban) do Chủ tịch Hội đồng quản trị bổ nhiệm, trên cơ sở đề
nghị của Trưởng Ban kiểm soát. Ban kiểm soát được thành lập nhằm giúp Hội
đồng quản trị thực hiện việc giám sát, kiểm tra mọi hoạt động của bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam trong điều hành hoạt động, chấp hành pháp luật và Điều lệ của
bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Do vậy, Ban kiểm soát được trao một số nhiệm vụ
và quyền hạn nhất định để thực hiện nhiệm vụ nêu trên. Nhiệm vụ và quyền hạn
của Ban Kiểm soát được quy định cụ thể tại Điều 17 của Điều lệ.
-Tổng Giám đốc là đại diện pháp nhân của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam,
chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về điều hành hoạt
động của Việt Nam Việt Nam. Giúp việc cho Tổng Giám đốc có một số Phó
Tổng Giám đốc. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Phó Tổng Giám đốc do Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước quyết định theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng Quản trị.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Tổng Giám đốc được quy định cụ thể tại Điều 19
của Điều lệ.
- Ngoài cơ quan trung ương của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là Hội sở
chính có trụ sở tại Hà Nội thì Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam còn có một mạng
lưới hoạt động là hệ thống các Chi nhánh khu vực tại các địa bàn kinh tế trọng
điểm trên phạm vi cả nước, thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do Bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam giao đồng thời đại diện cho bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
trong việc thiết lập, xử lý các mối quan hệ với các cơ quan nhà nước, cơ quan
có thẩm quyền, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đối với công chúng trên địa
bàn khu vực và với các tổ chức khác có liên quan. Chi nhánh bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam còn được giao nhiệm vụ theo dõi, nắm bắt tình hình kinh tế – xã hội,
Ph¹m ThÞ V©n Anh
23
Khãa luËn tèt nghiÖp
tình hình hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên địa bàn và
thực hiện công tác thông tin tuyên truyền đến công chúng về bảo hiểm tiền gửi.
2.1.3. Nội dung các quyền và nghĩa vụ cơ bản của bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam.
a. Các quyền cơ bản của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
- Quyền kiểm tra, giám sát tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Trên cơ sở quy định tại Khoản 2 Điều 13 Nghị định 89/1999/NĐ-CP
ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi, bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam có quyền kiểm tra các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thực hiện các
quy định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và quy định bảo đảm an toàn trong hoạt
động Ngân hàng. Nội dung các quy định về kiểm tra chấp hành các quy định
bảo hiểm tiền gửi bao gồm: kiểm tra hồ sơ pháp lý đảm bảo là thành viên tham
gia bảo hiểm tiền gửi, kiểm tra việc chấp hành niêm yết chứng nhận bảo hiểm
tiền gửi, kiểm tra việc tính phí, chấp hành thời hạn nộp phí bảo hiểm tiền gửi và
nộp phạt ( nếu có ).
Kiểm tra việc tuân thủ các quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động
ngân hàng được thực hiện căn cứ vào các chỉ tiêu an toàn mà hệ thống Ngân
hàng Việt Nam đề ra. Từ khi BHTGVN ra đời cho đến nay, BHTGVN mới
kiểm tra các quy định an toàn đối với khách hàng là các quỹ tín dụng nhân dân.
Đối với loại hình khách hàng này, công tác kiểm tra tuân thủ quy định pháp luật
tập trung vào các tiêu chí: tuân thủ các quy định pháp luật về gia hạn huy động
vốn theo địa bàn: về chế độ hoạch toán kế toán và chứng từ kế toán; quy định
đảm bảo an toàn vốn ; các khách hàng còn lại là các ngân hàng thương mại thì
BHTGVN chỉ kiểm tra chấp hành quy định về bảo hiểm tiền gửi [30].
- Quyền tham gia quản lý, thanh lý tài sản với tư cách chủ nợ của bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản.
Ph¹m ThÞ V©n Anh
24
Khãa luËn tèt nghiÖp
Theo quy định tại Điều 20 Nghị định số 89/1999/NĐ-CP và Khoản 1
Mục VIII Thông tư số 03/2000/TT-NHNN5 khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi bị phá sản thì bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được quyền tham gia quá trình
quản lý và thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định
của Luật Phá sản.
Tại điều 20 của Nghị định số 109/2005/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung “Tổ
chức bảo hiểm tiền gửi trở thành chủ nợ của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
với số tiền bảo hiểm đã chi trả. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi được phân chia giá
trị tài sản theo thứ tự thanh toán như đối với người gửi tiền trong trường hợp tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị buộc giải thể do không có khả năng thanh
toán được các khoản nợ đến hạn hoặc bị phá sản theo quy định của pháp luật về
giải thể, phá sản. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi được quyền tham gia vào quá trình
quản lý,thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định
của pháp luật”
- Quyền được trở thành chủ nợ đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi bị phá sản với số nợ tương ứng với số tiền bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã
chi trả bảo hiểm tiền gửi. Tại Điều 20 Nghị định số 109/2005/NĐ-CP quy định
“trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản, thì tổ chức
bảo hiểm tiền gửi trở thành chủ nợ đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
đó với số tiền mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã chi trả cho người gửi tiền.”. Tuy
nhiên, vì các tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, nên theo các
quy định tại Luật Phá sản năm 2004 thì thủ tục giải quyết phá sản đối với các tổ
chức tín dụng cũng khác hơn so với loại hình doanh nghiệp khác. Chính vì thế,
trên thực tế có rất nhiều tổ chức tín dụng đã bị mất khả năng thanh toán và bị cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền có văn bản chấm dứt hoạt động nhưng vẫn chưa
được giải quyết để phá sản. Trong trường hợp này bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
đã thực hiện chi trả tiền bảo hiểm nhưng việc xác định tư cách chủ nợ của bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam đối với các tổ chức đó trong việc truy đòi khoản tiền đã
Ph¹m ThÞ V©n Anh
25