1
1. Sự cần thiết của đề tài:
Trong xu hướng xã hội hiện nay, hội nhập kinh tế là một yêu cầu đặt ra trước
mắt đối với mỗi quốc gia. Đứng trước những cơ hội cũng như những thách thức
trong vấn đề hội nhập đòi hỏi mỗi quốc gia phải có những chính sách điều tiết vĩ mô
thích hợp nhằm tận dụng thời cơ, đồng thời có những biện pháp khắc phục, đẩy lùi
các nguy cơ đe dọa. Chính vì thế bản thân các doanh nghiệp, các ngành trong nền
kinh tế quốc dân phải quan tâm hơn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, đó cũng
chính là đem lại những thuận lợi, những cơ hội cho nền sản xuất nước nhà.
Lịch sử đã chứng minh sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người gắn liền
với sự phát triển của các hình thức kinh tế xã hội qua các giai đoạn khác nhau. Cho
dù tồn tại trong bất kì hình thái xã hội nào thì sản xuất ra của cải vật chất cũng được
coi trọng hàng đầu. Và do đó mục tiêu hướng tới hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh
doanh là đích đến cho tất cả mọi phương diện sản xuất thuộc phạm vi kinh tế, phạm
vi từng ngành.
Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường, phân tích đánh giá hiệu quả kinh doanh là một công việc cần thiết không thể
thiếu được đối với các doanh nghiệp hiện nay. Phân tích sẽ cho chúng ta thấy được
những ưu điểm cũng như khuyết điểm trong những năm qua, đánh giá đúng đắn kết
quả kinh doanh và quá trình kinh doanh, vạch ra những nguyên nhân và những nhân
tố ảnh hưởng để từ đó đề xuất những biện pháp khai thác những tiềm năng bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp cho phù hợp với thực tế. Dự trữ các nguồn lực
phải ở một mức hợp lý và phụ thuộc vào mức độ ổn định của các hoạt động kinh
doanh đang tiến hành và khả năng mà doanh nghiệp có thể hạ thấp tính bất định và
khắc phục các rủi ro, khả năng thu hút các nguồn lực khi gặp phải các bất trắc. Song
một yếu tố cơ bản đầu tiên là phải thu thập những thông tin cần thiết kịp thời và
chính xác, có cách xử lý đúng đắn cho phép đánh giá đúng tình hình thực tế.
Do tầm quan trọng của vấn đề và nhằm giúp cho Nhà máy Bia Dung Quất có
cái nhìn toàn diện về hoạt động của Nhà máy trong thời gian qua, thấy được những
điểm mạnh và những điểm yếu của mình để có kế hoạch tốt hơn trong hoạt động
sản xuất kinh doanh. Đó chính là lý do chính để em chọn hướng nghiên cứu: "Đánh
giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại Nhà máy Bia Dung Quất thuộc Công
ty Đường Quảng Ngãi".
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy.
Phạm vi nghiên cứu là hiệu quả kinh tế, cụ thể là đi sâu phân tích và đánh giá
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy Bia Dung Quất trong 3 năm
2002 - 2004. Trên cơ sở đó đưa ra một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Để tập trung nghiên cứu một vấn đề nào đó người ta có những phương pháp
khoa học khác nhau, những phương pháp này được lựa chọn tuỳ thuộc vào những
nội dung nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. Do đề tài là: đánh giá hiệu quả hoạt
2
động sản xuất kinh doanh thì đối tượng nghiên cứu và nội dung phân tích bằng các
chỉ tiêu kinh tế chúng ta cần phải lý luận, sự kết hợp giữa các phương pháp tính
toán và lý luận sẽ làm cho vấn đề logic hơn. Tóm lại, để đạt hiệu quả cao trong phân
tích chúng ta cần áp dụng:
Nhìn nhận các hoạt động kinh tế tại doanh nghiệp đúng như quá trình vận
động và phát triển của nó. Trong quá trình phân tích sẽ giúp cho người nghiên cứu
thấy được chiều hướng vận động và phát triển của nó để từ đó sẽ tìm được và những
giải pháp cho phù hợp.
Phân tích đi sâu vào nội tại bên trong của vấn đề cần nghiên cứu. Mục đích
để tìm ra những mối liên hệ bên trong, xem xét các mối liên hệ này tác động như thế
nào đến doanh nghiệp.
Kết hợp các mối quan hệ lại với nhau để đưa ra những mối liên hệ tổng quát,
tìm ra những điểm phụ thuộc lẫn nhau. Qua đó tìm ra những điểm phù hợp cho sự
phát triển của Nhà máy, như việc tăng doanh thu thường kéo theo việc tăng chi phí
và doanh nghiệp sẽ khắc phục như thế nào để tốc độ tăng của chi phí thấp hơn tốc
độ tăng của doanh thu.
Cuối cùng đưa ra những kết luận, những nguyên nhân và giải pháp đối với
những vấn đề còn tồn tại.
Tóm lại, một phương pháp đánh giá cao phải được kết hợp giữa phương pháp
duy vật biện chứng và các phương pháp toán học một cách hài hoà, phương pháp
toán học là phương pháp tính toán đưa ra con số cụ thể để thuyết phục người đọc,
còn duy vật biện chứng làm tăng tính logic của vấn đề cần nghiên cứu.
4. Nội dung và kết cấu của đề tài:
Tên đề tài: "Đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại Nhà máy
Bia Dung Quất thuộc Công ty Đường Quảng Ngãi".
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, phụ lục biểu đồ,
biểu bảng thì nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương 2: Đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà
máy Bia Dung Quất trong thời gian qua.
Chương 3: Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của Nhà máy trong thời gian tới
5. Những đóng góp khoa học của đề tài:
Hệ thống hoá được những vấn đề về lý luận hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh như: nâng cao hiệu quả kinh doanh trên cơ sở cải tiến công nghệ kỹ thuật, cải
thiện công tác quản lý, sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất, lao động, vốn
Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của Nhà máy Bia Dung Quất trong
thời gian qua trên một số mặt: lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, thị trường, tiêu thụ, tình
hình tài chính.
3
Đề tài mạnh dạn đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của Nhà máy trong thời gian tới như:
Biện pháp 1: Huy động vốn cho Nhà máy.
Biện pháp 2: Đầu tư thiết bị tự động hoá công đoạn bốc xếp chai.
Biện pháp 3: Hoạch định chiến lược thâm nhập thị trường.
Biện pháp 4: Xây dựng phương án cổ phần hoá doanh nghiệp.
4
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ TRONG
HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh hiệu quả kinh tế luôn là mối quan tâm
hàng đầu của các tổ chức đơn vị kinh tế và dịch vụ. Bởi lẽ nó là một chỉ tiêu tổng
quát và cũng là tiêu chuẩn quan trọng đánh giá tình hình hoạt động của các tổ chức
kinh tế, một đơn vị sản xuất kinh doanh hay một nền sản xuất xã hội nào đó. Trong
công tác quản lý kinh tế, phạm trù hiệu quả kinh tế lúc nào cũng phải được đặt ra
đúng với tầm quan trọng của nó. Vì trong một chế độ xã hội, tốc độ phát triển của
một nền kinh tế, nhịp độ nâng cao mức sống về tinh thần và vật chất của người dân
hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu quả kinh tế xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế để mang
lại hiệu quả kinh tế cao là một vấn đề hết sức khó khăn, bên cạnh đó hiệu quả không
phải là một vấn đề đã được giải quyết triệt để và được quan niệm một cách thống
nhất trong lý luận và trong công tác thực tiễn. Thật khó mà đánh giá mức độ đạt
được hiệu quả kinh tế hoàn thành mà bản thân phạm trù này chưa được định rõ bản
chất về những biểu hiện cụ thể.
Vì vậy, hiểu đúng hiệu quả kinh tế và việc xác định thực hiện các biện pháp
nâng cao hiệu quả kinh tế là vấn đề có ý nghĩa thiết thực không những về lý luận mà
còn rất cần thiết đối vối những hoạt động thực tiễn. Hiểu đúng hơn bản chất của
hiệu quả kinh tế sẽ làm tăng thêm nhận thức về tầm quan trọng của tính toán cũng
như xác định yêu cầu đối với việc đề ra mục tiêu và biện pháp nâng cao hiệu quả
kinh tế.
Trong bất kì hoạt động sản xuất kinh doanh nào, khi đánh giá các hoạt động
ấy thì không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả đạt được mà còn đánh giá chất
lượng của kết quả đó, có như vậy thì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh mới
được đánh giá một cách toàn diện.
Cũng giống như một số chỉ tiêu khác, hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu chất
lượng tổng hợp phản ánh trình độ tổng hợp các yếu tố của quá trình sản xuất, là
thước đo kết quả sản xuất kinh doanh, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền
với nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ vào
đạt hiệu quả cao hay thấp. Vấn đề cơ bản trong lĩnh vực quản lý là phải kết hợp hài
hoà giữa lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, giữa lợi ích trung ương và lợi ích địa
phương, giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích cộng đồng, hay nói rộng hơn
nâng cao hiệu quả kinh tế trong đơn vị luôn gắn liền với hiệu quả của toàn xã hội,
góp phần tăng thu nhập quốc dân, bảo đảm hiệu quả kinh tế của ngành và của địa
phương.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh vừa là một phạm trù cụ thể, vừa là một phạm
trù trừu tượng. Nếu là phạm trù cụ thể thì trong công tác quản lý phải định lượng
thành các chỉ tiêu con số để tính toán, so sánh. Nếu là phạm trù trừu tượng thì phải
5
được định tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực sản xuất
kinh doanh. Có thể nói rằng, phạm trù hiệu quả là sự quan tâm thường trực của cán
bộ quản lý được ứng dụng rộng rãi vào mọi khâu, mọi bộ phận trong quá trình sản
xuất kinh doanh.
Qua những nội dung đã được phân tích nêu trên ta chia hiệu quả kinh tế làm
2 loại:
+ Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố riêng lẻ thì có phạm trù hiệu quả kinh
tế hoặc hiệu quả sản xuất kinh doanh.
+ Nếu đứng trên phạm trù kinh tế xã hội và nền kinh tế quốc dân để xem xét
thì có hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội.
Cả hai hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Thường chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới có điều kiện thực hiện
hai loại hiệu quả nói trên, còn các thành phần kinh tế khác hầu như đều chạy theo
hiệu quả kinh tế. Do vậy sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện hiện
nay là một tất yếu khách quan.
Như vậy, hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh là một phạm trù vốn có
của các hình thái kinh tế xã hội. Nó nói lên hình thái sử dụng lao động xã hội hao
phí trong quá trình sản xuất và được định nghĩa bằng mối tương quan giữa kết quả
thu được và chi phí đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Kết quả sản xuất kinh doanh đã đạt được
Hiệu quả kinh tế =
Chi phí đã chi ra để đạt được kết quả
Yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp là phải tạo ra được hệ số hiệu quả sản
xuất kinh doanh lớn hơn một (Hiệu quả SXKD >1). Muốn vậy, các hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải thực hiện tốt 3 nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Tăng kết quả sản xuất kinh doanh cả về hiện vật và giá trị.
+ Giảm chi phí đã chi ra cả về hiện vật và giá trị để đạt được kết quả đấy.
+ Giảm độ dài thời gian trong việc đạt được kết quả ấy của sản xuất kinh
doanh trong một đơn vị chi phí hay ta nói tạo ra tốc độ tăng kết quả nhanh hơn tốc
độ tăng chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Trong thực tế hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp đạt được
qua hai trường hợp:
+ Kết quả tăng, chi phí giảm.
+ Kết quả tăng, chi phí tăng nhưng tốc độ tăng của chi phí tăng chậm hơn tốc
độ tăng của kết quả sản xuất kinh doanh.
Trường hợp thứ hai lại diễn ra khá phổ biến. Mặt khác trong sản xuất kinh
doanh có những lúc chúng ta phải chấp nhận thời gian đầu tốc độ tăng của chi phí
lớn hơn tốc độ tăng của kết quả sản xuất kinh doanh, nếu không thì doanh nghiệp
6
không thể tồn tại và phát triển. Trường hợp này thường diễn ra vào thời điểm khi
chúng ta đổi mới kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đổi mới mặt hàng hoặc là phát triển
thị trường mới Đây là bài toán phải cân nhắc giữa việc kết hợp lợi ích trước mắt
và lợi ích lâu dài.
Thông thường mục tiêu tồn tại của doanh nghiệp trong điều kiện tối thiểu
nhất là các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải tạo ra thu nhập về
tiêu thụ hàng hóa, bù đắp chi phí đã bỏ ra để sản xuất hàng hoá ấy. Còn mục tiêu
phát triển của doanh nghiệp là bảo đảm lấy quá trình tái sản xuất mở rộng đòi hỏi
quá trình sản xuất kinh doanh vừa bảo đảm chi phí bỏ ra vừa có tích luỹ để tiếp tục
quá trình tái sản xuất mở rộng. Sự phát triển tất yếu đòi hỏi các doanh nghiệp phải
phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất, đây là mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH.
Từ trước đến nay, các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Quan điểm 1: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ hữu ích của sản
phẩm sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng của nó hoặc là doanh thu và nhất là lợi
nhuận thu được sau quá trình sản xuất kinh doanh.
* Quan điểm 2: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế phản
ánh qua nhịp độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế, cách hiểu này phiến diện, chỉ dùng
trên mức độ biến động theo thời gian.
* Quan điểm 3: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và
mức tăng kết quả. Đây là biểu hiện của bản chất chứ không phải là khái niệm về
hiệu quả kinh tế.
* Quan điểm 4: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu được xác định bằng
tỉ lệ so sánh giữa kết quả với chi phí. Định nghĩa như vậy chỉ muốn đề cập đến cách
xác lập các chỉ tiêu chứ không toát lên ý niệm của vấn đề.
* Quan điểm 5: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức tăng của kết quả sản
xuất kinh doanh trên mỗi lao động hay mức doanh lợi của vốn sản xuất kinh doanh.
Quan điểm này muốn quy về một chỉ tiêu tổng hợp cụ thể nào đó.
Bởi vậy cần có một khái niệm bao quát hơn: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là
một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu,
phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực
hiện mục tiêu kinh doanh đề ra. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự
tăng trưởng kinh tế và nó là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu
kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Qua khái niệm trên ta nhận thấy để xem xét hiệu quả kinh tế của từng hoạt
động sản xuất kinh doanh cũng như phân tích, không những chúng ta phải có tầm
nhìn bao quát trên góc độ khá nhau mà còn phải xem xét trên quan điểm toàn diện
về thời gian, không gian, định tính và định lượng.
1.2.1. Về mặt thời gian:
7
Hiệu quả đạt được của từng giai đoạn không được làm giảm hiệu quả kinh tế
trong thời gian dài hoặc hiệu quả của chu kỳ sản xuất sau. Do đó, chúng ta phải làm
thế nào để nâng cao hiệu quả kinh tế của từng giai đoạn mà vẫn bảo đảm hiệu quả
của giai đoạn dài. Trong thực tế không ít những trường hợp chỉ thấy lợi ích trước
mắt mà không thấy được lợi ích lâu dài. Những vi phạm này dễ xảy ra trong việc sử
dụng các yếu tố lâu dài của sản xuất như: tài nguyên thiên nhiên và môi trường, tài
sản và con người. Chẳng hạn, nhập về một số máy móc, thiết bị cũ kỹ, lạc hậu hoặc
xuất ồ ạt các loại tài nguyên thiên nhiên; hoặc giảm một cách tuỳ tiện thiếu cân nhắc
toàn diện và lâu dài các khoản chi phí cải tạo môi trường tự nhiên, đảm bảo môi
trường sinh thái, bảo dưỡng, hiện đại hoá và đổi mới tài sản cố định, nâng cao hoàn
thiện trình độ chất lượng người lao động nhờ đó làm cho mối tương quan thu chi
giảm đi, cho rằng như thế là có hiệu quả. Nhưng thực ra hiệu quả như thế không thể
coi là hiệu quả chính đáng và toàn diện được.
1.2.2. Về mặt không gian:
Có hiệu quả kinh tế hay không còn phụ thuộc vào chỗ hiệu quả của hoạt
động kinh tế cụ thể nào đó ảnh hưởng tăng hay giảm như thế nào đến hiệu quả kinh
tế của hệ thống có liên quan, tức là giữa ngành này với ngành khác, giữa các doanh
nghiệp trong cùng ngành, giữa hiệu quả kinh tế với việc thực hiện các nhiệm vụ
khác ngoài kinh tế.
Như vậy, với nỗ lực được tính từ giải pháp kinh tế tổ chức kỹ thuật nào đó
dự định áp dụng vào thực tiễn đều được đặt vào sự xem xét toàn diện. Điều đó đòi
hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh tế, phải đảm bảo phù hợp với
điều kiện của đất nước, địa phương, đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các lợi ích.
1.2.3. Về mặt định lượng:
Hiệu quả kinh tế phải được thể hiện ở mối tương quan “thu - chi” theo hướng
tăng thu giảm chi. Điều đó có nghĩa là tiết kiệm đến mức tối đa chi phí sản xuất
kinh doanh mà thực chất là hao phí lao động (lao động sống và lao động vật hoá) để
tạo ra một đơn vị sản phẩm và hao phí lao động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân
phải tăng chậm hơn mức tăng của tổng sản phẩm xã hội.
1.2.4. Về mặt định tính:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phải gắn liền với hoạt động chính trị - xã hội
và bị chi phối bởi mục tiêu về chính trị xã hội. Bản thân hai mặt chính trị - xã hội và
kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vì vậy hiệu quả kinh tế không được tách
rời với hiệu quả chính trị - xã hội. Dành được hiệu quả cao cho doanh nghiệp chưa
đủ mà còn đòi hỏi phải mang lại hiệu quả cho xã hội. Trong nhiều trường hợp hiệu
quả chính trị - xã hội là mặt có tính quyết định khi lựa chọn giải pháp kinh tế dù là
kinh tế nó chưa hoàn toàn được thoả mãn.
Vậy bản chất của hiệu quả kinh tế là gì ?
Bản chất của hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả lao động xã hội được xác
định bằng cách so sánh kết quả hữu ích cuối cùng thu được với hao phí lao động xã
hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết của vấn đề
8
hiệu quả kinh tế, gắn liền với hai quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội là: quy
luật tăng năng suất lao động và quy luật tiết kiệm thời gian. Thước đo của hiệu quả
là tiết kiệm hao phí lao động xã hội và tiêu chuẩn của hiệu quả là tối đa hoá kết quả
và tối đa hoá chi phí hay chính xác hơn là đạt hiệu quả tối đa với chi phí nhất định
hoặc ngược lại là kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Tiêu chuẩn để đánh giá
hiệu quả kinh tế của hệ thống quản lý kinh tế ở đây cũng không cố định mà biến
đông tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và trình độ quản lý
kinh tế đã đạt được ở mỗi giai đoạn. Xét riêng từng đơn vị sản xuất có thể dùng các
chỉ tiêu: năng xuất lao động cao, giá thành hạ, lợi nhuận hay tỷ suất lợi nhuận cao,
vòng quay vốn nhanh, thời gian thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhanh để nói
lên hiệu quả kinh tế riêng của mình. Còn chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là
chi phí tạo ra nguồn lực đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội (chi phí cơ hội là
giá trị của việc lựa chọn tốt nhất đã bị bỏ qua hay giá trị của sự hy sinh công việc
kinh doanh khác để thực hiện công việc kinh doanh này).
Chi phí cơ hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán và loại ra khỏi lợi
nhuận kế toán để thấy rõ được lợi ích kinh tế thật sự. Cách tính như vậy sẽ khuyến
khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương hướng kinh doanh tốt nhất, các mặt
hàng sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn.
Như vậy, đứng trên góc độ của nền kinh tế quốc dân, việc nâng cao hiệu quả
kinh tế của một doanh nghiệp phải luôn gắn chặt với hiệu quả kinh tế của toàn xã
hội, bảo đảm hiệu quả kinh tế cho toàn ngành và cho địa phương.
1.3. PHÂN LOẠI HIỆU QUẢ KINH TẾ.
Trong quản lý kinh tế, phạm trù hiệu quả kinh tế có thể biểu hiện ở nhiều
dạng khác nhau, biểu hiện những đặc trưng, ý nghĩa cụ thể của hiệu quả kinh tế.
Việc phân loại hiệu quả kinh tế theo những tiêu thức khác nhau có ý nghĩa thiết
thực với công tác thống kê, quản lý kinh tế. Nó là cơ sở để xác định các chỉ tiêu
hiệu quả kinh tế để từ đó những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế. Dưới đây là
một số cách phân loại hiệu quả kinh tế.
1.3.1. Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế quốc dân.
Hiệu quả kinh tế cá biệt: Là hiệu quả kinh tế thu được từ hoạt động của
từng đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh. Biểu hiện chung của hiệu quả kinh tế
cá biệt là lợi nhuận mà mỗi đơn vị đạt được.
Hiệu quả kinh tế quốc dân: Là lượng sản phẩm thặng dư mà toàn xã hội
thu được trong một thời kì xác định so với toàn bộ vốn sản xuất của toàn xã hội.
Giữa hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế quốc dân có mối quan hệ
mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ có thể đạt
được trong điều kiện các đơn vị kinh tế cơ sở tạo ra được sản phẩm thặng dư trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Bởi vì chính đơn vị cơ sở là nơi trực tiếp
kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm thặng dư. Nếu tất cả
các đơn vị cơ sở trong nền kinh tế quốc dân đều đảm bảo được hiệu quả kinh tế của
mình thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi đảm bảo hiệu quả kinh tế quốc dân. Tuy nhiên,
9
trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, nhiều doanh nghiệp không
theo nhịp độ phát triển chung của nền kinh tế (về vốn và công nghệ) không đạt hiệu
quả (bị lỗ) nhưng có thể trên bình diện của toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì vẫn đạt
hiệu quả. Nghĩa là tổng sản lượng sản phẩm thặng dư mà nền kinh tế thu được vẫn
lớn hơn tổng số lỗ của các đơn vị trên.
Ngược lại, sự tác động ngược từ cục diện chung của tổng thể nền kinh tế sẽ
thúc đẩy và hướng các doanh nghiệp hoạt động theo một cơ cấu lành mạnh. Với sự
điều tiết vĩ mô của Nhà nước, mỗi doanh nghiệp ngoài việc tạo ra hiệu quả cá biệt
cho đơn vị mình còn tạo nên hiệu quả về mặt xã hội như tạo công ăn việc làm, chất
lượng cuộc sống cho người lao động bảo đảm kết hợp hài hoà giữa lợi ích doanh
nghiệp với lợi ích toàn xã hội.
1.3.2. Hiệu quả kinh tế tuyệt đối và hiệu quả kinh tế so sánh.
Để phân tích lựa chọn các phương án, luận chứng kinh tế khác nhau trong
việc thực hiện nhiệm vụ cụ thể nào đó, từ đó lựa chọn một phương án tối ưu, cũng
như thể hiện và đánh giá trình độ sử dụng các chi phí trong hoạt động sản xuất kinh
doanh ta phải phân định rõ hai hiệu quả: hiệu quả kinh tế tuyệt đối và hiệu quả kinh
tế so sánh, mối tương quan giữa hai hiệu quả ấy.
Hiệu quả kinh tế tuyệt đối: Là lượng hiệu quả được tính toán cho từng
phương án cụ thể bằng cách xác định mức lợi ích thu được hoặc so sánh kết quả thu
được với lượng chi phí bỏ ra để thu được kết quả ấy. Từ đó mới quyết định bỏ ra
lượng chi phí đó không. Chẳng hạn như việc xác định sản phẩm thặng dư, tính toán
mức lợi nhuận thu được từ một đồng chi phí - giá thành sản xuất hoặc một đồng vốn
sản xuất.
Vì vậy, trong công cuộc quản lý doanh nghiệp, bất kỳ là công việc gì đều đòi
hỏi phải bỏ ra chi phí lao động sống và lao động vật hoá, do vậy dù là một lượng
lớn hay nhỏ cũng đều phải tính đến hiệu quả tuyệt đối. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ
trên hiệu quả kinh tế tuyệt đối để ra quyết định đầu tư thì ta chỉ xét được điều kiện
cần, còn điều kiện đủ thì ta phải kết hợp với hiệu quả so sánh.
Hiệu quả kinh tế so sánh: Khi tiến hành hai hay nhiều phương án đầu tư, ta
thường phải so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối nhằm đề ra phương án hiệu quả
nhất. Tác dụng của nó là để so sánh mức độ hiệu quả của các phương án. Từ đó cho
phép ta lựa chọn một cách làm đảm bảo mang lại hiệu quả cao nhất.
Rõ ràng trong điều kiện tiến bộ của khoa học công nghệ như ngày nay để giải
quyết một nhiệm vụ nào đó người ta không phải chỉ tìm thấy một cách (một phương
án, một con đường, một giải pháp) mà có thể đưa ra nhiều cách khác nhau, lượng
chi phí khác nhau, thời gian thực hiện và thời gian thu hồi vốn đầu tư bỏ ra cũng
khác nhau.
Ta nhận thấy phương thức giải quyết các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh là rất
đa dạng. Vì vậy muốn đạt hiệu quả kinh tế cao, người làm công tác quản lý không
nên tự trói mình vào một cách làm mà phải vận dụng trí thông minh để đưa ra nhiều
10
phương án khác nhau rồi so sánh hiệu quả kinh tế của các phương án đó rồi chọn ra
một phương án tối ưu cho doanh nghiệp mình.
Giữa hiệu quả so sánh và hiệu quả tuyệt đối có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, song chúng lại có tính độc lập tương đối. Trước hết, xác định hiệu quả tuyệt
đối là cơ sở để xét hiệu quả so sánh, nghĩa là trên cơ sở những chỉ tiêu hiệu quả
tuyệt đối của từng phương án, người ta so sánh mức hiệu quả ấy của từng phương
án với nhau, mức chênh lệch chính là hiệu quả so sánh. Như vậy, cũng có những chỉ
tiêu hiệu quả so sánh được xác định không phụ thuộc vào việc xác định hiệu quả
tuyệt đối.
1.3.3. Hiệu quả chi phí bộ phận và hiệu quả chi phí tổng hợp.
Như chúng ta đã biết, chi phí bỏ ra là chi phí lao động xã hội nhưng tại nơi
mà sản xuất kinh doanh mà chúng ta cần đánh giá hiệu quả thì chi phí lao động xã
hội lại được biểu hiện dưới dạng chi phí cụ thể: chi phí lao động sống, chi phí lao
động vật hoá bản thân mỗi loại chi phí này lại có thể được phân chia chi tiết, tỉ mỉ
hơn. Đánh giá hiệu quả kinh tế không thể không đánh giá hiệu quả của chi phí tổng
hợp, bởi vì xét hiệu quả kinh tế trên một góc độ, một quan điểm toàn diện thì mới
thấy rõ được thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác,
trong khi đánh giá từng yếu tố của quá trình sản xuất ta thấy có những yếu tố doanh
nghiệp sử dụng còn lãng phí, có những yếu tố doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả
cao. Vì vậy, nếu đánh giá hiệu quả kinh tế của việc sử dụng các yếu tố riêng biệt thì
ta không thể nào kết luận được doanh nghiệp sản xuất có hiệu quả hay không. Bởi
kết quả mà doanh nghiệp sản xuất ra được là do dựa trên toàn bộ chi phí mà doanh
nghiệp đã bỏ ra chứ không phải do một yếu tố nào, do đó khi đánh giá hiệu quả kinh
tế ta phải đánh giá hiệu quả kinh tế tổng hợp.
Hiệu quả chi phí bộ phận: Biểu hiện ở sự so sánh giữa kết quả chung của
hoạt động đang được xem xét với chi phí của các yếu tố chi phí, cấu thành chi phí
lao động xã hội. Tuỳ theo cách phân loại chi phí ta có thể có hiệu quả của mỗi loại
chi phí tương ứng trong cách phân loại đó. Ví dụ: hiệu quả của tài sản cố định, của
vốn cố định, của việc sử dụng nguyên vật liệu, của lao động sống
Hiệu quả kinh tế tổng hợp: Được tạo thành trên cơ sở hiệu quả sử dụng các
yếu tố của quá trình sản xuất. Nhìn chung, việc nâng cao hiệu quả từng yếu tố của
quá trình sản xuất là để nâng cao hiệu quả kinh tế tổng hợp, có thể không nhất thiết
phải đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí. Nhưng nó vẫn là việc thường làm
trong thực tế giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh được xác định đúng hướng, có
khả năng tạo được sự biến đổi tăng đáng kể hiệu quả kinh tế ngoài việc tính toán
hiệu quả các chi phí thành phần (chi phí bộ phận).
Hiệu quả tổng hợp được tạo thành trên cơ sở sử dụng các loại chi phí bộ
phận. Vì vậy, giữa hiệu quả của từng loại chi phí và hiệu quả tổng hợp có mối quan
hệ mật thiết với nhau. Nói chung, chỉ có thu được hiệu quả tổng hợp với điều kiện
các yếu tố của quá trình sản xuất được sử dụng có hiệu quả. Tuy nhiên trong thực
11
tế, có trường hợp một yếu tố nào đó sử dụng còn lãng phí nhưng những yếu tố khác
đảm bảo hiệu quả cao thì người ta vẫn thu được hiệu quả tổng hợp.
Cuối cùng cần nhấn mạnh là những biện pháp đưa ra bảo đảm tính đồng bộ,
có như vậy mới thể hiện được tính kế hoạch và tính toàn diện của công tác quản lý
của hiệu quả kinh tế thu được. Chẳng hạn, việc tăng cường quản lý lao động phải
gắn liền với việc xác định những biện pháp sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguyên vật
liệu và nâng cao trình độ sử dụng máy móc thiết bị về thời gian và công suất, không
thể chấp nhận đựơc tình trạng có những biện pháp chặt chẽ về sử dụng nguyên vật
liệu mà quản lý lao động lại buông lỏng hay không được quan tâm đúng mức.
1.4. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ TRONG
HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH.
1.4.1. Nâng cao hiệu quả kinh tế là yêu cầu của quy luật tiết kiệm:
Quy luật tiết kiệm là một trong những quy luật chung nhất mà sự phát triển
của mọi doanh nghiệp, mọi ngành, mọi xã hội phải tuân theo. Tiết kiệm theo nghĩa
chung nhất là bớt đi những hao phí về lao động sống, lao động quá khứ nhưng kết
quả như cũ hay cao hơn. Như vậy, giữa tiết kiệm và nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh bao hàm cả tiết kiệm nhưng tiết kiệm chỉ là một yếu tố của hiệu
quả vì trong đó ngoài yếu tố tiết kiệm còn nhiều yếu tố khác như: trình độ quản lý, ý
thức làm việc, tinh thần đoàn kết Vì vậy để có hiệu quả trong kinh doanh cần quán
triệt nguyên tắc tiết kiệm.
1.4.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là một tất yếu của nền
kinh tế thị trường:
Hiệu quả kinh tế là một công cụ cạnh tranh ưu việt nhất cho phép doanh
nghiệp xác lập sự thắng lợi trên thương trường là tiêu chuẩn đo lường sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp bằng sự nỗ lực, chủ động sáng tạo
của mình phải luôn hướng đến việc nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động sản
xuất kinh doanh, vì đó là một yêu cầu khắc khe của nền kinh tế thị trường gắn liền
với điều kiện sống còn của doanh nghiệp.
1.4.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh còn là con đường
quyết định đảm bảo sự thắng lợi của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa:
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang đi theo hướng kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta
xuất phát từ yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Tình hình chung hiện nay đa số
các doanh nghiệp hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp kém, năng suất lao động
còn thấp, nhiều đơn vị làm ăn thua lỗ, nợ nần tồn đọng lớn. Vì thế, để củng cố phát
triển nền kinh tế thì điều cơ bản và mấu chốt là các doanh nghiệp phải không ngừng
nâng cao hiệu quả kinh tế. Có như vậy mới tạo cơ sở vững chắc cho công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn hiện nay.
1.5. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ
SẢN XUẤT KINH DOANH.
12
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một vấn đề mà hầu hết các doanh nghiệp
đưa lên hàng đầu. Vì vậy mà các chuyên gia kinh tế rất chú ý đến các nhân tố tác
động trực tiếp cũng như gián tiếp lên hiệu quả.
• Môi trường vĩ mô:
1. Các yếu tố kinh tế: Các yếu tố này ảnh hưởng vô cùng lớn đến các đơn vị
kinh doanh. Các yếu tố kinh tế chủ yếu ảnh hưởng đến các doanh nghiệp là lãi suất
ngân hàng, các giai đoạn của chu kỳ kinh tế, cán cân thanh toán, chính sách tài
chính và tiền tệ
2. Yếu tố chính phủ và chính trị: Các yếu tố chính phủ và chính trị có ảnh
hưởng ngày càng lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp. Vấn đề cụ thể là các
doanh nghiệp phải tuân theo các quy định về thuê mướn, cho vay, an toàn vật giá,
quảng cáo, nơi đặt nhà máy và bảo vệ môi trường.
Hoạt động của chính phủ cũng tạo ra cơ hội hoặc nguy cơ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhìn chung, các doanh nghiệp hoạt động được là vì điều kiện xã hội cho
phép. Chừng nào xã hội không còn chấp nhận các điều kiện và bối cảnh thực tế nhất
định, thì xã hội sẽ rút lại sự cho phép đó bằng cách đòi hỏi chính phủ phải can thiệp
bằng các chế độ chính sách hoặc thông qua hệ thống pháp luật. Qua đó cho thấy
mọi hoạt động của chính phủ đều có thể ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh.
3. Các yếu tố xã hội: Tất cả các nhà quản lý phải phân tích một dãi rộng các
yếu tố xã hội ổn định, những cơ hội đe dọa tiềm tàng. Thay đổi một tổng hợp nhiều
yếu tố có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp, những xu hướng dân số, khuôn mẫu tiêu
khiển, khuôn mẫu hành vi xã hội ảnh hưởng phẩm chất đời sống cộng đồng kinh
doanh.
4. Các yếu tố tự nhiên: Các doanh nghiệp kinh doanh đã từ lâu nhận ra
những tác động của hoàn cảnh thiên nhiên vào quyết định kinh doanh của họ. Tuy
nhiên, các yếu tố này liên quan đến việc bảo vệ môi trương thiên nhiên đã gần như
hoàn toàn bị bỏ quên cho tới gần đây. Sự quan tâm của những nhà kinh doanh ngày
càng tăng, phần lớn sự quan tâm của công chúng gia tăng là đối với phẩm chất môi
trường thiên nhiên.
Tất cả các vấn đề đó các nhà quản trị chiến lược nói riêng các nhà quản lý
nói chung phải có những quyết định và những hướng đi làm giảm ảnh hưởng tối đa
đến thiên nhiên, cụ thể là làm giảm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
5. Yếu tố công nghệ và kỹ thuật: Ít có ngành công nghiệp và doanh nghiệp
nào là không phụ thuộc vào công nghệ, nhất là khi nhu cầu về chất lượng ngày càng
tăng, cơ sở công nghệ ngày càng hiện đại và sẽ còn có nhiều công nghệ tiên tiến tiếp
tục ra đời, tạo ra các cơ hội cũng như thách thức đối với các ngành công nghiệp và
doanh nghiệp nhất định. Các nhà nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ
hàng đầu nói chung đang lao vào công việc tìm các giải pháp kỹ thuật mới nhằm
13
giải quyết các vấn đề tồn tại, xác định các công nghệ hiện đại có thể khai thác trên
thị trường. Chính sự đột biến về công nghệ nên buộc các nhà quản lý doanh nghiệp
phải đầu tư vào công nghệ, chính công nghệ góp phần làm cho hao mòn hữu hình
tăng. Chính hao mòn này tác động trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh trong doanh nghiệp.
• Môi trường vi mô:
1. Bộ máy quản lý: Các nhân tố về trình độ tiến bộ kỹ thuật, trình độ tổ chức
sản xuất, trình độ khai thác và sử dụng các nguồn lực là những nhân tố có ảnh
hưởng quyết định trực tiếp hay gián tiếp đến từng mặt, từng lĩnh vực của vấn đề
nâng cao hiệu quả kinh tế. Những nhân tố này cũng không phát huy được đầy đủ và
có hiệu quả đối với sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nếu không có sự tác động
của quản lý. Có thể nói trình độ quản lý là một nhân tố tổng hợp, có ý nghĩa quyết
định đối với sự sống còn, tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, của một ngành
và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trình độ hoàn thiện bộ máy quản lý thể hiện
qua công tác kế hoạch, tổ chức, điều khiển và kiểm soát.
2. Những khách hàng: Khách hàng là người quyết định đầu ra của doanh
nghiệp. Khách hàng trung thành là một lợi thế lớn cho doanh nghiệp, có thể đứng
vững trên thị trường truyền thống, lượng khách hàng tăng lên giảm xuống cũng ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Một vấn đề khác cũng liên quan đến khách hàng là khả năng thanh toán của
họ. Người mua có ưu thế có thể làm cho lợi nhuận của ngành hàng giảm bằng cách
ép giá hoặc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn và phải làm nhiều công việc dịch
vụ hơn.
3. Nhà cung cấp: Các doanh nghiệp bao giờ cũng liên kết với nhũng nhà
cung cấp để được cung ứng các loại tài nguyên khác nhau như nguyên vật liệu, thiết
bị, công nghệ, nhân công, vốn Các nhà cung cấp có thể gây áp lực mạnh trong
hoạt động của một doanh nghiệp. Cho nên việc nghiên cứu để tìm hiểu hết về những
nhà cung cấp các nguồn lực, tìm kiếm các nhà cung cấp mới và tính chất ràng buộc
họ cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
4. Nguồn lao động: Các yếu tố cần đánh giá gồm: trình độ đào tạo, trình độ
chuyên môn của người lao động, mức độ hấp dẫn tương đối của doanh nghiệp với
tư cách là người sử dụng lao động và mức tiền công thoả đáng.
1.6. CÁC QUAN ĐIỂM ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
Để thực hiện nhiệm vụ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp đòi hỏi phải nghiên cứu đầy đủ các phương pháp đánh giá hiệu quả, muốn
vậy chúng ta cần phải quán triệt các điểm cơ bản sau:
+ Bảo đảm sự thống nhất giữa các nhiệm vụ chính trị và kinh doanh trong
việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
14
+ Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích xã hội, lợi ích tập thể, lợi ích
người lao động.
+ Bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả kinh
doanh.
+ Bảo đảm tính thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
+ Phải căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về hiện vật và giá trị để đánh giá hiệu
quả kinh doanh, nghĩa là một mặt phải căn cứ vào số lượng hàng hoá thực hiện và
giá trị thu nhập của những hàng hoá đó theo giá cả tiêu thụ trên thị trường.
1.7. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ.
Đối tượng nghiên cứu của phân tích hoạt động kinh tế là diễn biến và kết
quả của hoạt động sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp. Đặc điểm của hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có nội dung và kết cấu phức tạp được bảo
đảm bằng những số liệu dường như ngẫu nhiên che dấu bản chất hoạt động thực sự
của doanh nghiệp. Để nhận thức và cải tạo hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp
với điều kiện khách quan nhằm nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp cần phải có hệ thống phương pháp khoa học gồm nhiều phương pháp có tính
chất nghiệp vụ kỹ thuật để đi sâu xem xét, giải thich rút ra kết luận về những hiện
tượng và quá trình kinh tế. Có rất nhiều phương pháp đánh giá, ở đây chúng ta chỉ
xét hai phương pháp đánh giá: phương pháp so sánh và phương pháp phân tích.
1.7.1. Phương pháp so sánh:
Một chỉ tiêu hiệu quả kinh tế đơn thuần vẫn chưa thể hiện đầy đủ mức đạt
được ở một doanh nghiệp như thế nào. Thông qua phương pháp so sánh chúng ta
mới có thể thấy được sự tăng trưởng, phát triển hay những bước đi thụt lùi đối với
hoạt động của một doanh nghiệp. Vì vậy trong phương pháp này chúng ta phải so
sánh mức hiệu quả giữa các năm như thế nào, năm nay cao hơn hay thấp hơn so với
năm trước. Trên cơ sở đó tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tăng hay
giảm của hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó chúng ta mới có
biện pháp phát huy hay khắc phục.
Chúng ta không thể chỉ so sánh tình hình hiệu quả kinh tế giữa các năm mà
còn xem xét mối quan hệ giữa tình hình thực tế so với kế hoạch để thấy rõ mức độ
thực hiện của doanh nghiệp như thế nào, tức là xác định xu thế phát triển hay mức
độ phấn đấu trong năm của doanh nghiệp.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay thì
việc xem xét hiệu quả kinh tế trong sự so sánh chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của đơn vị
mình với các chỉ tiêu thực hiện hiệu quả kinh tế bình quân của ngành và của doanh
nghiệp có điều kiện sản xuất kinh doanh tương tự trên địa bàn là việc làm rất bổ ích
và rất quan trọng, nhằm thấy được điểm mạnh và điểm yếu của chính mình. Qua đó
phát huy được thế mạnh trong cạnh tranh và học hỏi từ đơn vị khác.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu các sự kiện kinh tế trong trạng thái động và luôn
phát triển nên chúng ta phải xem xét ở cả hai mặt thời gian và không gian.
15
Một ưu điểm lớn của phương pháp so sánh là cho phép tách ra những nét
chung, nét riêng của các hiện tượng được so sánh.Trên cơ sở đó đánh giá được các
mặt phát triển hay kém phát triển, hiệu quả hay không hiệu quả để tìm các phương
pháp hợp lý và tối ưu trong mỗi trường hợp cụ thể.
Tuỳ theo mục đích yêu cầu của phát triển, tính chất và nội dung của các chỉ
tiêu kinh tế mà chúng ta sử dụng, các khoảng thời gian so sánh thích hợp. Ta có thể
sử dụng một số biện pháp sau:
1.7.1.1. So sánh số tuyệt đối:
- Số tuyệt đối là mức độ biểu hiện quy mô, khối lượng giá trị của một chỉ tiêu
kinh tế nào đó trong thời gian và điạ điểm cụ thể. Nó có thể tính bằng thước đo hiện
vật, giá trị, giờ công. Số tuyệt đối là cơ sở để tính các trị số khác.
- So sánh tuyệt đối giữa các chỉ tiêu kinh tế giữa kỳ kế hoạch và kỳ thực tế
giữa những khoảng thời gian khác nhau, không gian khác nhau để thấy được mức
độ hoàn thành kế hoạch, quy mô phát triển các chỉ tiêu kinh tế nào đó.
1.7.1.2. So sánh số tương đối:
Số tương đối là số biểu thị dưới dạng phần trăm (%), số tỷ lệ hoặc hệ số sử
dụng. Số tương đối có thể đánh giá được sự thay đổi kết cấu của hiện tượng kinh tế
nhưng không phản ánh được thực chất bên trong cũng như quy mô của hiện tượng
kinh tế.
Do vậy khi so sánh, chúng ta không chỉ dừng lại ở con số tương đối hay tuyệt
đối mà cần phải có sự kết hợp đồng thời cả hai phương pháp.
a. Số tương đối kết cấu:
Biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ giữa mức độ đạt được của bộ phận chiếm trong
mức độ đạt được của tổng thể về một chỉ tiêu kinh tế nào đó.
Mức độ đạt được của bộ phận x 100%
Số tương đối kết cấu =
Mức độ đạt được của tổng thể
b. Số tương đối động thái:
So sánh mức độ đạt được của chỉ tiêu kinh tế về hai khoảng thời gian khác
nhau, biểu hiện bằng số lần hay số phần trăm (%).Có thể tính theo kỳ gốc liên hoàn
hoặc cố định tuỳ theo mục đích nghiên cứu.
Mức độ kỳ nghiên cứu (lần hoặc%)
Số tương đối động thái =
Mức độ đạt được của tổng thể
1.7.1.3. So sánh số bình quân:
Số bình quân là số phản ánh mặt chung nhất của hiện tượng bỏ qua sự phát
triển không đồng đều của các bộ phận cấu thành hiện tượng kinh tế, số bình quân có
thể biểu thị dưới dạng số tuyệt đối (năng suất lao động bình quân, tồn kho bình
quân ), cũng có thể biểu thi dưới dạng số tương đối (tỷ suất chi phi bình quân, tỷ
16
suất doanh lợi bình quân ). Cần lưu ý số bình quân không tồn tại trong thực tế. Khi
sử dụng số bình quân cần tính các khoản dao động tối đa, tối thiểu.
Các điều kiện để thực hiện so sánh các chỉ tiêu kinh tế:
+ Phải thống nhất về nội dung phản ánh.
+ Phải thống nhất về phương pháp tính toán.
+ Số liệu thu thập được của các chỉ tiêu kinh tế phải có cùng một khoảng thời
gian tương ứng.
+ Các chỉ tiêu kinh tế phải cùng một đại lượng biểu hiện về mặt giá trị để
đảm bảo được tính so sánh giữa các năm thì chúng ta cần loại trừ sự ảnh hưởng của
sự biến động giá cả trên thị trường, do vậy chúng ta nên quy đổi các chỉ tiêu giá trị
về cùng một thời điểm nào đó để có thể đảm bảo mức đồng bộ trong phương pháp
so sánh.
Phương pháp này chưa cho thấy mức độ ảnh hưởng của các nguyên nhân đến
hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, để đi sâu hơn hiện tượng
nghiên cứu thì chúng ta tiến hành phương pháp phân tích.
1.7.2. Phương pháp phân tích:
Để thấy được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến các chỉ tiêu hiệu quả
chúng ta sử dụng phương pháp số chênh lệch và phương pháp hiệu số phần trăm
(%).
Cần lưu ý rằng các nhân tố ảnh hưởng đến hiện tượng nghiên cứu phải có
mối quan hệ hữu cơ với nhau và có mối quan hệ nhân quả với nhau. Các nhân tố
ảnh hưởng trong mỗi hiện tượng nghiên cứu được sắp xếp theo một đối tượng phụ
thuộc kế tiếp nhân quả của các nhân tố trong hiện tượng đó, tức là phải sắp xếp theo
thứ tự từ nhân tố số lượng đến nhân tố chất lượng.
Tổng quát của phương pháp phân tích:
Giả sử chỉ tiêu Z chịu ảnh hưởng của 3 nhân tố a, b, c. Chúng ta có mối quan
hệ và được sắp xếp theo trình tự từ nhân tố số lượng đến nhân tố chất lượng bằng
công thức sau:
Z = a x b x c
- Ở kỳ thực tế năm trước hay kỳ kế hoạch năm nay ta có:
Z
0
= a
0
x b
0
x c
0
- Ở kỳ thực tế năm nay ta có:
Z
1
= a
1
x b
1
x c
1
- Đối tượng phân tích là:
Z = Z
1
- Z
0
1.7.2.1. Phương pháp số chênh lệch:
+ Thay a
0
= a
1
.
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố a đến Z.
17
Z
a
= (a
1
- a
0
) x b
0
x c
0
.
+ Thay b
0
= b
1
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố b đến Z.
Z
b
= (b
1
- b
0
) x a
1
x c
0
.
+ Thay c
0
= c
1
.
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố c đến Z.
Z
c
= (c
1
- c
0
) x a
1
x b
1
.
1.7.2.2. Phương pháp hiệu số phần trăm:
+ Thay a
0
= a
1
.
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố a đến Z.
Z
a
= (a
1
/a
0
x 100% - 100%) x Z.
+ Thay b
0
= b
1
.
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố b đến Z.
Z
b
= ((a
1
/a
0
) x (b
1
/b
0
) x 100% - (a
1
/a
0
) x 100%) x Z.
+ Thay c
0
= c
1
.
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố c đến Z.
Z
c
= ((a
1
/a
0
) x (b
1
/b
0
) x (c
1
/c
0
) x 100% - (a
1
/a
0
) x (b
1
/b
0
) x 100%) x Z.
Quá trình vận động và phát triển sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp luôn
tồn tại mâu thuẫn và đấu tranh giữa các mặt đối lập như lãng phí và tiết kiệm, tiên
tiến và lạc hậu giải quyết được mâu thuẫn này thì phát sinh mâu thuẫn mới. Việc
giải quyết các mâu thuẫn chính là động lực của sự phát triển. Phân tích để đánh giá
hiệu quả sản xuất kinh doanh không chỉ phân tích các sự kiện kinh tế trong những
điểm thời gian và không gian khác nhau, phân tích các bộ phận cấu thành nên các
sự kiện kinh tế mà vấn đề quan trọng là rút ra bản chất của sự kiện kinh tế, mâu
thuẫn trong sự phát triển của sự kiện kinh tế, trên cơ sở đó mới thấy được khả năng
tiềm tàng và những hạn chế để tìm phương pháp giải quyết.
1.8. HỆ THỐNG CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH
DOANH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP.
Muốn đánh giá một cách toàn diện các mặt của hiệu quả kinh tế hoạt động
sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp, ngoài việc xem xét sự tác động của
từng mặt hoạt động đối với yêu cầu thực hiện mục tiêu còn cần so sánh chính xác
kết quả sản xuất kinh doanh đã đạt được với các chi phí đã bỏ ra để đạt được kết
quả đó. Xác định đúng đắn các tiêu chuẩn và hệ thống một số chỉ tiêu hiệu quả kinh
tế trong sản xuất kinh doanh sẽ cho phép xem xét đầy đủ cả hai mặt: chất lượng và
số lượng của hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh. Sự thống nhất giữa số
lượng và chất lượng của hiệu quả kinh tế được thể hiện ở sự thống nhất giữa tiêu
chuẩn và hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế.
Khi xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cân phải
dựa vào một hệ thống tiêu chuẩn, các doanh nghiệp phải coi các tiêu chuẩn là mục
18
tiêu phấn đấu. Cũng có thể nói rằng: doanh nghiệp có thể đạt được các tiêu chuẩn
này thì mới có thể đạt được các chỉ tiêu về kinh tế, chính trị và xã hội. Hệ thống tiêu
chuẩn đó bao gồm:
+ Doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường nhưng phải tuân thủ sự
quản lý vĩ mô của Nhà nước theo hệ thống pháp luật hiện hành.
+ Phải kết hợp hài hoà giữa 3 lợi ích: cá nhân, tập thể và Nhà nước. Tuyệt
đối không vì lợi ích cá nhân mà làm tổn hại lợi ích tập thể và xã hội.
+ Lợi nhuận mà doanh nghiệp kiếm được phải dựa trên cơ sở vận dụng linh
hoạt sáng tạo của nền sản xuất hàng hoá.
+ Mức thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp (v+m) tính trên một lao động
phải thường xuyên tăng lên. Tiêu chuẩn này phản ánh chính xác hiệu quả kinh
doanh và hiệu quả của lao động, một yếu tố quyết định nhất, loại trừ được ảnh
hưởng của yếu tố (c) trong giá trị của hàng hoá. Sử dụng tiêu chuẩn này phù hợp với
tiêu chuẩn của nền sản xuất xã hội và tính thu nhập quốc dân theo đầu người. Tiêu
chuẩn thu nhập thuần tuý trên một lao động được xác định như sau:
( Ci +Vi + mi ) Qi - ( Ci x Qi )
TN
bq
=
LĐ
Trong đó:
TN bq: Thu nhập thuần tuý bình quân tính trên một lao động.
(Ci +Vi +mi): Giá trị của một sản phẩm loại i.
Qi: Số lượng sản phẩm hàng hoá loại i.
Ci: Giá trị tư liệu sản xuất đã sử dụng để sản xuất một loại sản phẩm loại i.
LĐ: Số lao động sử dụng trong sản xuất kinh doanh.
1.9. THƯỚC ĐO CƠ BẢN ĐÁNH GIÁ DOANH NGHIỆP KINH DOANH CÓ
HIỆU QUẢ.
+ Tỷ suất lợi nhuận cao, tự tích luỹ đến tái đầu tư mở rộng hoạt động kinh
doanh.
+ Tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ
đến hạn.
+ Bảo toàn được vốn, tăng trưởng vốn nhanh có dự trữ để tự bảo hiểm.
+ Đóng góp cho ngân sách Nhà nước ngày càng tăng.
+ Cải thiện đời sống cho người lao động.
Để đánh giá đúng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải đi sâu phân
tích các nội dung trên.
1.9.1. Lợi nhuận:
19
Thể hiện mục đích kinh doanh, là chỉ tiêu đánh giá tổng hợp hiệu quả và chất
lượng của doanh nghiệp, giúp các nhà đầu tư đánh giá mục đích đầu tư của mình đạt
hiệu quả hay không.
Phương pháp phân tích là:
So sánh các bộ phận cấu thành lợi nhuận của doanh nghiệp vối kế hoach và
các năm trước, bao gồm:
+ Lợi nhuận về hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Lợi nhuận về hoạt động tài chính.
+ Lợi nhuận bất thường.
1.9.2. Đánh giá khái quát về tình hình tài chính doanh nghiệp:
1.9.2.1. Tỷ suất đầu tư TSCĐ:
TSLĐ và đầu tư dài hạn
Tỷ suất đầu tư TSCĐ =
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh tình hình đầu tư chiều sâu, tình hình trang bị cơ sở vật
chất kỹ thuật, xây dựng của doanh nghiệp. Nó cho biết năng lực và xu hướng phát
triển lâu dài của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào từng ngành nghề kinh
doanh cụ thể, như đối với doanh nghiệp hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng thì tỷ
suất này chiếm khoảng 0,5 là tốt.
1.9.2.2. Tỷ suất đầu tư TSLĐ:
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
Tỷ suất đầu tư TSLĐ =
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh trong tổng số tài sản có trong doanh nghiệp thì tài sản
lưu động và đầu tư ngắn hạn chiếm bao nhiêu phần trăm. Chỉ tiêu này được đánh
giá hợp lý hay không phụ thuộc vào từng ngành kinh doanh cụ thể.
1.9.2.3. Tỷ số nợ:
Nợ phải trả
Tỷ số nợ =
Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu này phản ánh: trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp có bao nhiêu
phần trăm giá trị tài sản được hình thành từ nguồn vay nợ. Tỷ số này càng lớn thì
tính rủi ro càng cao.
Các nhà đầu tư một mặt quan tâm đến khả năng trả lãi, mặt khác họ chú
trọng sự cân bằng hợp lý giữa nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu, bởi vì điều này
ảnh hưởng đến sự đảm bảo tín dụng của nhà cho vay.
Đối với chủ sở hữu, họ thích tỷ lệ này cao bởi vì điều này cóthể tạo ra lợi
nhuận nhiều hơn nhưng lại không sử dụng vốn chủ sở hữu.
Đối với bên cho vay, họ lại thích tỷ lệ này thấp hơn vì đảm bảo mức độ an
toàn càng cao cho nhà cung cấp tín dụng và đảm bảo trả nợ trong trường hợp doanh
nghiệp bị phá sản.
20
1.9.2.4. Tỷ số tài trợ:
Vốn chủ sở hữu
Tỷ số tài trợ =
Tổng nguồn vốn
Hay Tỷ số tài trợ = 1 - tỷ số nợ.
Chỉ tiêu này thể hiện sự góp vốn của chủ sở hữu vào quá trình kinh doanh.
Tỷ số này phản ánh khả năng tự chủ về mặt tài chính, từ đó thấy được khả năng chủ
động của doanh nghiệp hay mức độ độc lập của doanh nghiệp đối với các chủ nợ.
Nếu tỷ số này càng lớn thì uy tín của doanh nghiệp càng cao và là cơ sở cho các chủ
nợ tin tưởng vào khả năng thanh toán vì tình hình tài chính của doanh nghiệp biến
chuyển theo xu hướng tốt, nó biểu hiện hiệu quả kinh doanh tăng, tích luỹ nội bộ
tăng hay doanh nghiệp mở rộng liên doanh liên kết. Ngược lại doanh nghiệp có lợi
nhưng mức độ rủi ro cao.
1.9.3. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán.
Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp luôn tồn tại các khoản phải thu,
phải trả. Tình hình thanh toán các khoản này phụ thuộc vào phương thức thanh toán
áp dụng chế độ trích nộp các khoản cho ngân sách Nhà nước, sự thoả thuận giữa các
đơn vị kinh tế. Sự thanh toán ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất kinh doanh. Nếu vốn
bị chiếm dụng quá nhiều thì doanh nghiệp sẽ không đủ vốn trang trải cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, nên kết quả sản xuất kinh doanh giảm. Mặt khác tình hình
thanh toán còn thể hiện một phần năng lực tài chính của doanh nghiệp. Vì thế cần
phân tích tình hình thanh toán để thấy rõ hơn tình hình hoạt động tài chính của
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh trước hết phải có khả năng
chi trả các khoản nợ thông qua việc phân tích chỉ số về khả năng thanh toán.
1.9.3.1. Hệ số thanh toán hiện hành:
Tổng tài sản
Khả năng thanh toán hiện hành =
Nợ phải trả
Chỉ tiêu này đánh giá thực trạng tổng quát tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bình thường thì hệ số này luôn luôn
lớn hơn một ( >1). Nếu hệ số này bằng hoặc nhỏ hơn một (<=1) nghĩa là doanh
nghiệp đã mất hết vốn chủ sở hữu và doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản. Vì vậy
cần phân tích cụ thể từng khoản nợ, từng khoản tổn thất làm giảm khả năng thanh
toán của doanh nghiệp, nêu rõ nguyên nhân và biện pháp xử lý từng khoản.
1.9.3.2. Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn:
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
Khả năng thanh toán ngắn hạn =
Nợ ngắn hạn
Hệ số này cho thấy khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn (phải thanh
toán trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh) của doanh nghiệp là cao hay
thấp. Hệ số này càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn càng tốt. Tuy nhiên,
21
nếu cao quá sẽ không tốt vì nó phản ánh doanh nghiệp đầu tư quá mức vào TSLĐ so
với nhu cầu vốn của doanh nghiệp hoặc có thể do hàng hoá tồn kho, ứ đọng quá
lớn TSLĐ dư thừa không tạo thêm doanh thu, do đó vốn sử dụng không có hiệu
quả.
Thông thường, hệ số này phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề, lĩnh vực kinh
doanh, dự trữ theo mùa vụ Nếu nó lớn hơn một (>1) thì doanh nghiệp đủ khả năng
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính bình thường hoặc khả quan.
Ngược lại, doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng khó khăn trong thanh toán, thậm
chí lâm vào tình trạng phá sản.
1.9.3.3. Hệ số thanh toán nhanh:
Tiền + Tương đương tiền
Khả năng thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này chứng minh khả năng thanh toán tức thời (ngay lúc phát sinh
nhu cầu vốn) đối vối các khoản nợ đến hạn trả. Thông thường chỉ tiêu này dao động
lớn hơn 0,5 là tốt. Nếu chỉ tiêu này lớn hơn hoặc bằng 1 khẳng định doanh nghiệp
có khả năng chi trả công nợ, nhưng doanh nghiệp đang giữ quá nhiều tiền, gây ứ
đọng vốn, do đó hiệu quả sử dụng vốn không cao. Nếu tỷ số này dưới 0,1 thì doanh
nghiệp đang gặp khó khăn về tiền để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh và thanh
toán công nợ đến hạn, vì vậy doanh nghiệp phải có hướng để tăng tiền và các khoản
đầu tư tài chính ngắn hạn.
1.9.4. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình hoạt động.
1.9.4.1. Tình hình sử dụng hàng tồn kho:
a. Số vòng luân chuyển hàng tồn kho:
Giá vốn hàng bán
Số vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho bình quân
Trong đó:
Tồn kho đầu kỳ + Tồn kho cuối kỳ
Hàng tồn kho bình quân =
2
Vòng quay vốn hàng tồn kho càng cao chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động có
hiệu quả, giảm được vốn đầu tư dự trữ, rút ngắn được chu kỳ chuyển đổi hàng dự
trữ thành tiền mặt và giảm bớt nguy cơ hàng tồn kho của doanh nghiệp trở thành
hàng ứ đọng.
Nếu vòng quay vốn hàng tồn kho quá cao, dẫn đến khả năng doanh nghiệp
không đủ hàng hoá thoả mãn nhu cầu bán hàng, làm cho doanh nghiệp mất khách
hàng. Ngược lại, hàng tồn kho của doanh nghiệp dự trữ quá mức cần thiết, gây ứng
đọng vốn, hoặc hàng hoá không phù hợp với nhu cầu thị trường, tiêu thụ chậm
gây lãng phí vốn, chi phí sử dụng vốn cao do đó ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng
vốn của doanh nghiệp.
b. Kỳ luân chuyển hàng tồn kho:
22
Số ngày trong kỳ
Kỳ luân chuyển hàng tồn kho =
Số vòng quay hàng tồn kho
Kỳ luân chuyển hàng tồn kho là số ngày cần thiết hàng tồn kho quay được
một vòng hay nói cách khác, để hàng tồn kho quay được một vòng thì phải cần một
khoản thời gian bình quân là bao nhiêu ngày. Nếu số ngày luân chuyển càng lớn thì
việc quay vòng hàng tồn kho chậm, điều này cũng đồng nghĩa với việc dự trữ
nguyên nhiên vật liệu quá mức hoặc hàng hoá trong doanh nghiệp tồn kho quá
nhiều và ngược lại.
1.9.4.2. Tình hình luân chuyển các khoản phải thu:
a. Số vòng quay các khoản phải thu:
Doanh thu và thu nhập khác
Số vòng quay các khoản phải thu =
Các khoản phải thu bình quân
Trong đó:
Phải thu đầu kỳ + Phải thu cuối kỳ
Các khoản phải thu bình quân =
2
Chỉ tiêu này cho biết mức độ hợp lý của số dư các khoản phải thu và hiệu
quả của việc thu hồi nợ. Nếu số vòng luân chuyển các khoản phải thu càng cao thì
doanh nghiệp ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên số vòng này quá cao sẽ không tốt vì
ảnh hưởng đến khối lượng hàng tiêu thụ do phương thức thanh toán quá chặt chẽ.
b. Kỳ thu tiền bình quân:
Số ngày trong kỳ
Kỳ thu tiền bình quân =
Số vòng quay các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân là số ngày cần thiết bình quân để thu hồi các khoản
phải thu trong kỳ, hay nói cách khác chỉ tiêu này cho thấy để thu được các khoản
phải thu cần một khoản thời gian bình quân là bao nhiêu.
Nếu số ngày càng lớn thì việc thu hồi các khoản phải thu chậm và ngược lại.
Tuy nhiên, kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp trong nhiều trường hợp chưa có thể
kết luận chắc chắn mà phải xem xét lại các mục tiêu và chính sách của doanh
nghiệp như mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín dụng của doanh nghiệp
1.9.4.3. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động:
Doanh thu và thu nhập khác
Hiệu suất sử dụng vốn lưu động =
Vốn lưu động
Chỉ tiêu này cho phép ta đánh giá mức độ sẽ thu về bao nhiêu đồng doanh
thu tiêu thụ hàng hoá khi bỏ ra một đồng vốn lưu động.
1.9.4.4. Hiệu suất sử dụng vốn cố định:
Doanh thu và thu nhập khác
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =
Vốn cố định
23
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tham gia vào quá trình sản xuất
sẽ thu được bao nhiêu đồng doanh thu. Đối với doanh nghiệp thì chỉ tiêu này càng
cao càng tốt, điều đó doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
1.9.4.5. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định:
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
Nguyên giá TSCĐ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng nguyên giá tài sản cố định bỏ ra trong quá
trình sản xuất sẽ thu được bao nhiêu đồng doanh thu.
Tài sản cố định là một trong 3 yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh
doanh, là tư liệu lao động chủ yếu có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài được sử
dụng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc
thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc và cả những tài
sản không có hình thái vật chất như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí mua
bằng sáng chế, chi phí đầu tư khai hoang cải tạo đất
Thông thường TSCĐ tăng thêm do mua mới, do đã hoàn thành xây dựng cơ
bản đưa vào sản xuất, TSCĐ được phép đưa vào sử dụng và TSCĐ từ nơi khác
chuyển đến.
Còn trường hợp TSCĐ giảm do loại bỏ TSCĐ chuyển từ sử dụng sang dự trữ
hoặc điều đình sử dụng do quyết định của cấp trên và TSCĐ được điều động đi nơi
khác.
Trong quá trình sử dụng, giá trị TSCĐ sẽ hao mòn dần và được tính vào một
yếu tố của chi phí của doanh nghiệp và được bù đắp lại bằng khoản tiền tương ứng
trích từ tiền thu về bán sản phẩm của doanh nghiệp. Việc tính toán chính xác số tiền
khấu hao có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định lời lỗ đồng thời đảm bảo
nguồn vốn đầy đủ cho việc tái tạo TSCĐ. Do vậy doanh nghiệp cần phải xác định
chính xác giá trị TSCĐ để việc tinh khấu hao được chính xác, đồng thời xác định
đúng kết quả kinh doanh trong kỳ.
1.9.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả( Sức sinh lời )
Lợi nhuận là một hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế của doanh
nghiệp. Tuy nhiên nó chưa phản ánh đúng hiệu quả sản xuất kinh doanh bởi vì chỉ
tiêu này không chỉ chịu tác động của bản thân chất lượng công tác mà còn ảnh
hưởng bởi quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Vì vậy để đánh giá đúng đắn hiệu
quả sản xuất kinh doanh phải sử dụng và phân tích chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận.
Phương pháp phân tích:
So sánh lợi nhuận với các năm trước, với các doanh nghiệp cùng ngành trên
địa bàn ở các mặt:
1.9.5.1. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (Doanh lợi doanh thu):
Lợi nhuận thuần từ HĐSXKD
Tỷ suất lợi nhuận/Doanh thu =
Doanh thu thuần trong kỳ
24
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu thuần thực hiện trong kỳ thì sẽ
đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chỉ tiêu này phản ánh sự biến động của giá bán với sự biến động của chi phí,
là khía cạnh quan trọng giúp cho doanh nghiệp nghiên cứu quá trình hoạt động với
chiến lược kinh doanh. Nếu giá bán vẫn giữ nguyên, nhưng tỷ lệ này vẫn giảm thì ta
kết luận là chi phí tăng lên. Lúc này ta phải xem xét doanh nghiệp có cần thiết phải
tăng chi phí để giữ vững thị phần hay không?
1.9.5.2. Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành (Doanh lợi giá thành):
Là tỷ số giữa lợi nhuận và giá thành của toàn bộ sản lượng hàng hoá.
L ợ i nhuận thuần từ HĐSXKD
Tỷ suất lợi nhuận/Giá thành =
Tổng giá thành toàn bộ
Chỉ tiêu này cho thấy rõ một đồng chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tạo
ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.9.5.3. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn lưu động:
Lợi nhuận thực hiện
Tỷ suất lợi nhuận/Vốn lưu động =
Vốn lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động làm ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận trong một kỳ kinh doanh. Hệ số này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn
lưu động càng cao.
1.9.5.4. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cố định:
Lợi nhuận thực hiện
Tỷ suất lợi nhuận/Vốn cố định =
Vốn cố định
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tham gia vào quá trình sản xuất
sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận tạo ra càng nhiều chứng tỏ hiệu
quả sử dụng vốn cố định càng cao.
1.9.5.5. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản ( Doanh lợi tổng vốn)
Chỉ rõ một đồng vốn chủ sở hữu sau một năm kinh doanh mang lại bao nhiêu
đồng lợi nhuận.
Lợi nhuận thực hiện
Tỷ suất lợi nhuận/Tổng tài sản =
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn tham gia vào sản xuất
kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này là chỉ tiêu chất
lượng và có tính tổng quát nhất. Thông thường người ta lấy chỉ tiêu này để so sánh
với việc dùng số vốn đó trong kỳ doanh nghiệp không kinh doanh mà đem đầu tư
vào ngân hàng thì tỷ số này có cao hơn không?
1.9.5.6. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (Doanh lợi vốn tự có):
Lợi nhuận thực hiện
Tỷ suất lợi nhuận/Vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu
25
Trong kỳ kinh doanh, bình quân cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu đưa vào hoạt
động sản xuất kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng là lợi nhuận.
1.9.6. Bảo toàn và phát triển vốn.
Doanh nghiệp kinh doanh có lãi, có khả năng trang trải các khoản nợ thì
đương nhiên doanh nghiệp đã bảo toàn được vốn.
Đánh giá khả năng tích luỹ, phát triển vốn là xem xét việc bổ sung vốn hàng
năm từ nguồn lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp (bổ sung vốn từ quỹ đầu tư phát
triển).
Chỉ tiêu này không bao gồm các khoản tăng nguồn vốn do Nhà nước cấp, do
Nhà nước giữ lại, các khoản nộp do đánh giá lại tài sản.
Đánh giá khả năng tự bảo hiểm cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
phải xem xét hai vấn đề:
- Quỹ dự phòng tự trích từ lợi nhuận sau thuế hàng năm.
- Các khoản dự phòng giảm giá.
+ Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn.
+ Dự phòng các khoản công nợ khó đòi.
+ Dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
+ Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn.
Cần xem xét các khoản dự phòng này có trích tương đương với mức dự trữ
giảm giá hay không.
1.9.7. Đánh giá đóng góp của doanh nghiệp về giải quyết việc làm, cải thiện đời
sống cho người lao động và hiệu quả sử dụng lao động:
Được thể hiện qua 3 chỉ tiêu sau:
- Số lao động sử dụng hàng năm.
- Thu nhập bình quân/ 1 công nhân viên chức/ 1 tháng.
- Doanh thu / 1 công nhân viên chức.
Nước ta cũng như các nước đang phát triển khác. Tình trạng yếu kém về kỹ
thuật sản xuất và nạn thất nghiệp khá phổ biến. Để tạo ra nhiều công ăn việc làm
cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu đòi hỏi các doanh
nghiệp phải tự tìm tòi đưa ra những biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh, mở rộng quy mô sản xuất thu hút người lao động.
Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải góp phần nâng cao mức sống cho người
dân. Xét trên phương diện kinh tế thì việc nâng cao mức sống cho người lao động
được thể hiện qua các chỉ tiêu như gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người, gia
tăng đầu tư xã hội, mức tăng trưởng, phúc lợi xã hội
1.9.8. Đánh giá việc thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước:
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Nhiệm vụ, chức năng
của Nhà nước càng nhiều thì tất yếu đòi hỏi nguồn thu từ thuế càng phải gia tăng.