Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

những vướng mắc khi áp dụng chế định khởi tố theo yêu cầu của người bị hại và một vài kiến nghị khắc phục 9đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.59 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu cho quá trình tố tụng hình sự,
làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa cơ quan nhà Nhà nước có
thẩm quyền và những người tham gia tố tụng. Một trong những nguyên tắc cơ
bản của Luật Tố tụng hình sự là nguyên tắc về trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ
án hình sự: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội
phạm và xử lý người phạm tội”, nghĩa là việc khởi tố vụ án hình sự không phục
thuộc vào người có quyền lợi bị xâm hại có đồng ý hay không. Nguyên tắc
chung là vậy nhưng trong một số trường hợp đặc biệt hành vi phạm tội có tính
chất nguy hiểm không cao, xâm hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, một số
quyền nhân thân của con người thì pháp luật cho phép người bị hại được định
đoạt việc xử lý, thông qua quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại.
Được quy định tại Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: Những
vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều 104 - Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, 105 - Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh, 106 - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại chi
1
sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 108 - Tội
vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, 109 - Tội
vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm
quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, 111 - Tội hiếp dâm, 113 - Tội
cưỡng dâm, 121 - Tội làm nhục người khác, 122 - Tội vu khống, 131 (Đã bị bãi
bỏ theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009) và
171 - Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan của Bộ luật hình sự chỉ
được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất; Trong trường hợp người đã yêu cầu


khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình
chỉ, trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu
cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng
đối với vụ án, người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu
lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại thể hiện
nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc tôn trọng và bảo về các
quyền cơ bản của công dân trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Việc áp dụng
quy định này có ý nghĩa rất lớn, đã tạo khả năng và điều kiện cho người bị hại
được tự do lựa chọn cách giải quyết sao cho vừa đền bù được thiệt hại, vừa giữ
được bí mật đời tư, không bị mất mát tình cảm, như vậy hiệu quả đạt được còn
cao hơn việc đưa người phạm tội ra xử lý. Đồng thời vì họ là người chủ động
yêu cầu khởi tố vụ án nên họ đã có trách nhiệm hơn khi cung cấp cho cơ quan
có thẩm quyền những vấn đề có liên quan đến vụ án: cung cấp tang vật, đặc
điểm người phạm tội, chỉ rõ thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội… Điều
này đã giúp cho cơ quan có thẩm quyền nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án, đảm
bảo tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại. Tuy nhiên, thực
tiễn cho thấy còn một số khó khăn, vướng mắc, bất cập, tồn tại phát sinh trong
quá trình giải quyết các vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Và sau
đây, nhóm xin trình bày “những vướng mắc khi áp dụng chế định khởi tố theo
yêu cầu của người bị hại và một vài kiến nghị khắc phục”. Qua tìm hiểu một số
2
tài liệu, tìm kiếm trên một số trang web chắc chắn bài làm của nhóm còn nhiều
thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của Cô. Xin chân thành cảm ơn!!!
CHƯƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH
SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
1.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của người bị hại.

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là quy định được
áp dụng khá phổ biến ở pháp luật các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Để làm rõ khái niệm và bản chất pháp lý của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại trước hết phải làm rõ hai khái niệm cơ bản là khởi tố vụ án
hình sự và người bị hại.
- Về khái niệm “khởi tố vụ án hình sự”: Khởi tố vụ án hình sự là một
giai đoạn của trình tự tố tụng. Trình tự tố tụng hình sự được hiểu là trình tự tiến
hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật, bao gồm toàn bộ
hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án), người tiến hành tố tụng (Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra,
Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên;
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án), người
tham gia tố tụng (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; người bào chữa; người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
3
đến vụ án; người bảo vệ quyền lợi của đương sự; người làm chứng; người giám
định; người phiên dịch), cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, mọi công dân góp
phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của Luật Tố tụng hình sự. Tố tụng
hình sự bao gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, mỗi giai đoạn là một bước trong
quá trình tự tố tụng có nhiệm vụ riêng mang đặc thù về phạm vi chủ thể, hành
vi tố tụng và văn bản tố tụng. Các giai đoạn trong tố tụng hình sự gồm khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, thi hành án hình sự. Như vậy: “Khởi tố
vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của trình tự tố tụng, trong đó cơ quan có
thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không để
quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự”
1
. Quyết định khởi tố vụ án
hình sự là cơ sở pháp lý để tiến hành điều tra, các hoạt động điều tra chỉ được
tiến hành sau khi có quyết định khởi tố vụ án, trừ một số trường hợp như khám
nghiệm hiện trường hoặc bắt người.

- Về khái niệm “người bị hại”: Người bị hại là một trong những người
tham gia tố tụng hình sự, thuộc nhóm những người tham gia tố tụng có quyền
lợi và nghĩa vụ pháp lý liên quan trực tiếp đến vụ án (giống như người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan). Trong Bộ luật tố tụng hình sự đã đưa ra khái niệm về
người bị hại như sau: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần,
tài sản do tội phạm gây ra” (Khoản 1 điều 51 Bộ Luật tố tụng hình sự năm
2003). Dựa vào khái niệm trên có thể rút ra ba đặc điểm cơ bản của người bị
hại: Đặc điểm thứ nhất, người bị hại là một con người cụ thể, xác định, chứ
không thể là cơ quan, tổ chức, đây là quan điểm chính thống trong khoa học
pháp lý ở Việt Nam hiện nay. Chẳng hạn, quan điểm thể hiện trong giáo trình
Luật Tố tụng hình sự Viện Nam của Trường Đại học Luật Hà nội: “Luật tố
tụng hình sự nước ta chỉ coi người bị hại là công dân, pháp nhân hay tổ chức xã
hội không được coi là người bị hại”
2
, hoặc trong Bình luận khoa học Bộ luật tố
tụng hình sự của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (bình luận Bộ luật tố tụng
1
Trường Đại học Luật Hà nội (2008), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân
dân, Hà nội, tr 235
2
Trường Đại học Luật Hà nội (2008), sđd, tr 126
4
hình sự năm 1998): “Người bị hại là công dân đã bị người phạm tội xâm phạm
đến thể chất”
3
. Đối với một số nước trên thế giới thì cơ quan, tổ chức cũng
được coi là người bị hại; Đặc điểm thứ hai, người bị hại phải bị hành vi phạm
tội trực tiếp xâm hại, thể chất, tinh thần, tài sản của họ là đối tượng xâm hại của
tội phạm, những hậu quả thiệt hại mà hành vi phạm tội gây ra như thiệt hại về

thể chất (bị thương tích, bị chết), thiệt hại về tinh thần (bị xúc phạm danh dự,
nhân phẩm), thiệt hại về tài sản (tài sản bị mất mát, hư hỏng hoặc bị chiếm
đoạt) là những hậu quả mà người bị hại phải trực tiếp gánh chịu chứ không ai
khác phải gánh chịu; Đặc điểm thứ ba, hành vi xâm hại đến người bị hại là
hành vi phạm tội, nếu không phải hành vi phạm tội thì người bị thiệt hại sẽ
không được coi là người bị hại.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại có sự khác biệt so
với các trường hợp khởi tố vụ án hình sự thông thường, vì đây là trường hợp
khởi tố vụ án hình sự có điều kiện. “Điều kiện cần” là phải có dấu hiệu của tội
phạm mà theo quy định của pháp luật loại tội này chỉ được khởi tố khi người bị
hại yêu cầu. Có dấu hiệu tội phạm là có hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra và
hành vi đó có dấu hiệu của tội phạm được quy định trong luật hính sự. “Điều
kiện đủ” là phải có yêu cầu khởi tố của người bị hại, đây là yếu tố quan trọng,
có tính chất quyết định. Yêu cầu khởi tố của người bị hại là căn cứ phát sinh
việc khởi tố vụ án hình sự, trường hợp tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng
không có yêu cầu của người bị hại thì Cơ quan có thẩm quyền không thể khởi
tố vụ án được. Như vậy bản chất pháp lý của khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại chính là quyền buộc tội, hay còn gọi là quyền tư tố của
người bị hại trong tố tụng hình sự.
1.2. Đặc trưng cơ bản của khởi tố theo yêu cầu của người bị hại.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại có những đặc trưng
cơ bản sau đây:
3
Viên nghiên cứu khoa học pháp lý (1992), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Hà nội, tr 76
5
- Thứ nhất, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là một
quy định biệt lệ so với quan niệm chung về quan hệ pháp luật hình sự. Bởi lẽ
chỉ có Nhà nước mới là chủ thể có thẩm quyền quyết định việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhưng trong trường hợp này thì người bị
hại mới có quyền quyết định.

- Thứ hai, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại thường
quy định đối với các trường hợp phạm tội có tính chất nguy hiểm không cao,
đó là các trường hợp phạm tội do vô ý (ví dụ như vô ý gây thương tích…) hoặc
phạm tội cố ý nhưng thiệt hại không lớn, tính chất của sự xâm hại không
nghiêm trọng, đồng thời khách thể xâm hại của tội phạm thường là những quan
hệ xã hội có liên quan trực tiếp với người bị hại, đó là sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản và quyền sở hữu trí tuệ.
- Thứ ba, yếu tố ý chí của người bị hại có ý nghĩa quyết định trong việc
khởi tố vụ án hình sự. Ý chí của người bị hại được thể hiện ở yêu cầu hoặc
không yêu cầu khởi tố, nếu người bị hại có yêu cầu khởi tố thì đó là căn cứ làm
phát sinh việc khởi tố vụ án hình sự, khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố thì đó
là căn cứ để chấm dứt việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội, tất nhiên giới hạn ở một số giai đoạn tố tụng nhất định, nếu ngay từ đầu
người bị hại không có yêu cầu thì Cơ quan có thẩm quyền không thể tự mình
khởi tố vụ án được. Như vậy có thể nói ý chí của người bị hại là căn cứ làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội.
- Thứ tư, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là một quy
định tạo ra khung pháp lý cho sự áp dụng linh hoạt các biện pháp giải quyết vụ
án hình sự. Áp dụng quy định này sẽ vừa giữ được kỷ cương xã hội, thể hiện ở
việc người phạm tội sẽ bị xử lý nếu người bị hại yêu cầu; đồng thời vừa bảo
đảm tối ưu lợi ích của người bị hại, thể hiện ở việc người bị hại đã được đền bù
xứng đáng về vật chất, tinh thần và không yêu cầu thì pháp luật cũng không
cần phải xử lý người phạm tội nữa.
1.3. Ý nghĩa việc khởi tố theo yêu cầu của người bị hại.
6
Nhìn chung, pháp luật nước ta quy định việc khởi tố vụ án hình sự là
quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, pháp
luật cũng quy định những trường hợp chỉ được khởi tố vụ án theo yêu cầu của
người bị hại với ý nghĩa sau:

- Góp phần bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
hại
Một trong những mục tiêu quan trọng của cuộc đấu tranh phòng chống
tội phạm mà Nhà nước đang thực hiện chính là để bảo vệ quyền lợi và lợi ích
hợp pháp của những con người trong xã hội. Bởi vì họ chính là người phải
gánh chịu trước tiên những thiệt hại không chỉ về vật chất mà còn cả thiệt hại
về tinh thần. Việc khởi tố người phạm tội trong những trường hợp đó mặc dù
góp phần giữ vững trật tự kỷ cương và mang lại lợi ích cho xã hội nhưng làm
tổn thương nghiêm trọng về mặt tinh thần của người bị hại. Vì vậy, để hạn chế
những trường hợp quyết định khởi tố có thể cùng một lúc mang lại lợi ích rất
nhỏ cho xã hội nhưng lại gây thiệt hại lớn hơn cho người bị hại, pháp luật đã
ghi nhận chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại. Quy
định này đã xác lập khả năng, điều kiện để người bị hại được cân nhắc tính
toán việc khởi tố có quá bất lợi cho lợi ích của họ hay không. Điều này cũng
thể hiện một khía cạnh của nguyên tắc công bằng trong Luật Hình sự nước ta.
Nói cách khác, khởi tố vụ án hình sự trái với ý muốn của người bị hại có thể
gây thêm những mất mát và thiệt hại cho họ vì vậy nhà làm luật đã nhường
quyền quyết định việc có truy cứu trách nhiệm hình sự với người phạm tội hay
không cho người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại thông qua việc
yêu cầu hay rút yêu cầu khởi tố vụ án.
- Chế định này thể hiện tính dân chủ, sự tôn trọng và cảm thông trước
những thiệt hại, mất mát của người bị hại.
Khi các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự phát sinh đồng thời cũng làm
phát sinh các quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể tiến hành tố tụng và
chủ thể tham gia tố tụng. Về phía người bị hại, pháp luật dành cho họ những
quyền nhất định để tạo điều kiện cho họ bảo vệ, ngăn chặn và khôi phục quyền
và lợi ích hợp pháp của mình đã bị tội phạm xâm hại. Ngoài ra pháp luật cũng
7
đảm bảo cho bị can thực hiện các quyền của mình như quyền được nhờ người
khác bào chữa, quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật… bởi vì về nguyên tắc không

ai bị coi là có tội nếu chưa có bản án quyết định của Tòa án. Chính vì vậy
thông qua hoạt động khởi tố vụ án hình sự, các quyền tự do và dân chủ của
công dân được tôn trọng và bảo đảm, góp phần hiệu quả vào công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm.

1.4. Lược sử hình thành và phát triển chế định khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Hầu hết các nước trên thế giới đều có quy định về quyền tư tố ở những
mức độ khác nhau. Đối với Việt Nam, giai đoạn trước khi pháp điển hóa luật tố
tụng hình sự lần thứ nhất (tức là trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988) thì những quy định về quyền tư tố không rõ nét, tuy người bị hại
cũng có quyền khởi kiện vụ án hình sự và cũng có vai trò nhất định trong tố
tụng hình sự nhưng mức độ còn hạn chế, điều đó xuất phát từ điều kiện lịch sử
- xã hội của giai đoạn này, cũng như kỹ thuật lập pháp còn hạn chế. Từ thời kỳ
sơ khai cho đến khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 thì lịch sử lập
pháp Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.
- Trong thời kì phong kiến, pháp luật đã từng bước được hình thành và
phát triển. Tuy nhiên kỹ thuật lập pháp còn nhiều hạn chế, thủ tục tố tụng giải
quyết một vụ án hình sự được quy định khá đơn giản, các quy định về tố tụng
hình sự chưa được quy định thành bộ luật riêng như hiện nay mà được ban
hành chung trong pháp luật hình sự, dân sự… Mặc dù vậy, thời kì này đã có
một số quy định liên quan đến người bị hại mà đặc biệt là việc thụ lý và giải
quyết vụ án theo đơn khởi kiện, tố cáo của người bị hại. Chẳng hạn như: Điều
44 chương Đấu tụng của Bộ luật Quốc triều Hình luật thì “Tố cáo tội người, thì
phải ghi vào năm tháng và trình bày sự thực không được nói là việc còn ngõ
(nói việc đó không đáng tin cũng vậy); trái luật này thì phải phạt 80 trượng,
quan nhận những đơn trái lệ này, mà đem ra xét xử thì phạt tiền 30 quan”. Thế
nhưng quyền của người bị hại cũng có những hạn chế đáng kể, nếu người bị hại
khởi kiện những người thân thích của mình như cha mẹ, ông bà… thì vẫn bị xử
8

phạt dù rằng đó là sự thật: “con cháu kiện nhau với ông bà, cha mẹ, ông bà
ngoại, cùng là vợ kiện ông bà cha mẹ chồng đều phải biếm một tư, nếu lý lẽ
trái, thì xử thêm một bậc”
- Đến thời kì thực dân Pháp xâm lược, nước ta có đến ba Bộ luật Tố
tụng hình sự khác nhau được áp dụng tại, Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Trong
đó, Bộ luật Tố tụng hình sự Bắc kỳ tại Điều 10 quy định khi cán bộ có thẩm
quyền gặp người bị hại đến thưa hoặc vì lý do khác mà phát giác trong địa phận
mình quản lý có người phạm tội nghiêm trọng thì tức trình báo với quan thẩm
phán sở tại và phải hết sức tìm cách để điều tra người phạm tội và thu lấy các
tang chứng. Người bị hại có thể khai miệng hoặc làm đơn mà khống tố với
quan hành chánh hoặc quan tư pháp. Bộ luật Tố tụng hình sự thời kì này đã có
thêm quy định về các loại người tham gia tố tụng bao gồm: bị can, bị cáo,
người làm chứng, người bị hại, nhưng lại chưa đưa ra được định nghĩa pháp lý
của khái niệm này.
- Giai đoạn sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền
nhân dân non trẻ của nước ta phải đối mặt với những khó khăn chồng chất.
Mặc dù vậy hoạt động lập pháp nói chung, lập pháp tố tụng hình sự nói riêng
vẫn được Nhà nước quan tâm và đến khi Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ
thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án
nhân dânh tối cao được ban hành thì lần đầu tiên pháp luật Việt Nam mới đưa
ra định nghĩa pháp lý của khái niệm người bị hại. Ngoài ra trong Bản hướng
dẫn này có đề cập đến người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa
thành niên là cha mẹ hoặc người giám hộ là người đại diện hợp pháp đương
nhiên của họ. Những người này có quyền sử dụng những quyền tố tụng của
người bị hại, để bảo vệ những lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Qua phân tích trên, có thể nhận xét rằng mặc dù pháp luật tố tụng hình
sự trong giai đoạn này chưa có quy định về quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình
sự của người bị hại tuy nhiên việc dành cho người bị hại các quyền như trên đã
tạo điều kiện thuận lợi cho người bị hại trong việc bảo vệ, khôi phục các quyền
và lợi ích hợp pháp của mình.

9
- Giai đoạn từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ra đời cho đến
trước khi ban hành Bộ luật tố Tụng hình sự năm 2003. Trước khi có Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 1988, người bị hại không được pháp luật quy định có quyền
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Lúc đó, quan niệm phổ biến không chấp nhận
việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là: Quan hệ
pháp luật hình sự là quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội, trong đó tính
chất là người bảo vệ lợi ích của toàn xã hội, Nhà nước có quyền khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử người phạm tội, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự tương ứng với tính chất, mức đó nguy hiểm của tội phạm mà họ đã gây
ra. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, tham khảo pháp luật tố tụng hình sự của nhiều
nước trên thế giới và tổng kết thực tiễn xét xử ở nước ta, trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 1988, nhà làm luật đã chính thức ghi nhận những trường hợp khởi
tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại tại Điều 88. Đây là lần đầu tiên
pháp luật đã tạo điều kiện cho người bị hại được cân nhắc, tính toán việc khởi
tố vụ án hình sự. Nếu họ không có yêu cầu khởi tố thì dù phát hiện được dấu
hiệu của tội phạm, cơ quan có thẩm quyền cũng không thể ra quyết định khởi
tố vụ án. Hơn nữa, người bị hại còn được quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án của
mình bất cứ lúc nào trước khi diễn ra phiên tòa nếu việc rút yêu cầu là hoàn
toàn tự nguyện và cũng có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự (do pháp luật
không cấm). Tuy vẫn còn nhiều bất cập nhưng ba lần sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 (30/6/1990, 22/12/1992, 9/6/2000)
chế định này vẫn tiếp tục được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng hình sự nước ta,
đã cho thấy sự cần thiệt của chế định này trong hệ thống pháp luật tố tụng hình
sự. Một mặt góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, mặt khác, vẫn
bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, xã hội. Chế định này thể hiện tính dân chủ,
sự tôn trọng và cảm thông trước những thiệt hại mất mát của người bị hại.
1.5. Khởi tố theo yêu cầu của người bị hại trong pháp luật một số
quốc gia trên thế giới.
Hiện nay, trên thế giới có hai loại hình thức truy tố chủ yếu: một là công

tố - quyền truy tố hoàn toàn thuộc cơ quan công tố nhà nước, chẳng hạn như
10
Mỹ, Nhật Bản…; loại thứ hại là có cả công tố và tư tố, nhưng công tố là chủ
yếu, tư tố là thứ yếu như ở các nước Đức, Pháp, Trung Quốc… Trong đó “công
tố” là sự buộc tội nhân danh Nhà nước, nhân danh quyền lực công nhằm bảo vệ
trước hết cho lợi ích Nhà nước và xã hội, còn “tư tố” cũng là việc buộc tội
nhưng không phải nhân danh quyền lực Nhà nước mà nhân danh chính người
bị hại - người bị tội phạm xâm phạm và vì lợi ích của chính họ. Tại Việt Nam,
pháp luật nước ta từ trước đến nay chỉ thừa nhận duy nhất hình thức công tố
tuy nhiên pháp luật tố tụng hình sự tại Điều 105 lại quy định trong một số
trường hợp dù có tội phạm xảy ra nhưng Nhà nước không cho phép các cơ
quan có thẩm quyền phát động quyền công tố, tiến hành truy cứu trách nhiệm
hình sự người phạm tội mà phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí chủ quan của người
bị hại. Qua đó có thể nhận thấy rằng mặc dù chưa có sự thừa nhận chính thức
nhưng việc ghi nhận vấn đề này tại Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
đã đánh dấu một bước nhận thức mới về “quyền tư tố” trong điều kiện hiện
nay. Vì vậy để có sự nhận thức đúng đắn và hoàn thiện hơn nữa chế định khởi
tố theo yêu cầu của người bị hại, chúng ta nên có sự tham khảo pháp luật của
nhiều nước trên thế giới trong đó phải kể đến pháp luật Trung Quốc và Đức.
- Pháp luật nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Theo quy định của Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự của Trung Quốc,
các vụ án tư tố bao gồm ba loại:
+ Các vụ án chỉ có thể xử lý dựa trên cơ sở có tố cáo, tức là những vụ
về tội làm nhục, phỉ báng người khác, tội dùng vũ lực can thiệp vào tự do hôn
nhân của người khác, tội ngược đãi thành viên trong gia đình, tội chiếm đoạt tài
sản. Theo quy đinh của các Điều 246, 257, 260, 270 Bộ luật Hình sự Trung
Quốc, những tội nói trên đều là có sự tố cáo thì mới được đưa ra xử lý;
+ Các vụ án ít nghiêm trọng mà người bị hại có chứng cứ chứng minh
sự thật vụ án;
+ Các vụ án mà người bị hại có chứng cứ chứng minh rằng bị cáo phải

bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật bởi vì hành vi của bị cáo xâm
phạm đến các quyền nhân thân hoặc quyền tài sản của họ, trong khi đó cơ quan
11
công an hoặc Viện kiểm sát nhân dân lại không truy cứu trách nhiệm hình sự
của bị cáo.
So với Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, thì phạm vi của các
vụ án tư tố theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc rộng hơn rất
nhiều. Bởi vì pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam liệt kê 11 tội danh mà Cơ
quan điều tra chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của người bị hại, trong khi đó pháp luật Trung Quốc không liệt
kê chi tiết các tội mà chỉ quy định chung các vụ án tư tố là vụ án ít nghiêm
trọng mà người bị hại có chứng cứ chứng minh rõ ràng hay những vụ án do
Công an và Viện kiểm sát có nhiệm vụ truy cứu trách nhiệm hình sự bị cáo
nhưng các cơ quan này lại không thực hiện… Qua quy định này có thể nhận
thấy bất kỳ một tội phạm nào chỉ cần thỏa mãn một trong ba loại vụ án trên thì
đều được xem là vụ án tư tố. Chúng ta biết rằng quyền tư tố là một quyền khác
đặc biệt mà Nhà nước dành cho cá nhân người bị hại nhưng quyền năng này
vẫn có thể tạo nên quá trình tố tụng hình sự và đạt được kết quả truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với một người khác. Do đó, để phòng ngừa cá nhân lạm
quyền tư tố và bảo vệ tính nghiêm túc của tố tụng hình sự cũng như quyền và
lợi ích của bị cáo, pháp luật cần phải quy định một số điều kiện bắt buộc. Theo
pháp luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì trong các vụ
án tư tố: người đưa ra tư tố phải là người bị hại, nếu người bị hại đã chết hoặc
mất khả năng tố tụng thì cũng có thể là người đại diện hợp pháp, họ hàng thân
thích của người bị hại; phải có bị cáo rõ ràng. Người đưa ra tư tố phải cung cấp
thông tin về họ tên, giới tính, chỗ ở, chỗ làm việc của bị cáo cho Tòa án có
thẩm quyền thụ lý trực tiếp và vụ án phải chưa hết thời hiệu truy tố theo quy
định của pháp luật. Còn theo pháp luật Việt Nam thì người có quyền yêu cầu
khởi tố cũng chỉ có thể là người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người
bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án và cũng không có quy định về thời hiệu

truy tố, tức là người bị hại có thể yêu cầu khởi tố bất kì lúc nào mà không có sự
hạn chế và mặt thời gian. Ngoài ra, pháp luật Trung Quốc cho phép người bị
hại có quyền truy tố trước khi tuyên án thì pháp luật Việt Nam chỉ cho phép
người bị hại được quyền rút yêu cầu khởi tố trước ngày mở phiên toàn sơ thẩm.
12
- Pháp luật nước Cộng hòa liên bang Đức
Bộ luật Tố tụng hình sự nước Đức đã dành hẳn một chương quy định về
vấn đề tư tố. Theo Điều 374, người bị hại có quyền yêu cầu truy tố với những
tội danh sau đây mà không phải nhờ đến cơ quan công an truy tố trước: Tội
xâm phạm gia cư bất hợp pháp (Điều 123 Bộ luật Hình sự); Tội xúc phạm danh
dự nhân phẩm (Điều 185 - Điều 189 Bộ luật Hình sự) nếu lời nói đó không trực
tiếp nhằm vào một trong những cơ quan chính trị được quy định tại khoản 4
Điều 194 của Bộ luật Hình sự; Vi phạm quyền tự do báo chí (Điều 202 Bộ luật
Hình sự); Tội gây thương tích (Điều 223 và Điều 229 Bộ luật Hình sự); Đe dọa
(Điều 241 Bộ luật Hình sự); Nhận hoặc đưa hối lộ trong những giao dịch kinh
doanh (Điều 299 Bộ luật Hình sự); Gây thiệt hại về tài sản đến mức phải truy
cứu trách nhiệm hình sự (Điều 303 Bộ luật Hình sự); Các tội pham quy định tại
các Điều 4, 6c, 15, 17, 18 và Điều 20 Luật chống cạnh tranh không công bằng;
Các tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 142 Luật về bằng sáng chế; khoản 1
Điều 25 Luật về mô hình tiêu chuẩn; khoản 1 Điều 10 Luật về bảo vệ chất bán
dẫn; khoản 1 Điều 39 Luật về bảo vệ các loài thực vật, khoản 1a và khoản 1
Điều 143 và khoản 1 và 2 Điều 144 Luật về Nhãn hiệu hàng hóa; khoản 1 và 2
Điều 14 Luật về thiết kế; Điều 106 đến Điều 108 Luật về quyền tác giả; Điều
33 Luật về quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật và nhiếp ảnh.
Quy định này của pháp luật nước Đức cho thấy phạm vi các vụ án mà
người bị hại có thể thực hiện quyền truy tố của mình là rất lớn, đến hơn hai
mươi loại tội khác nhau. Tuy nhiên không phải là người bị hại có thể yêu cầu
truy tố bất kì lúc nào mà đối với các tội phạm xâm phạm gia cư bất hợp pháp,
tội xâm phạm danh dự nhân phẩm, vi phạm bí mật thư tín, gây thương tích
(Điều 223 – 229 Bộ luật hình sự), đe dọa và gây thiệt hại về tài sản có thể chỉ

bị đưa ra tòa sau khi một Ban hòa giải của Tòa án đã hòa giải không thành.
Ngoài ra, để bảo vệ tốt hơn quyền lợi hợp pháp của người bị hại, Bộ luật Tố
tụng hình sự nước Đức còn giành cho người bị hại quyền quyết định rút đơn tư
tố tại bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng. Nếu đã bắt đầu thẩm vấn bị
cáo tại phiên tòa sơ thẩm chính thức thì khi rút đơn tư tố thì phải có sự đồng ý
của bị cáo. So với Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, về phạm vi các
13
vụ án tư tố và thời điểm rút yêu cầu khởi tố của người bị hại trong Bộ luật tố
tụng hình sự Đức được quy định phạm vi rộng hơn, pháp luật Việt Nam cũng
không bắt buộc các bên phải hòa giải trước trong một số trường hợp và giới
hạn rút yêu cầu khởi tố của Việt Nam cũng hẹp hơn rất nhiều.
CHƯƠNG 2
NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG
QUY ĐỊNH KHỞI TỐ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ
HẠI
2.1. Thực tiễn áp dụng quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại.
2.1.1. Thủ tục, hình thức, nội dung và thời điểm yêu cầu khởi tố.
Thủ tục giải quyết các vụ án hình sự thuộc trường hợp khởi tố theo yêu
cầu của người bị hại về cơ bản không khác nhiều so với các vụ án thông
thường, chỉ khác là phải có yêu cầu của người bị hại trước khi khởi tố vụ án,
đồng thời nếu người bị hại rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên tòa sơ thẩm
thì vụ án phải được đình chỉ. Trong thủ tục giải quyết các vụ án khởi tố theo
yêu cầu người bị hại có hai nội dung quan trọng là chủ thể có quyền yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự và hậu quả pháp lý của việc rút yêu cầu khởi tố.
- Về chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự: Theo khoản 1 Điều
105 Bộ luật Tố tụng hình sự thì những người có quyền yêu cầu khởi tố vụ án
hình sự gồm có “người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại
là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất”.
14

Như vậy theo tinh thần của điều luật thì quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
thuộc về người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại. Khoản 1
Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định “Người bị hại là người bị thiệt hại
về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”, đây có thể được coi là định
nghĩa về người bị hại. Tuy nhiên quy định như vậy là chưa chặt chẽ, thiếu cụ
thể, đã và đang dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau xung quanh vấn đề này.
+ Thứ nhất, việc xác định thế nào là người bị hại hiện nay còn nhiều
tranh luận, đây là vấn đề quan trọng vì nó liên quan đến quyền yêu cầu khởi tố
vụ án hình sự của bị hại. Trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng
pháp luật hiện nay, “người bị hại” đuợc hiểu là một con người cụ thể, là công
dân chứ không phải là cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, có ý kiến lại cho rằng tuy
điều luật quy định “người bị hại” nhưng như vậy không có nghĩa đó phải là
một con người cụ thể mà “người” ở đây phải hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả
cơ quan, tổ chức. Trong thực tế có rất nhiều vụ án mà hành vi phạm tội xâm
hại đến các cơ quan, tổ chức, ví dụ như kế toán và thủ quỹ của một cơ quan
nhà nước thông đồng với nhau lập chứng từ khống để tham ô tiền công quỹ,
trường hợp này chủ thể bị thiệt hại là cơ quan Nhà nước, hoặc trường hợp một
người trộm tài sản của một Công ty cổ phần, trường hợp này chủ thể bị thiệt
hại là công ty cổ phần, trong hai ví dụ trên thì cơ quan Nhà nước và doanh
nghiệp bị thiệt hại chứ không phải là một cá nhân nào cả, họ phải tham gia tố
tụng với tư cách bị hại chứ không thể là nguyên đơn dân sự hay người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Nếu không coi các cơ quan, tổ chức
là người bị hại thì trong trường hợp hành vi phạm tội thuộc trường hợp khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại thì ai sẽ là người yêu cầu khởi tố, chẳng hạn
hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, giải pháp hữu
ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa mà chủ sở hữu của quyền sở
hữu công nghiệp đó là một doanh nghiệp, đây là vụ án chỉ được khởi tố khi bị
hại có yêu cầu, trong trường hợp này nếu không coi doanh nghiệp là bị hại thì
đương nhiên đã tự tước bỏ quyền yêu cầu khởi tố của họ.
+ Thứ hai, thiệt hại như thế nào mới được coi là người bị hại, bởi lẽ một

hành vi phạm tội có thể gây ra rất nhiều hậu quả, có thiệt hại trực tiếp, có thiệt
15
hại gián tiếp. Do luật không quy định cụ thể nên có thể dẫn tới cách hiểu khác
nhau về người bị hại. Theo cách hiểu phổ biến người bị hại là người bị tội
phạm trực tiếp gây thiệt hại. Nhưng cách quy định của luật có thể dẫn đến
nhận thức rằng người bị hại vẫn có thể là người bị tội phạm gián tiếp gây thiệt
hại. Điều này đưa đến việc không phân định dược người bị hại và nguyên đơn
dân sự. Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy, việc xác định thế nào là thiệt hại
trực tiếp cũng không phải là vấn đề đơn giản. Từ thực tế tại địa phương xảy ra
vụ án mà việc xác định ai là người bị hại khá khó khăn. Ví dụ: A là người đã
thành niên, hằng ngày đi làm A đều lấy chiếc xu Cup 81 của bố để đi, một
hôm A bị B chặn lại đánh và cướp chiếc xe Cup 81 đó, sau khi chiếm đoạt
được chiếc xe B đã đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Khi xác định trong vụ án
này ai bị hại trực tiếp và ai là người bị hại, có hai quan điểm trái ngược nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng bố của A là người bị hại vì khách thể của tội
cướp tài sản là quyền sở hữu (tội này xếp vào chương các tội xâm phạm sở
hữu), bố A mới là chủ sở hữu chiếc xe Cup 81 chứ không phải là A, A chỉ là
người quản lý tài sản trong thời điểm đó mà thôi, hành vi cướp tài sản của B đã
xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của bố A nên bố A là bị hại;
Quan điểm thứ hai cho rằng A là người bị hại vì tài sản tuy của bố A nhưng
giao cho A, tại thời điểm bị cướp tài sản đang do A quản lý (tương tự như vậy,
giả sử A không mượn xe máy của bố mà mượn xe máy của C thì A phải hoàn
toàn chịu trách nhiệm nếu xe bị hư hỏng do tai nạn hoặc bị bất cứ mất mát nào
khác, nếu xe bị cướp thì A phải bồi thường xe máy cho C, như vậy người thiệt
hại trong mọi trường hợp vẫn là A), hành vi của B đã xâm hại trực tiếp đến tài
sản do A quản lý, người bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội là A nên A là
bị hại.
+ Thứ ba, trong trường hợp thiệt hại chưa xảy ra thì có người bị hại hay
không. Theo điều luật người bị hại phải là người bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản; thiệt hại về thể chất là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; thiệt hại

về tinh thần là thiệt hại về danh dự, nhân phẩm; thiệt hại về tài sản là tài sản bị
mất, bị chiếm đoạt. Vấn đề là nếu thực tế họ không bị thiệt hại mà chỉ bị đe
dọa gây thiệt hại hoặc có nguyên nhân khách quan làm cho thiệt hại không xảy
16
ra thì có được coi là người bị hại không (tất nhiên hành vi xâm phạm phải là
hành vi phạm tội). Hiện nay, một nhận thức phổ biến cho rằng người bị hại
phải là người bị thiệt hại thực tế. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của
Trường Đại học Luật Hà nội viết rằng: “Thiệt hại mà người bị hại phải gánh
chịu là thiệt hại thực tế, nếu thể chất, tinh thần, tài sản của một người chưa bị
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra thì người đó không được coi là người bị
hại”. Trong thực tế hiện nay một số hành vi đe dọa gây thiệt hại hoặc hành vi
cố ý xâm hại nhưng có nguyên nhân khách quan làm cho thiệt hại không xảy
ra mà cấu thành tội phạm thì người bị xâm hại tuy không bị thiệt hại vẫn được
các cơ quan tố tụng coi là người bị hại. Đó là các trường hợp chuẩn bị phạm
tội hoặc phạm tội chưa đạt, trong các trường hợp này hậu quả chưa xảy ra
nhưng hành vi vẫn cấu thành tội phạm, mà có tội phạm xảy ra thì phải có bị
hại, nếu không coi những người bị hành vi xâm hại hướng tới là người bị hại
thì họ tham gia tố tụng với tư cách như thế nào, không thể là nhân chứng hoặc
người có quyền và nghĩa vụ liên quan được.
+ Thứ tư, trong một vụ án có nhiều người bị thiệt hại nhưng chỉ có một
số người yêu cầu, số còn lại có được coi là bị hại không. Trong thực tế trường
hợp này xảy ra rất nhiều, nhất là các vụ án cố ý gây thương tích, một người
gây thương tích cho nhiều người và đều thuộc khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình
sự (trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại). Khi gặp phải tình huống
trên, có quan điểm khác lại cho rằng chỉ người nào có yêu cầu mới là người bị
hại, những người còn lại không có yêu cầu nên không phải là người bị hại.
Đây là vấn đề vướng mắc nhưng chưa được hướng dẫn cụ thể.
Qua bốn vấn đề nêu trên cho thấy quy định trong Bộ luật Tố tụng hình
sự về người bị hại không chặt chẽ, không cụ thể, đã và đang tạo ra những khó
khăn vướng mắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng, những nội dung nêu trên

cần phải được nghiên cứu, sưa đổi hoặc hướng dẫn cho cụ thể.
- Về hậu quả pháp lý của việc rút yêu cầu khởi tố: Bộ luật Tố tụng hình
sự không chỉ cho phép người bị hại và người đại diện hợp pháp của người bị
hại có quyền quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự mà còn quy
17
định cho họ quyền được rút yêu cầu khởi tố vụ án của mình. Điều này vừa tôn
trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại mà còn giúp người bị hại và
bị can, bị cáo có thể thỏa thuận, hòa giải lẫn nhau cũng như tránh gây ra mất
mát lớn hơn về tinh thần cho người bị hại. Tại khoản 2 Điều 105 Bộ luật tố
tụng hình sự 2003 đã quy định rất rõ thời điểm người có quyền yêu cầu khởi tố
được rút yêu cầu của mình, đó là “trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm”. Theo đó
người bị hại và người đại diện hợp pháp của người bị hại có thể rút đơn yêu
cầu khởi tố vụ án hình sự vào những thời điểm sau: ngay sau khi yêu cầu
khởi tố; trong gian đoạn điều tra: thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu
từ khi cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của Cơ quan
điều tra về việc đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình
chỉ vụ án hình sự tương ứng; giai đoạn truy tố: giai đoạn này được bắt đầu từ
khi Viện kiểm sát nhận được các tài liệu của vụ án hình sự do Cơ quan điều tra
chuyển đến và kết thúc bằng việc Viện kiểm sát ra một trong ba loại quyết
định sau: truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng, trả lại hồ sơ để điều
tra bổ sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự tương ứng; giai
đoạn chuẩn bị xét xử: là thời gian từ khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án (thụ lý vụ
án) đến trước ngày khai mạc phiên tòa hình sự.
Như vậy, người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự có thể rút yêu cầu khởi
tố vào bất kì thời điểm nêu trên, nếu việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự sau
những thời điểm này thì sẽ không dẫn đến hậu quả pháp lý là vụ án sẽ bị đình
chỉ. Việc pháp luật chỉ quy định giới hạn tối đa được phép rút yêu cầu khởi tố
vụ án hình sự như đã nêu bởi vì để mở một phiên tòa thì tòa đã phải huy động
cả guồng máy, mất nhiều thời gian, công sức và rất tốn kém. Cạnh đó, nhà làm

luật đã dành một khoảng thời gian tương đối để người yêu cầu khởi tố suy
nghĩa và quyết định việc rút hay không rút yêu cầu khởi tố vụ án. Do đó, sau
khi phiên tòa diễn ra thì việc đình chỉ vụ án hay không sẽ không còn phụ thuộc
vào ý chí của người bị hại nữa.
Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định rõ ràng thời điểm cuối cùng mà
người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại được quyền rút yêu cầu khởi
18
tố là trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. Nếu trường hợp người bị hại rút đơn yêu
cầu khởi tố vụ án tại phiên tòa, theo quy định tại khoản 2 Điều 105 Bộ luật tố
tụng hình sự thì không thuộc trường hợp đình chỉ vụ án mà tòa án phải xét xử
và ra bản án. Vì sao lại như vậy? Cho đến nay chưa có giải thích hoặc hướng
dẫn nào nên mỗi tòa giải quyết khác nhau. Có ý kiến cho rằng Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định cho phép người bị hại có quyền khởi tố thì không có lý do gì
lại không cho họ quyền rút yêu cầu khởi tố bất cứ giai đoạn tố tụng nào. Vì
vậy, một số Tòa án vẫn cho phép người bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án ngay
tại phiên tòa, điển hình như: vụ án Đinh Tấn Trung dùng dao đâm chết một
người và gây thương tích 2% cho một người khác. Trung đã bị khởi tố về tội
giết người và tội cố ý gây thương tích. Tại phiên sơ thẩm ngày 24-8-2010 của
TAND tỉnh Phú Yên, người bị thương đã rút yêu cầu khởi tố đối với Trung. Từ
đó, đại diện Viện kiểm sát cũng rút luôn phần truy tố Trung về tội này. Tòa án
sơ thẩm đã tuyên Đinh Tấn Trung không phạm tội cố ý gây thương tích và đình
chỉ xét xử đối với bị cáo về tội này. Về tội giết người, Trung lãnh phạt 12 năm
tù. Hoặc là vụ án Đoàn Thành Hậu bị truy tố về tội cố ý gây thương tích. Tại
phiên tòa xét xử của TAND Thành phố Nha Trang, người bị hại rút yêu cầu
khởi tố, Kiểm sát viên cũng rút toàn bộ quyết định truy tố đối với bị cáo. Vì
vậy, TAND Thành phố Nha Trang đã ra quyết định đình chỉ vụ án… Theo
nhóm, hành vi này của các Tòa án nêu trên là trái với quy định của pháp luật tố
tụng hình sự bởi vì Điều 180 Bộ luật tố tụng hình sự quy định Thẩm phán “ra
quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2
Điều 105 và các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 107 của Bộ luật này hoặc khi Viện

kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa”. Do đó nếu
người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại rút yêu cầu khởi tố
vụ án ngay sau ngày mở phiên toà sơ thẩm thì sẽ không thuộc bất kì căn cứ nào
nêu tại Điều 108 Bộ luật tố tụng hình sự để có thể đình chỉ vụ án, hay nói cách
khác là việc đình chỉ vụ án tại phiên tòa do người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là không có
căn cứ và không đúng pháp luật. Tuy nhiên nhóm cho rằng việc nhà làm luật
giới hạn quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án đến trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm
19
như vậy là hạn chế quyền tự định đoạt, gây bất lợi cho bị cáo và cũng không
thỏa mãn ý chỉ của người bị hại khi họ không muốn xử lý hình sự bị cáo. Để
điều luật mang tính nhân văn cao, các nhà làm luật cần sửa đổi Điều 105 Bộ
luật tố tụng hình sự theo hướng kéo dài thêm thời hạn rút yêu cầu khởi tố của
người bị hại, nhưng vẫn phải giới hạn thời hạn chấm dứt quyền yêu cầu khởi tố
vụ án của người bị hại để tránh tình trạng “tự do thái quá” sẽ làm “nhờn” pháp
luật; làm mất thời gian, công sức và tiền bạc của các cơ quan hay những người
tiến hành tố tụng.
Thực tiễn cho thấy những quy định về thủ tục giải quyết các vụ án
khởi tố theo yêu cầu bị hại còn nhiều vướng mắc bất cập chưa được giải
quyết.
- Thứ nhất, quy định về người có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
chưa cụ thể và đầy đủ. Bởi lẽ theo Bộ luật Tố tụng hình sự thì chỉ hai người có
quyền yêu cầu khởi tố là người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người
bị hại, nếu là người đại diện hợp pháp của người bị hại thì chỉ trong trường
hợp bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất. Quy định như vậy chưa điều chỉnh hết các tình huống có thể phát sinh
trong thực tế như:
+ Trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có
quyền yêu cầu khởi tố hay không. Trong thực tiễn đã xảy ra trường hợp người
bị hại của một vụ án thuộc diện khởi tố theo yêu cầu bị hại chết trước khi họ

yêu cầu, chết vì lý do khác chứ không phải do hành vi phạm tội gây ra, ví dụ bị
tai nạn giao thông chết. Khi gặp tình huống này, có hai quan điểm đánh giá trái
ngược nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng khi người bị hại chết thì toàn bộ
quyền và nghĩa vụ của họ được chuyển cho người đại diện hợp pháp, vấn đề
này đã được quy định tại khoản 5 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự “Trong
trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những
quyền quy định tại điều này”, như vậy nghĩa là khi người bị hại chết thì người
đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu khởi tố; Quan điểm thứ hai lại cho
rằng theo tinh thần điều luật quy định (Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự) thì
20
chỉ có người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mới có quyền
yêu cầu, còn người đại diện hợp pháp của người chết do luật không quy định
nên không có quyền yêu cầu, tuy khoản 5 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có
những quyền quy định tại điều này, nhưng những quyền quy định tại Điều 51
Bộ luật Tố tụng hình sự là quyền của người bị hại khi tham gia tố tụng, trong
các quyền đó không có quyền yêu cầu khởi tố, vì vậy không thể vận dụng quy
định này để cho rằng người đại diện hợp pháp của người bị hại (trong trường
hợp bị hại chết) có quyền yêu cầu khởi tố. Vướng mắc này phát sinh do luật
chưa điều chỉnh hết các tình huống phát sinh trong thực tế.
+ Trong trường hợp không xác định được người đại diện hợp pháp của
người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì ai
sẽ là người đại diện cho những người này thực hiện quyền yêu cầu. Trong thực
tiễn đã xảy ra nhiều trường hợp như vậy, ví dụ một cô gái bị tâm thần đi lang
thang và bị hiếp dâm, hoặc một người chưa thành niên đi bán vé số dạo bị
đánh gây thương tích. Thông thường nếu không có yêu cầu của người đại diện
hợp pháp của những người trên thì cơ quan điều tra sẽ không khởi tố vụ án,
làm như vậy là đúng luật nhưng sẽ không đạt được hiệu quả về mặt xã hội vì
kẻ phạm tội không bị xử lý, vẫn nhởn nhơ ở ngoài vòng pháp luật. Nếu quyền

này được giao cho một cơ quan khác, ví dụ như Viện kiểm sát hoặc có đoàn
thể đứng ra yêu cầu sẽ khắc phục được tình trạng trên nhưng Luật lại không
quy định.
+ Không quy định rõ trong trường hợp người bị hại là người chưa
thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì họ không có
quyền yêu cầu mà phải do người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu. Do không
quy định rõ nên dễ dẫn đến nhận thức khác nhau khi gặp tình huống người bị
hại và người đại diện hợp pháp của họ có yêu cầu trái ngược nhau. Trong thực
tiễn đã xảy ra trường hợp người bị hại của một số vụ án cố ý gây thương tích,
bị đánh gây thương tích 15% và thuộc khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự,
trong quá trình điều tra bị hại (gần đủ 18 tuổi) không yêu cầu xử lý nhưng cha
21
của bị hại (đại diện hợp pháp của người bị hại) lại yêu cầu xử lý. Khi gặp
trường hợp này, có hai quan điểm trái ngược nhau: Quan điểm thứ nhất cho
rằng trong mọi trường hợp nếu người bị hại là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì quyền yêu cầu phải thuộc về người
đại diện hợp pháp của người bị hại, điều đó xuất phát từ những nghiên cứu tâm
sinh lý của người chưa thành niên và người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất, do còn nhỏ tuổi hoặc có nhược điểm về tâm thần, thể chất làm hạn
chết khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên không giao quyền yêu cầu
cho họ, tinh thần điều luật đã thể hiện rõ quy định này; Quan điểm thứ hai lại
cho rằng điều luật chỉ quy định về người có quyền yêu cầu khởi tố là người bị
hại, hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, chứ không quy định rõ nếu
người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất thì họ mất quyền yêu cầu và quyền này được chuyển cho người đại
diện hợp pháp. Chính vì vậy tùy từng trường hợp cụ thể mà vận dụng, trong
trường hợp người bị hại tuy chưa đủ 18 tuổi nhưng hoàn toàn có khả năng thể
hiện được ý chí của mình nên phải chấp nhận theo yêu cầu của bị hại, chỉ trừ
trường hợp bị hại còn quá nhỏ hoặc bị bệnh không đủ khả năng nhận thức và

điều khiển hành vi để đưa ra yêu cầu của mình thì lúc đó người đại diện hợp
pháp của người bị hại mới có quyền yêu cầu. Tất nhiên trong sự việc trên dễ
dàng nhận thấy quan điểm thứ nhất là đúng, nhưng xem xét kỹ quan điểm thứ
hai thấy không phải là không có những hạt nhân hợp lý ở đó. Vướng mắc ở
đây không hoàn toàn do Luật mà chủ yếu do nhận thức của người đánh giá.
Nếu Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cụ thể trong trường hợp người bị hại là
người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì chỉ
người đại diện hợp pháp của người bị hại mới có quyền yêu cầu thì sẽ không
xảy ra vướng mắc trên.
- Thứ hai, luật chưa quy định về hình thức và nội dung yêu cầu khởi tố
vụ án hình sự, chưa quy định về thời điểm yêu cầu khởi tố vụ án.
+ Về hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự: Hình thức yêu cầu khởi
tố vụ án hình sự là hình thức chứa đựng tài liệu hoặc phản ánh yêu cầu khởi tố
22
vụ án hình sự của người bị hại. Đây là một trong những tài liệu quan trọng
(nếu không muốn nói là quan trọng nhất) mà thiếu nó hoặc không có nó thì
không thể xử lý vụ án được. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không có quy
định về vấn đề này, nhưng theo tiểu mục 7.2 – Mục 7 Thông tư liên tịch số
05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07-09-2005 về quan hệ phối hợp
giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thể
hiện dưới hình thức đơn yêu cầu hoặc trình bày trực tiếp. Đơn yêu cầu khởi tố
phải có chữ kí hoặc điểm chỉ của người yêu cầu. Trường hợp yêu cầu khởi tố
được trình bày trực tiếp thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải lập biên bản
ghi rõ nội dụng yêu cầu khởi tố có ký hoặc điểm chỉ của người yêu cầu. Biên
bản do Viện kiểm sát lập phải được chuyển ngay cho Cơ quan điều tra để xem
xét vụ án hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án. Với quy định này có thể hiểu pháp
luật muốn người có quyền yêu cầu khởi tố trực tiếp thể hiện ý chí của mình và
chịu sự ràng buộc nhất định với yêu cầu đó. Thực tế hiện nay yêu cầu khởi tố
vụ án hình sự của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại

thường được thể hiện qua đơn yêu cầu hoặc ý kiến ở biên bản ghi lời khai.
Phần lớn các cơ quan tiến hành tố tụng đều chấp nhận cả hai hình thức yêu cầu
này. Tuy nhiên vẫn còn một vài quan điểm cho rằng cần phải quy định chặt
chẽ hơn về hình thức yêu cầu khởi theo hướng yêu cầu phải thể hiện trong
đơn, chỉ trừ trường hợp đặc biệt do khách quan không thể làm đơn thì mới
chấp nhận hình thức yêu cầu bằng miệng, bởi lẽ hình thức yêu cầu bằng miệng
do người bị hại trực tiếp trình bày có mặt hạn chế là dễ bị làm sai lệch hoặc bị
người bị hại phủ nhận. Bị làm sai lệch là việc cán bộ ghi lời khai vì lý do cá
nhân đã phản ánh không trung thực yêu cầu của người bị hại trong biên bản
ghi ý kiến hoặc ghi lời khai, nếu người bị hại không được giải thích về quyền
yêu cầu khởi tố, không hiểu biết pháp luật, tin tưởng vào việc xử lý của cơ
quan pháp luật và không có ý kiến gì thì sự việc sẽ không bị phát hiện, hậu quả
gây ra là rất nghiêm trọng. Chẳng hạn trong một số vụ án cố ý gây thương tích
bị chỉ “yêu cầu bồi thường thiệt hại và không yêu cầu xử lý hình sự” nhưng
cán bộ ghi lời khai vì muốn xử lý người gây thương tích nên đã ghi sai lệch
23
thành “yêu cầu bồi thường thiệt hại và yêu cầu xử lý hình sự”, sau đó khởi tố
vụ án, khởi tố bị can, sẽ dẫn tới xử lý oan người có hành vi gây thương tích.
Hoặc trường hợp cố ý gây thương tích bị hại “yêu cầu bồi thường thiệt hại và
yêu cầu xử lý hình sự” nhưng cán bộ ghi lời khai vì muốn giúp đỡ cho người
gây thương tích nên đã ghi sai lệch thành “yêu cầu bồi thường thiệt hại và
không yêu cầu xử lý hình sự”, sẽ dẫn tới việc bỏ lọt tội phạm. Bị người bị hại
phủ nhận là việc trước đó người bị hại có yêu cầu hoặc không có yêu cầu (dẫn
tới việc khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự) sau đó bị hại
cho rằng việc yêu cầu hoặc không có yêu cầu đó không phải là ý của mình mà
do cán bộ ghi lời khai tự ý ghi. Có nhiều động cơ dẫn tới việc người bị hại phủ
nhận và việc làm đó ít nhiều gây ảnh hưởng đến quá trình xử lý vụ việc. Trong
thực tế các trường hợp trên không nhiều nhưng đã từng xảy ra. Vướng mắc
phát sinh là do Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định cụ thể về hình thức
yêu cầu khởi tố.

+ Về nội dung, việc khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp chỉ được
khởi tố theo yêu cầu đòi hỏi sự thể hiện chính xác ý chí của người bị hại tuy
nhiên pháp luật hiện hành chưa quy định về nội dung yêu cầu khởi tố vụ án
hình sự nên người yêu cầu thường không biết cách thể hiện chính xác ý chí của
mình trong đơn và chỉ yêu cầu chung chung là xử lý vụ việc theo quy định của
pháp luật. Khi gặp trường hợp này các cơ quan tiến hành tố tụng thường có
quan điểm rất khác nhau trong việc coi đó là đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
hay không. Do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần ban hành mẫu đơn,
cần coi nội dung yêu cầu khởi tố phải là yêu cầu xử lý sự việc theo quy định
pháp luật, không đòi hỏi người yêu cầu phải xác định tội danh và điều khoản
Bộ luật Hình sự. Việc định tội danh là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố
tụng, chứ không phải là nghĩa vụ của người yêu cầu khởi tố. Nếu chỉ yêu cầu
bồi thường thiệt hại hoặc cải chính, xin lỗi thì không phải là yêu cầu khởi tố vụ
án hình sự. Nếu chỉ yêu cầu chung chung xử lý vụ việc theo pháp luật thì cần
xác định lại chính xác nội dung yêu cầu.
Cần có hướng dẫn cơ bản về nội dung yêu cầu bởi lẽ trong thực tế có
trường hợp anh A yêu cầu xử lý hình sự B và C vì đánh anh gây thương tích
24
(thuộc trường hợp ở khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự). Cơ quan điều tra đã
khởi tố cả B lẫn C. Trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm, anh A bãi nại và xin rút
yêu cầu khởi tố đối với B. Gặp trường hợp này, cơ quan tố tụng phải làm thế
nào: Đình chỉ giải quyết vụ án hay chỉ đình chỉ điều tra đối với riêng B, tiếp
tục điều tra xử lý đối với C?
Hiện nay có một số quan điểm cho rằng trong trường hợp nêu trên thì
cơ quan điều tra chỉ được khởi tố và xử lý hình sự đối với C, còn B tuy là đồng
phạm nhưng A là người bị hại đã thứ và bãi nại cho B thì A được quyền rút
yêu cầu khởi tố đối với B, vậy cơ quan điều tra không được khởi tố bị can với
B.
Ngược lại, một số chuyên gia khác thì cho rằng Điều 105 BLTTHS quy
định rất rõ là khi người bị hại xin rút yêu cầu (là yêu cầu khởi tố vụ án hiểu

theo khoản 1 điều này) thì vụ án phải được đình chỉ, không phân biệt vụ án đó
có một hay nhiều bị can. Tức là dù anh A chỉ làm đơn bãi nại và xin rút yêu cầu
khởi tố đối với riêng B thì cơ quan tố tụng cũng phải đình chỉ giải quyết cả vụ
án, đình chỉ điều tra cả B lẫn C. Theo luồng quan điểm này, luật không cho
phép người bị hại được quyền lựa chọn “xử” riêng ai hay “tha” riêng ai để đảm
bảo tính công bằng, bình đẳng trước pháp luật, tránh được sự bất công giữa
những người cùng thực hiện một tội phạm.
Nhóm đồng ý với quan điểm chỉ được khởi tố và xử lý hình sự đối với
C, không được khởi tố bị can với B vì Điều 169 và Điều 180 BLTTHS đều quy
định: “Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ vụ án
không liên quan đến tất cả bị can thì có thể đình chỉ vụ án đối với từng bị can”.
Như vậy, về nguyên tắc, pháp luật cho phép đình chỉ vụ án đối với một bị can
trong số nhiều bị can trong cùng một vụ án. Điều 169 và 180 BLTTHS không
loại trừ trường hợp đối với khoản 2 Điều 105 (trường hợp người đã yêu cầu
khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình
chỉ). Việc đình chỉ vụ án đối với từng bị can theo khoản 2 Điều 105 là trường
hợp được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nên rất cần hướng dẫn; nếu
không, chắc chắn mỗi nơi sẽ hiểu và áp dụng khác nhau. Khi người bị hại làm
25

×