Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 1 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.37 KB, 27 trang )


236
điều này cũng đúng với các nước đang phát triển, thì những khiếm
khuyết trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ tác động xấu đến việc
chuyển giao công nghệ.
Một hệ thống quyền sở hữu trí tuệ hữu hiệu được coi là có tác
động tích cực về mặt kinh tế đối với những nước đang phát triển quan
tâm tới chuyển giao công ngh
ệ, dưới hình thức đầu tư trực tiếp hay
chuyển giao li-xăng. Một yếu tố quan trọng trong bối cảnh này là năng
lực tiếp thu công nghệ mới của từng nước. Ví dụ, hiện Việt Nam có ít
nguồn lực dành cho nghiên cứu và phát triển, do đó có ít sáng chế để bảo
vệ. Vì vậy, Việt Nam ít được hưởng lợi từ việc bảo hộ mạnh sáng chế
nếu như n
ăng lực tiếp thu công nghệ mới trong nước của ta không được
cải thiện.
Việt Nam cần tập trung các nguồn lực vào việc tăng cường năng
lực để có thể chuyển giao công nghệ tốt hơn như: quản lý được cải thiện,
tăng cường các chương trình đào tạo, ban hành các biện pháp khuyến
khích công nghệ trọng điểm và một chính sách cạnh tranh hiệu quả giữa
nhữ
ng đơn vị tiếp nhận chuyển giao công nghệ.

237

Chương VII
TỰ VỆ VÀ NGOẠI LỆ TRONG WTO
TS. Nông Quốc Bình
Khoa Pháp luật quốc tế,
Trường Đại học Luật Hà Nội
GIỚI THIỆU CHUNG


Để thực hiện mục tiêu tự do hoá thương mại, các Thành viên của
WTO cam kết giảm và tiến tới xoá bỏ các hàng rào làm cản trở tới
thương mại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các Thành viên của
WTO được phép áp dụng các biện pháp nhất định mà hậu quả của việc
áp dụng các biện pháp này ảnh hưở
ng tới tự do thương mại. “Tự vệ” và
“ngoại lệ” được coi là các biện pháp như vậy.
“Tự vệ” trong WTO có thể được hiểu theo hai cách. Cách thứ
nhất, tự vệ là biện pháp được nêu tại Điều XIX của GATT 1994 và được
chi tiết hóa trong Hiệp định về tự vệ
47
. Cách thứ hai, theo nghĩa rộng
hơn, tự vệ không chỉ là biện pháp được quy định trong Hiệp định về tự
vệ, mà còn là các biện pháp khác mà các Thành viên của Tổ chức này
được phép áp dụng trong một thời gian nhất định nhằm bảo vệ nền kinh
tế trong nước. Chương này sẽ tiếp cận vấn đề tự vệ theo cách hiểu thứ
hai. Theo đó, các hành động tự vệ có thể được thực hi
ện theo nhiều cách
khác nhau và phải tuân theo các điều kiện cụ thể để đảm bảo rằng các
biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng khi có các lý do chính đáng
48
.
“Ngoại lệ” trong WTO được hiểu là các trường hợp Thành viên
WTO được phép không thực hiện đúng các nghĩa vụ đã cam kết của
mình theo các hiệp định của WTO.
Việc WTO cho phép các Thành viên được áp dụng các biện pháp
“tự vệ” và “ngoại lệ” là nhằm tăng cường và thúc đẩy hệ thống thương
mại quốc tế giữa các Thành viên có điều kiện kinh tế khác nhau. Nhìn

47

Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế. Hỏi đáp về Tổ chức Thương mại Thế giới.
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2004, tr. 97.
48
MUTRAP II. Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế. Hà Nội năm 2005.

238
tổng thể thì việc áp dụng các biện pháp tự vệ và ngoại lệ là điều kiện an
toàn để các nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế kém phát triển, có
thể hội nhập sâu hơn vào lĩnh vực thương mại quốc tế. Bởi vì, trong
những điều kiện cho phép, để bảo vệ nền kinh tế của mình, các Thành
viên đều có thể áp dụng các biện pháp tự vệ và ngoạ
i lệ.
Theo quy định của WTO, các hành động tự vệ và áp dụng các
ngoại lệ có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, khi
thực hiện các biện pháp này cần phải tuân theo các điều kiện cụ thể nhất
định.
Thông thường, biện pháp tự vệ và các ngoại lệ được thể hiện dưới
các hình thức sau đây:
- Đàm phán lại về ưu đãi;
- Miễn trừ;
- Bảo hộ khẩn cấp và Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VERS)
- Các biện pháp chống bán phá giá;
- Các biện pháp đối kháng đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp;
- Các hạn chế thương mại nhằm bảo vệ cán cân thanh toán;
- Bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ;
- Các ngoại lệ chung.


7
7

.
.
1
1
.
.


Đ
Đ
À
À
M
M


P
P
H
H
Á
Á
N
N


L
L



I
I


V
V




Ư
Ư
U
U


Đ
Đ
Ã
Ã
I
I


7.1.1. Giới thiệu
Để tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá lưu thông trong thương
mại quốc tế, các nước thường dành cho nhau những ưu đãi nhất định.
Đối tượng của ưu đãi thông thường là thuế. Theo
đó mức thuế ưu đãi
được áp dụng đối với hàng hoá dựa trên danh mục ưu đãi mà các bên đã

thỏa thuận. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, nếu việc áp
dụng những thoả thuận ưu đãi sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế của một
nước thì những thoả thuận về ưu đãi này có thể không được áp dụng.
Trong trường hợ
p này, các nước sẽ tiến hành đàm phán lại về ưu đãi.
Đàm phán lại về ưu đãi được quy định tại Điều XXVIII GATT 1947 và

239
được giải thích trong “Thoả thuận về cách hiểu Điều XXVIII của GATT
1994”.
Mục đích của đàm phán lại là các bên cố gắng duy trì một mức
nhân nhượng chung có đi có lại và cùng có lợi, không kém phần thuận
lợi hơn cho thương mại so với mức đã có được theo Hiệp định GATT
trước các cuộc đàm phán đó
49
.
Khoản 4, Điều XXVIII GATT 1947 quy định bất kỳ lúc nào và
trong những hoàn cảnh đặc biệt, các Bên ký kết có thể cho phép một Bên
ký kết tiến hành đàm phán nhằm điều chỉnh hay rút bỏ một nhân nhượng
trong Biểu tương ứng thuộc phụ lục của Hiệp định GATT theo những thủ
tục và điều kiện nhất định.
7.1.2. Điều kiện thủ tục đàm phán lại
- Việc đàm phán lại và mọi tham vấn liên quan được tiến hành
theo quy định của Điều XXVIII như sau:
+ Thời gian được xác định là ngày đầu tiên của mỗi thời kỳ 3
năm, thời kỳ này được xác định bắt đầu từ ngày 1/1/1958 hoặc do các
Bên ký kết xác định;
+ Bên ký kết có yêu cầu phải đàm phán và đạt được thoả thuận về
điều chỉnh hoặc rút bỏ nhân nhượng;
+ Bên ký kết có yêu c

ầu đã tham vấn với bất kỳ Bên ký kết nào
khác có quyền lợi đáng kể với nhân nhượng đó.
- Nếu các Bên ký kết có quyền lợi chủ yếu không đạt được một
thoả thuận trước ngày 1 tháng 1 năm 1958 hoặc trước khi kết thúc một
thời kỳ mà đã được các Bên ký kết xác định thì Bên đưa ra đề nghị điều
chỉnh hoặc rút bỏ các nhân nhượng có thể thực hi
ện đề nghị của mình.
Khi đó, bất kỳ Bên ký kết nào đã tham gia đàm phán ban đầu về nhân
nhượng cụ thể này hoặc bất kỳ Bên ký kết nào có quyền lợi là đối tác
cung cấp chủ yếu được các Bên ký kết công nhận hoặc bất kỳ Bên ký kết
nào có quyền lợi đáng kể với nhân nhượng này đều có thể rút bỏ những
nhân nhượng đáng kể tương đương đã
được đàm phán ban đầu (khoản 3a
Điều XVIII GATT).
- Nếu đàm phán đạt được một thoả thuận giữa các Bên ký kết có
quyền lợi chủ yếu nhưng không thoả đáng với một Bên ký kết khác có

49
Khoản 2, Điều XXVIII, Hiệp định GATT 1947.


240
quyền lợi đáng kể với nhân nhượng đã được thừa nhận thì Bên ký kết
khác này có thể rút bỏ những nhân nhượng đáng kể tương đương đã được
đàm phán ban đầu (khoản 3b Điều XVIII GATT).
- Nếu không đạt được một thoả thuận giữa các Bên ký kết có
quyền lợi chủ yếu trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày được phép tiến hành
đàm phán hoặc trong thời hạn dài h
ơn do các Bên ký kết xác định thì bên
yêu cầu có quyền đưa vấn đề ra các Bên ký kết giải quyết (khoản 4c Điều

XVIII GATT). Khi được yêu cầu như vậy, các Bên ký kết phải nhanh
chóng xem xét và thông báo ý kiến của mình cho các Bên ký kết có
quyền lợi chủ yếu biết để giải quyết vấn đề (khoản 4 Điều XVIII GATT).


7
7
.
.
2
2
.
.


M
M
I
I


N
N


T
T
R
R





7.2.1. Khái niệm
Khi tham gia với tư cách Thành viên của WTO, các nước phải
thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp nhất định, Thành viên không phải thực hiện nghĩa vụ của
mình, những trường hợp này được gọi là trường hợp miễn trừ. Nói cách
khác, miễn trừ là trường hợp mà các Thành viên WTO dành cho một
Thành viên khác không phải áp dụng một điều khoản nào đ
ó trong một
lĩnh vực xác định trong thương mại quốc tế của nước đó.
7.2.2. Các điều kiện cho phép miễn thực hiện nghĩa vụ
Những quy tắc về cho phép miễn thực hiện nghĩa vụ được quy
định tại các khoản 5 Điều XXV của GATT và khoản 3 Điều IX của Hiệp
định WTO. Theo các quy định trên đây thì việc miễn thực hiện nghĩa vụ
ch
ỉ có thể được phép áp dụng khi đảm bảo hai điều kiện: Trong các
trường hợp ngoại lệ và được đại đa số Thành viên WTO chấp thuận.
Thứ nhất, trong các trường hợp ngoại lệ. Khoản 4 Điều IX Hiệp
định WTO yêu cầu các quyết định của Hội nghị Bộ trưởng cho phép
miễn trừ một nghĩa vụ nào đó phải nêu rõ các trường hợp ngoại lệ áp
dụng cho quyết định đó, cũng như các điều khoản và điều kiện điều
chỉnh việc áp dụng này và ngày hết hiệu lực của miễn trừ. Bất cứ việc
miễn thực hiện nghĩa vụ nào được chấp thuận với thời gian trên một năm
phải được xem xét lại hàng năm để đảm bảo rằng các trường hợp ngoạ
i lệ

241
làm cơ sở cho việc miễn thực hiện nghĩa vụ đó vẫn tồn tại, cũng như các

yêu cầu và điều kiện kèm theo việc miễn thực hiện nghĩa vụ này được
thoả mãn. Dựa trên xem xét hàng năm, Hội nghị Bộ trưởng có thể gia
hạn, sửa đổi hoặc chấm dứt sự miễn trừ đó.
Thứ hai, việc miễn trừ phả
i được đại đa số Thành viên chấp thuận.
Việc chấp thuận này thông qua bỏ phiếu. Đối với việc bỏ phiếu, khoản 5
Điều XXV của GATT quy định hai điều kiện. Một là, các Bên ký kết bỏ
phiếu về vấn đề liệu có chấp nhận cho Bên ký kết làm đơn được miễn thực
hiện nghĩa vụ hay không, ít nhất phải có hai phần ba trong số Thành viên bỏ
phiếu ch
ấp thuận việc miễn thực hiện nghĩa vụ. Hai là, đa số Thành viên bỏ
phiếu phải chiếm quá bán tổng số các Bên ký kết.
Tuy nhiên, điều kiện thứ hai trên đây được quy định trong khoản
5 Điều XXV của GATT đã bị thay đổi bởi khoản 3 Điều IX của Hiệp
định WTO khi điều khoản này ấn định nguyên tắc quyết định miễn trừ
được thông qua b
ởi ba phần tư số Thành viên. Ngoại lệ cho nguyên tắc
này được quy định tại khoản 3a Điều IX. Khoản 3a Điều IX quy định yêu
cầu miễn trừ một nghĩa vụ nào đó liên quan đến Hiệp định WTO phải
được đệ trình lên Hội nghị Bộ trưởng để xem xét theo đúng thông lệ của
cơ chế ra quyết định bằng nguyên tắc đồng thuận.


7
7
.
.
3
3
.

.


B
B


O
O


H
H




K
K
H
H


N
N


C
C



P
P


V
V
À
À


H
H


N
N


C
C
H
H




X
X
U

U


T
T


K
K
H
H


U
U




























































T
T




N
N
G
G
U
U
Y
Y


N

N


7.3.1. Bảo hộ khẩn cấp
Bảo hộ khẩn cấp là một trong những cách tự vệ trong thương mại
quốc tế. Theo đó một Thành viên có thể áp dụng các biện pháp nhằ
m hạn
chế hàng hoá nhập khẩu một cách ồ ạt vào nước mình gây ảnh hưởng
tiêu cực đến sản xuất trong nước.
Nội dung cơ bản của bảo hộ khẩn cấp là “điều khoản dự phòng”
hay còn gọi là “điều khoản giải thoát” (escape clause). Điều khoản dự
phòng đối với thương mại hàng hoá được quy định tại Điều XIX GATT
và được cụ th
ể hoá bằng Hiệp định về các biện pháp tự vệ.

242
“Điều khoản dự phòng” là một điều khoản trong Hiệp định
Thương mại cho phép các Thành viên đình chỉ việc thực hiện ưu đãi thuế
và các ưu đãi khác nếu hàng nhập khẩu đe doạ hoặc làm tổn hại nghiêm
trọng đến các nhà sản xuất tương tự trong nước.
Về mặt lịch sử, điều khoản này được xuất hiện lầ
n đầu tiên trong
một Hiệp định Thương mại qua lại giữa Hoa Kỳ và Mexico vào năm
1943. Năm 1947, khi Hoa Kỳ cùng 21 quốc gia khác bắt đầu đàm phán
soạn thảo các văn kiện của GATT và ITO, Tổng thống Hoa Kỳ (lúc đó là
Truman) đã ban hành Lệnh 9832 (tháng 2 năm 1947) trong đó quy định
rằng “điều khoản dự phòng” phải được đưa vào mọi Hiệp định Thương
mại theo chương trình Hiệp định Thương m
ại qua lại Hoa Kỳ. Lệnh này
đã được sửa đổi bởi một vài lệnh khác cho tới năm 1951, khi “điều khoản

dự phòng” được Nghị viện đưa vào Đạo luật mở rộng các hiệp định
Thương mại (Trade Agreements Extension Act) và nó vẫn giữ vai trò
quan trọng ngày nay. Điều khoản dự phòng tại Điều XIX của GATT
chính là một “hậu duệ” trực tiếp của điều khoả
n đã xuất hiện trong Hiệp
định Thương mại Hoa Kỳ - Mexico và hai điều khoản này mang cùng
bản chất.
50

Việc áp dụng điều khoản dự phòng có những ý nghĩa to lớn trong
việc phát triển thương mại quốc tế. Bởi vì biện pháp này khuyến khích
các nước tham gia sâu rộng hơn trong lĩnh vực thương mại khi không bị
ràng buộc quá cứng nhắc đối với cam kết của mình. Theo đó các nước có
cơ hội rút bỏ cam kết nếu trong những hoàn cảnh mà cam kết đó ảnh
hưởng tiêu cực
đến sản xuất trong nước. Hơn nữa, việc áp dụng điều
khoản dự phòng còn tăng cường tính năng động của hệ thống thương mại
đa phươngbằng cách thúc đẩy sự ổn định lâu dài của cả hệ thống.
Điều kiện áp dụng biện pháp bảo hộ khẩn cấp được quy định tại
Điều XIX GATT như sau:
(1) Có sự gia tăng củ
a hàng hoá nhập khẩu;
(2) Sự gia tăng này mang tính đột biến, không lường trước được
và do kết quả của những nghĩa vụ;

50
John H. Jackson. Hệ thống thương mại Thế giới, Luật và Chính sách của Quan hệ Kinh
tế quốc tế. The MIT Press, Cambridge, Massachusetts, London, Tái bản lần II, Tr. 183.

243

(3) Tồn tại mối liên hệ nhân quả giữa sự gia tăng đột biến của
hàng hoá nhập khẩu và thiệt hại đối với ngành công nghiệp nội địa.
Để có thể áp dụng biện pháp bảo hộ khẩn cấp thì cơ quan có thẩm
quyền của Thành viên nhập khẩu phải tiến hành điều tra. Điều III Hiệp
định về các biện pháp tự vệ quy định rằng mộ
t Thành viên có thể áp dụng
biện pháp tự vệ chỉ sau khi cơ quan có thẩm quyền của Thành viên đó
tiến hành điều tra theo thủ tục phù hợp với Điều X “Công bố và quản lý
các quy tắc thương mại” của GATT 1994. Việc điều tra bao gồm: thông
báo công khai cho tất cả các bên liên quan, thẩm vấn công khai, các biện
pháp thích hợp khác, để nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu và các bên có liên
quan có thể đưa ra chứng cứ, quan điểm c
ủa họ. Cơ quan có thẩm quyền
sẽ công bố báo cáo kết quả điều tra của mình và các kết luận thoả đáng
trên cơ sở các vấn đề thực tế và pháp lý.
Một trong những mục đích của quá trình điều tra là nhằm xác
định tổn hại nghiêm trọng và đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng. Vấn đề
này được quy định tại Điều IV Hiệp định về
các biện pháp tự vệ. Các
thuật ngữ được chú trọng giải thích gồm: “tổn hại nghiêm trọng” là sự
suy giảm toàn diện đáng kể tới vị trí của ngành công nghiệp nội địa; “đe
doạ gây tổn hại nghiêm trọng” là tổn hại nghiêm trọng rõ ràng sẽ xảy ra
và việc xác định nguy cơ tổn hại nghiêm trọng phải dựa trên cơ sở thực
tế chứ không phải phỏ
ng đoán, viện dẫn hoặc khả năng xa.
Cơ sở quan trọng để tiến hành đánh giá là có bằng chứng về mối
quan hệ nhân quả giữa việc gia tăng nhập khẩu một loại hàng hoá có liên
quan với tổn hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng.
Trong giai đoạn này, cơ quan có thẩm quyền sẽ công bố ngay lập tức một
bản đánh giá chi tiế

t về vụ việc được điều tra cũng như trình bày các
nhân tố liên quan được xem xét.
Việc áp dụng biện pháp tự vệ được quy định tại khoản 1 Điều V
Hiệp định về các biện pháp tự vệ, theo đó, một Thành viên chỉ được áp
dụng biện pháp tự vệ trong giới hạn cần thiết để ngăn cản hay khắc phục
tổn hại nghiêm trọng và để
tạo thuận lợi cho các điều chỉnh cần thiết.

244
Các Thành viên đang phát triển được hưởng chế độ ưu đãi hơn so
với các Thành viên phát triển khi Thành viên nhập khẩu thực hiện biện
pháp tự vệ thương mại. Theo quy định tại khoản 1 Điều IX thì “các biện
pháp tự vệ không được áp dụng để chống lại hàng hoá có xuất xứ từ một
Thành viên đang phát triển, nếu thị phần hàng hoá có liên quan được
nhập khẩu từ Thành viên này không vượ
t quá 3%, với điều kiện là tổng
số thị phần nhập khẩu từ các Thành viên đang phát triển (có thị phần
nhập khẩu riêng lẻ nhỏ hơn 3%) không vượt quá 9% tổng kim ngạch
nhập khẩu của hàng hoá liên quan”.
Thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ được quy định chung tại
Điều VII. Theo đó, thời hạn tối đa để áp dụng các biện pháp tự vệ là 4
n
ăm (khoản 1). Tuy nhiên, khi thoả mãn một số điều kiện cụ thể theo
khoản 2 thì quốc gia nhập khẩu có thể quyết định gia hạn, nhưng toàn bộ
thời gian áp dụng biện pháp tự vệ kể cả thời gian áp dụng biện pháp tự vệ
tạm thời không được vượt quá 8 năm. Đặc biệt, Thành viên đang phát
triển được ưu đãi hơn với quy định về quyề
n kéo dài thời hạn áp dụng
biện pháp tự vệ trong thời hạn tối đa là 2 năm sau năm thứ 8 (Khoản 2
Điều IX).

Vấn đề rà soát các biện pháp tự vệ được quy định tại khoản 4 đến
khoản 6 Điều VII. Nếu thời hạn áp dụng một biện pháp tự vệ vượt quá 1
năm, Thành viên áp dụng sẽ từng bước nới lỏng biện pháp này trong
khoảng thờ
i gian áp dụng. Nếu thời hạn áp dụng vượt quá 3 năm, Thành
viên áp dụng biện pháp này sẽ phải rà soát thực tế trong thời hạn không
muộn hơn trung kỳ của biện pháp, và nếu thích hợp thì có thể loại bỏ
biện pháp đó hoặc đẩy nhanh tốc độ tự do hoá. Khoản 5 Điều VII quy
định: không biện pháp tự vệ nào được áp dụng lại đối với việc nhập khẩu
một s
ản phẩm đã bị áp dụng biện pháp này sau khi Hiệp định WTO có
hiệu lực trong thời hạn bằng thời hạn mà biện pháp đó đã được áp dụng
trước đây, với điều kiện thời hạn không áp dụng phải ít nhất là 2 năm.
Ngoại lệ cho trường hợp trên đây là khi một biện pháp tự vệ được
áp dụng lại đối với việc nhập khẩ
u một sản phẩm trong thời hạn 180
ngày hay ít hơn, nếu: (a) ít nhất 1 năm sau ngày biện pháp tự vệ này đã
được áp dụng đối với việc nhập khẩu của sản phẩm đó, và (b) biện pháp

245
tự vệ này chưa được áp dụng hơn 2 lần cho cùng một sản phẩm trong
vòng 5 năm ngay trước ngày áp dụng biện pháp này. Đối với các Thành
viên đang phát triển, cho dù có các quy định tại Điều VII khoản 5, một
Thành viên đang phát triển có quyền áp dụng lại một biện pháp tự vệ đối
với việc nhập khẩu hàng hoá đã chịu sự áp dụng của biện pháp này, sau
khi Hiệp định WTO có hiệu l
ực, sau thời gian bằng một nửa thời gian mà
biện pháp này được áp dụng trước đây, với điều kiện là thời gian không
áp dụng ít nhất là 2 năm (khoản 2 Điều IX).
7.3.2. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện

Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraints –
VERS) là thoả thuận giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, trong đó
nước xuất khẩ
u cam kết sẽ hạn chế mức xuất khẩu sang nước nhập khẩu.
Nội dung cơ bản của vấn đề hạn chế xuất khẩu tự nguyện là
“Thoả thuận hạn chế tự nguyện” (Voluntary Restraint Arrangement -
VRA), theo đó một nước đồng ý hạn chế xuất khẩu của mình sang một
nước khác đối với một mặt hàng xác định trong một mức tối đa trong
một khoảng thời gian nào đó.
51

Hiệp định về các biện pháp tự vệ của WTO coi VRA là bất hợp
pháp. Điều XI “Cấm và hạn chế một số biện pháp cụ thể” quy định tại
khoản 1b: một Thành viên sẽ không tìm kiếm, áp dụng hay duy trì bất cứ
một hạn chế xuất khẩu tự nguyện nào Những biện pháp này bao gồm
các hành động do một Thành viên đơn phương áp dụng cũng như các
hành động theo các hiệp
định, thoả thuận giữa hai hay nhiều Thành viên.
Các biện pháp này nếu được áp dụng vào thời điểm Hiệp định WTO có
hiệu lực thì phải được thực hiện phù hợp với Hiệp định về các biện pháp
tự vệ, hoặc từng bước được loại bỏ. Khoản 2 quy định cụ thể về việc
từng bước loại bỏ các biện pháp này sẽ được thực hiệ
n theo lịch trình do
Thành viên có liên quan đệ trình cho Uỷ ban về các biện pháp tự vệ
không muộn hơn 180 ngày sau khi Hiệp định WTO có hiệu lực. Lịch
trình này sẽ thể hiện tất cả các biện pháp được loại bỏ từng bước, hay

51
MUTRAP II. Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế. Hà Nội năm 2005, tr. 237.



246
được thực hiện phù hợp với Hiệp định về các biện pháp tự vệ trong thời
hạn không quá 4 năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực.
VRA được áp dụng giữa nước xuất khẩu (thường là nước đang
phát triển) và nước nhập khẩu (thường là nước phát triển). Mặc dù gọi là
“tự nguyện”, nhưng thực tế không nước nào lại chịu hạn chế
xuất khẩu
của mình nếu không vì những lý do khác, ví dụ như để đổi lấy một khoản
viện trợ phát triển.
52
Điều này làm mất lợi thế cạnh tranh của các nhà
cung cấp có hiệu quả dẫn tới bất bình đẳng trong thương mại quốc tế. Do
đó, WTO yêu cầu loại bỏ các VRA vì các thoả thuận này là một hình
thức đi chệch khỏi mục tiêu thương mại tự do của GATT.


7
7
.
.
4
4
.
.


C
C
Á

Á
C
C


B
B
I
I


N
N


P
P
H
H
Á
Á
P
P


C
C
H
H



N
N
G
G


B
B
Á
Á
N
N


P
P
H
H
Á
Á


G
G
I
I
Á
Á



7.4.1. Giới thiệu
Bán phá giá là hiện tượng hàng hoá được bán ra nước ngoài thấp
hơn giá trị thông thường của sản phẩm.
Hành vi bán phá giá được quy định tại Điều VI của GATT và cụ
thể hoá tại “Hiệp định thực thi
Điều VI của Hiệp định Chung về Thuế
quan và Thương mại 1994”, hay còn gọi là “Hiệp định Chống bán phá
giá”. Theo đó, một sản phẩm được coi là được đưa vào kinh doanh
thương mại trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị
thông thường của hàng hoá đó, nếu giá xuất khẩu của sản phẩm từ một
nước này sang nước khác thấp hơn một trong ba mức sau:
(1) Giá có thể so sánh trong điều kiện thương mại thông thường
với một sản phẩm tương tự
53
nhằm mục đích tiêu dùng tại
nước xuất khẩu;

52
MUTRAP II. Hỏi đáp về WTO. Hà Nội năm 2006, tr. 47.
53
Theo Hiệp định về chống bán phá giá, Điều II: 6, khái niệm “sản phẩm tương tự” được
hiểu là sản phẩm giống hệt, tức là sản phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang
được xem xét, hoặc ở trong trường hợp không có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm
khác mặc dù không giống ở mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc điể
m gần giống với sản phẩm
được xem xét.

247
(2) Giá so sánh cao nhất của sản phẩm tương tự dành cho xuất

khẩu đến bất cứ một nước thứ ba nào trong điều kiện thương
mại thông thường;
(3) Giá thành sản xuất ra sản phẩm tại nước xuất xứ có cộng thêm
một mức hợp lý chi phí bán hàng và lợi nhuận.
7.4.2. Tác động tiêu cực của bán phá giá
Hành vi bán phá giá của doanh nghiệp có mục đích cơ bản là
nhằm loại trừ doanh nghi
ệp đối thủ cạnh tranh tại quốc gia nhập khẩu.
Với mức giá ưu đãi hơn, doanh nghiệp bán phá giá dễ dàng thu hút phần
lớn khách hàng, do đó chiếm thị phần đáng kể tại quốc gia nhập khẩu.
Các doanh nghiệp nội địa kinh doanh các hàng hoá tương tự, nếu không
có sự dự đoán và ứng phó nhanh với biến đổi thị trường thường rơi vào
hoàn cảnh lúng túng không thể tháo gỡ, thị ph
ần cùng doanh thu giảm
mạnh và dễ lâm vào tình trạng phá sản. Đây là những điều kiện có thể tạo
ra một thị trường độc quyền trong thương mại không có lợi cho người
tiêu dùng.
Việc bán phá giá sẽ bóp méo bản chất của thị trường vì hàng hoá
khi đưa vào lưu thông đã không đúng với giá thực của hàng hoá.
Bán phá giá có thể ảnh hưởng tới lợi ích của quốc gia thứ ba do
mất thị trường.
7.4.3. Thuế chống bán phá giá - biện pháp hạn chế
Điều VI GATT quy định rằng việc bán phá giá “phải bị xử phạt
nếu việc đó gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành
sản xuất trên lãnh thổ của một Bên ký kết hay thực sự làm chậm trễ sự
thành lập một ngành sản xuất trong nước”. Nhằm mục đích triệt tiêu tác
dụng hoặc ngăn ng
ừa việc bán phá giá, một Bên ký kết có thể đánh vào
bất cứ một sản phẩm được bán phá giá nào một khoản thuế chống bán
phá giá. Khoản thuế này không được lớn hơn biên độ bán phá giá của sản

phẩm đó. Trong đó, biên độ bán phá giá là sự chênh lệch về giá giữa giá
xuất khẩu một hàng hoá với giá trị thông thường của hàng hoá đó. Như
vậy, bản chất của thuế chống bán phá giá là nhằm bù
đắp hoặc hạn chế
các thiệt hại vật chất do bán phá giá gây ra. Biện pháp đánh thuế chống

248
phá giá chỉ được áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu khi kết quả của quá
trình điều tra xác định tồn tại các điều kiện: (i) hàng hoá đó được đưa vào
kinh doanh trên thị trường của nước nhập khẩu với giá thấp hơn giá trị
thông thường của nó; (ii) ngành sản xuất nội địa của sản phẩm tương tự ở
nước nhập khẩu bị thiệ
t hại về mặt vật chất; (iii) tồn tại mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi bán phá giá với thiệt hại vật chất đó.
Để tiến hành đánh thuế chống bán phá giá, cơ quan có thẩm
quyền phải tiến hành điều tra. Thủ tục và điều kiện điều tra phải tuân thủ
quy định của Hiệp định về chống bán phá giá. Những nội dung này được
ghi nhận t
ại các Điều II, III, V, VI của Hiệp định.
Hộp 7.1. Vụ anh đào đông lạnh
Một trường hợp do Cộng đồng châu Âu đưa ra GATT vào năm 1992
chống lại Australia. Cơ quan chống phá giá của Australia (ADA) đã áp dụng
thuế đối kháng với anh đào đông lạnh nhập khẩu từ Pháp và Italia. Để đi đến kết
luận về sự thiệt hại vật chất đối với ngành công nghiệp Australia, ADA đã định
nghĩa ngành công nghiệp bao gồm việc trồng anh đào trắng, người ngâm muối
và người sản xuất anh đào đông lạnh. Cộng đồng châu Âu khẳng định rằng điều
đó mâu thuẫn với khoản 5 Điều 6 của Bộ luật Trợ cấp, một trong các hiệp định
Vòng Tokyo, trong đó yêu cầu rằng “công nghiệp nội địa” phải được giải thích là
các nhà sản xuất nội địa của sản phẩm tương tự nói chung. Cộng đồng Châu Âu
cũng khẳng định rằng vì ngành công nghiệp Australia sản xuất anh đào đông

lạnh lợi nhuận đã tăng lên 8% so với 2 năm trước đó, do vậy không thể nói là họ
đang phải chịu thiệt hại vật chất. Ban hội thẩm đã họp 2 lần để xem xét trường
hợp này, nhưng trước khi họ đưa ra quyết định thì Cộng đồng Châu Âu đã thông
báo cho Trưởng Ban hội thẩm rằng họ không muốn theo đuổi vụ này nữa.
(Nguồn: MUTRAP II. Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế. Hà Nội
năm 2005, tr. 99.)


7
7
.
.
5
5
.
.


T
T
H
H


C
C


T
T





V
V
I
I


C
C


B
B
Á
Á
N
N


P
P
H
H
Á
Á



G
G
I
I
Á
Á


L
L
I
I
Ê
Ê
N
N


Q
Q
U
U
A
A
N
N


Đ
Đ



N
N


V
V
I
I


T
T


N
N
A
A
M
M


V
V
À
À



C
C
Á
Á
C
C


Q
Q
U
U
Y
Y


Đ
Đ


N
N
H
H


C
C



A
A


P
P
H
H
Á
Á
P
P


L
L
U
U


T
T


V
V
I
I



T
T


N
N
A
A
M
M


V
V




B
B
Á
Á
N
N


P
P
H
H

Á
Á


G
G
I
I
Á
Á


7.5.1. Thực tế việc bán phá giá liên quan đến Việt Nam
Trong hoạt động thương mại quốc tế, hàng hoá của Việt Nam đã
từng bị coi là bán phá giá ở nước ngoài. Một trong những ví dụ điển hình

249
là cá basa của Việt Nam bán trên thị trường Hoa Kỳ. Qua những thực tế
này Việt Nam đã rút ra được cho mình nhiều bài học quý báu.
Trên thị trường Việt Nam đã từng xuất hiện hàng hoá nhập từ
nước ngoài được bán với giá rất thấp. Hiện tượng này đã ảnh hưởng
không nhỏ tới những nhà sản xuất hàng hoá cùng loại của Việt Nam. Tuy
nhiên, tiến hành kiện bán phá giá hàng hoá của nước ngoài trên thị
trường Việ
t Nam là vấn đề phức tạp. Để thực hiện có hiệu quả việc
chống bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam thì cần phải hoàn thiện
và cụ thể hoá các quy định của Việt Nam về chống bán phá giá hàng
nhập khẩu và có sự phối hợp giữa các nhà sản xuất, các hiệp hội nhà sản
xuất trong nước trong việc thực hiện quyền của mình khi có hiện tượng
bán phá giá.

7.5.2. Các quy định của pháp lu
ật Việt Nam về bán phá giá
Pháp lệnh về chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt
Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 10 năm 2004. Pháp lệnh quy
định về thủ tục, nội dung điều tra và việc áp dụng các biện pháp đối với
hàng hoá bị bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam.
Điều 6 Pháp lệnh quy định các điều kiện áp dụng biện pháp chống
bán phá giá. Theo đó biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng đối
với hàng hoá bán phá giá vào Vi
ệt Nam khi có hai điều kiện. Điều kiện
thứ nhất là khi hàng hoá bị bán phá giá vào Việt Nam đồng thời biên độ
bán phá giá phải được xác định cụ thể và điều kiện thứ hai là việc bán
phá giá hàng hoá là nguyên nhân gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng
kể cho ngành sản xuất trong nước.
Để xác định điều kiện trên đây, cơ quan có thẩm quyền phải tiến
hành điều tra. Nội dung
điều tra phải tập trung vào việc: (a) xác định
hàng hoá bán phá giá vào Việt Nam và biên độ phá giá; (b) xác định thiệt
hại đáng kể hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất
trong nước; (c) quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá hàng hoá vào
Việt Nam với thiệt hại đáng kể hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất trong nước (Điều 12 Pháp lệnh).



250
7
7
.
.

6
6
.
.


C
C
Á
Á
C
C


B
B
I
I


N
N


P
P
H
H
Á
Á

P
P


Đ
Đ


I
I


K
K
H
H
Á
Á
N
N
G
G


Đ
Đ


I
I



V
V


I
I


H
H
À
À
N
N
G
G


N
N
H
H


P
P



K
K
H
H


U
U


















































































Đ
Đ

Ư
Ư


C
C


T
T
R
R




C
C


P
P


7.6.1. Trợ cấp chính phủ
Vấn đề trợ cấp chính phủ được quy định tại Hiệp định về Trợ cấp
và Các biện pháp đối kháng (Agreement on Subsidies and Coutervailing
Measures - SCM). Điều 1 của Hiệp định này đưa ra định nghĩa về trợ
cấp, theo đó trợ cấp được coi là tồn tại ở một trong các trường hợp:
(1) Có sự đóng góp về tài chính của Chính phủ

hoặc một cơ quan
công cộng trên lãnh thổ của một Thành viên (theo Hiệp định
này được gọi chung là “chính phủ”) và một lợi ích đạt được
nhờ sự đóng góp đó;
(2) Có bất kỳ một hình thức hỗ trợ thu nhập hoặc trợ giá nào theo
nội dung Điều XVI
54
của Hiệp định GATT 1994 và một lợi
ích đạt được nhờ sự hỗ trợ thu nhập hoặc trợ giá đó.
Trợ cấp của Chính phủ cho các doanh nghiệp nội địa có ảnh
hưởng tiêu cực tới thương mại quốc tế. Bởi vì hành động trợ cấp của
Chính phủ sẽ bóp méo môi trường cạnh tranh tự nhiên và triệt tiêu ý
nghĩa của chính sách tự do hoá mậu dịch. Các doanh nghiệp
được nhận
trợ cấp sẽ có những lợi thế trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh
không được trợ cấp, đặc biệt là về mặt giá cả. Hàng hoá được trợ cấp đưa
vào lưu thông sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh trong
thương mại nội địa (khi lưu thông tại thị trường trong nước) cũng như
thương mại quốc tế (khi được xu
ất khẩu ra thị trường nước ngoài). Cơ
chế trợ cấp của Chính phủ còn thường tạo ra tâm lý “ỷ lại” của doanh
nghiệp được trợ cấp, từ đó có thể dẫn tới hiệu quả hoạt động giảm sút và
những quyết sách không cẩn trọng của chủ doanh nghiệp, gây thiệt hại
lớn về kinh tế.

54
Tóm tắt nội dung Điều XVI: Trợ cấp: Mọi trợ cấp phải được thông báo rõ. Các Bên ký
kết cần tránh việc sử dụng trợ cấp trong xuất khẩu các sản phẩm sơ cấp. Các Bên ký kết
công nhận rằng trợ cấp có thể gây phương hại cho các Bên khác và sẽ tránh việc sử dụng
trợ cấp trong xuất khẩu các sản phẩm sơ cấp. Từ 1/1/1958, các Bên ký kết nhất trí không sử

d
ụng trợ cấp đối với các hàng hoá ngoài các sản phẩm sơ cấp nếu việc này gây ra việc giảm
giá tại thị trường nhập khẩu. (Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế, MUTRAP II, Hà
Nội 2005, tr. 248)

251
Tuy nhiên, trong một số trường hợp thì việc duy trì cơ chế trợ cấp
của Chính phủ đối với một số ngành kinh tế trọng yếu (ví dụ các ngành
công nghiệp non trẻ, các ngành thiết yếu cho an ninh quốc gia, nông
nghiệp ) là cần thiết cho việc ổn định và đảm bảo cho nền kinh tế vĩ mô
của quốc gia. Vì vậy mà hiện nay các thiết chế thương mại quốc tế như
WTO chỉ
đưa ra yêu cầu giới hạn và giảm dần việc áp dụng biện pháp trợ
cấp trong thương mại quốc tế mà không cấm hoàn toàn. Điều XVI Hiệp
định GATT 1994 của WTO nêu yêu cầu các Thành viên tránh áp dụng
trợ cấp đối với hàng hoá xuất khẩu.
Hộp 7.2 Vụ mì sợi
Tranh chấp này được bắt đầu khi Hoa Kỳ kiện Cộng đồng Kinh tế Châu
Âu (EEC) năm 1982 dựa trên cơ sở những trợ cấp xuất khẩu cho các sản phẩm
mì sợi (mì ống, mì spaghetti, và các sản phẩm tương tự) được sản xuất từ bột
ngũ cốc không phù hợp với Điều 9 Bộ luật trợ cấp của Vòng Tokyo. Điều này
quy định rằng các Bên ký kết không được trợ cấp xuất khẩu cho những sản
phẩm ngoài các sản phẩm sơ cấp nhất định. EEC đã lý giải rằng các sản phẩm
mì sợi là một loại sản phẩm sơ cấp. Thực tế là EEC đã điều hành một hệ thống
chung đối với thị trường nội địa của sản phẩm ngũ cốc và sản phẩm từ ngũ
cốc. EEC đã đưa ra một hệ thống giá nội địa cho cả Cộng đồng và một hệ
thống thương mại chung với các nước thứ ba nhằm tránh những dao động về
giá của thị trường thế giới ảnh hưởng đến giá ngũ cốc trong nước. Hệ thống
này quy định giấy phép xuất khẩu và hoàn giá xuất khẩu. Hoàn giá xuất khẩu
được dành để trang trải cho sự chênh lệch giữa giá nội địa và giá trên thị

trường thứ 3 đối với các sản phẩm ngũ cốc được xuất khẩu theo dạng tự nhiên
hoặc theo hình thức hàng hoá xác định. Các sản phẩm mì sợi nằm trong danh
mục các hàng hoá xác định. Việc thanh toán hoàn giá xuất khẩu cho bột ngũ
cốc dưới dạng mì sợi được thực hiện từ ngân sách EEC, và cũng áp dụng đối
với hoàn giá xuất khẩu cho sản phẩm ngũ cốc. Trong những phát hiện và kết
luận của mình, Ban hội thẩm cho rằng mì sợi không phải là một sản phẩm sơ
cấp mà là sản phẩm nông sản chế biến. Ban hội thẩm cũng đã kết luận rằng hệ
thống hoàn giá của EEC phải được xem là một hình thức trợ cấp theo Điều
XVI GATT (Trợ cấp). Ban hội thẩm cho rằng Điều XVI như giải thích trong
Điều 9 và Điều 10 của Bộ luật Trợ cấp đã loại trừ khả năng việc xem xét xuất
khẩu một sản phẩm chế biến theo những điều kiện giống như xuất khẩu các bộ
phận hợp thành. Theo đó, Ban hội thẩm đã tổng kết rằng hoàn giá xuất khẩu

252
của EEC là dành cho xuất khẩu các sản phẩm mì sợi và được tiến hành nhằm
tăng xuất khẩu các sản phẩm này, và trợ cấp của EEC cho xuất khẩu các sản
phẩm mì sợi được đưa ra không phù hợp với Điều 9 của Bộ luật Trợ cấp.
(Nguồn: MUTRAP II. Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế. Hà Nội
năm 2005, tr.164.)
Hiệp định SCM quy định ba loại trợ cấp: Trợ cấp bị cấm, hay còn
gọi là trợ cấp đèn đỏ; Trợ cấp có thể bị đối kháng, hay còn gọi là trợ cấp
đèn vàng; Trợ cấp không thể đối kháng, hay còn gọi là trợ cấp đèn xanh.
- Trợ cấp đèn đỏ
Điều 3 Hiệp định SCM nêu các loại trợ cấp đèn đỏ:
(i) Quy định về khối l
ượng trợ cấp, theo luật hay thực tế, dù là
một điều kiện riêng hoặc kèm theo những điều kiện khác, căn
cứ vào kết quả thực hiện xuất khẩu, bao gồm cả những khoản
trợ cấp minh hoạ tại Phụ lục 1 của Hiệp định;
(ii) Quy định khối lượng trợ cấp, dù là một điều kiện riêng hoặc

kèm theo những đi
ều kiện khác, ưu tiên sử dụng hang nội địa
hơn hàng ngoại.
Mỗi Thành viên sẽ không được phép duy trì những khoản trợ cấp
trên. Tuy nhiên, tồn tại một số ngoại lệ như: Hiệp định Nông nghiệp có
quy định khác; quy định dành riêng cho các Thành viên đang phát triển
và các nền kinh tế chuyển đổi (Điều 27, Điều 29 Hiệp định SCM). Quy
chế đối xử ưu đãi và thuận lợi hơ
n cho các Thành viên đang phát triển
cho phép các Thành viên này được từng bước loại bỏ trợ cấp xuất khẩu
và trợ cấp khuyến khích sử dụng hàng nội địa so với hàng nhập khẩu với
thời hạn khác nhau theo các trường hợp cụ thể từ 5 năm đến 8 năm kể từ
ngày Hiệp định WTO có hiệu lực. Các Thành viên đang trong thời kỳ
chuyển đổi từ một nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang một nền kinh
tế thị trường, tự do kinh doanh có thể áp dụng những chương trình và
biện pháp cần thiết cho quá trình chuyển đổi; và các chương trình trợ cấp
xuất khẩu cũng như trợ cấp khuyến khích sử dụng hàng nội địa so với
hàng nhập khẩu sẽ được loại bỏ dần và điều chỉnh cho phù hợp với Hiệp
định SCM trong vòng 7 năm, kể t
ừ ngày Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu
lực.

253
Thành viên vi phạm quy định về trợ cấp bị cấm sẽ có thể bị áp
dụng các biện pháp đối kháng và còn có thể phải thực hiện các chế tài
theo Điều 4 Hiệp định SCM. Theo Điều này, thủ tục giải quyết tranh
chấp được quy định cụ thể theo các bước từ tham vấn đến việc đưa vấn
đề ra Cơ quan Giải quyết tranh chấp của WTO (DSB). Thời hạn
để giải

quyết tranh chấp đối với vấn đề trợ cấp đèn đỏ chỉ bằng một nửa so với
thời hạn thông thường được quy định trong Thoả thuận về giải quyết
tranh chấp (DSU).
- Trợ cấp đèn vàng
Điều 5 Hiệp định SCM quy định các trợ cấp được coi là trợ cấp
đèn vàng. Đó là các khoản trợ cấp (i) thoả mãn điề
u kiện đã nêu trong
định nghĩa tại Điều 1 cùng Hiệp định; (ii) không thuộc nhóm các khoản
trợ cấp đèn đỏ (trợ cấp bị cấm) hay trợ cấp đèn xanh (trợ cấp không thể
đối kháng); và (iii) gây tác động tiêu cực tới quyền lợi của Thành viên
khác. Các trường hợp cụ thể của “tác động tiêu cực” là: (a) gây tổn hại
cho một ngành sản xuất của một Thành viên khác; (b) làm vô hiệu hay
gây phương h
ại đến những quyền lợi mà Thành viên khác trực tiếp hoặc
gián tiếp được hưởng từ Hiệp định GATT 1994, đặc biệt là những quyền
lợi có được từ những nhân nhượng đã cam kết theo Điều 2
55
của Hiệp
định GATT 1994; (c) gây tổn hại nghiêm trọng tới quyền lợi của một
Thành viên khác.
Trợ cấp đèn vàng có thể bị kiện và có thể bị áp dụng các biện
pháp đối kháng theo quy định về các chế tài tại Điều 7 của Hiệp định.
- Trợ cấp đèn xanh
Đây là những trợ cấp không thể đối kháng, hay không phải chịu
các biện pháp đối kháng. Điều 8 Hiệ
p định SCM xác định những khoản
trợ cấp không thể đối kháng:

55
Tóm tắt Điều 2: Danh mục ưu đãi: Mỗi Bên ký kết phải có một danh mục nêu ra các điều

khoản và điều kiện để một sản phẩm có thể được nhập khẩu. Danh mục này thường được
gọi là danh mục thuế quan. Không một khoản phí nào khác được đánh vào hàng hoá nhập
khẩu. Các phương pháp xác định số thuế phải trả hoặc chuyển đổi đồng tiền không đượ
c
dùng làm giảm giá trị của ưu đãi thuế. Các Bên có thể yêu cầu tham vấn nếu họ cho rằng
những điều Bên kia cam kết không đạt được. (Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế,
MUTRAP II, Hà Nội 2005, tr. 246)

254
(i) trợ cấp không mang “tính riêng biệt” như nêu tại Điều 2 của
Hiệp định SCM;
(ii) trợ cấp mang “tính riêng biệt” nhưng thoả mãn mọi điều kiện
sau:
(a) Nhằm hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu được thực hiện bởi
các hãng hay các cơ sở đào tạo cao học hoặc cơ sở nghiên
cứu, thông qua ký hợp đồng với các hãng;
(b) Nhằm trợ giúp cho các vùng khó khăn trên lãnh thổ của m
ột
Thành viên theo chương trình chung phát triển vùng và không
mang “tính riêng biệt” trong phạm vi vùng đủ điều kiện hưởng
trợ cấp;
(c) Nhằm hỗ trợ xúc tiến nâng cấp những phương tiện hạ tầng
hiện có cho phù hợp với yêu cầu mới về môi trường do luật
pháp hay các quy định đặt ra, khi các yêu cầu này đã làm cho
các hãng phải chịu khó khăn hoặc gánh nặng tài chính lớn
hơn.
Mỗi khoản trợ cấp thuộc lo
ại (ii) đều phải thoả mãn những điều
kiện nhất định mới được coi là trợ cấp không thể đối kháng. Tuy nhiên,
quy định về trợ cấp đèn xanh đã hết hiệu lực từ năm 2000, tức là 5 năm

sau ngày Hiệp định WTO có hiệu lực
56
. Như vậy hiện nay không còn tồn
tại “trợ cấp không thể đối kháng”, nghĩa là mọi khoản trợ cấp của Chính
phủ từ năm 2000 đều có thể bị áp dụng các biện pháp đối kháng nếu thoả
mãn quy định tại Điều 1 và Điều 2 Hiệp định SCM.
7.6.2. Biện pháp đối kháng trợ cấp (SCM)
Các biện pháp đối kháng trợ cấp được cụ thể hoá tại Phần V Hiệ
p
định SCM. Theo đó, các biện pháp này được thực hiện thông qua thuế
đối kháng.
- Khái niệm về thuế đối kháng
Thuế đối kháng là loại thuế đặc biệt đánh vào hàng nhập khẩu,
nhằm bù lại thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu
do việc các nhà sản xuất hàng xuất khẩu được hưởng trợ cấp chính phủ.
Thuế đối kháng không phả
i nhằm trả đũa thương mại mà ý nghĩa căn bản

56
Điều 31 Hiệp định SCM.

255
của biện pháp này là bù đắp thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất nội địa
tại quốc gia nhập khẩu hàng hoá được trợ cấp. Vì vậy mà không đánh
thuế đối kháng đối với hàng nhập khẩu vượt quá số tiền trợ cấp chính
phủ, tính theo đơn vị của sản phẩm được trợ cấp và xuất khẩu
57
; và thuế
đối kháng sẽ có hiệu lực chỉ khi và ở chừng mực cần thiết để đối kháng
lại việc trợ cấp đang gây ra thiệt hại

58
.
Để đảm bảo tính công bằng và hợp lý, các loại thuế đối kháng sẽ
chỉ được áp dụng căn cứ trên cơ sở điều tra đã được khởi tố và thực hiện
phù hợp với quy định thủ tục nêu tại Phần V Hiệp định SCM và quy định
tại Hiệp định Nông nghiệp. Nguyên tắc chung để áp thuế và thu thuế đối
kháng là không đánh thuế đối kháng đối với hàng nh
ập khẩu vượt quá số
tiền trợ cấp đã được kết luận là có tồn tại, tính theo đơn vị của sản phẩm
được trợ cấp và xuất khẩu
59
.
- Thủ tục thực hiện thuế đối kháng
Thủ tục thực hiện thuế đối kháng được thông qua việc khởi tố và
tiến hành điều tra. Việc điều tra để xác định sự tồn tại, mức độ và tác
động của hành động được coi là trợ cấp sẽ được khởi xướng trên cơ sở đề
nghị bằng văn bản của hoặc thay m
ặt cho một ngành sản xuất trong nước.
Đơn đề nghị phải bao gồm những bằng chứng về sự tồn tại của: (a)
khoản trợ cấp, và nếu có thể, nêu rõ cả giá trị trợ cấp; (b) “thiệt hại” theo
nghĩa của Điều VI GATT 1994 (thiệt hại vật chất); (c) mối quan hệ nhân
quả giữa nhập khẩu được trợ cấp với thiệt hại
được cho là đã xảy ra. Một
sự khẳng định giản đơn, không có đủ bằng chứng thì sẽ không thể được
coi là đủ để đáp ứng yêu cầu
60
. Trong trường hợp đặc biệt, khi cơ quan
có thẩm quyền quyết định điều tra mà không nhận được đơn của và nhân
danh một ngành sản xuất trong nước yêu cầu tiến hành điều tra thì việc
điều tra chỉ được bắt đầu nếu đã có đủ bằng chứng về một trợ cấp, thiệt

hại và mối quan hệ nhân quả để chứng minh rằng việc bắ
t đầu tiến hành
điều tra là cần thiết
61
.

57
Khoản 19.4 Hiệp định SCM.
58
Khoản 21.1, Hiệp định SCM.
59
Khoản 19.4 Hiệp định SCM.
60
Khoản 1 Điều 11; Khoản 2 Điều 11 Hiệp định SCM.
61
Khoản 6 Điều 11 Hiệp định SCM.

256
Một yếu tố quan trọng trong quá trình điều tra là việc xác định
thiệt hại. Việc xác định thiệt hại phải dựa trên bằng chứng khẳng định và
với nội dung xem xét khách quan đồng thời (a) khối lượng nhập khẩu
hàng có trợ cấp và tác động của nhập khẩu được trợ cấp đối với giá cả
trên thị trường trong nước của sản phẩm tương tự
62
và (b) tác động tiếp
theo của việc nhập khẩu đó với các ngành sản xuất trong nước của các
sản phẩm đó
63
.
Sau khi đã cố gắng hợp lý để hoàn thành việc tham vấn, nếu một

Thành viên xác định chắc chắn rằng có trợ cấp và mức trợ cấp, và rằng
thông qua trợ cấp, hàng nhập khẩu được trợ cấp đã gây ra tổn hại thì
Thành viên đó có thể đánh thuế đối kháng
64
.


7
7
.
.
7
7
.
.


C
C
Á
Á
C
C


H
H


N

N


C
C
H
H




T
T
H
H
Ư
Ư
Ơ
Ơ
N
N
G
G


M
M


I

I


N
N
H
H


M
M


B
B


O
O


V
V




C
C
Á

Á
N
N


C
C
Â
Â
N
N


T
T
H
H
A
A
N
N
H
H


T
T
O
O
Á

Á
N
N


7.7.1. Giới thiệu
Trong nhiều trường hợp, khi lượng hàng nhập khẩu gia tăng có
thể ảnh hưởng tới tình hình tài chính của một quốc gia. Trong trường hợp
này, quốc gia sở tại có quyền áp dụng các biện pháp tự vệ nhằm bảo vệ
cán cán cân thanh toán của mình.
Các hạn chế thương mại nhằm bảo vệ cán cân thanh toán đượ
c
quy định tại Điều XII và Điều XVIIIB của GATT 1994. Theo đó, các
Thành viên ký kết có thể sử dụng hạn chế nhập khẩu để bảo vệ tình hình
tài chính đối ngoại của mình, nhưng không được hơn mức cần thiết để
ngăn chặn sự đe dọa bị giảm sút nghiêm trọng dự trữ ngoại tệ hoặc để
tăng dự trữ ngoại tệ
một cách hợp lý nếu dự trữ đó rất thấp.
7.7.2. Nội dung

62
Thuật ngữ “sản phẩm tương tự” được hiểu là một sản phẩm giống hệt, ví dụ như giống
hệt sản phẩm đang được xem xét về mọi mặt hoặc nếu không tồn tại một sản phẩm như
vậy, một sản phẩm khác dù không tương đồng về mọi mặt, nhưng có những đặc điểm tính
chất rất giố
ng sản phẩm đang được xem xét
63
Khoản 1 Điều 15 Hiệp định SCM.
64
Khoản 1 Điều 19 Hiệp định SCM.



257
Điều XII GATT quy định bất kỳ Bên ký kết nào, để bảo vệ tình
hình tài chính đối ngoại và cán cân thanh toán đều có thể hạn chế số
lượng hay giá trị hàng hoá cho phép nhập khẩu (khoản 1). Tuy nhiên, các
hạn chế nhập khẩu không được vượt quá mức cần thiết mà chỉ duy trì với
mục đích ngăn ngừa mối đe doạ hay để sự suy giảm nghiêm trọng dự trữ
ngoại tệ hoặ
c trong trường hợp một Bên ký kết có dự trữ ngoại tệ thấp
cần nâng dự trữ ngoại tệ lên một mức hợp lý (khoản 2).
Điều XVIIIB quy định cho phép việc giới hạn khối lượng và trị
giá của hàng hoá nhập khẩu, với điều kiện là các hạn chế nhập khẩu đặt
ra hay duy trì không quá mức cần thiết, nhằm mục đích: (a) bảo vệ vị thế

tài chính đối ngoại của quốc gia; và (b) đảm bảo mức dự trữ cần thiết cho
các chương trình phát triển kinh tế.
Theo Điều XVIIIB thì các biện pháp dựa trên giá cả và biện pháp
hạn chế về số lượng có thể được áp dụng.
Thứ nhất, các biện pháp dựa trên giá cả: Các biện pháp này có thể
vượt quá các mức thuế ấn định đối với hàng nhập khẩu đã ghi nhận trong
danh mụ
c của Thành viên. Trong trường hợp thuế đánh vào một sản
phẩm chưa được ấn định, Thành viên đó được phép tự do nâng mức thuế
mà không cần trải qua quá trình được quy định trong các điều khoản cán
cân thanh toán.
Thứ hai, các hạn chế về số lượng: khi sử dụng các hạn chế về số
lượng, một Thành viên có thể áp dụng các hạn chế đối với một sản phẩm
ho
ặc một loại sản phẩm nhất định. Thành viên đó có thể ngừng toàn bộ

việc nhập khẩu một sản phẩm hoặc một loại sản phẩm nhất định, hoặc có
thể giới hạn số lượng hoặc giá trị hàng nhập khẩu theo mức ấn định.
Thành viên sử dụng các hạn chế này sẽ phải biện hộ cho các tiêu chuẩn
đã đặt ra nhằm xác
định số lượng hoặc giá trị tối đa hàng hoá được nhập
khẩu. Trong quá trình thực thi các biện pháp này, Thành viên đó có thể
được sử dụng công cụ cấp giấy phép. Tuy nhiên, việc sử dụng giấy phép
chỉ có thể được áp dụng khi nước Thành viên đưa ra được các lý do có cơ
sở để thuyết phục.



258
7
7
.
.
8
8
.
.


B
B


O
O



H
H




N
N
G
G
À
À
N
N
H
H


C
C
Ô
Ô
N
N
G
G


N

N
G
G
H
H
I
I


P
P


N
N
O
O
N
N


T
T
R
R




7.8.1. Khái niệm

Bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ là trường hợp Nhà nước áp
dụng các biện pháp tác độ
ng đến thương mại nhằm đảm bảo sự tồn tại và
phát triển cho các ngành công nghiệp được coi là non trẻ trong nước.
Việc tác động đến thương mại nhằm bảo hộ nền công nghiệp
trong nước sẽ bị coi là bất hợp pháp vì nó làm bóp méo bản chất của
thương mại. Tuy nhiên, với mục đích bảo hộ nền công nghiệp non trẻ
trong nước thì sự tác động này được coi là hợp pháp. Đ
iều XVIII của
GATT về “Trợ giúp của Chính phủ để phát triển kinh tế” cho phép các
nước có sự giúp đỡ tạo thuận lợi cho việc tạo dựng một ngành sản xuất
nhất định (khoản 13). Hiệp định cho phép các nước duy trì cơ cấu thuế
quan, thiết lập các hạn ngạch về số lượng nhằm tạo dựng một ngành sản
xuất nhất định và để phát triển kinh tế
(khoản 2 Điều XVIII GATT).
7.8.2. Bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ cần được hạn chế
Ý nghĩa cần thiết của việc bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ
đối với mỗi nền kinh tế là không thể phủ nhận. Bởi vì, khi một ngành
công nghiệp đang ở trong tình trạng “trứng nước”, hay “non trẻ”, thì
ngành công nghiệp đó cần có sự bảo hộ của Nhà nước để có thể bắt
đầu
phát triển, nếu không nó sẽ dễ dàng bị “nuốt chửng” bởi những đối thủ
hùng hậu trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, nếu việc bảo hộ của Nhà nước quá sâu sẽ tạo ra sự an
toàn tuyệt đối trong cạnh tranh cho ngành sản xuất được bảo hộ. Điều
này không chỉ tạo ra sự bất bình đẳng trong thương mại mà còn làm cho
ngành “non trẻ” sẽ không bao giờ lớn lên được.
7.9. CÁC NGOẠI LỆ CHUNG
7.9.1. Giới thiệu
Nội dung cơ bản của các quy định này là việc dành cho các Thành

viên WTO quyền không áp dụng những điều khoản của các hiệp định
trong những hoàn cảnh được quy định rõ, nhưng không được sử dụng để
phân biệt đối xử giữa các nước hoặc như là một sự hạn chế trá hình đối
với thươ
ng mại quốc tế. Đây được coi là những biện pháp nhằm bảo vệ

259
cho những lợi ích thiết yếu của quốc gia khi tham gia hoạt động thương
mại quốc tế.
Các trường hợp ngoại lệ chung được quy định tại Điều XX
GATT.
7.9.2. Các trường hợp ngoại lệ chung
Các trường hợp ngoại lệ chung được quy định cụ thể trong thương
mại hàng hoá và thương mại dịch vụ.
Thứ nhất, trong thương mại hàng hoá, các ngoại lệ chung được
quy định trong GATT tại Điều XX với 10 trường hợp sau đây:
a. Cần thiết để bảo vệ trật tự công cộng;
b. Cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khỏe của con người, động
vật hay thực vật;
c. Liên quan tới việc xuất hoặc nhập khẩu vàng và bạc;
d. Cần thiết để bảo đảm sự tôn trọng pháp luật và các quy tắc
không trái v
ới các quy định của Hiệp định;
e. Liên quan tới các sản phẩm sử dụng lao động của tù nhân;
f. Áp đặt để bảo vệ di sản quốc gia có giá trị nghệ thuật, lịch sử
hay khảo cổ;
g. Liên quan tới việc gìn giữ nguồn tài nguyên có thể bị cạn kiệt
nếu các biện pháp đó cũng được áp dụng hạn chế cả với sản xuất và tiêu
dùng trong nước;
h. Được thi hành theo ngh

ĩa vụ của bất kỳ Hiệp định nào liên
chính phủ về hàng hoá phù hợp với các tiêu chí đã trình ra các Bên ký kết
và không bị phản đối, hoặc các hiệp định này đã trình ra các Bên ký kết
và không bị các Bên ký kết bác bỏ;
i. Bao hàm các hạn chế với xuất khẩu nguyên liệu do trong nước
sản xuất và cần thiết có đủ số lượng thiết yếu nguyên liệu đó để đảm bảo
hoạt động chế
tác trong thời kỳ giá nội được duy trì dưới giá ngoại nhằm
thực hiện một kế hoạch ổn định kinh tế của Chính phủ, với điều kiện các
hạn chế đó không dẫn tới tăng xuất khẩu hay tăng cường mức bảo hộ với
ngành công nghiệp trong nước và không vi phạm các quy định của Hiệp
định về không phân biệt đối xử;

260
j. Cần thiết để có được hay phân phối được một sản phẩm thuộc
diện khan hiếm trong cả nước hay tại một địa phương, với điều kiện các
biện pháp này phải tương thích với các nguyên tắc nhất định. Theo đó
mỗi Bên ký kết phải có được sự công bằng trong việc cung cấp quốc tế
các sản phẩm này đồng thời các biện pháp không tương thích với các quy
đị
nh khác của Hiệp định sẽ được xoá bỏ ngay sau khi hoàn cảnh dẫn tới
lý do áp dụng đã không còn tồn tại nữa.
Trên cơ sở 10 trường hợp ngoại lệ chung trên đây, Bhagirath Lal
Das đã phân thành năm nhóm ngoại lệ chung được dựa vào tiêu chí đối
tượng được bảo vệ
65
như sau:
Nhóm 1 về môi trường: Được quy định tại khoản (b) Điều XX,
cho phép các hành động cần thiết nhằm bảo vệ cuộc sống hoặc sức khỏe
của con người và động thực vật; và quy định tại khoản (g) của Điều XX,

cho phép các hành động liên quan tới việc bảo tồn các nguồn tài nguyên
thiên nhiên có thể bị cạn kiệt, với điều kiện là các biện pháp đó cũ
ng
được áp dụng hạn chế cả với sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Hộp 7.3: Vụ cá trích và cá hồi
Một vụ kiện của Hoa Kỳ chống lại Canada vào năm 1987 liên quan đến những
quyết định của Canada cấm việc xuất khẩu hoặc bán để xuất khẩu cá trích, cá
hồi hồng và cá hồi đỏ chưa qua chế biến. Thực tế là việc Canada đã công bố
một quyết định căn cứ vào Luật đánh cá năm 1970 rằng “không ai được xuất
khẩu cá hồi đỏ hay cá hồi hồng, trừ phi chúng được đóng hộp, ướp muối, hun
khói, sấy khô hay ướp lạnh và đã được xem xét kỹ theo Luật thanh tra cá”.
Một quyết định tương tự được áp dụng cho việc xuất khẩu từ tỉnh British
Columbia đối với thực phẩm là cá trích hoặc trứng cá trích. Canada vẫn duy trì
suốt từ những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ những biện pháp của Chính phủ để
bảo vệ, quản lý và phát triển nguồn cá hồi và cá trích ở ngoài khơi British
Columbia. Những biện pháp đó bao gồm các hiệp định và công ước liên chính
phủ. Tại thời điểm xảy ra tranh chấp, nghề đánh cá hồi đỏ, cá hồi hồng và cá
trích chiếm phần lớn trong việc đánh cá mang tính chất thương mại ở vùng bờ
biển miền Tây Canada. Nó tạo việc làm cho gần 5/6 tổng số công nhân trong
ngành chế biến cá của British Columbia. Canada tuyên bố rằng các biện pháp

65
Bhagirath Lal Das, The WTO – A guide to the framework of international trade, Zed
Books & Third World Network, p. 147.

×