Tải bản đầy đủ (.doc) (224 trang)

Thực trạng phát triển du lịch bền vững trên địa bàn Tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.52 MB, 224 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Phát triển du lịch bền vững được Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO)
định nghĩa tại Hội nghị về môi trường và phát triển của Liên Hợp quốc
tại Riode Janeiro năm 1992. Phát triển du lịch bền vững không thể thoát ra
khỏi các yêu cầu của phát triển bền vững mà các Hội nghị Thượng đỉnh Trái
đất về Môi trường và Phát triển tổ chức tại Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992
và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững, tổ chức tại
Johannesburg (Nam Phi) năm 2002 xác định. Đó là quá trình phát triển có sự
kết hợp chặt chẽ và hài hoà giữa ba mặt của sự phát triển gồm: phát triển
kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Phát triển bền vững đã trở
thành xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người.
Phát triển bền vững, trong đó có phát triển du lịch bền vững đã trở
thành một vấn đề được đặc biệt quan tâm. Ngay từ năm 1991, Chính phủ đã
ban hành “Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững giai đoạn
1991-2000”. Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 256/2003/QĐ-TTg ngày
2/12/2003 về phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020. Năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ra
Quyết định 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/08/2004 về Định hướng phát triển
bền vững ở Việt Nam. Đây là một chương trình hành động khung, bao gồm
những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các bộ, ngành, địa phương, các
tổ chức và cá nhân triển khai thực hiện và phối hợp hành động nhằm bảo
đảm phát triển bền vững đất nước trong thế kỷ 21.
Du lịch trên phạm vi toàn cầu đã phát triển nhanh và trở thành ngành
kinh tế hàng đầu thế giới. Du lịch là ngành kinh tế tạo nhiều việc làm cho
người lao động và hiện đang thu hút xấp xỉ 300 triệu lao động, chiếm khoảng
11,6% lực lượng lao động trên thế giới. Dòng khách du lịch thế giới đang
hướng tới những khu vực có nền chính trị ổn định, kinh tế phát triển; đặc biệt
1
là dòng khách du lịch thế giới đang có xu thế chuyển dần sang khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á, những nơi có nền kinh tế phát triển


năng động và nền chính trị hòa bình ổn định, mà trong đó Việt Nam được
đánh giá là điểm đến an toàn và thân thiện.
Du lịch bền vững đã trở thành một xu thế tất yếu của thời đại, là mục
tiêu đặt ra cho phát triển và có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều quốc gia trên
thế giới, trong đó có Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định “du lịch
là một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước”, “phát triển du lịch bền vững
gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; giữ gìn
cảnh quan, bảo vệ môi trường; bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn
xã hội” (Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến 2020, tầm nhìn đến năm
2030). Nhà nước đã quan tâm đầu tư cho du lịch phát triển và ban hành
nhiều chính sách nhằm khuyến khích thu hút các nhà đầu tư cũng như khách
du lịch đến Việt Nam được thuận lợi
Tây Nguyên là một vùng đất có nhiều tiềm năng: vị trí địa lý, điều
kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội thuận lợi cho phát triển kinh tế. Trong
những năm qua, Đảng và Nhà nước đã tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng
Tây Nguyên để tương xứng với tiềm năng. Nhờ sự phấn đấu của Đảng,
Chính quyền, nhân dân trong vùng, Tây Nguyên đã có những bước phát triển
đáng kể. Tây Nguyên cũng là nơi có tài nguyên du lịch mà rất ít nơi nào có
được như tài nguyên du lịch văn hóa, lịch sử, và thiên nhiên. Trong thời gian
qua, ngành du lịch Việt Nam và chính quyền các tỉnh Tây Nguyên đã quan
tâm nhiều đến phát triển du lịch và là ngành kinh tế quan trọng của vùng.
Tuy nhiên, du lịch Tây Nguyên phát triển chưa tương xứng với tiềm năng;
tài nguyên du lịch chưa được khai thác hợp lý, chưa gắn với công tác "bảo
tồn và phát huy" một cách hiệu quả; phát triển du lịch không đều giữa các
tỉnh trong vùng. Sản phẩm du lịch chưa phong phú, đa dạng, khác biệt để
hấp dẫn du khách; liên kết phát triển du lịch chưa được triển khai.
Các yếu tố trong phát triển du lịch bền vững hầu như chưa được quan
2
tâm hoặc quan tâm nhưng chưa đạt kết quả: thu nhập từ du lịch Tây Nguyên
thấp, chỉ chiếm 4,3% tổng thu nhập du lịch của cả nước; thu nhập của dân cư

từ hoạt động du lịch manh mún, nhỏ lẻ. Công tác bảo tồn, tôn tạo gắn với sử
dụng và phát huy tài nguyên du lịch, các yếu tố văn hóa chưa được quan
tâm đúng mức; nguồn nhân lực phục vụ du lịch thiếu và kém chất lượng.
Công tác bảo vệ môi trường, đối xử với thiên nhiên chưa được chú trọng,
điển hình là rừng bị tàn phá, các khu du lịch thác, hồ khô nước, ô nhiễm
nặng do thiếu đầu tư, tôn tạo và bị xung đột lợi ích với các ngành kinh tế
khác.
Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với ngành du lịch Tây Nguyên hiện nay là
phải phát triển nhanh và bền vững. Tức là vừa khai thác môi trường tự nhiên
và văn hóa nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của khách du lịch, có quan tâm
đến các lợi ích kinh tế dài hạn, đồng thời vừa duy trì các khoản đóng góp cho
công tác bảo vệ môi trường, tôn tạo các tài nguyên du lịch và góp phần nâng
cao mức sống của cộng đồng địa phương.
Xuất phát từ tầm quan trọng đó, nghiên cứu sinh chọn “Thực trạng phát
triển du lịch bền vững trên địa bàn Tây Nguyên
” làm đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ các vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu:
Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững.
Phần lớn, các nghiên cứu này xuất phát từ góc nhìn của khái niệm phát triển
bền vững, sau đó phát triển thành những nghiên cứu về phát triển bền vững
trong ngành du lịch, gọi tắt là phát triển du lịch bền vững. Chỉ tính đến năm
1999, theo thống kê của Tổ chức du lịch thế giới (The World Tourism
Organization) đã có trên 100 cuốn sách và 250 bài báo (công bố quốc tế) nói
về du lịch bền vững (Lucian Cernar và Julien Gourdon, 2007). Từ đó đến
3
nay, con số nói trên chắc chắn đã tăng hơn rất nhiều và khó có thể tóm lược
trong một phần nhỏ của nghiên cứu này.
Có rất nhiều khái niệm, cách hiểu đã đưa ra về du lịch bền vững. Theo
định nghĩa của Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên hiệp quốc (UNWTO) năm

2005 thì “Du lịch bền vững bao gồm tất cả các loại hình du lịch, bao gồm
cả du lịch quy mô lớn và những loại hình du lịch nhỏ. Nguyên tắc của sự bền
vững trong du lịch là đề cập đến các yếu tố, khía cạnh về môi trường, kinh tế
và văn hóa – xã hội của phát triển du lịch và sự cân bằng giữa 3 yếu tố này
cần được thiết lập nhằm đảm bảo mục tiêu bền vững dài hạn”. Từ định
nghĩa đó, du lịch bền vững có thể được xây dựng dựa trên những nguyên tắc
như sau:
Kinh tế
Đảm bảo duy trì mục tiêu kinh tế dài hạn, quyền lợi
và chia sẻ lợi ích công bằng của tất cả các bên liên quan,
bao gồm cả cơ hội việc làm, thu nhập, xóa đói giảm nghèo
và các dịch vụ xã hội cho các cộng đồng sở tại
Văn hóa – Xã
hội
Tôn trọng các giá trị văn hóa - xã hội của các nhóm
cư dân tại các vùng du lịch, góp phần bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa đặc sắc của cộng đồng sở tại, đồng thời
góp phần vào việc tăng cường trao đổi, giao lưu văn hóa
giữa du khách và cộng đồng địa phương. Các nhóm dân cư
bản địa phải được tham gia trực tiếp khai thác tài nguyên
văn hóa – xã hội của họ cho du lịch với tư cách chủ thể và
phải được hưởng lợi từ việc tham gia.
Môi trường
Sử dụng tối ưu tài nguyên môi trường nhằm hỗ trợ
phát triển du lịch đồng thời bảo tồn các giá trị sinh thái,
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ UNEP, 2004 và UNWTO, 2005
Trên cơ sở đó UNWTO (2005) đã nêu ra 2 nguyên tắc cơ bản của du
lịch bền vững bao gồm:
4

√. Giảm thiểu tối đa những ảnh hưởng tiêu cực của ngành du lịch và
hoạt động du lịch tới môi trường, văn hóa-xã hội và kinh tế.
√. Tăng cường tối đa đóng góp của ngành du lịch cho nền kinh tế và
tăng lợi ích cho cả du khách và cộng đồng địa phương, bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên và các giá trị văn hóa truyền thống.
Trên cơ sở định nghĩa và nguyên tắc nêu trên của UNEP và UNWTO,
tôi lựa chọn để tổng quan một số công trình nghiên cứu có liên quan đến
chủ đề của luận án, bao gồm những tài liệu dưới đây:
(1). Công trình: Du lịch và phát triển cộng đồng bền vững (Tourism
and sustainable community development) của Greg Richards và Derek R.
Hall (2000): Dựa trên nguồn tư liệu phong phú của các nghiên cứu trường
hợp được tiến hành từ khu phố cổ Edinburg tới vùng nông thôn phía Bắc Bồ
Đào Nha và các bãi biển của Inđônêsia, công trình này tìm cách trả lời câu
hỏi: các cộng đồng địa phương có thể đóng góp những gì cho du lịch bền
vững và ngược lại, du lịch bền vững sẽ mang lại điều gì cho các cộng đồng
địa phương? Ở đây, dưới các sắc thái biểu hiện khác nhau, vai trò của các
cộng đồng địa phương trong phát triển du lịch bền vững đã được khắc họa
một cách chân thực và sinh động. Cách đặt vấn đề của công trình này giúp
chúng ta liên hệ đến mối quan hệ biện chứng giữa các cộng đồng dân tộc tại
chỗ và ngành du lịch ở Tây Nguyên, từ đó, tìm kiếm các giải pháp khả thi
nhằm tạo điều kiện để các cộng đồng được tham gia và hưởng lợi nhiều hơn
từ các hoạt động du lịch.
(2). Công trình Phát triển du lịch và môi trường: phía bên kia tính bền
vững (Tourism development and environment: beyond sustainability?) của
Sharpley (2009): Sau khi điểm lại diễn tiến nội dung của khái niệm du lịch
bền vững trong các công trình hàn lâm và các qui trình chính sách trong các
thập niên gần đây và chỉ ra giới hạn của các mô hình du lịch đương thời, tác
giả đề xuất một phương pháp tiếp cận khác cho phép duy trì được tính bền
vững về môi trường – cái được xem là điều kiện tiên quyết của du lịch bền
5

vững. Công trình này cung cấp các quan điểm khác nhau về khái niệm du
lịch bền vững và mối quan hệ giữa bền vững du lịch và bền vững môi
trường.
(3). Công trình Phát triển bền vững là gì? Xây dựng bộ công cụ chuẩn
về phát triển bền vững (Is the concept of sustainble development –
developing sustainable development benchmarking tool) của Lucian Cernar
và Julien Gourdon (2007): Mục đích của các tác giả là đưa ra một phương
pháp thống nhất để đánh giá du lịch bền vững căn cứ trên các chỉ số định
lượng. Phương pháp này được gọi là công cụ chuẩn về du lịch bền vững
(The sustainable tourism benchmarking tool – viết tắt là STBT). STBT đánh
giá tính bền vững của du lịch dưới 4 lĩnh vực (dimension): bền vững về kinh
tế (được phản ánh qua 3 phương diện: tài nguyên du lịch, hoạt động du lịch,
liên kết du lịch), bền vững về xã hội và sinh thái, bền vững về hạ tầng và sức
hút. Để đánh giá được độ bền vững trong mỗi lĩnh vực nêu trên, các tác giả
lần lượt nêu ra các chỉ số tương ứng để lượng hóa thông tin. Ví dụ, đối với
vấn đề tài nguyên du lịch, vận dụng phương pháp STBT, người ta tính toán
được chính xác số lượng các điểm du lịch tự nhiên và các điểm du lịch văn
hóa của một khu vực cụ thể, qua đó đánh giá được quy mô và tiềm năng du
lịch của địa bàn đó. Phương pháp STBT là một tham khảo hữu ích để tác giả
bản luận án này phân tích, đánh giá tính bền vững của du lịch Tây Nguyên
thông qua các chỉ số tương ứng.
Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
a. Các luận án Tiến sĩ kinh tế đã bảo vệ thành công
(1) Đề tài: "Phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch khu vực duyên
hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên" của Trần Sơn Hải
Luận án nêu lên được điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của khu vực
duyên hải Nam Trung bộ và Tây nguyên, làm nổi bật tiềm năng du lịch
vùng. Tác giải đã tổ chức điều tra xã hội học về thực trạng nguồn nhân lực,
từ đó đi sâu phân tích những nguyên nhân và đề ra giải pháp phát triển
6

nguồn nhân lực ngành du lịch các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ và Tây
nguyên. Luận án cũng đã nêu lên kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực du
lịch của một số quốc gia để làm cơ sở định hướng của Luận án.
Tuy nhiên, Luận án chỉ đi sâu phân tích một lĩnh vực về phát triển
nguồn nhân lực ngành du lịch, đây chỉ là một trong những điều kiện cơ bản
để phát triển du lịch bền vững.
(2). Luận án "Phát triển du lịch Tây Nguyên đến năm 2020 đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế" (2011) của Nguyễn Duy Mậu.
Tác giả đã hệ thống hóa các khái niệm về du lịch, thị trường du lịch,
chức năng và phân loại các thị trường du lịch; đồng thời luận án đưa ra 13
loại hình du lịch phổ biến hiện nay trên thế giới; làm rõ sản phẩm du lịch và
mối quan hệ giữa tài nguyên du lịch hấp dẫn với sản phẩm du lịch hấp dẫn
và thị trường du lịch hấp dẫn. Phân tích kênh phân phối sản phẩm lữ hành và
hệ thống các doanh nghiệp lữ hành tại thị trường nhận khách và gởi khách,
vận dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Làm rõ những lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin về dịch vụ, du lịch làm cơ sở lý luận cho định hướng phát
triển du lịch. Phân tích vai trò của du lịch đối với tăng trưởng kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và các tác động tới ngành kinh tế, xã hội khác. Tác động
giữa hội nhập kinh tế quốc tế và du lịch, những yêu cầu nhằm đáp ứng phát
triển du lịch trong tiến trình hội nhập. Luận án làm rõ khái niệm, mục tiêu,
nội dung và điều kiện phát triển du lịch bền vững.
Đánh giá toàn diện tiềm năng và cơ sở phát triển du lịch, vị trí, vai trò
và lợi thế của du lịch Tây Nguyên trong phát triển vùng và quốc gia. Làm rõ
thực trạng hoạt động du lịch trên địa bàn qua lượng khách và thu nhập từ du
lịch; cơ sở vật chất cho du lịch; khai thác tài nguyên du lịch phát triển các
loại hình sản phẩm du lịch. Luận án đánh giá về tổ chức không gian lãnh thổ,
công tác xúc tiến, quảng bá liên kết; đầu tư phát triển du lịch; đào tạo, bồi
dưỡng phát triển nguồn nhân lực và cơ chế, chính sách, quản lý nhà nước về
du lịch. Đồng thời, luận án phân tích tác động của du lịch với quá trình phát
7

triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của du lịch Tây
Nguyên.
Dự báo xu hướng phát triển du lịch thế giới, khu vực và Việt Nam đến
năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Luận án đề xuất bảy quan điểm phát
triển, các mục tiêu và bảy định hướng để phát triển du lịch Tây Nguyên đến
năm 2020. Luận án đưa ra chín giải pháp để phát triển du lịch Tây Nguyên
đến năm 2020 trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, trong luận án chưa đề cập đến yếu tố phát triển du lịch bền
vững: kinh tế, xã hội và môi trường, do vậy luận án chưa làm rõ được phát
triển du lịch Tây Nguyên có bền vững hay không? và bền vững ở mức độ
nào?. Mặt khác, luận án cũng chưa đề cập đến vấn đề liên kết trong phát
triển du lịch bền vững.
(3) Luận án: "Điều kiện và giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch
Campuchia thành ngành kinh tế mũi nhọn" (2004) của DukVanna.
Tác giả chủ yếu làm nổi bật các điều kiện về tự nhiên, kinh tế xã hội
của Campuchia để phát triển du lịch; các giải pháp chủ yếu để đưa du lịch
Campuchia thành ngành kinh tế mũi nhọn. Luận án đã đưa ra hệ thống các lý
luận cơ bản về phát triển du lịch và những yếu tố để định giá du lịch
Campuchia.
(4) Luận án “Phát triển du lịch bền vững ở Phong Nha-Kẻ bàng”
(2007) của Trần Tiến Dũng.
Tác giả đã phân tích các quan niệm về hệ thống đánh giá về du lịch
bền vững, các kinh nghiệm du lịch bền vững và không bền vững trên thế giới
và đề xuất các giải pháp phát triển du lịch bền vững Phong Nha-Kẻ Bàng.
Đây là luận án về du lịch bền vững ở một vùng du lịch cụ thể, có tính đặc
trưng. Tuy nhiên, các quan niệm về du lịch bền vững cũng như tiêu chí đánh
giá chưa được tác giả quan tâm nghiên cứu.
8
(5) Đề tài “Hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh

Lâm Đồng” (2008) của Nguyễn Tấn Vinh.
Đây là luận án đi sâu về quản lý nhà nước trên địa bàn một tỉnh, hệ
thống hoá các lý thuyết về quản lý nhà nước trong du lịch và phân tích thực
trạng quản lý nhà nước trong du lịch, đề xuất các giải pháp mang tính khả
thi. Tác giả quan tâm đến các giải pháp quản lý nhà nước trong du lịch làm
cơ sở khi nghiên cứu du lịch Tây Nguyên.
(6) Đề tài “Phát triển du lịch gắn với xoá đói giảm nghèo ở Lào Cai”
(2010) của Phan Ngọc Thắng.
Đề tài đi sâu phân tích các lý luận về phát triển du lịch, đặc trưng của
luận án là gắn với quá trình xoá đói, giảm nghèo ở một địa phương, với các
giải pháp khả thi. Cơ sở lý luận của luận án và giải pháp phát triển du lịch là
những điểm mới cho tác giả nghiên cứu.
(7) Luận án Tiến sĩ kinh tế: “Phát triển kinh doanh lưu trú du lịch tại
vùng du lịch Bắc bộ của Việt Nam” (2011) của Hoàng Thị Lan Hương.
Tác giả chủ yếu đi sâu vào phân tích kinh doanh lưu trú một lĩnh vực
của kinh doanh du lịch, các giải pháp phát triển kinh doanh lưu trú là những
đề xuất có giá trị khi nghiên cứu tại địa bàn Tây Nguyên.
b. Một số bài viết được in trong các kỷ yếu hội thảo về phát triển du
lịch Miền Trung, Tây Nguyên
(1) Bài viết về Liên kết phát triển giữa Khu du lịch Sinh thái Quốc Gia
Măng Đen với các khu du lịch khác ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên
của PGS, TS Nguyễn Kim Lợi, Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ
Chí Minh nhận định: Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, mang tính liên
ngành, liên vùng, phức tạp. Do đó để phát triển Khu du lịch Măng Đen trở
thành khu du lịch sinh thái Quốc gia đến năm 2030, chúng ta cần có những
chính sách, giải pháp đúng đắn để liên kết phát triển giữa khu du lịch sinh
thái Quốc gia Măng Đen với các khu du lịch khác ở các tỉnh Miền Trung và
9
Tây Nguyên, bao gồm liên kết phát triển nguồn lực cho du lịch, liên kết tổ
chức các hoạt động du lịch và liên kết bảo vệ môi trường. Ứng dụng các giải

pháp liên kết du lịch vào thực tế sẽ không tránh khỏi những khó khăn, thử
thách, đòi hỏi rất nhiều điều kiện cơ sở vật chất, tài chính và nỗ lực của các
cơ quan quản lý trong một khoảng thời gian dài. Do đó, để việc triển khai
các giải pháp liên kết du lịch có hiệu quả, cần có sự quan tâm đầu tư về cơ sở
vật chất của các cấp, sự chỉ đạo sâu sát của ngành, sự vào cuộc thực sự của
mỗi cán bộ quản lý và đặc biệt là tham gia, hỗ trợ nhiệt tình của mỗi người
dân.
(2) Bài viết về Vai trò của Khu du lịch sinh thái Quốc gia Măng Đen
trên tuyến hành lang Đông Tây và Khu vực Tam giác phát triển (Việt Nam -
Lào - Campuchia) của Tiến sỹ Hoàng Ngọc Phong - Viện Phó Viện Chiến
lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận định: Hành lang Đông Tây
trong triển vọng và phát triển đã xác định hướng đi quan trọng là liên kết
phát triển du lịch, những thế mạnh riêng biệt sẽ được phát huy nếu đạt được
khả năng liên kết tốt giữa các khu vực có tiềm năng ở các quốc gia trên
tuyến hành lang; khu vực Măng Đen sẽ có nhiều thuận lợi để hình thành sản
phẩm du lịch nổi trội trong khu vực và có điều kiện khẳng định rõ vai trò của
một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng sinh thái hàng đầu của Tam giác phát
triển; Định vị Măng Đen trong Du lịch Vùng Tây Nguyên với Ý tưởng "Con
đường xanh Tây Nguyên" đã được đưa vào khai thác khá hiệu quả. Măng
Đen sẽ tham gia vào liên kết này như là một điểm đến mới, cung cấp các sản
phẩm du lịch sinh thái đậm dấu ấn. Nếu xét trên toàn Vùng Tây Nguyên chỉ
có Đà Lạt là có điều kiện khí hậu tương tự như Măng Đen. Nhưng Măng
Đen sẽ tìm ra những hướng đi riêng để phát triển, tìm ra những sản phẩm
khác biệt để hình thành một khu du lịch sinh thái mang tầm cỡ Quốc gia.
Định vị Măng Đen trong tổng thể hệ thống Đô thị Tây Nguyên và Duyên Hải
10
Miền Trung. Măng Đen cần học hỏi, rút kinh nghiệm từ phát triển của thành
phố Đà Lạt và đi tìm điểm khác biệt.
(3) Bài viết về liên kết phát triển giữa khu du lịch sinh thái Quốc gia
Măng Đen với các khu du lịch khác ở các tỉnh Miền Trung và Tây Nguyên

của Tiến Sỹ Trương Sỹ Vinh - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển
du lịch nhận định: Để đầu tư phát triển Khu du lịch sinh thái Măng Đen thực
sự trở thành một khu du lịch quốc gia với hệ thống sở hạ tầng, cơ sở vật chất
kỹ thuật du lịch, với hệ thống các dịch vụ du lịch một cách đồng bộ và có
chất lượng cao, có sức hút lớn đối với khách du lịch trong và ngoài nước…
thì việc liên kết hợp tác trong phát triển là một trong những giải pháp quan
trọng hàng đầu để thực hiện “Quy hoạch xây dựng vùng du lịch sinh thái
Măng Đen và quy hoạch chung đô thị Kon Plong, huyện Kon Plong đến năm
2030”.
(4) Bài viết "Khai thác tiềm năng thiên nhiên và giá trị văn hóa truyền
thống để phát triển du lịch cộng đồng ở Măng Đen" của Tiến sỹ Vũ Tuấn
Anh - Viện Kinh tế Việt nam. Bài viết đã khái quát một số khía cạnh về lý
thuyết của du lịch cộng đồng, trên cơ sở khung lý thuyết phát triển du lịch
bền vững; bài viết nêu được các mô hình, kinh nghiệm phát triển du lịch
cộng đồng ở Việt Nam, đồng thời đề xuất giải pháp, xây dựng quy trình phát
du lịch cộng đồng tại Măng Đen.
Như vậy, có thể thấy rằng: đối với nhóm công trình trong nước, các
tác giả đã nghiên cứu các lĩnh vực cụ thể của ngành du lịch, chủ yếu tập
trung vào các nội dung để phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn
của địa phương, ví dụ như tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp du lịch, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, quản lý nhà nước về
du lịch, phát triển kinh doanh lưu trú trong du lịch… Tuy nhiên, để hình
thành khung lý thuyết phát triển du lịch bền vững; nhận định, đánh giá phát
triển du lịch bền vững Tây Nguyên trên 3 yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường
11
và nghiên cứu các yếu tố đặc thù khác của vùng có thể tác động đến phát
triển du lịch bền vững Tây Nguyên; đề xuất giải pháp và cơ chế chính sách
thì chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống. Việc
nghiên cứu các giải pháp để phát triển du lịch ở cấp độ vùng theo quan điểm
phát triển bền vững lại chưa được đề cập nhiều, đặc biệt là ở một địa bàn đặc

thù và giàu tiềm năng du lịch như Tây Nguyên. Hơn nữa, trong số các giải
pháp được nêu ra, giải pháp về liên kết du lịch vùng (nội vùng và ngoại
vùng) cũng chưa được phân tích đúng mức. Trong khi đó, vấn đề liên kết
đang là một khâu yếu trong bức tranh phát triển kinh tế nói chung và phát
triển du lịch nói riêng ở Tây Nguyên, nên rất cần được tập trung nghiên cứu
nhằm tìm ra các giải pháp phù hợp. Đối với nhóm công trình quốc tế, rất
nhiều vấn đề cơ bản và cụ thể của du lịch bền vững đã được giới thiệu, phân
tích và diễn giải một cách khoa học, chặt chẽ, cho phép tác giả tiếp nhận
nhiều công cụ lí thuyết để nghiên cứu thực tiễn du lịch Tây Nguyên.
Tóm lại, kế thừa thành quả của các nghiên cứu trong nước và quốc tế,
tác giả cố gắng vận dụng lý thuyết phát triển du lịch bền vững vùng để phản
ánh thực trạng du lịch và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển vùng du lịch
Tây Nguyên theo hướng bền vững, trong đó, nhấn mạnh vào các giải pháp
liên kết du lịch và xem đó như là một động lực quan trọng cho sự chuyển
mình của du lịch Tây Nguyên trong thời gian tới.
3. Mục đích nghiên cứu của luận án
- Trên cơ sở lý luận chung về phát triển du lịch bền vững, Luận án
đánh giá và dự báo đúng các chiều hướng mới của bối cảnh quốc tế, khu
vực, tiểu khu vực bao gồm tiểu vùng sông Mê Kông; tam giác phát triển;
hành lang kinh tế Đông - Tây và trong nước đến năm 2020 tác động đến phát
triển du lịch Tây Nguyên.
- Định vị phát triển du lich Tây Nguyên trên quan điểm phát triển bền
vững dưới tác động của bối cảnh mới và các đặc điểm, lợi thế so sánh mang
12
tính đặc thù của toàn vùng, trong mối tương quan so sánh với các vùng khác
của cả nước.
- Định hướng và các giải pháp về phát triển du lịch bền vững Tây
Nguyên đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu ngành du lịch,

trong đó đi sâu nghiên cứu phát triển du lịch bền vững vùng và các yếu tố
liên quan đến phát triển du lịch bền vững của vùng Tây Nguyên.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt thời gian: Luận án phân tích thực trạng phát triển du lịch Tây
Nguyên giai đoạn 2002-2012 và định hướng, giải pháp phát triển du lịch bền
vững Tây Nguyên đến năm 2020.
- Về mặt không gian: Toàn bộ hoạt động du lịch và các ngành liên
quan đến phát triển du lịch bền vững thuộc địa bàn 5 tỉnh Tây Nguyên.
Ngoài ra, dưới quan điểm liên kết du lịch, luận án còn đặt vùng du lịch Tây
Nguyên trong mối quan hệ với các vùng du lịch khác trong cả nước, đặc biệt
là vùng duyên hải Miền Trung và vùng Đông Nam Bộ.
5. Nhiệm vụ luận án phải giải quyết:
- Về mặt lý thuyết: Luận án làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản như: du
lịch; phát triển du lịch bền vững, các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch
bền vững; khung lý thuyết về hợp tác, liên kết phát triển du lịch; xây dựng các
tiêu chí đánh giá phát triển du lịch bền vững, kinh nghiệm phát triển du lịch bền
vững trong nước và thế giới.
- Về thực trạng phát triển du lịch bền vững Tây Nguyên: Luận án đánh
giá có hệ thống về các yếu tố tác động đến phát triển du lịch bền vững Tây
Nguyên (cả yếu tố cốt lõi và yếu tố tác động). Thu thập tư liệu, phỏng vấn
khách du lịch để phân tích đánh giá và kết luận mức độ phát triển du lịch bền
vững Tây Nguyên. Phân tích mô hình SWOT, nhằm đánh giá những điểm
13
mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức để có cơ sở định hướng phát triển du
lịch bền vững Tây Nguyên trong thời gian sắp đến.
- Về giải pháp phát triển: Luận án đưa ra những định hướng phát triển,
đề xuất các nhóm giải pháp cho việc phát triển du lịch bền vững Tây Nguyên
đến năm 2020, trên cơ sở nhận định bối cảnh quốc tế, trong nước và vùng
Tây Nguyên tác động đến phát triển du lịch bền vững. Đề xuất các nhóm cơ
chế chính sách đặc thù để phát triển du lịch bền vững Tây Nguyên trong thời

gian đến.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng cách tiếp cận hệ thống, kết hợp khung quan niệm
của quốc tế với đặc thù vùng Tây Nguyên, theo đó xem xét phát triển bền
vững trên 4 trụ cột: kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường trong sự tương tác
lẫn nhau. Xem xét phát triển du lịch bền vững trong sự kết hợp hài hòa tăng
trưởng kinh tế với phát triển xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường và giữ
vững an ninh - chính trị trong bối cảnh tăng cường hội nhập quốc tế và khu
vực. Các phương pháp sẽ áp dụng:
- Phương pháp phân tích tài liệu: Tham khảo, đánh giá các nghiên cứu
đã có liên quan đến đề tài của luận án, từ đó, tìm cách kế thừa các thành quả
và bổ sung các khoảng trống trong nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững
ở Tây Nguyên.
- Thu thập, phân tích tài liệu thứ cấp (sách, báo, các quy hoạch, các báo
cáo đánh giá, số liệu thống kê). Nhấn mạnh phân tích so sánh để làm rõ phát
triển du lịch vùng Tây Nguyên trong nhịp độ phát triển du lịch chung của cả
nước, khu vực và thế giới.
- Tổng hợp và phân tích định tính để có dự báo các yếu tố ảnh hưởng,
tác động đến phát triển du lịch bền vững của vùng Tây Nguyên.
- Phương pháp điều tra thực địa: Kết hợp sử dụng bảng hỏi và phỏng
vấn sâu trên thực địa đối với 250 người để đánh giá chất lượng dịch vụ du
14
lịch và mức độ hài lòng của khách hàng đối với ngành du lịch ở 5 tỉnh Tây
Nguyên. Từ đó nhận định mức độ bền vững của du lịch Tây Nguyên bằng
các chỉ tiêu định lượng.
- Sử dụng phương pháp tiếp cận SWOT để làm rõ điểm mạnh, điểm
yếu, cơ hội, thách thức đối với vùng Tây Nguyên về phát triển du lịch bền
vững truớc tác động của bối cảnh thế giới và trong nước.
7. Những đóng góp của đề tài:
Luận án nghiên cứu để tìm ra giải pháp phát triển du lịch bền vững

trên địa bàn Tây Nguyên một cách tiếp cận mới của NCS là tổng thể, toàn
diện, liên ngành và đa ngành trên một địa bàn có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau.
So với các công trình đã công bố thì NCS sẽ kỳ vọng có một số đóng
góp sau:
Thứ nhất, Về định nghĩa và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển du
lịch bền vững, luận án đã đưa ra định nghĩa phát triển du lịch bền vững, trên
4 trụ cột kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường. Xây dựng bộ tiêu chí để
làm cơ sở nghiên cứu đánh giá phát triển du lịch bền vững; làm rõ các khái
niệm vùng và xây dựng khung lý thuyết về liên kết phát triển du lịch bền
vững vùng.
Thứ hai, Luận án đánh giá, làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển
du lịch bền vững Tây Nguyên (kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường). Trong
đó, đi sâu phân tích vai trò của các ngành, lĩnh vực, thể chế và các yếu tố an
ninh, chính trị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến phát triển du lịch bền
vững vùng. Phỏng vấn sâu trên thực địa đối với 250 người để đánh giá chất
lượng dịch vụ du lịch và mức độ hài lòng của khách hàng đối với ngành du
lịch ở 5 tỉnh Tây Nguyên. Trên cơ sở đó có nhận định mức độ phát triển du
lịch bền vững của vùng Tây nguyên. Luận án đã phân tích mô hình SWOT
15
để làm rõ điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức đối với vùng Tây Nguyên
trong phát triển du lịch bền vững.
Thứ ba, Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển vùng du lịch Tây
Nguyên theo hướng bền vững, trong đó, nhấn mạnh vào các giải pháp liên
kết du lịch và xem đó như là một động lực quan trọng cho sự chuyển mình
của du lịch Tây Nguyên trong thời gian tới. Bên cạnh đó, luận án đã đề xuất
các cơ chế chính sách đặc thù để du lịch bền vững Tây Nguyên phát triển
mạnh.
8. Kết cấu của Luận án:
Tên Luận án: Giải pháp phát triển du lịch bền vững Tây Nguyên

Chương 1: Một số vấn đề về lý luận và kinh nghiệm phát triển du lịch
bền vững
Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch bền vững trên địa bàn Tây
Nguyên
Chương 3: Đề xuất giải pháp phát triển du lịch bền vững Tây Nguyên
đến năm 2020
16
17
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN
DU LỊCH BỀN VỮNG
1.1. Du lịch và một số vấn đề về phát triển du lịch
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến du lịch
1.1.1.1. Du lịch
Hoạt động du lịch đã có từ lâu trong lịch sử phát triển của loài người.
Những năm gần đây du lịch phát triển nhanh ở nhiều nước trên thế giới. Đối
với nhiều quốc gia, du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, nguồn thu
ngoại tệ lớn.
Tuy nhiên, khái niệm "Du lịch" được hiểu rất khác nhau bởi xuất phát
từ mục đích khác nhau của các đối tượng khi tham gia vào "Hoạt động du
lịch". Đối với người đi du lịch là một cuộc hành trình và lưu trú ngoài nơi cư
trú thường xuyên, nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mình. Đối
với các chủ cơ sở kinh doanh du lịch thì đó là quá trình tổ chức các điều kiện
sản xuất, dịch vụ phục vụ người đi du lịch nhằm đạt lợi nhuận tối đa. Đối với
chính quyền địa phương có địa danh du lịch, thì đó là việc tổ chức các điều
kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất, kỹ thuật để phục vụ du khách; tổ chức
tiêu thụ sản phẩm sản xuất tại địa phương, tăng nguồn thu cho ngân sách,
nâng cao mức sống dân cư; tổ chức các hoạt động quản lý hành chính nhà
nước bảo vệ môi trường tự nhiên, xã hội và an ninh
GS.TS Hunziker cho rằng "Du lịch là tập hợp các mối quan hệ, hiện

tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài
địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và không
liên quan đến hoạt động kiếm lời" [63]. Quan niệm này đã bao quát nội dung
du lịch nhưng lại thiếu phân loại cụ thể các mối quan hệ và chưa quan tâm
đầy đủ đến các hoạt động tổ chức du lịch và sản xuất hàng hoá và dịch vụ
đáp ứng nhu cầu của du khách.
18
Trường Đại học Tổng hợp Kinh tế thành phố Varna (Bungari) đưa ra
định nghĩa "Du lịch là một hiện tượng kinh tế, xã hội được lặp đi lặp lại đều
đặn, chính là sản xuất và trao đổi dịch vụ, hàng hoá của các đơn vị kinh tế
riêng biệt, độc lập; đó là tổ chức các xí nghiệp với cơ sở vật chất kỹ thuật
chuyên môn nhằm bảo đảm sự đi lại, lưu trú, ăn uống, nghỉ ngơi với mục
đích thoả mãn các nhu cầu cá thể về vật chất, tinh thần của những người lưu
trú ngoài nơi ở thường xuyên mà không có mục đích kiếm lời" [64]. .
Michael Coltman quan niệm "Du lịch là sự kết hợp của 4 nhóm nhân tố trong
quá trình phục vụ khách bao gồm: Du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch,
cư dân sở tại và chính quyền nơi đón khách du lịch" [47].
Tổng hợp các quan niệm, trên quan điểm toàn diện và thực tiễn phát
triển của ngành du lịch trên trường quốc tế và trong nước. Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân (Hà Nội) đã nêu định nghĩa về du lịch như sau:
"Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức
hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp
nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, thăm quan, giải trí, tìm
hiểu và các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại
lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước (địa phương) làm du lịch
và bản thân doanh nghiệp" [11].
Qua nghiên cứu nhiều định nghĩa về du lịch, tác giả xét thấy định
nghĩa về du lịch của trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội là phù hợp với
xu thế phát triển ngành du lịch hiện nay và phù hợp với đề tài nghiên cứu.
Theo định nghĩa trên, "Du lịch" có những đặc trưng nổi bật sau:

Một là, du lịch là tổng hợp của nhiều hoạt động: Du khách trong
một chuyến du lịch, bên cạnh các nhu cầu đặc trưng của chuyến đi là: tham
quan, giải trí, nghỉ ngơi, chữa bệnh còn có nhiều nhu cầu như: ăn, ngủ, đi
lại, mua sắm hàng hoá, đồ lưu niệm, đổi tiền, gọi điện, gửi thư, tham gia các
dịch vụ vui chơi giải trí Các nhu cầu trên do nhiều hoạt động sản xuất, kinh
doanh đem lại. Do đó, hoạt động du lịch muốn có hiệu quả cao phải coi trọng
19
công tác phối hợp, đồng bộ các hoạt động nhằm đa dạng, phong phú, liên tục
xử lý các quan hệ nảy sinh giữa các bên một cách thông suốt, kịp thời.
Trong một chuyến du lịch có nhiều mối quan hệ nảy sinh, ít nhất là 4
nhóm nhân tố: du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân sở tại và
chính quyền nơi đón khách du lịch. Do đó, du lịch là một hoạt động mang
tính xã hội, phát sinh nhiều tình cảm tốt đẹp giữa con người với con người
và giữa con người với thiên nhiên.
Du lịch là một hoạt động văn hoá, một cách mở rộng không gian văn
hoá của du khách trên nhiều mặt: thiên nhiên, lịch sử, văn hoá qua các thời
đại, của từng dân tộc
Hai là, sản phẩm du lịch gồm cả yếu tố hữu hình và yếu tố vô hình:
Yếu tố vô hình thường chiếm tới 90%. Theo ISO 9004: 1991 "Dịch vụ là kết
quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa người cung cấp và khách
hàng, cũng nhờ các hoạt động của người cung cấp để đáp ứng nhu cầu người
tiêu dùng". Dịch vụ là kết quả hoạt động không thể hiện bằng sản phẩm vật
chất, nhưng bằng tính hữu ích của chúng và có giá trị kinh tế.
Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ - sản phẩm của ngành du lịch chủ
yếu là dịch vụ, không tồn tại dưới dạng vật thể, không lưu kho lưu bãi,
không chuyển quyền sở hữu khi sử dụng, tính không thể di chuyển, tính thời
vụ, tính trọn gói, tính không đồng nhất
Chất lượng dịch vụ du lịch chính là sự phù hợp với nhu cầu của khách
hàng, được xác định bằng việc so sánh giữa dịch vụ cảm nhận và dịch vụ
trông đợi. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng dịch vụ là: sự tin cậy, tinh thần

trách nhiệm, sự bảo đảm, sự đồng cảm và tính hữu hình. Trong 5 chỉ tiêu
trên có 4 chỉ tiêu mang tính vô hình, 1 chỉ tiêu mang tính hữu hình (cụ thể
biểu hiện ở điều kiện làm việc, trang thiết bị, con người, phương tiện thông
tin), chỉ tiêu hữu hình là thông điệp gửi tới khách hàng về chất lượng của
dịch vụ du lịch.
20
Ba là, sản phẩm du lịch thường gắn bó chặt chẽ với tài nguyên du
lịch: Tài nguyên du lịch là sự kết hợp của cảnh quan thiên nhiên và thành
quả lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng cho các hoạt động
nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch. Tài nguyên du lịch có thể trực tiếp hay gián
tiếp tạo ra các sản phẩm du lịch. Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch
đang khai thác, tài nguyên du lịch chưa khai thác. Do đó, sản phẩm du lịch
thường không dịch chuyển được, mà khách du lịch phải đến địa điểm có các
sản phẩm du lịch tiêu dùng các sản phẩm đó, thoả mãn nhu cầu của mình. Có
thể nói, quá trình tạo sản phẩm và tiêu dùng sản phẩm du lịch trùng nhau về
thời gian và không gian. Điều đó cho thấy việc "thu hút khách" đến nơi có
sản phẩm du lịch là nhiệm vụ quan trọng của các nhà kinh doanh du lịch, đó
cũng là nhiệm vụ của chính quyền địa phương và nhân dân cư trú quanh
vùng có sản phẩm du lịch, đặc biệt trong điều kiện tiêu dùng các sản phẩm
du lịch có tính thời vụ.
Bốn là, có 3 yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình cung ứng và
tiêu dùng sản phẩm du lịch, đó là: khách du lịch, nhà cung ứng du lịch và
phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật.
Theo điểm 2, điều 10, chương I của Pháp lệnh Du lịch Việt Nam (ban
hành năm 1999) định nghĩa khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế:
"Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại
Việt Nam, đi du lịch trong lãnh thổ Việt Nam", "Khách du lịch quốc tế là
người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du
lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước
ngoài du lịch".

Theo Luật Du lịch được Quốc hội thông qua năm 2005 thì khái niệm
khách du lịch về cơ bản cũng giống như khái niệm của Pháp lệnh Du lịch.
Nhưng quyền của khách du lịch đã được xác định rõ hơn. Tại điều 35 quy
định quyền của khách du lịch: "Lựa chọn hình thức du lịch lẻ hoặc du lịch
theo đoàn; lựa chọn một phần hay toàn bộ chương trình du lịch, dịch vụ du
21
lịch của tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch", "Hưởng đầy đủ các dịch vụ du
lịch theo hợp đồng giữa khách du lịch và tổ chức, cá nhân kinh doanh du
lịch; được hưởng bảo hiểm du lịch và các loại bảo hiểm khác theo quy định
của pháp luật".
Các nhà cung ứng du lịch bao gồm các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
cung cấp dịch vụ cho du khách, thường được tổ chức theo mục tiêu tài chính
hay theo quá trình.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch: là toàn bộ cơ sở hạ tầng kinh tế - xã
hội bảo đảm các điều kiện cho du lịch phát triển; là phương tiện vật chất kỹ
thuật do các tổ chức du lịch tạo ra để khai thác các tiềm năng du lịch, tạo ra
các sản phẩm dịch vụ và hàng hoá cung cấp nhằm thoả mãn nhu cầu của du
khách. Các yếu tố đặc trưng trong hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành
du lịch là: hệ thống khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi giải trí, phương
tiện vận chuyển, các công trình kiến trúc bổ trợ Đó là những yếu tố chính,
trực tiếp để tạo ra các dịch vụ du lịch.
1.1.1.2. Tài nguyên du lịch và điểm hấp hẫn du lịch
√. Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên
nhân văn. Tài nguyên nhân văn là các yếu tố như lịch sử, kiến trúc, nghệ
thuật, phong tục tập quán, nghề truyền thống, văn hóa dân gian Tài nguyên
thiên nhiên là các danh lam thắng cảnh, thác, ghềnh, sông, suối, hang động,
thảm thực vật, động vật hoang dã, chim di trú,
√. Điểm hấp dẫn du lịch là tài nguyên du lịch được chọn lọc có thể
minh họa tốt nhất giá trị của tài nguyên của một điểm đến và có tính khả thi
để phát triển sản phẩm tham quan du lịch. Phân loại các điểm hấp dẫn du

lịch.
- Các điểm địa lý, các điểm cảnh quan: bao gồm khu vực núi, đèo, đá
lớn, hình dạng đá đặc biệt, hang động, sông ngòi, cảnh quan, cảnh rừng, khu
vực có sự hình thành những đám mây kỳ lạ, khu vực có những điều kiện
thiên văn học đặc biệt; khu vực có suối nước nóng, hoạt động núi lửa
22
- Các điểm sinh thái - sinh học: bao gồm các điểm có thể quan sát sinh
vật; những điểm có những sự kiện hay quá trình sinh thái có sự tham gia của
các sinh vật như quá trình phân hủy, tái tạo, di cư hay hóa thạch.
- Các điểm văn hóa - lịch sử: Bao gồm những công trình xây dựng bởi
con người, các di tích khảo cổ, các lễ hội, di tích
- Các điểm giải trí: bao gồm tất cả các khu vực do con người xây dựng
với mục đích giải trí như giáo dục như công viên, sân thể thao, bảo tàng, nhà
hát, trung tâm mua sắm
1.1.2. Phát triển du lịch
1.1.2.1. Quan điểm về phát triển du lịch
Phát triển du lịch có thể được nhận thức đầy đủ khi nghiên cứu 5 nội
dung sau:
Thứ nhất, là sự tăng trưởng. Những chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện
sự tăng trưởng là: Mức gia tăng lượng khách du lịch; mức tăng thu nhập từ
du lịch; mức tăng quy mô cơ sở vật chất kỹ thuật; số lượng việc làm tăng
thêm từ phát triển du lịch.
Thứ hai, mức độ thay đổi phương thức tiến hành các hoạt động du lịch
theo hướng ngày càng hiện đại nhờ hiệu quả đem lại từ các hoạt động du lịch
đó. Cụ thể là những sản phẩm du lịch, công nghệ, phương thức phục vụ hiện
đại, cơ sở hạ tầng cho phát triển du lịch
Thứ ba, Mức độ và chất lượng tham gia của du khách, dân cư, chính
quyền địa phương cũng như các nhà kinh doanh du lịch ngày càng tự giác,
tích cực trên cơ sở tinh thần cộng đồng và sự hài hòa về lợi ích.
Thứ tư, Phát triển du lịch hiện tại không làm tổn hại đến khả năng

hưởng thụ du lịch của các thế hệ tương lai.
Thứ năm, phát triển du lịch phải bảo đảm sự hài hòa giữa 3 mục tiêu:
kinh tế- xã hội và môi trường. Về kinh tế phải bảo đảm duy trì nhịp tăng
trưởng theo thời gian và sự tăng trưởng phải dựa trên cơ sở tăng năng suất
lao động và hiệu quả cao chứ không phải chỉ dựa trên sự gia tăng của các
23
yếu tố đầu vào. Về mặt xã hội, được hiểu trên cơ sở quan điểm toàn diện và
bình đẳng giữa những người, giữa các bên tham gia vào quá trình hoạt động
du lịch, quan tâm đến sự bình đẳng giữa các thế hệ. Mở rộng cơ hội lựa
chọn hưởng thụ các sản phẩm du lịch của thế hệ hôm nay, nhưng không làm
tổn hại đến cơ hội lựa chọn của thế hệ mai sau. Về mặt môi trường, chứa
đựng tư tưởng cơ bản sau: các quyết định khai thác tài nguyên du lịch đặc
biệt là tài nguyên thiên nhiên phải bảo tồn, tái sinh các hệ sinh thái, bảo đảm
chất lượng môi trường cho hiện tại và cho tương lai; bảo đảm sự phối hợp
giữa các hoạt động kinh doanh du lịch với các hoạt động kinh tế, xã hội
khác; đảm bảo an ninh quốc phòng
1.1.2.2. Các điều kiện phát triển du lịch
Sự phát triển của du lịch đòi hòi phải có những điều kiện nhất định.
Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực du lịch có nhiệm vụ tạo ra và bảo đảm các
điều kiện đó.
Trước hết là các điều kiện chung, bao gồm: các điều kiện cho sự phát
triển của hoạt động đi du lịch như: thời gian rỗi của dân cư; mức sống vật
chất và trình độ văn hóa chung của người dân cao; điều kiện giao thông phát
triển; điều kiện chính trị ổn định, hòa bình. Các điều kiện có ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh du lịch như: tình hình phát triển kinh tế của đất nước;
điều kiện chính trị ổn định, sự an toàn của du khách.
Tiếp đến, là các điều kiện đặc trưng: là các điều kiện cần thiết đối với
từng nơi, từng vùng. Đầu tiên phải kể đến là điều kiện về tài nguyên du lịch,
đây là điều kiện cần thiết, bởi vì không có tài nguyên du lịch thì khó có thể
phát triển du lịch. Tài nguyên du lịch có thể do thiên nhiên ban tặng, cũng có

thể do con người tạo ra. Các tài nguyên thiên nhiên thường do địa hình đa
dạng, phong phú, khí hậu ôn hòa, mát mẻ, thuận lợi cho nghỉ dưỡng; động
thực vật phong phú, đặc sắc; tài nguyên nước; vị trí địa lý mang lại. Tài
nguyên nhân văn là các giá trị văn hóa, lịch sử, các thành tựu chính trị, kinh
tế có ý nghĩa đặc trưng cho phát triển du lịch ở một vùng.
24
Các điều kiện phục vụ khách du lịch vô cùng quan trọng gồm: các
điều kiện về tổ chức chung như: sự sẵn sàng, chuyên nghiệp của bộ máy
quản lý Nhà nước với hệ thống thể chế quản lý đầy đủ, hợp lý và đội ngũ cán
bộ nhiệt huyết, có trình độ. Hệ thống các doanh nghiệp kinh doanh như
khách sạn, lữ hành, vận chuyển và các dịch vụ khác. Các điều kiện về cơ sở
vật chất kỹ thuật như: hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc ngành du lịch.
Các điều kiện về kinh tế bao gồm các điều kiện bảo đảm các nguồn
lực, việc thiết lập và mở rộng các quan hệ kinh tế
Các sự kiện đặc biệt gắn liền với sự năng động sáng tạo của cấp chính
quyền và ngành du lịch tạo nên.
1.1.2.3. Các xu thế cơ bản trong phát triển du lịch
Du lịch phát sinh từ khi ngành thủ công tách ra khỏi nông nghiệp.
Ngày nay, du lịch đã trở thành một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, ở nhiều
quốc gia, du lịch là ngành kinh tế hàng đầu. Trong những năm tới dự đón du
lịch sẽ phát triển theo các xu hướng sau:
a) Xu hướng phát triển của cầu du lịch
Sự phát triển của cầu du lịch dự đón theo 6 xu hướng sau:
√. Nhu cầu du lịch ngày càng tăng, du lịch trở thành một tiêu chuẩn
đánh giá mức sống của dân cư.
√. Du lịch quốc tế phát triển, phân bố các luồng khách, hướng du lịch
thay đổi. Châu Á ngày càng thu hút nhiều khách du lịch, trong khi lượng
khách đến Châu Âu, Châu Mỹ có xu hướng giảm tương đối.
√. Cơ cấu chỉ tiêu của du khách thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng chi
tiêu cho các dịch vụ cơ bản, tăng tỷ trọng chi tiêu cho các dịch vụ bổ sung.

√. Du khách có nhu cầu thay đổi hình thức tổ chức chuyến đi theo
hướng tự do hơn, đa dạng hơn.
√. Sự hình thành các nhóm du khách theo độ tuổi với các mục đích và
nhu cầu khác nhau.
25

×