LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hóa đang là xu hướng tất yếu trong thời đại ngày nay khi các rào cản
đối với các dòng chảy về thông tin, ý tưởng, các nhân tố về vốn và lao động có kỹ năng
cùng với kỹ thuật và hàng hóa đã và đang được giỡ bỏ. Điều này làm cho ranh giới
giữa các quốc gia dần bị xóa mờ, tạo cơ hội cho các nước tham gia sâu và rộng hơn vào
quy trình sản xuất các sản phẩm, dịch vụ phục vụ cho lợi ích chung của con người. Mỗi
nước, với ý thức về tiềm năng và năng lực của mình đã chuyên môn hóa, tập trung vào
lĩnh vực có lợi thế so sánh để có thể thu lại lợi ích nhiều nhất từ quá trình hội nhập. Từ
đó tạo ra các chuỗi giá trị hàng hóa toàn cầu, trong đó hàng hóa không chỉ được thực
hiện giá trị tại một quốc gia mà có khi là hai quốc gia, ba quốc gia hoặc nhiều hơn nữa.
Mỗi quốc gia thực hiện một hoặc một số khâu như thiết kế, sản xuất, chế biến, phân
phối,…trong quy trình thực hiện giá trị trước khi đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2007-2010 xuất phát từ khủng hoảng tài chính
Mỹ đã tác động tới tất cả các mặt của kinh tế toàn cầu cũng như các khâu của quá trình
thực hiện giá trị trong các chuỗi toàn cầu. Trong đó, hàng nông sản cũng không phải là
ngoại lệ, đặc biệt khi việc sản xuất nông sản chủ yếu được thực hiện tại các quốc gia
đang phát triển-những nước yếu thế và thường chịu thiệt thòi hơn khi tham gia vào
thương mại tự do toàn cầu. Nông sản Việt Nam, vốn có vị trí thấp trong chuỗi giá trị
toàn cầu cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ cuộc khủng hoảng có quy mô và tầm ảnh
hưởng mạnh mẽ lớn nhất từ trước tới nay trong lịch sử loài người. Cũng nhờ đó, những
yếu kém của việc tham gia và chuỗi giá trị toàn cầu của hàng nông sản Việt Nam mới
được bộc lộ một cách rõ ràng hơn bao giờ hết, cho thấy việc thụ động phụ thuộc vào
diễn biến thị trường thay vì chủ động tạo ra chỗ đứng cho mình trong chuỗi của các
doanh nghiệp nước ta.
1
Trước những vấn đề đó, khóa luận này đã nghiên cứu vị trí của Việt Nam trong
chuỗi giá trị toàn cầu hàng nông sản, đặc biệt là hai mặt hàng gạo và cà phê, những tác
động của khủng hoảng kinh tế thế giới 2007-2010 tới nông sản Việt Nam và sau đó đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao vị thế của nước ta trong chuỗi giá trị toàn cầu đối
với mặt hàng này. Khóa luận được chia thành ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về chuỗi giá trị toàn cầu;
Chương 2: Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2007 - 2010 và vị
thế của hàng nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu;
Chương 3: Giải pháp nhằm xâm nhập chuỗi giá trị toàn cầu cho hàng nông sản
Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế thế giới.
Với lòng biết ơn thực sự, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô
giáo đã truyền đạt kiến thức cho em trong suốt bốn năm học, đặc biệt là Th.s Nguyễn
Thị Thu Trang – giáo viên đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp này. Bên cạnh đó, em cũng rất cảm ơn những người thân trong gia đình và
bạn bè đã động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình nghiên cứu.
Dù đã cố gắng nỗ lực hết mình song với vốn kiến thức còn hạn chế của tác giả và
thời gian nghiên cứu không nhiều, khóa luận này chắc chắn không thể tránh khỏi sai
sót. Vì vậy rất mong các thầy cô cùng các bạn đóng góp ý kiến để em hoàn thiện
nghiên cứu của mình hơn nữa.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2010
Sinh viên thực hiện: Ngô Thị Tú Anh
2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU
1.1KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỀM VÀ CÁC CÔNG CỤ PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ
TRỊ TOÀN CẦU
1.1.1 Khái niệm:
Giá trị
Theo quan niệm của C.Mác trong bộ Tư bản, quá trình sản xuất hàng hóa tư bản
chủ nghĩa, về thực chất là quá trình sáng tạo ra giá trị và thực hiện giá trị. Quá trình sản
xuất hàng hóa có thể hiểu được theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, sản xuất
hàng hóa là quá trình kết hợp các yếu tố sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất (công cụ lao
động và đối tượng lao động) và sức lao động để tạo ra sản phẩm. Theo nghĩa rộng, sản
xuất hàng hóa là quá trình tái sản xuất mở rộng bao gồm bốn khâu: sản xuất – phân
phối – trao đổi – tiêu dùng; trong đó, vị trí, vai trò của các khâu trong quá trình tái sản
xuất đó không như nhau. Sản xuất là khâu quyết định còn các khâu sau chịu sự chi phối
của sản xuất mặc dù chúng có tác động ngược lại như tiêu dùng hợp lý sẽ tạo điều kiện
đế sản xuất có hiệu quả cao hơn. Khâu phân phối và trao đổi là những khâu trung gian
kết nối sản xuất với tiêu dùng. Cách tiếp cận nghiên cứu của C.Mác là dựa trên phương
pháp trừu tượng hóa và có tính khái quát cao, chủ yếu đề cập đến quá trình sáng tạo giá
trị từ trong lưu thông. Có thể nói sản xuất là điều kiện cần còn thực hiện hàng hóa là
điều kiện đủ. C.Mác cũng đã mô phỏng mô hình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất
mở rộng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cấu tạo kỹ thuật (tỷ lệ vốn/
lao động hay c/v) không thay đổi. Thực chất, mô hình này là việc xây dựng một quy
trình tạo ra được giá trị sử dụng hay công dụng. Giá trị được tạo ra trong sản xuất chỉ
mới là giá trị cá biệt và khi hàng hóa được thực hiện thì giá trị đó mới là giá trị xã hội
tức là giá trị đích thực của hàng hóa.
Cũng theo quan niệm của C.Mác, quá trình sản xuất hàng hóa là quá trình tạo ra
giá trị theo cơ cấu: C + V + M; trong đó, C là tư bản bất biến, V là tư bản khả biến, M
3
là giá trị thặng dư. Mức độ phân bố giá trị vào các thành phần của chuỗi giá trị này có
sự khác nhau tùy theo đặc điểm của ngành.
Trong mô hình với giả định nền kinh tế không có ngoại thương, C.Mác đã trừu
tượng hóa nền kinh tế tư bản trong giai đoạn toàn cầu hóa hoàn toàn, không còn sự
chia cắt và tách biệt giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Vì vậy, quá
trình tái sản xuất được mở rộng trên phạm vi toàn cầu và giá trị được sản xuất và thực
hiện cũng trên phạm vi toàn cầu. Quá trình tái sản xuất được mở rộng trên phạm vi
toàn cầu làm hình thành nên mạng sản xuất toàn cầu mà trên thực tế, đây là hiện tượng
xảy ra khi có sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia kéo theo sự hình thành
mạng lưới sản xuất quốc tế là một trong những điều kiện quyết định sự ra đời của nền
kinh tế thế giới hay nói cách khác nền kinh tế thế giới, về thực chất, là tập hợp của các
chuỗi giá trị toàn cầu của các ngành sản xuất hoặc tổ hợp của các chuỗi sản phẩm và
dịch vụ.
Chuỗi giá trị
Có ba luồng nghiên cứu chính về chuỗi giá trị, đó là:
i) Filièle (Chuỗi):
Phương pháp Filièle (filièle có nghĩa là chuỗi, mạch) gồm các trường phái tư duy
và truyền thống nghiên cứu khác nhau. Khởi đầu, phương pháp này được dùng để phân
tích hệ thống nông nghiệp của các nước đang phát triển trong hệ thống thuộc địa của
Pháp. Phân tích chủ yếu là công cụ để nghiên cứu cách thức mà các hoạt động sản xuất
nông nghiệp (đặc biệt là cao su, bông, cà phê và dừa) được tổ chức tại các nước đang
phát triển. Trong bối cảnh này, khung Filièle chú trọng đặc biệt đến các hệ thống sản
xuất địa phương được kết nối với công nghiệp chế biến, thương mại, xuất khẩu và khâu
tiêu dùng cuối cùng.
Khái niệm chuỗi (filièle) bao hàm nhận thức kinh nghiệm thực tế được sử dụng
để lập sơ đồ dòng chuyển động của hàng hóa và xác định những người tham gia và các
4
hoạt động. Tuy nhiên, khái niệm chuỗi chủ yếu tập trung vào các vấn đề của các mối
quan hệ vật chất và kỹ thuật định lượng, được tóm tắt trong sơ đồ dòng chảy của các
hàng hóa và sơ đồ mối quan hệ chuyển đổi. Phương pháp phân tích Filièle có hai đặc
điểm nổi bật sau:
- Việc đánh giá chuỗi giá trị về mặt kinh tế và tài chính chú trọng vào vấn đề tạo
và phân phối thu nhập trong chuỗi hàng hóa, phân tích các chi phí cũng như thu nhập
giữa các thành phần kinh doanh nội địa và quốc tế để nghiên cứu ảnh hưởng của chuỗi
đến nền kinh tế quốc dân và sự đóng góp của nó vào GDP.
- Phân tích chuỗi lấy sự phát triển của nông nghiệp làm trọng tâm nghiên cứu;
quan tâm tới các vấn đề như sự tương tác lẫn nhau giữa các đối tượng tham gia, những
cản trở và kết quả thu được cho mỗi bên liên quan trong chuỗi, các chiến lược cá nhân
và tập thể cũng như các hình thái quy định. Chẳng hạn ở châu Phi có bốn loại quy định
liên quan đến chuỗi hàng hóa được phân tích gồm: quy định trong nước, quy định về
thị trường, quy định của nhà nước và quy định kinh doanh nông nghiệp quốc tế.
Moustier va Leplaideur (1989) đã đưa ra một khung phân tích về tổ chức chuỗi giá trị
hàng hóa, bao gôm lập sơ đồ, các chiến lược cá nhân và tập thể, và hiệu suất về mặt giá
cả và tạo thu nhập, có tính đến vấn đề chuyên môn hóa của nông dân và thương nhân
ngành thực phẩm so với chiến lược đa dạng hóa.
ii) Khung phân tích của Michael Porter
Luồng nghiên cứu thứ hai liên quan đến công trình của M.Porter (Havard
Busniess School) trong cuốn sách “Competitive Advantage: Creating and Sustaining
Superior Performance” (1985) về các lợi thế cạnh tranh. M.Porter đã dùng khung phân
tích chuỗi giá trị để đánh giá xem một công ty nên tự định vị mình như thế nào trên các
thị trường và trong mối quan hệ với các nhà cung cấp, khách hàng và đối thủ cạnh
tranh khác.
Theo M.Porter, chuỗi giá trị là chuỗi các hoạt động; sản phẩm đi qua tất cả các
hoạt động của chuỗi một cách tuần tự và tại mỗi hoạt động, sản phẩm sẽ tích lũy thêm
5
một giá trị nào đó. Chuỗi các hoạt động cung cấp cho các sản phẩm nhiều giá trị gia
tăng hơn tổng giá trị gia tăng của tất cả các hoạt động cộng lại.
Trong khung phân tích của Porter, khái niệm chuỗi giá trị không trùng với ý
tưởng về chuyển đổi vật chất. Porter giới thiệu ý tưởng theo đó tính cạnh tranh của một
công ty không chỉ liên quan đến quy trình sản xuất. Mô hình chuỗi giá trị này là một
tập hợp của nhiều công đoạn hay nhiều khâu khác nhau và có mối quan hệ với nhau
cùng tạo ra giá trị như thiết kế sản phẩm, logistics đầu vào, logistics đầu ra, sản xuất,
marketing & bán hàng, các dịch vụ hậu mãi và các hoạt động bổ trợ nhằm gia tăng giá
trị cho sản phẩm như lập kế hoạch chiến lược, quản lý nguồn nhân lực, hoạt động
nghiên cứu,… Với góc độ nghiên cứu này, khái niệm chuỗi giá trị chỉ áp dụng trong
kinh doanh của doanh nghiệp; do vậy, phân tích chuỗi giá trị chủ yếu nhằm hỗ trợ các
quyết định quản lý và chiến lược điều hành của một doanh nghiệp, một công ty cụ thể.
HÌNH 1: KHUNG PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA M.PORTER
Nguồn: Michael Porter, 1985
Một cách khác để tìm ra lợi thế cạnh tranh là dựa vào khái niệm hệ thống giá trị,
thay vì chỉ phân tích lợi thế cạnh tranh của một công ty duy nhất, có thể xem các hoạt
động của công ty như một phần của chuỗi các hoạt động rộng hơn mà Porter gọi là hệ
6
Logistics
đầu vào
Sản
xuất
Logistics
đầu ra
Marketing
& bán hàng
Dịch
vụ
Cơ sở hạ tầng
Quản trị nguồn nhân lực
Phát triển công nghệ
Mua sẳm
Các hoạt
động chính
Các hoạt
động bổ trợ
GIÁ
TRỊ
thống giá trị. Một hệ thống giá trị bao gồm các hoạt động do tất cả các công ty tham
gia trong việc sản xuất một hàng hóa hoặc dịch vụ thực hiện, bắt đầu từ nguyên liệu thô
đến phân phối tới người tiêu dùng cuối cùng. Vì vậy, khái niệm hệ thống giá trị rộng
hơn so với khái niệm chuỗi giá trị của doanh nghiệp.
iii) Phương pháp tiếp cận toàn cầu
Khái niệm các chuỗi giá trị được Gary Gereffi (Duke University, Mỹ) lần đầu tiên
áp dụng để phân tích toàn cầu hoá, tìm hiểu cách thức mà các công ty và các quốc gia
hội nhập toàn cầu và để đánh giá các yếu tố quyết định đến phân phối thu nhập toàn
cầu.
Sau đó, Raphael Kaplinsky đã đưa ra những khái niệm về chuỗi giá trị như sau:
Theo nghĩa hẹp (giản đơn): Chuỗi giá trị gồm một loạt các hoạt động cần có để
sản xuất ra một sản phẩm hoặc dịch vụ từ giai đoạn xây dựng khái niệm, qua các giai
đoạn khác nhau của sản phẩm (bao gồm sự kết hợp của sự biến đổi tự nhiên với đầu
vào của các dịch vụ sản xuất đa dạng), cho tới phân phối tới người tiêu dùng cuối cùng,
dịch vụ hậu mãi và việc vứt bỏ sản phẩm sau khi sử dụng.
HÌNH 2: MÔ HÌNH CHUỖI GIÁ TRỊ ĐƠN GIẢN
Nguồn: Raphael Kaplinsky and Morris, 2002
Theo nghĩa rộng: Chuỗi giá trị là một phức hợp những hoạt động do nhiều người
tham gia khác nhau thực hiện (người sản xuất sơ cấp, người chế biến, thương nhân,
người cung cấp dịch vụ…) để biến một nguyên liệu thô thành thành phẩm được bán lẻ.
Chuỗi giá trị rộng bắt đầu từ hệ thống sản xuất nguyên liệu thô và chuyển dịch theo các
7
THIẾT KẾ
SẢN XUẤT
Logistics đầu vào
Sản xuất Logistics
đầu ra Đóng gói
MARKETING TIÊU THỤ
mối liên kết với các doanh nghiệp khác trong các hoạt động như kinh doanh, chế biến,
lắp ráp…
Mỗi sản phẩm được tạo ra đều có giá trị bao gồm một xâu chuỗi mắt xích nhiều
giá trị kết nối tạo nên. Trong thời đại toàn cầu hóa, các mắt xích tạo nên giá trị cuối
cùng của một sản phẩm đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia - lãnh thổ khi các chi tiết
của nó được thiết kế ở một nước, sản xuất ở một nước khác, lắp ráp ở nước thứ ba, và
tiêu thụ ở nước thứ tư… hoặc, một sản phẩm thuần túy ra đời tại một địa phương cụ
thể nhưng vẫn mang giá trị toàn cầu. Vì vậy, trong thời đại toàn cầu hóa xuất hiện khái
niệm chuỗi giá trị toàn cầu.
Chuỗi giá trị toàn cầu
Mọi sản phẩm mới - từ phân mềm cho tới đồ dùng - đều phải trải qua một chu kỳ,
bắt đầu bằng nghiên cứu cơ bản rồi nghiên cứu ứng dụng, thời kỳ ấp ủ, phát triển, thử
nghiệm, sản xuất, triển khai, hỗ trợ và mở rộng kỹ thuật để cải tiến. Mỗi khâu trên đều
được chuyên môn hóa và có tính đơn nhất. Các quốc gia đang phát triển như Ấn Độ,
Trung Quốc và Nga đều không đủ nhân lực và năng lực để đảm nhiệm toàn bộ chu kỳ
sản phẩm cho một công ty đa quốc gia lớn ở Mỹ hay các nước phương Tây phát triển.
Song các nước đang phá triển trên đang dần nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển
của họ để có thể đảm nhiệm nhiều khâu hơn. Quá trình này tiếp tục diễn ra sẽ đánh dấu
sự kết thúc của mô hình cũ – khi một công ty đa quốc gia tự tiến hành tất cả các khâu
của chu kỳ phát triển sản phẩm bằng nguồn lực riêng của mình. Từ đó tạo ra các chuỗi
giá trị toàn cầu (GVC-Global Value Chain) là chuỗi giá trị cho phép các công đoạn của
chuỗi đặt tại những địa điểm (quốc gia) có khả năng mang lại hiệu quả cao nhất với chi
phí thấp nhất.
Trong khuôn khổ chuỗi giá trị, các mối quan hệ thương mại quốc tế được coi là
một phần của các mạng lưới các nhà sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu và bán lẻ, trong đó
tri thức và quan hệ được phát triển để tiếp cận được các thị trường và các nhà cung cấp.
8
Ở bối cảnh hiện nay khi khái niệm chuỗi giá trị không còn mới đối với hầu hết các
quốc gia thì sự thành công của các nước đang phát triển và của những người tham gia
thị trường ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào khả năng tiếp cận các mạng lưới
này.
1.1.2 Đặc điểm
a) Quản trị chuỗi
Định nghĩa (Humphrey & Schmitz, 2002): Quản trị chuỗi là mối quan hệ giữa các
bên tham gia và các cơ chế thể chế thông qua đó các hoạt động điều phối phi thị trường
được thực hiện. Quản trị chuỗi giúp trả lời bốn câu hỏi quan trọng: Sản xuất cái gì? Sản
xuất như thế nào? Khi nào thì sản xuất? Số lượng là bao nhiêu?
Gary Gereffi, John Humphrey, và Timothy Sturgeon, trong nghiên cứu “Các cách
quản trị của chuỗi giá trị toàn cầu”, 2005 đã đưa ra năm mô hình quản trị khác nhau
GVC như sau:
- Thị trường: là hình thức đơn giản nhất của quản trị GVC. Cơ chế quản trị
trung tâm là giá cả. Các mối liên kết giữa các hoạt động chuỗi giá trị không chặt chẽ vì
các thông tin được trao đổi và kiến thức được chia sẻ là tương đối đơn giản. Do đó, chi
phí để chuyển sang các đối tác khác là thấp cho các tác nhân trong chuỗi.
- Chuỗi giá trị kiểu mẫu: các nhà cung cấp trong kiểu quản trị này cung cấp sản
phẩm hoặc dịch vụ theo các chỉ dẫn chi tiết của khách hàng. Tuy vậy, khi cung cấp các
dịch vụ “chìa khóa trao tay”, các nhà cung cấp có xu hướng chịu trách nhiệm hoàn toàn
về quy trình công nghệ và thường sử dụng các loại máy móc phổ biến để thu hồi đầu tư
từ một lượng khách hàng lớn. Điều này giữ chi phí chuyển đổi thấp và giới hạn đầu tư
vào các giao dịch cụ thể, ngay cả khi quan hệ giữa người mua và nhà cung cấp là phức
tạp. Các liên kết trong kiểu quản trị này chặt chẽ hơn kiểu quản trị thị trường giản đơn
vì khối lượng thông tin luân chuyển trong liên kết giữa các công ty lớn hơn.
9
- Chuỗi giá trị quan hệ: trong mô hình quản trị mạng lưới GVC có sự phụ thuộc
lẫn nhau quy định bởi danh tiếng, và quan hệ xã hội gần gũi, gia đình và các quan hệ
ràng buộc khác. Các ví dụ rõ ràng nhất của quản trị mạng theo kiểu này là trong các
cộng đồng đặc biệt, hoặc "quận công nghiệp", nhưng những ảnh hưởng do lòng tin và
danh tiếng cũng có thể có tác dụng trong các mạng lưới không gắn kết. Vì lòng tin
tưởng và sự phụ thuộc lẫn nhau trong kiểu quản trị này cần nhiều thời gian để xây
dựng, và các quan hệ xã hội gần gũi bị giới hạn bởi một số công ty tương đối nhỏ nên
các chi phí chuyển đổi sang các đối tác mới thường cao hơn.
- Chuỗi giá trị phụ thuộc: trong kiểu quản trị chuỗi này, nhà cung cấp nhỏ có xu
hướng phụ thuộc vào những người mua lớn và người mua chi phối. Việc phụ thuộc vào
một công ty đầu ngành làm tăng chi phí chuyển đổi đối với các nhà cung cấp. Trong
mạng lưới có kiểu quản trị này, các công ty dẫn đầu thường đóng vai trò kiểm soát và
giám sát chặt chẽ các hoạt động trong toàn chuỗi. Quan hệ quyền lực bất cân xứng
trong chuỗi buộc các nhà cung cấp liên kết với khách hàng chặt chẽ hơn và do đó chi
phí chuyển đổi cũng cao hơn.
- Cấp bậc: mô hình quản trị này là đặc trưng của hội nhập theo chiều dọc (tức là
các giao dịch diễn ra bên trong một công ty duy nhất). Hình thức quản trị chi phối là
kiểm soát việc quản lý, theo thứ tự từ người quản lý tới nhân viên hoặc từ trụ sở tới
công ty con và chi nhánh.
BẢNG 1: CÁC NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH TỚI QUẢN TRỊ CHUỖI
Dạng quản trị Mức độ phức tạp
của giao dịch
Khả năng hệ thống
hóa giao dịch
Năng lực
cung ứng
Mức độ bất cân
xứng quyền lực
Thị trường Thấp Cao Cao Thấp
Mẫu Cao Cao Cao
Quan hệ Cao Thấp Cao
Phụ thuộc Cao Cao Thấp
10
Cấp bậc Cao Thấp Thấp Cao
Nguồn: Gary Gereffi, John Humphrey, Timothy Sturgeon, 2005
Dưới đây là bảng các nhân tố quyết định tới quản trị chuỗi, dựa trên các tiêu chí
về mức độ phức tạp của các giao dịch, khả năng hệ thống hóa giao dịch, năng lực cung
ứng cũng như mức độ bất cân xứng quyền lực trong các các quản trị chuỗi khác nhau.
b) Nâng cấp chuỗi giá trị
Nâng cấp trong chuỗi giá trị là quá trình các chủ thể kinh tế, quốc gia, doanh
nghiệp, người lao động chuyển từ hoạt động tao ra giá trị thấp sang những hoạt động
có giá trị cao hơn trong mạng lưới sản xuất toàn cầu. Khả năng nâng cấp đề cập tới sự
chuyển dịch mà một hay một nhóm các hãng thực hiện để nâng cao vị trí của mình
trong chuỗi.
Trong nâng cấp chuỗi giá trị, vấn đề then chốt là khả năng sáng tạo để có được sự
đổi mới không ngừng trong sản phẩm cũng như cả quy trình; sự đổi mới đó phải đảm
bảo không chậm hơn các đối thủ cạnh tranh nhằm duy trì thị phần và giá trị gia tăng
thu về. Việc đầu tiên là tập trung vào giá trị cốt lõi (“core competence”), các doanh
nghiệp cần phải kiểm tra năng lực của mình để quyết định xem sẽ tạo ra giá trị gì cho
người tiêu dùng cuối cùng, và sẽ thu lại giá trị gì?
Có bốn loại nâng cấp chuỗi giá trị chính:
- Nâng cấp quy trình: Nâng cao hiệu quả của các quy trình nội bộ để có các hoạt
động tốt hơn đối thủ cạnh tranh, cũng như các liên kết trong mắt xích của chuỗi (như
tăng số vòng quay hàng tồn kho, giảm phế liệu) và các liên kết giữa các mắt xích trong
chuỗi (giao hàng thường xuyên hơn, khối lượng nhỏ hơn và đúng thời hạn hơn)
11
- Nâng cấp sản phẩm: Giới thiệu sản phẩm mới hoặc cải tiến sản phẩm cũ nhanh
hơn các đối thủ. Việc này bao hàm cả thay đổi quy trình phát triển sản phẩm mới ở
giữa các liên kết bên trong của doanh nghiệp trong chuỗi giá trị và trong mối quan hệ
với các liên kết chuỗi khác.
- Nâng cấp chức năng: Làm tăng giá trị gia tăng thông qua thay đổi các hoạt
động được quản lý trong doanh nghiệp hoặc chuyển các hoạt động sang các liên kết
khác nhau trong chuỗi giá trị.
- Nâng cấp toàn chuỗi: Chuyển sang một chuỗi giá trị mới dựa trên những kỹ
năng, kinh nghiệm học hỏi từ trước do tham gia một chuỗi giá trị có liên quan. Chẳng
hạn, các doanh nghiệp Đài Loan chuyển từ sản xuất đài bán dẫn sang máy tính, tivi,
màn hình máy vi tính rồi sau đó là máy tính xách tay và giờ đây là điện thoại WAP.
Việc nâng cấp chuỗi giá trị thường được thực hiện theo trình tự từ nâng cấp quy
trình tới nâng cấp sản phẩm, nâng cấp chức năng và nâng cấp chuỗi (Bảng 2)
BẢNG 2: CÁC QUY TRÌNH NÂNG CẤP CHUỖI GIÁ TRỊ
Nâng cấp
quy trình
Nâng cấp
sản phẩm
Nâng cấp
chức năng
Nâng cấp
chuỗi
Trình tự
Ví dụ
Lắp ráp
thiết bị chính
(OEA)
Sản xuất
có thiết kể riêng
(ODM)
Sản xuất
có thương hiệu
(OBM)
Chuyển sang
chuối giá trị mới
Mức độ độc lập
với người mua
nước ngoài
Giá trị gia tăng thu về tăng dần
Nguồn: Raphael Kaplinsky and Mike Morris, 2002
Kinh nghiệm từ thành công của các nước Đông Á đã cho thấy một quy trình nâng
cấp chuỗi giá trị từ sản xuất OEA (lắp ráp thiết bị chính) tạo ra ít giá trị sang nhà sản
xuất thiết bị chính đến cung cấp các sản phẩm mang nhãn mác của người mua, rồi
12
ODM (sản xuất có thiết kế) và giờ đây là OBM (sản xuất có thương hiệu cho riêng
mình). Đó cũng là quy trình mà người sản xuất dần dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào
người mua toàn cầu trong việc thiết kế, tạo dựng thương hiệu cho chính mình và nhờ
đó thu lại nhiều giá trị gia tăng từ sản phẩm.
1.1.3 Phân loại
Trong cuốn sách “A Commodity Chains Framework for Analyzing Global
Industries”, Gary Gereffi dựa vào nhân tố chi phối chuỗi đã chỉ ra có hai loại chuỗi giá
trị khác nhau cơ bản, đó là chuỗi giá trị do người bán chi phối và chuỗi giá trị do người
mua chi phối.
Chuỗi giá trị do người bán chi phối (“Producer-driven commodity chain”) là
chuỗi trong đó các công ty, chủ yếu là các công ty đa quốc gia đóng vai trò trung tâm
trong việc kết hợp hệ thống sản xuất (bao gồm cả liên kết xuôi chiều và ngược chiều).
Đây là đặc điểm của ngành sản xuất chiếm dụng nhiều tư bản và đòi hỏi hàm lượng
công nghệ cao như điện thoại, máy bay, sản phẩm bán dẫn và máy móc công nghiệp.
Chuỗi giá trị do người mua chi phối (“Buyer-driven comodity chain”) là chuỗi
trong đó những nhà bán lẻ lớn và các nhà sản xuất uy tín đóng vai trò then chốt trong
việc thiết lập hệ thống sản xuất phi tập trung tại các nước đang phát triển, mà đặc biệt
là tại các nước thuộc thế giới thứ ba. Loại chuỗi này phổ biến ở các ngành sử dụng
nhiều lao động, hàng tiêu dùng như hàng dệt may, giày dép, đồ chơi, đồ gia dụng, đồ
điện tử và các loại đồ thủ công.
Ngoài ra, có những chuỗi giá trị lại kết hợp của hai kiểu quản trị chuỗi theo định
hướng người mua và người bán. Chẳng hạn, trong ngành quần áo, GAP là một ví dụ về
một hãng hoạt động không có nhà máy sản xuất và là đại diện điển hình cho loại chuỗi
do người mua chi phối, trong khi đó Levi-Strauss lại quản trị một chuỗi giá trị hội nhập
dọc. Trong ngành sản xuất ô tô, Ford đang chuyển dần sang chuỗi do người mua chi
phối trong khi Toyota và các nhà sản xuất khác vẫn tiếp tục hoạt động trong chuỗi giá
trị do người bán chi phối. Trong ngành sản xuất vật liệu bán dẫn, Intel kiểm soát chuỗi
13
do người sản xuất chi phối còn ARM lại sử dụng silicon để thỏa mãn nhu cầu của
khách hàng.
BẢNG 3: SO SÁNH CHUỖI GIÁ TRỊ DO NGƯỜI BÁN VÀ NGƯỜI MUA CHI PHỐI
Các tiêu chí Chuỗi do người bán
chi phối
Chuỗi do người mua
chi phối
Hoạt động chi phối Sản xuất công nghiệp Thương mại
Năng lực cốt lõi Nghiên cứu và phát triển, Sản xuất Thiết kế, Marketing
Rào cản gia nhập Lợi thế kinh tế theo quy mô Lợi thế kinh tế theo đặc thù
Ngành hàng Hàng tiêu dùng lâu bền, sản phẩm cấp
trung, tư bản phẩm
Hàng tiêu dùng không lâu bền
Các ngành điển hình Điện thoại, máy tính, máy bay Hàng may mặc, giày dép, đồ
chơi
Chủ thể hữu các
công ty sản xuất
Các công ty xuyên quốc gia Các công ty nội địa, chủ yếu
ở các nước đang phát triển
Những liên kết hệ
thống chính
Đầu tư Thương mại
Kết cấu hệ thống Theo chiều dọc Theo chiều ngang
Nguồn: G. Gereffi, A Commodity Chains Framework for Analyzing Global Industries
Các dạng của chuỗi giá trị
Mô hình chuỗi giá trị có thể được xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau. Trước
hết, có thể nhận dạng sự phân bố hay mật độ giá trị trong các ngành sản xuất khác nhau
có sự khác nhau đáng kể và nó còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học –
công nghệ, trình độ tổ chức và sản xuất, tư duy kết nối toàn cầu và mức độ mở cửa của
các nền kinh tế, các thị trường đầu vào và đầu tư. Chuỗi giá trị khác nhau ở từng tổ
chức cụ thể và mỗi tổ chức là một chuỗi giá trị đặc thù. Tuy nhiên, có thể mô phỏng
mức độ phân bố giá trị của các khâu trong GVC của một số mặt hàng cụ thể qua các
dạng dưới đây:
(1) Dạng parabol “ngửa”
Với dạng này, các khâu trong chuỗi giá trị có mật độ giá trị cao rơi vào các khâu
đầu là thiết kế và khâu cuối là khâu tiêu thụ. Khâu đầu vốn là những khâu đòi hỏi đầu
tư nhiều về kiến thức và thông tin hoặc đội ngũ các nhà khoa học đầu ngành; khâu cuối
14
là khâu tiêu thụ được coi là khâu phức tạp nhất trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh
tế thị trường bao gồm các hoạt động thiết kết kênh tiêu thụ, quảng bá, xây dựng quan
hệ công chúng, chiến lược giá cả, khuếch trương,… Nguyên nhân là do sự thay đổi
của ngành sản xuất và sản phẩm với sự xuất hiện của các sản phẩm tinh xảo, có độ
phức tạp cao trong thiết kế hoặc sản phẩm đáp ứng nhu cầu cao của một nhóm khách
hàng khó tính trong sử dụng. Chẳng hạn, trong GVC ngành dệt may, khâu đầu tiên
chiếm tới 35% giá trị, khâu tiêu thụ chiếm tới khoảng 35 – 40% giá trị. Còn khâu sản
xuất chỉ chiếm khoảng 20 – 25% giá trị thậm chí còn thấp hơn. Cả khâu đầu và khâu
cuối tập trung vào các nước công nghiệp phát triển như các nước Bắc Mỹ, EU và Nhật
Bản,… còn khâu sản xuất ở giữa – khâu trực tiếp tạo ra giá trị, lại được đặt ở các nước
có nguồn lao động dồi dào và giá lao động rẻ như Trung Quốc, Việt Nam, Bangladesh,
…
(2) Dạng parabol “úp”
Dạng chuỗi giá trị này phù hợp với quá trình sản xuất các sản phẩm đơn giản về
thiết kế và có khả năng tiêu thụ dễ dàng. Vì thế khâu sản xuất trở thành khâu tạo giá trị
cao nhất hay có mật độ tập trung giá trị cao nhất trong chuỗi giá trị. Những nước xuất
khẩu sản phẩm thô, sản phẩm sơ chế đặc biệt là các hàng nông sản sơ chế thường có
hình dạng chuỗi giá trị này hoặc các nền kinh tế mới công nghiệp hóa sơ khai như thời
kỳ chủ nghĩa tư bản do cạnh tranh có tính đặc trưng tương tự chuỗi giá trị các sản
phẩm. Lúc này, vấn đề thiết kế và phát triển sản phẩm mới cũng như tiêu thụ không
phải là một vấn đề khó khăn, hoạt động marketing chưa phải là hoạt động đóng vai trò
quyết định trong việc thực hiện giá trị.
(3) Dạng đường thẳng
Dạng này phản ánh mật độ phân bố giá trị đều đặn và như nhau đối với các khâu
trong chuỗi giá trị. Dạng này gần như đóng vai trò cân bằng hai dạng chuỗi giá trị trên
(parabol “ngửa” và parabol “úp”). Về nguyên tắc, đây cũng là một dạng của chuỗi giá
15
trị; tuy nhiên, đây là dạng chuỗi giá trị có tính đặc thù cao nên khó xuất hiện dạng
chuỗi này trong thực tế.
Các dạng phân bố mật độ giá trị của các khâu trong chuỗi giá trị có thể mô phỏng
ở Hình 3. Các dạng này có mối quan hệ với nhau và có sự bổ sung lẫn nhau. Mỗi dạng
phân bố mật độ giá trị trong chuỗi giá trị gắn liền với một trình độ phát triển nhất định
của đất nước hoặc phù hợp với một giai đoạn phát triển nhất định. Vị trí của quốc gia
trong chuỗi giá trị cũng là căn cứ để đánh giá vị thế của quốc gia đó trong nền kinh tế
thế giới.
HÌNH 3: CÁC DẠNG CỦA CHUỖI GIÁ TRỊ
Trong giai đoạn sản xuất hàng hóa ở trình độ thấp, sản phẩm được sản xuất ra
khá đơn giản và hầu như được tiêu thụ một cách dễ dàng, dạng của GVC là dạng (2).
Trong giai đoạn nền kinh tế đã đạt trình độ kinh tế cao, trình độ tiêu dùng cao, mức độ
cạnh tranh gay gắt để tiêu thụ hàng hóa trên phạm vi thế giới, dạng của chuỗi giá trị là
dạng (1). Trong các nền kinh tế sản xuất và nhu cầu đơn giản tối đa, dạng của chuỗi giá
16
Giá trị
Cao
Cao
Thấp
Các khâu
Thiết kế
Sản xuất Tiêu thụ
trị là (3). Hiện nay, thị trường thế giới và những giá trị mang tính toàn cầu sẽ là động
lực cơ bản để phát triển các giao dịch tạo ra giá trị toàn cầu.
1.2 MỤC ĐÍCH PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU MẶT HÀNG
NÔNG SẢN
Sản xuất hàng nông sản là một lĩnh vực sản xuất nhạy cảm trong cơ cấu kinh tế
của mỗi nước do có những đặc điểm riêng biệt so với các ngành khác như cung cấp
lương thực, thực phẩm nuôi sống con người, sử dụng nhiều lao động, lại chịu nhiều tác
động từ thiên nhiên, Do đó, chuỗi giá trị nông sản rất phức tạp, bao gồm các quá
trình có những tính chất hoàn toàn khác nhau: quá trình sản xuất (sản xuất nông
nghiệp), quá trình chế biến nông sản (sản xuất công nghiệp) và quá trình xuất khẩu
hàng hóa (thương mại). Vì vậy, GVC đối với hàng nông sản có sự khác biệt với GVC
hàng công nghiệp ở các điểm sau:
- Khâu thiết kế nằm trong khâu R&D và khâu sản xuất tách thành hai khâu là
trồng trọt và chế biến;
- Giá trị gia tăng được tạo ra trong khâu chế biến cao hơn so với khâu trồng trọt;
- Sự phân bố địa điểm trồng trọt phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện khí hậu và tự
nhiên;
- Tính không đồng đều giữa các tác nhân tham gia vào chuỗi và độ lớn của mỗi
chuỗi bị hạn chế do các rào cản khi tham gia.
Phân tích chuỗi giá trị giúp xem xét hoạt động kinh tế của ngành nông sản bằng
cách chia nhỏ hoạt động này thành các bộ phận nhỏ, qua đó có thể xác định vị thế của
17
nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu từ đó có các biện pháp nâng cao vị thế
đó và thâm nhập sâu hơn vào chuỗi.
1.2.1 Lập sơ đồ một cách hệ thống các đối tượng tham gia vào chuỗi giá trị
toàn cầu ngành nông sản
Để hiểu được chuỗi giá trị cần phân tích có thể dùng mô hình, bảng biểu, số liệu,
biểu đồ và các hình thức tương tự để nắm bắt và hình dung bản chất của chuỗi. Trong
đó, lập sơ đồ là cách thức giúp cho việc tiếp cận chuỗi giá trị được thực hiện dễ dàng
nhất và cụ thể, chi tiết nhất, qua đó có thể thấy được một cách hệ thống các khía cạnh
khác nhau của chuỗi đó. Thông qua sơ đồ chuỗi giá trị:
- Giúp xác định các mạng lưới để nắm bắt được về kết nối giữa các tác nhân và
các quy trình trong chuỗi,
- Thể hiện tính phụ thuộc lẫn nhau, mối tương quan giữa các tác nhân và các quy
trình trong chuỗi,
- Cung cấp cho các bên liên quan những hiểu biết ngoài phạm vi tham gia của
riêng họ trong chuỗi giá trị.
Mỗi chuỗi giá trị, có rất nhiều khía cạnh cần được nghiên cứu: dòng sản phẩm
thực tế, số tác nhân tham gia, giá trị tích lũy được,…Dưới đây là các dạng sơ đồ chính
thường được lập để phân tích chuỗi giá trị:
+ Sơ đồ các quy trình cốt lõi
Sơ đồ này giúp xác định các quy trình cơ bản trong chuỗi và qua đó có thể thấy
được những quy trình khác nhau mà nguyên liệu thô luân chuyển qua trước khi đến
giai đoạn tiêu dùng cuối cùng. Các quy trình cốt lõi trong chuỗi thường là thiết kế, sản
xuất, marketing, tiêu thụ được thực hiện theo thứ tự sau:
Thiết kế Sản xuất Chế biến Marketing Tiêu thụ
+ Sơ đồ những người tham gia chính vào các quy trình
18
Tùy thuộc vào mức độ phức tạp mà việc lập sơ đồ muốn lập được để phân biệt
giữa những người tham gia. Cách phân biệt trực tiếp nhất là phân loại những người
tham gia theo nghề nghiệp chính của họ. Có thể phân loại bổ sung theo các hình thức
như: tình trạng pháp lý, quy mô, số lượng,…
Hình 4 là ví dụ về lập sơ đồ những người tham gia (theo chức năng) trong chuỗi
giá trị tiêu thụ mật ong của Mexico từ vùng Calakmul vào thị trường nội địa. Trong
chuỗi giá trị này có những người tham gia là người sản xuất (người nuôi ong đơn lẻ,
hiệp hội những người nuôi ong); người thu mua, chế biến (người thu mua, doanh
nghiệp chế biến, trung gian); người xuất khẩu; người phân phối (người bán buôn,
người bán lẻ) và khách hàng.
HÌNH 4: SƠ ĐỒ NHỮNG NGƯỜI THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ MẬT ONG MEXICO
Nguồn:A.Springer – Heinze, GTZ 2005
+ Sơ đồ dòng sản phẩm, thông tin và kiến thức
Lý do tồn tại chính của một chuỗi giá trị là hàng hóa, dịch vụ hoặc thông tin được
luân chuyển giữa những người tham gia khác nhau. Do đó, phải xác định được trong
chuỗi giá trị đó có những luồng sản phẩm, thông tin và kiến thức nào? Đó cũng là
những dòng chảy trong luân chuyển trong chuỗi giá trị. Chúng có thể hữu hình hoặc vô
hình: các sản phẩm, hàng hóa, tiền, tín dụng, thông tin, dịch vụ, sản phẩm,…
19
Người nuôi ong
đơn lẻ
Hiệp hội những
người nuôi ong
Người thu mua
Trung gian
Doanh nghiệp chế biến Người bán lẻNgười xuất khẩu
Người bán buôn
Khách hàng
Dưới đây là ví dụ về lập sơ đồ về chuỗi giá trị cây đậu nành ở Lào (Hình 5), đậu
nành này chủ yếu được xuất khẩu sang Trung Quốc để chế biến thành thức ăn gia súc
hoặc dầu ăn. Tuy nhiên, theo những người tham gia trong toàn chuỗi giá trị, một trong
những vấn đề chính là chất lượng đậu nành không đồng đều. Nguyên nhân của hiện
tượng này xuất phát từ những quan niệm về tiêu chuẩn chất lượng đậu nành của những
người tham gia chuỗi (nông dân, người thu mua và trung gian xuất khẩu) là không
giống nhau.
HÌNH 5: SƠ ĐỒ DÒNG THÔNG TIN TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ ĐẦU NÀNH BẮC LÀO
Nguồn: GTZ, Thị trường đậu nành ở Bắc Lào, 2005
+ Sơ đồ khối lượng sản phẩm, số người tham gia và công việc
Một số phần trong sơ đồ chuỗi giá trị có thể lượng hóa. Ngoài các số liệu về tài
chính, một số yếu tố khác có thể định lượng được như: khối lượng sản phẩm, số lượng
người tham gia, số công việc.
Mục đích của việc này là để có cái nhìn tổng quát về quy mô của các kênh khác
nhau trong chuỗi giá trị.
20
Nông dân Người thu mua
Trung gian
xuất khẩu
- Màu sắc: nâu-đen
- Kích thước: không biết, hình
tròn
- Hàm lượng dầu: không biết
- Màu sắc: đen
- Kích thước: Không biết, hinh
tròn
- Hàm lượng dầu: không biết
- Màu sắc: đen
- Kích thước: hạt trơn
- Hàm lượng dầu: Xác định bởi
người nhập khẩu Trung Quốc
Hình 6 cho thấy khối lượng sản phẩm dịch chuyển trong chuỗi theo hai kênh khác
nhau tới khách hàng trong hai thị trường 1 và 2. Theo đó, 20% tổng khối lượng sản
phẩm được tiêu thụ trên hai thị trường 1 và 2 có nguồn gốc là các sản phẩm trung bình
ban đầu được các công ty chế biến lớn mua từ nông dân, sau đó chế biến và phân phối
tới thị trường 1. Còn 80% tổng khối lượng sản phẩm trên hai thị trường thì qua một chu
trình khác: các sản phẩm nhỏ ban đầu (50% khối lượng) và sản phẩm nhập khẩu (30%
khối lượng) được các công ty vừa và nhỏ thu gom, chế biến và bán cho các nhà bán lẻ
trước khi tiêu thụ trên thị trường 2.
HÌNH 6: SƠ ĐỒ KHỐI LƯỢNG SẢN PHẨM
+ Sơ đồ dòng luân chuyển sản phẩm hoặc dịch vụ về mặt địa lý
Một cách đơn giản để lập sơ đồ là lập một bản đồ địa lý thực tế và theo dấu sản
phẩm hoặc dịch vụ mà ta đang nghiên cứu. Bắt đầu từ nơi bắt nguồn, nơi trồng và sau
đó vẽ sự dịch chuyển sản phẩm từ thương lái trung gian đến người bán buôn, người
bán lẻ và người tiêu dùng cuối cùng. Sơ đồ này cho phép cho phép biết được một khía
cạnh của dòng luân chuyển sản phẩm: khối lượng, lợi nhuận biên trên một sản phẩm,
số người tham gia,… và thấy được sự khác biệt về địa lý hoặc vùng.
21
Sản phẩm
trung bình
ban đầu
Công ty chế
biến lớn
Nhà nhập
khẩu
Sản phẩm
nhỏ ban
đầu
Khách hàng
thị trường 1
Khách hàng
thị trường 2
Bán lẻ B
Bán lẻ A
SME công
nghiệp
20% 20%
50%
30%
20%
60%
20%
60%
Như vậy, một chuỗi giá trị có nhiều khía cạnh nghiên cứu khác nhau. Việc lập sơ
đồ chuỗi cho từng khía cạnh đó sẽ giúp người nghiên cứu đưa ra những phân tích chi
tiết, cụ thể và rõ ràng về chuỗi đó tại mỗi khâu, ở mỗi mắt xích hay các liên kết. Từ đó,
bằng cách tổng hợp những sơ đồ đó lại sẽ giúp người nghiên cứu có các nhìn hệ thống
về toàn chuỗi giá trị.
1.2.2 Xác định sự phân phối lợi ích của các bên tham gia chuỗi giá trị ngành
nông sản
Kaplinsky và Morris (2002) đã đưa ra nhận định rằng trong quá trình toàn cầu
hóa, có nhận thức (trong phần lớn các trường hợp) rằng khoảng cách trong thu nhập
trong và giữa các nước tăng lên. Từ việc phân tích chuỗi giá trị có thể giúp giải thích
quá trình này:
Thứ nhất, bằng cách lập sơ đồ một loạt những hoạt động trong chuỗi, một phân
tích chuỗi giá trị giúp phân tích tổng thu nhập của chuỗi giá trị thành những khoản mà
các bên khác nhau trong chuỗi giá trị nhận được.
Thứ hai, một phân tích chuỗi giá trị có thể làm sáng tỏ việc các công ty, vùng và
quốc gia được kết nối với nền kinh tế toàn cầu như thế nào. Cách phân tích lồng ghép
này cho phép xác định ở mức độ rộng hơn các kết quả phân tích phân phối của các hệ
thống sản xuất toàn cầu và năng suất mà các nhà sản xuất cá thể phải nâng cao hoạt
động và do đó tự đặt mình vào con đường tăng trưởng thu nhập bền vững.
BẢNG 4: THU NHẬP CỦA NHỮNG NGƯỜI THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ CÀ CHUA
MỘC CHÂU, SƠN LA
Lợi nhuận/kg Sản lượng/năm Thu nhập/năm
USD % (kg) % (USD) %
Nông dân Mộc Châu trong HTX 0,06 14,29 3340 1,16 203,18 2,79
Người thu mua ở Mộc Châu 0,02 4,76 2100 0,73 42,94 0,59
HTX 19-5 0,01 2,38 12600 4,39 129,23 1,77
HTX Vân Trì 0,04 9,52 11900 4,15 530,16 7,28
Nông dân Mộc Châu ngoài HTX 0,06 14,29 8400 2,39 474,38 6,51
Người thu mua ở Mộc Châu (đến HN) 0,02 4,76 105000 36,62 2147,12 29,47
22
Người bán buôn ở Hà Đông 0,02 4,76 132000 46,06 3206,92 44,02
Nông dân ở Sóc Sơn 0,14 33,33 2374 0,83 322,77 4,43
Công ty Bảo Hà 0,03 7,14 5610 1,96 150,32 2,06
Cửa hàng rau quả an toàn 0,02 4,76 3400 1,19 78,24 1.07
Tổng hợp 0,41 100 286724 100 7285,26 100
Nguồn: Making value chains work better for the poor, www.markets4poor.org
Trong số những người tham gia khác nhau của chuỗi, những người mua và nhà
bán lẻ tại các cửa hàng rau quả là những người có thu nhập cao nhất do số lượng lớn cà
chua được tiêu thụ, mặc dù lợi nhuận trên một kg ít hơn so với những người tham gia
khác như hợp tác xã Vân Trì và hợp tác xã 19-5 (105 tấn/năm với người thu mua, 132
tấn/năm đối với người bán buôn, 6 tấn/năm đối với công ty Bảo Hà, 13 tấn/năm đối với
19-5 và 12 tấn/năm đối với Vân Trì). Nguyên nhân của sự khác biệt về số lượng cà
chua được tiêu thụ có thể là do mối quan hệ mua – bán lâu năm trong kinh doanh hoặc
do thực tế là hợp tác xã tin tưởng các nhà cung cấp về chất lượng sản phẩm hơn một số
nhà cung cấp với quy mô rộng khác.
So với những người tham gia khác, các siêu thị có lợi nhuận tương đối thấp (ít
hơn 20% giá cuối cùng, trong khi lợi nhuận của nông dân là 25%).
Đối với người nông dân, việc bán hàng cho siêu thị không mang lại thu nhập
nhiều hơn so với bán hàng cho các cửa hàng bán rau an toàn, mặc dù giá bán lẻ cao
hơn 20%, sự khác nhau về giá cả được phân bổ cho lợi nhuận tăng đối với hợp tác xã
Vân Trì, công ty Bảo Hà, và đến lợi nhuận tăng cho siêu thị. So với các cửa hàng bán
rau an toàn, siêu thị đưa ra nhiều áp lực hơn cho các nhà cung cấp, đặc biệt là khả năng
trả lại hàng.
Như vậy, phân tích chuỗi giá trị không chỉ giúp người nghiên cứu xác định thu
nhập được phân bổ trong các cấp và giữa các mắt xích khác nhau của chuỗi mà còn
nắm bắt được tác động của hệ thống quản trị chuỗi tới sự phân phối đó. Qua đó từng
bước cải thiện thu nhập của các tác nhân yếu thế và đảm bảo vai trò bình đẳng của các
tác nhân trong chuỗi đó.
Các nhân tố ảnh hưởng đến phân phối thu nhập trong chuỗi giá trị là quản trị
chuỗi giá trị, áp lực cạnh tranh, khả năng nâng cấp và các vấn đề về thể chế. Việc xác
23
định được sự phân phối thu nhập trong chuỗi còn giúp cải thiện quản trị chuỗi tốt hơn,
đưa ra các định hướng nâng cấp chuỗi và những yếu kém trong vấn đề thể chế tại đất
nước mà chuỗi đó thực hiện giá trị.
1.2.3 Xác định các liên kết trong chuỗi từ đó đưa ra cách thức giúp các chủ
thể kinh tế xâm nhập chuỗi giá trị
Một hoạt động trong chuỗi giá trị không biệt lập mà luôn có mối quan hệ trực tiếp
hoặc gián tiếp tới các hoạt động khác trong chuỗi đó. Các mối quan hệ đó tạo thành các
liên kết giữa các mắt xích, các quy trình hay các khâu trong chuỗi. Những liên kết này
có thể tồn tại giữa các hoạt động chính hoặc giữa các hoạt động chính và hoạt động bổ
trợ trong chuỗi hay quan hệ có thể tồn tại giữa các mắt xích (người sản xuất và thương
nhân) hoặc trong cùng một (nông dân với nông dân).
Các mối quan hệ và liên kết giữa những người tham gia tương tự nhau về cơ bản
có thể được phân chia thành ba loại như sau:
- Các quan hệ thị trường tại chỗ hay “quan hệ trong tầm tay”: Những người tham
gia thực hiện một giao dịch (gồm thỏa thuận giá cả, khối lượng và các yêu cầu khác)
chỉ trong thời hạn và phạm vi của giao dịch cụ thể đó.
- Các mối quan hệ mạng lưới bền bỉ: Khi những người tham gia muốn giao dịch
với nhau nhiều lần lặp đi lặp lại, chung ta gọi đó là mối quan hệ mạng lưới bền bỉ. Loại
quan hệ này có mức độ tin cậy cao hơn và phụ thuộc vào nhau ở một mức độ nhất định,
nó có thể được chính thức hóa bằng hợp đồng song không cần thiết.
- Hội nhập theo chiều ngang (horizinal linkage): Cả hai bên cùng có sở hữu về
mặt pháp lý. Một tổ chức tham gia vào nhiều quy trình khác nhau trong chuỗi giá trị có
cơ cấu sở hữu là toàn phần hoặc một phần.
Ngoài ra giữa những các mắt xích của chuỗi giá trị còn có thể hình thành các liên
kết dọc (vertical linkage): là liên kết giữa các tác nhân có quan hệ mua bán trong chuỗi,
giúp cho việc thâm nhập thị trường trở nên dễ dàng hơn. Ngoài ra, liên kết theo chiều
24
dọc cho phép các công ty trao đổi kiến thức, thông tin và kỹ thuật, tài chính và dịch vụ
kinh doanh.
Trong mọi tổ chức, sự tin tưởng đóng vai trò trung tâm cho sự kết nối các thành
viên và từ đó tạo lập tính thống nhất trong tổ chức đó. Tương tự như vậy, các mắt xích
và các nhân tố trong chuỗi giá trị được kết nối bởi các mối quan hệ và lòng tin tưởng.
Mức độ chặt chẽ trong các liên kết phụ thuộc vào mức độ tin tưởng giữa các nhân tố là
cao hay thấp. Dựa vào mức độ tin tưởng giữa các mắt xích của chuỗi, R. Kaplinsky và
M. Morris đã phân biệt hai loại chuỗi có mức độ tin tưởng cao và thấp như trong Bảng
5 dưới đây.
Trong chuỗi tin tưởng cao, các mắt xích được kết nối bởi các môi quan hệ chặt
chẽ, mức độ tin tưởng cao
BẢNG 5: SO SÁNH CHUỖI TIN TƯỞNG THẤP VÀ CHUỖI TIN TƯỞNG CAO
Chuỗi tin tưởng thấp Chuỗi tin tưởng cao
Độ lâu dài của quan
hệ buôn bán
Ngắn hạn Dài hạn
Các thủ tục đặt hàng Mở thầu đặt hàng, giá cả được
thỏa thuận và đồng ý trước khi
đặt hàng
Có thể không phải mở thầu; giá cả
được quyết định sau khi hợp đồng
được đặt ra
Mối quan hệ hợp
đồng
Nhà cung cấp chỉ bắt đầu sản
xuất khi nhận được hợp đồng
Nhà cung cấp linh hoạt hơn về các
chỉ dẫn, có thể bắt đầu sản xuất
trước khi có hợp đồng chính thức
Kiểm tra Kiểm tra khi giao hàng Kiểm tra qua loa hoặc không kiểm
tra
Mức độ phụ thuộc Thấp Cao
Hỗ trợ kỹ thuật Kiến thức chuyên môn hiếm khi
có sẵn, chỉ hỗ trợ khi được trả
tiền
Thường xuyên và thường không
chính thức
Định giá Đối đầu, che giấu thông tin Không đối đầu
Tín dụng mở rộng Gây khó khăn hoặc không có tín
dụng mở rộng
Dễ tiếp cận, thời gian trả tiền
chậm, điều khoản dễ dàng
Điều kiện thanh toán Trì hoãn trong việc thanh toán
cho các đại lý và những người
Trả tiền khi nhận được hàng hóa
25