LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án này được hoàn thành là cả quá trình nghiên cứu
với tinh thần nghiêm túc của bản thân, cùng với sự giúp đỡ tận tình của tập thể
giảng viên hướng dẫn. Các số liệu, kết quả, trích dẫn nêu trong luận án có nguồn
gốc rõ ràng và trung thực.
Tác giả luận án
NCS. Nguyễn Thị Ngọc Loan
1
MỤC LỤC
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT TỪ VIẾT
TẮT
TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT
1 ADB Asian Development Bank Ngân hàng phát triển châu Á
2 BSP Bangko Sentralng
Philipinas
Ngân hàng nhà nước Phillipines
3 BPO Business Process Gia công một số công đoạn sản
xuất kinh doanh
4 FDI Foreign Direct
Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
5 IMF International Monetary
Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
6 IMD Institute of Management
Development
Viện quản lý phát triển
7 IT Công nghệ thông tin
8 NRI Non Resident Indian
City
Thành phố dành riêng cho Ấn
kiều
9 NHNN Ngân hàng nhà nước
10 NHTM Ngân hàng thương mại
11 ODA Official Development
Assistance
Viện trợ phát triển chính thức
12 TSC Tài sản có
13 TSN Tài sản nợ
14 UNCTAD United Nations
Conference on Trade and
Development
Hội nghị Liên hợp quốc về
thương mại và phát triển
15 RBI Reserve Bank of India Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ
16 RGE Roubini Global
Economics
Công ty phân tích kinh tế tài
chính
17 WEF World Economics Forum Diễn đàn kinh tế thế giới
18 WB World Bank Ngân hàng thế giới
3
DANH SÁCH BIỂU, BẢNG
STT STT bảng Danh mục các biểu, bảng Trang
1 Bảng 1.1 Thu hút kiều hối từ các châu lục 20
2 Bảng 1.2 Số lượng kiều bào sinh sống tại một số các quốc gia 24
3 Bảng 1.3 Số lượng lao động Việt Nam tại một số quốc gia châu Á 25
4 Bảng 1.4 Tổng hợp những đóng góp và hạn chế của dòng kiều hối 42
5 Bảng 2.1 Lượng kiều hối chuyển về Trung Quốc 65
6 Bảng 2.2 Một số chỉ số kinh tế quan trọng về kinh tế Trung Quốc 69
7 Bảng 2.3 Lượng kiều hối chuyển về Philippines 73
8 Bảng 2.4 Một số chỉ số kinh tế quan trọng về kinh tế Philippines 77
9 Bảng 3.1 Chi phí can thiệp của NHNN Việt Nam trên thị trường
ngoại hối 116
4
DANH SÁCH CÁC HÌNH
STT STT
hình
Danh mục các hình Trang
2 Hình 1.2 Nhóm nước nhận kiều hối lớn nhất thế giới 23
3
Hình 1.1
Thứ bậc của kinh tế Trung Quốc có sự nhảy vọt trong vòng 6
năm qua 70
4 Hình 3.1 Dòng kiều hối vào Việt Nam giai đoạn 1995 - 2010 101
5 Hình 3.2 Diễn biến của kiều hối, tiết kiệm và đầu tư tại Việt Nam 108
6 Hình 3.3 Dòng vốn FDI và kiều hối vào Việt Nam giai đoạn 1996 -
2011 112
7 Hình 3.4 Tỷ giá thực song phương USD/VND từ 1995-2010 114
8 Hình 3.5 Cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn quý I/2005 đến quý
IV/2008 115
9 Hình 3.6 Mối quan hệ giữa lạm phát và cung ứng tiền M2 từ quý III/2005
đến quý I/2010 116
10 Hình 3.7 Mối quan hệ giữa kiều hối và tiền gửi ngoại tệ của Việt
Nam giai đoạn 1996 - 2009 118
11 Hình 3.8 Lượng ngoại tệ trong lưu thông của Việt Nam từ quý
I/1996 đến quý IV/2009 119
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Dưới tác động mạnh mẽ của làn sóng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới,
đặc biệt là công nghệ thông tin điện tử và viễn thông, kể từ đầu thập kỷ 70 cùng
với sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ Bretton Woods (1973), quá trình di chuyển
vốn diễn ra nhanh chóng và rộng khắp ở nhiều nước khác nhau trên thế giới. Các
nhu cầu về giao dịch tài chính quốc tế gia tăng nhanh chóng do sự gia tăng
thương mại quốc tế trong những năm 1960 và việc thực hiện cơ chế quản lý tỷ
giá thả nổi vào đầu năm 1980 đã thúc đẩy mạnh mẽ làn sóng di chuyển vốn và
ngoại tệ giữa các quốc gia nhằm đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi ích của quá
trình toàn cầu hóa thương mại và đầu tư.
Các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước có tỷ lệ tiết kiệm nội địa
thấp, luôn có nhu cầu rất lớn về nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế và phát triển
bền vững, nhất là xóa đói giảm nghèo. Đối với các nước này, nguồn lực trong
nước là cơ bản, nhưng nguồn lực từ bên ngoài luôn có vai trò đặc biệt quan trọng
cho sự tăng trưởng bứt phá, đuổi kịp các nền kinh tế phát triển khác. Nhằm đáp
ứng yêu cầu vốn, nhiều quốc gia thường tìm đến thị trường tài chính trong nước
và quốc tế như phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu quốc tế hay đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI), nhận viện trợ phát triển chính thức (ODA) mà còn ít quan
tâm đến những khoản tiền của các cá nhân chuyển từ nước ngoài về cho thân
nhân trong nước, đó là dòng tiền kiều hối Kiều hối ngày càng có khuynh
hướng quan trọng đối với các quốc gia có thu nhập trung bình và thấp. Song, tại
một số quốc gia, dòng kiều hối hiện lại bị giới hạn bởi các yếu tố nội tại thuộc
các nước tiếp nhận kiều hối như chính sách quản lý của nhà nước, mức phí
chuyển tiền, hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước… đòi hỏi phải cải thiện các
chính sách để tối ưu hóa vai trò cũng như các lợi ích tiềm năng của dòng kiều hối
6
có thể mang lại cho nền kinh tế. Có rất nhiều quốc gia trên thế giới có nguồn
kiều hối lớn hơn và ổn định hơn nguồn FDI rất nhiều và thậm chí còn lớn hơn cả
nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA).
Ở các nước đang phát triển nói chung và một số nước Châu Á nói riêng
mà điển hình như Ấn độ, Trung Quốc, Philippines…dòng kiều hối chảy về trong
nước ngày càng tăng lên đáng kể. Trên khắp thế giới, nhóm nước nhận kiều hối
nhiều nhất trong năm 2013 bao gồm Ấn Độ, Trung Quốc, Mêhicô, Philippines và
Pháp. Ở các nước châu Á, ba quốc gia đứng đầu về thu hút kiều hối đó là Ấn Độ,
Trung Quốc, Philippines và Việt Nam đứng hàng thứ tư. Đối với Việt Nam, kiều
hối ngày càng trở nên quan trọng. Những năm gần đây, dòng kiều hối vào Việt
Nam tăng cả về số tuyệt đối và tương đối so với GDP. Thống kê cho thấy, từ
năm 1993 đến 2009, lượng kiều hối đã tăng lên khoảng 45 lần, từ 141 triệu USD
năm 1993 lên 6,28 tỷ USD năm 2009 và năm 2013 Việt Nam đã đạt hơn 12 tỷ
USD kiều hối thu hút từ nước ngoài.[19]
Thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã thực hiện các
chính sách nới lỏng đối với dòng kiều hối từ năm 1989. Những thay đổi trong
chính sách quản lý ngoại hối cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các dòng vốn
nói chung và kiều hối nói riêng. Song các chính sách liên quan đến kiều hối vẫn
còn nhiều bất cập, chưa thu hút tối đa các nguồn kiều hối để phát huy những tác
động tích cực và có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tác động tiêu cực
của kiều hối. Để tối ưu hóa nguồn vốn kiều hối cho phát triển đòi hỏi phải có
một hệ thống chính sách kiều hối đồng bộ và khoa học, phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Học hỏi kinh nghiệm của những quốc gia điển hình về thu hút và sử dụng
kiều hối có hiệu quả, phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội không những có ý
nghĩa về thực tiễn mà còn mang giá trị lý luận cao. Trong bối cảnh như trên, việc
7
nghiên cứu chính sách kiều hối của ba quốc gia Ấn Độ, Trung Quốc, Philippines
để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam là rất cấp thiết. Vì vậy, nghiên cứu
sinh lựa chọn đề tài “Chính sách kiều hối của một số nước Châu Á và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu cho luận án.
2. Tình hình nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu về chính sách kiều hối cũng như tổng quan lý luận
về kiều hối có thể kể đến những nghiên cứu sau:
- Khái niệm, bản chất của kiều hối/chuyển tiền kiều hối, phân loại kiều hối, biện
pháp tăng cường hiệu quả của kiểu hối (Tasneem Siddiqui, 2008) [29].
- Mối quan hệ kiều hối, đói nghèo và đầu tư (Samuel Munzele Mainmbo and
Dilip Ratha, 2005) [28]
- Vai trò, tầm quan trọng của kiều hối, chuyển tiền từ nước ngoài đối với các
nước phát triển, đang phát triển (Admos O. Chimhowu, Jenifer Piesse, and
Caroline Pinder, 2005) [1]
- Nghiên cứu về thúc đẩy, tăng cường năng lực, cải thiện cơ sở hạ tầng của khu
vực tài chính cho việc cải thiện tiếp nhận nguồn kiều hối (David C. Grace, 2005)
[4]
- Tăng cường tính minh bạch đối với khu vực tài chính không chính thức nhằm
hỗ trợ cho kiều hối (Nikos Passas và Samuel Munzele Mainbo, Abdusanlam
Omer và Gina El Koury, Abdusanlam Omer và Gina El Koury, 2005) [16]
- Di dân, phát triển và vấn đề kiều hối (Rechard H. Adams Jr. và John Page,
Devesh Kapur, Devesh Kapur, 2005)[27]
- Tình hình di dân và chuyển tiền kiều hối ở khu vực Châu Á-Thái Bình dương
(John Connell và Richard P.C. Brown, 2005) [15].
- Công cụ tài chính sử dụng trong huy động kiểu hối (Dilip Ratha Sanket
Mohapatra và Sonia Plaza (2008) [6].
8
- Phân tích các hệ thống chuyển tiền kiều hối (Raul Hernandez-Coss, 2005) [24]
- Hạn chế chính sách cấm đoán của nước sở tại đối với kiều hối (Mark P.
Sullivan, 2009) [18].
- Tác động của di cư quốc tế và kiều hối về nghèo đói (Richard H. Adams Jr. và
John Page, 2005) [27]
Sự tăng trưởng nhanh chóng của các nghiên cứu thực nghiệm cũng như lý
thuyết về kiều hối đã định hình nên một nhánh kinh tế học về kiều hối. Các
nghiên cứu về kiều hối có thể được chia làm hai mảng: mảng thứ nhất tập trung
nghiên cứu động cơ gửi và cách sử dụng kiều hối, mảng thứ hai tập trung nghiên
cứu đánh giá tác động vĩ mô của kiều hối”.
Các tác động ngắn hạn có thể được xem xét một cách đơn giản nhất thông
qua khuôn khổ lý thuyết Keynes. Theo cách tiếp cận này, lượng kiều hối được bơm
vào nền kinh tế có thể đóng vai trò như một cú sốc tăng chi tiêu trong các mô hình
truyền thống. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế mở, khi ta có thể áp dụng mô
hình Mundel-Flemming dạng đơn giản với giá cả cố định và một hàng hóa hỗn hợp,
kết quả của cú sốc kiều hối có thể không đơn giản. Có thể thấy là tác động tổng hợp
của bất cứ cú sốc nào từ phía cầu (kể cả kiều hối) phụ thuộc vào mức độ linh hoạt
của dòng vốn quốc tế và chế độ tỷ giá hối đoái. Ví dụ, trong trường hợp dòng vốn
hoàn toàn tự do di chuyển đi liền với chế độ tỷ giá hối đoái hoàn toàn thả nổi, mức
tổng sản lượng cân bằng hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường tiền tệ và do đó thường
không bị ảnh hưởng bởi dòng kiều hối.
Dòng kiều hối cũng có thể dẫn tới thay đổi trong mức giá tương đối giữa các
loại hàng hóa khác nhau, và do đó là sự tái phân bổ các nguồn lực, đến lượt nó, sự
thay đổi này lại có thể tác động đến các nhóm xã hội khác nhau ở những mức độ
khác nhau. Do đó, tác động của kiều hối có thể trở nên phức tạp.
9
Xét trên góc độ dài hạn hơn, vai trò của kiều hối với phát triển dài hạn đã
tạo những cuộc tranh luận trong suốt vài thập kỷ qua. Điểm chính yếu ở đây là
người tiếp nhận nguồn kiều hối sử dụng khoản tiền nhận được cho tiêu dùng trực
tiếp hay là cho đầu tư sản xuất trong tương lai. Di cư lao động quốc tế và kiều hối
có tác dụng tháo gỡ những khó khăn về nguồn lực ở các nước nhận kiều hối, như
các hạn chế về tín dụng, tài chính, về con người và tinh thần doanh nghiệp. Kiều
hối có thể góp phần làm giảm bất bình đẳng trong thu nhập và thông qua đó đóng
góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Các nghiên cứu trên, nhìn chung đã cung cấp hệ thống cơ sở lý luận khá
chuẩn mực và toàn diện về vấn đề kiều hối và chính sách kiều hối phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các nước đang phát triển. Các nghiên cứu và các
bài viết cũng đã nghiên cứu rất nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề kiều hối:
bản chất kinh tế xã hội của kiều hối; khuynh hướng kiều hối; các yếu tố quyết
định lượng kiều hồi chảy vào một nền kinh tế; vai trò của kiều hối; tác động kinh
tế xã hội của kiều hối; các chính sách kiều hối tối ưu Tuy nhiên các công trình
nghiên cứu chưa đánh giá phân tích một cách toàn diện về chính sách kiều hối
của một số nước châu Á để đưa ra sự so sánh cũng như bài học kinh nghiệm cho
các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng.
2.2 Những thảo luận về mặt thực tiễn
Trong những năm gần đây, do sự tăng trưởng khá mạnh của nguồn kiều hối
về Việt Nam nên những vấn đề liên quan đến luồng vốn tài chính này dường như
ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu. Có thể kể ra một
số công trình nghiên cứu điển hình về vấn đề kiều hối như Lê Minh Tâm và
Nguyễn Đức Vinh (1999), Nguyễn Anh Dũng và cộng sự (2005), Đặng Nguyên
Anh (2005), Hernández-Coss (2005), Sakr (2006), Pfau & Giang Thanh Long
10
(2006), Nguyễn Thị Thùy Linh (2006), Nguyễn Đức Thành (2007), Đỗ Thị Đức
Minh (2007), Nguyễn Minh Thao (2009).
Nghiên cứu của Lê Minh Tâm và Nguyễn Đức Vinh (1999) là nghiên cứu
có tính gợi mở về tiền gửi về (bao gồm trong nước và từ nước ngoài) và đã có
phát hiện rằng, người dân Việt Nam di cư thường có thói quen gửi tiền để hỗ trợ
gia đình, người thân của mình về chi phí sinh hoạt, chữa bệnh, chi phí học hành
và đầu tư kinh doanh; lượng kiều hối (tiền chuyển từ nước ngoài về) hàng năm,
trong những năm 1990 ước khoảng 1 tỷ USD tương đương khoảng 5%GDP
(theo thời điểm đó). Tác giả chỉ mới có cơ hội đánh giá mối quan hệ giữa tiền
gửi về và thu nhập mà chưa có điều kiện nghiên cứu về kiều hối và đầu tư, kiều
hối và xóa đói giảm nghèo và đặc biệt chưa có nghiên cứu nào về kiều hối và
chính sách tiền tệ, tài chính ngân hàng: như kiều hối và tỷ giá; kiều hối và hệ
thống dịch vụ ngân hàng, hệ thống thanh toán; kiều hối và nhập khẩu [30]
Hernández-Coss (2005) [12] đã có một nghiên cứu tổng kết khá đầy đủ về
các kênh chuyển kiều hối từ Canada về Việt Nam, cả chính thức và không chính
thức. Theo nghiên cứu này, hệ thống chuyển tiền không chính thức đã và đang
đóng một vai trò quan trọng, và nhờ uy tín đã được thừa nhận rộng rãi, mức phí
hợp lý, tốc độ và tính gần gũi về văn hoá, hệ thống này có thể cạnh trạnh hiệu
quả với hệ thống chuyển tiền chính thức mới chỉ bắt đầu phát triển mạnh gần
đây. Tuy nhiên, cả ba nghiên cứu trong năm 2005 trên đây mới chỉ dừng ở việc
phân tích các kênh, diễn biễn và tác động của nguồn kiều hối tới nền kinh tế một
cách định tính chứ chưa dùng các mô hình định lượng.
Trong một nghiên cứu định lượng năm 2006, Khaled Sakr đã sử dụng một
mô hình hồi quy đơn giản OLS để ước lượng những nhân tố chi phối lượng kiều
hối chảy về Việt Nam. Trong mô hình này, biến phụ thuộc chính là lượng kiều
hối chảy vào Việt Nam, biến độc lập bao gồm thu nhập bình quân đầu người của
11
Việt Nam, thu nhập bình quân đầu người của Mĩ (đại diện cho thu nhập của Việt
Kiều), lượng vốn FDI vào Việt Nam. Số liệu được sử dụng trong mô hình được
thu thập theo năm trong giai đoạn 1991-2005, số liệu năm 2005 là số liệu dự
tính. Kết quả hồi quy cho thấy kiều hối có khuynh hướng tăng lên khi điều kiện
kinh tế trong nước và môi trường đầu tư được cải thiện (thể hiện qua mức GDP
trên đầu người và lượng vốn FDI). Ngoài ra, sự cởi mở hơn về các điều kiện thể
chế từ nửa sau thập kỷ 1990 cũng là một nhân tố quan trọng trong việc thu hút
luồng kiều hối.
Nghiên cứu của Pfau và Long (2006) cung cấp nhiều thống kê mô tả hữu
ích về vấn đề kiều hối ở Việt Nam thông qua các bộ số liệu VHLSS (Viet Nam
household living standards surveys - điều tra về mức sống của hộ gia đình Việt
Nam). Nghiên cứu này cho thấy sự dịch chuyển trong phân phối của kiều hối
trong thời gian gần đây: từ thành thị dịch dần sang nông thôn, từ vùng đồng bằng
sông Hồng và Đông Nam bộ dịch dần sang vùng Bắc Trung bộ và đồng bằng
sông Cửu Long. Ngoài ra, hai tác giả còn tập trung vào tìm hiểu mục đích sử
dụng của các nguồn kiều hối này. Số liệu thống kê cho thấy, 73% lượng kiều hối
được phân bổ cho tiêu dùng trực tiếp, trong khi 14% được dùng cho xây (và sửa)
nhà, và chỉ có 6% là được dùng cho đầu tư nói chung, tức là kể cả đầu tư cho
giáo dục và đầu tư vào sản xuất nông nghiệp.
Dưới góc độ tác động của kiều hối tới phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế
hộ gia đình, Nguyễn Thị Thùy Linh (2006) thực hiện một nghiên cứu định lượng
và phát hiện một số kết quả đáng lưu ý. Dựa vào kết quả điều tra VHLSS 2002,
tác giả đã nghiên cứu tác động của việc nhận tiền (cả từ trong nước lẫn nước
ngoài) đến cách thức chi tiêu của hộ gia đình ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu
cho thấy những hộ gia đình nhận kiều hối có khuynh hướng sử dụng một phần
lớn hơn trong thu nhập tăng thêm cho việc xây và sửa nhà. Tuy nhiên có sự khác
12
nhau về chi tiêu kiều hối giữa nhóm hộ nghèo nhất và giàu nhất. Trong khi nhóm
hộ nghèo dùng kiều hối để đáp ứng nhu cầu cơ bản cho cuộc sống, thì nhóm hộ
giàu hơn có thể sử dụng kiều hối dưới dạng đầu tư vào bất động sản.
Tác giả Nguyễn Đức Thành (2007) sử dụng kỹ thuật mô hình hoá cân
bằng tổng thể (CGE) để phân tích tác động của kiều hối lên nền kinh tế Việt
Nam. Kết quả của nghiên cứu này củng cố quan điểm cho rằng ảnh hưởng của
kiều hối lên nền kinh tế của các nước đang phát triển là phức tạp và pha trộn
nhiều khuynh hướng khác nhau. Trong khi hộ gia đình có khuynh hướng thu
được lợi ích từ việc tăng thêm thu nhập, thì ảnh hưởng lên khu vực sản xuất lại
không rõ ràng như vậy. Trong bối cảnh Việt Nam, khi dòng kiều hối tăng nhanh
đi kèm với việc hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, kết quả ước
lượng từ nghiên cứu này cho thấy giá của tất cả các nhân tố đều tăng, trong khi
khu vực sản xuất công nghiệp chịu ảnh hưởng lớn nhất và có khuynh hướng bị
thu hẹp (các điều kiện khác không đổi). Điều này hàm ý rằng ảnh hưởng dài hạn
của kiều hối lên mặt cung của nền kinh tế có thể theo chiều hướng tiêu cực, và
có thể lấn át những ảnh hưởng tích cực mang tính ngắn hạn từ phía cầu nếu kiều
hối không được sử dụng cho các mục đích đầu tư.
Cũng nghiên cứu về tác động của kiều hối đến nền kinh tế Việt Nam, Đỗ
Thị Đức Minh và cộng sự (2007) đã xây dựng thành công một mô hình cân bằng
tổng thể khả toán (CGE) để thực hiện những phân tích định lượng đầu tiên về
ảnh hưởng của kiều hối đến nền kinh tế Việt Nam. Trong nghiên cứu này, các tác
giả đã xây dựng mô hình mẫu gồm 7 ngành sản xuất, 3 nhân tố sản xuất, 2 nhóm
hộ gia đình, 1 nhóm doanh nghiệp và 4 loại thuế. Kết quả cho thấy ảnh hưởng
của kiều hối tới nền kinh tế là phức tạp và pha trộn nhiều khuynh hướng khác
nhau. Trong khi hộ gia đình có khuynh hướng thu lợi ích từ việc tăng thêm thu
nhập thì ảnh hưởng của kiều hối lên khu vực sản xuất lại không rõ ràng.
13
Các nghiên cứu khác chủ yếu nghiên cứu kiều hối dưới giác độ là một
khoản mục trong cán cân thanh toán quốc tế, do đó ảnh hưởng tới tình trạng cán
cân thanh toán, dự trữ ngoại hối, và phần nào ảnh hưởng đến tình trạng đô la
hóa, lạm phát trong những điều kiện cụ thể. Hoặc kiều hối như một yếu tố trong
tiến trình tự do hóa tài chính
Các kết quả đan xen giữa lý luận và thực tiễn về kiều hối, có nhiều mối
quan tâm và nhiều quan điểm khác nhau, có thể tạm thời chia làm 3 nhóm quan
điểm như sau:
Nhóm thứ nhất, bao gồm các tác giả lạc quan về vai trò của kiều hối. Ví
dụ, Adam và Page (2003) phát hiện ra rằng cả quy mô di cư quốc tế (được đo
bằng tỷ trọng dân số sống ở nước ngoài) và quy mô kiều hối gửi về (được đo
bằng tỷ lệ của lượng kiều hối trên GDP) đều có tác động đáng kể trong việc xóa
đói giảm nghèo ở các nước đang phát triển. Ratha (2003) thừa nhận kiều hối là
nguồn tài chính tăng trưởng nhanh, quy mô lớn và ổn định (ít bị phụ thuộc vào
chu kỳ kinh tế). Nhờ những đặc điểm đó, tác giả đặt nhiều kỳ vọng vào kiều hối
với tư cách là nguồn tài chính hữu hiệu cho phát triển. Ngân hàng thế giới
(World Bank 2003, 2004, 2006) công khai ủng hộ quan điểm này. Giuliano và
Ruiz-Arranz (2005) lập luận rằng kiều hối có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
nhờ đóng vai trò như một nguồn thay thế cho nguồn tín dụng trên thị trường nội
địa. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của họ cho thấy ảnh hưởng tăng trưởng của
kiều hối phát huy tác dụng rõ nhất ở các nền kinh tế có thị trường tài chính còn
kém phát triển. Bugamelli và Paternof (2005) cho rằng dòng kiều hối có thể giúp
làm ổn định cán cân vãng lai của các nền kinh tế mới nổi, và nhờ thế giúp giảm
khả năng tháo lui tư bản ồ ạt ở các nước này. Leon-Ledesma và Piracha (2004)
phát triển một mô hình để nghiên cứu hiệu ứng tích cực của kiều hối trên thị
14
trường lao động (tạo công ăn việc làm), và khảo sát thực trạng sử dụng kiều hối
ở một loạt nước Đông Âu.
Nhóm thứ hai, bi quan về vai trò của kiều hối. Lucas (2004) tóm tắt các
lập luận chính yếu của nhóm này như sau: khía cạnh tác động tiêu cực của kiều
hối nằm ở khả năng làm suy giảm cung hoặc nỗ lực lao động bắt nguồn từ việc
nhận được nguồn tiền chuyển về, cùng với hiệu ứng gần như “căn bệnh Hà Lan”
do tỷ giá hối đoái bị giữ ở mức cao và do đó làm giảm động lực sản xuất các mặt
hàng có tham gia thương mại quốc tế. Thêm vào đó, Bracking (2003) lập luận
rằng một trong những ảnh hưởng xấu của kiều hối nằm ở chỗ những thành viên
không được tiếp nhận nguồn kiều hối sẽ trở nên nghèo đi tương đối mà thậm chí
còn có thể là tuyệt đối do hiệu ứng lạm phát xuất hiện do những người nhận kiều
hối tăng chi tiêu. Nói cách khác, những hộ gia đình nhận kiều hối làm xói mòn
sức mua của những hộ không tiếp nhận nguồn kiều hối.
Chami, Fullenkamp và Jahjah (2005) cho rằng vì các dòng kiều hối tác
động đến tăng trưởng không như mong muốn. Lập luận của họ dựa trên một mô
hình kinh tế vi mô cho phép người ta dự đoán hành vi của hộ gia đình tiếp nhận
nguồn tiền kiều hối. Tiếp đó, nhóm tác giả sử dụng một chuỗi số liệu cho 113
nước trong quãng thời gian 19 năm để kiểm định giả thuyết của họ.
Ngay cả niềm tin truyền thống rằng các dòng kiều hối thường đối nghịch
với các vận động chu kỳ và do đó đóng vai trò như một nhân tố bình ổn cũng bị
thách thức. Thông qua việc sử dụng một chuỗi số liệu của 87 nước đang phát
triển từ năm 1970 đến 2000, Buch và Kuckulenz (2004) phát hiện ra rằng các
dòng kiều hối thực ra có đặc điểm khá tương đồng với các dòng vốn khác như
đầu tư trực tiếp (FDI) và nhận viện trợ phát triển chính thức (ODA), nhưng về
tổng thể dòng kiều hối ổn định hơn. Thêm vào đó, Sayan (2006) chỉ ra rằng
không có bằng chứng rõ ràng ủng hộ giả thuyết chống chu kỳ của các dòng kiều
15
hối đối với nhóm nước trong nghiên cứu của mình. Một lần nữa, tác động của
kiều hối có thể phụ thuộc vào đặc điểm riêng của từng quốc gia trong từng thời
điểm.
Kể cả khi các dòng kiều hối có khuynh hướng đi ngược lại các chu kỳ, thì
Chamietal (2006) cũng chỉ ra rằng các tác động của chúng là rất phức tạp. Nhóm
tác giả sử dụng mô hình cân bằng tổng quát ngẫu nhiên để khảo sát tác động của
dòng kiều hối đi ngược chu kỳ trong việc hình thành chính sách tài khóa và
chính sách tiền tệ, rồi sau đó xem xét các hiệu ứng tác động đến các biến thực và
danh nghĩa trong môi trường nền kinh tế đang diễn biến theo chu kỳ. Nghiên cứu
này cho thấy kiều hối làm tăng thu nhập khả dụng và tiêu dùng, và có tác dụng
chống lại các cú sốc thu nhập, do đó làm tăng phúc lợi hộ gia đình. Tuy nhiên,
kiều hối lại làm thay đổi mối tương quan giữa sản lượng và lao động. Ví dụ,
trong thời kỳ suy thoái, sản lượng có khuynh hướng giảm và tiền công có
khuynh hướng giảm. Trong điều kiện không có kiều hối, cung lao động sẽ tăng
để bù đắp thu nhập có chiều hướng giảm, góp phần giảm bớt tốc độ giảm của sản
lượng. Tuy nhiên do kiều hối đóng vai trò như một phần “bảo hiểm” chống lại cú
sốc về sự giảm thu nhập nên thực tế cung lao động tăng lên nhiều, do đó chu kỳ
kinh tế có thể diễn ra nghiêm trọng hơn và làm tăng rủi ro cả về sản lượng lẫn
việc làm. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả cho rằng chính sách tiền tệ tối ưu trong bối
cảnh có kiều hối sẽ chệch khỏi nguyên tắc của Friedman (tăng cung tiền ở mức
độ vừa phải), và do đó nhấn mạnh sự cần thiết cần phải có thêm các chính sách
bổ trợ khác.
Nhóm thứ ba, theo quan điểm thận trọng, tùy tình huống. Bao gồm
những người thận trọng với tác động hai chiều, hỗn hợp của kiều hối. Ví dụ,
Glytsos (2002) khảo sát tác động của kiều hối đến cán cân thanh toán, cán cân
tiết kiệm-đầu tư, tác giả phát triển một mô hình kiểu Keynes để nghiên cứu các
16
hiệu ứng vĩ mô của kiều hối. Kết quả cho thấy ảnh hưởng của kiều hối mang tính
hỗn hợp tức có tác động hai chiều và phụ thuộc vào đặc điểm riêng của từng
nước. Kapur (2003) thảo luận về những ảnh hưởng có thể của kiều hối trên cả
hai mặt tích cực và tiêu cực ở những nấc thang khác nhau (hộ gia đình, quốc gia
và cộng đồng). Drinkwateretal (2003) đánh giá các tác động của kiều hối lên thị
trường lao động bằng cách liên kết hai hiệu ứng ngược chiều nhau: thứ nhất là
hiệu ứng kiểu “căn bệnh Hà Lan”, hay giả thuyết cho rằng kiều hối đóng vai trò
như một loại bảo hiểm thất nghiệp và do đó làm tăng tỷ lệ thất nghiệp; thứ hai là
hiệu ứng được cho là tích cực của kiều hối, nghĩa là kiều hối giúp nới lỏng ràng
buộc tín dụng và do đó tạo công ăn việc làm. Tác động tổng hợp phụ thuộc vào
việc hiệu ứng lấn át giữa hai chiều hướng ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của
kiều hối đến phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia tiếp nhận kiều hối.
Như vậy, vai trò của kiều hối luôn là những đề tài thú vị cho giới nghiên
cứu, rất khó có thể kết luận là kiều hối thuần túy tốt hay xấu. Đứng trên góc độ
kinh tế vĩ mô về kiều hối, luận án đi sâu nghiên cứu những tác động của kiều hối
đến phát triển kinh tế xã hội của một số nước châu Ấ trên cơ sở so sánh vai trò
của chính sách kiều hối đến việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn kiều hối.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích và làm rõ cơ sở lý luận về kiều hối và chính sách kiều hối.
- Đánh giá phân tích thực trạng về chính sách kiều hối của Ấn độ, Trung Quốc và
Philippines, luận án tìm hiểu bài học kinh nghiệm trong việc thu hút, quản lý và sử
dụng nguồn kiều hối một cách có hiệu quả để phát huy tối đa mặt tích cực, hạn chế
những tác động tiêu cực của dòng kiều hối đến nền kinh tế, xã hội (như hạn chế tình
trạng gia tăng bất bình đẳng thu nhập, phân hóa giàu nghèo; hạn chế tác động tiêu
cực đến tỷ giá hối đoái, tình trạng đô la hóa nền kinh tế,…)
17
- Đánh giá phân tích thực trạng thu hút kiều hối ở Việt Nam trong những năm gần
đây, luận án rút ra những bài học kinh nghiệm của ba quốc gia Ấn độ, Trung Quốc
và Philippines trong việc thu hút, quản lý và sử dụng nguồn kiều hối một cách có
hiệu quả để hoạch định chính sách kiều hối của Việt Nam trong giai đoạn phát triển
kinh tế xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về kiều hối và chính sách kiều hối: Khái niệm về
kiều hối và chính sách kiều hối; Bản chất của nguồn kiều hối (dòng kiều hối);
Những yếu tố kinh tế xã hội quyết định đến nguồn kiểu hối đối với một quốc gia;
- Phân tích và làm rõ tác động của kiều hối đến nền kinh tế ở cấp độ vi mô và
vĩ mô, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Dưới góc độ vi mô, đề tài sẽ làm
rõ tác động của kiều hối đến đời sống kinh tế của những gia đình trực tiếp nhận kiều
hối, cũng như các tác động thứ cấp lên đời sống cộng đồng; đến các dịch vụ tài
chính ngân hàng và hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ. Ở cấp độ vĩ mô, đề tài sẽ
tập trung vào phân tích: (i) tác động của kiều hối đến hệ thống tài chính-ngân hàng,
cung cầu tiền, dự trữ ngoại hối quốc gia, tỷ giá hối đoái, (ii) tác động của kiều hối
đến nhập khẩu; (iii) tác động đến tình hình đô la hóa nền kinh tế; (iv) tác động của
kiều hối đến lạm phát trong nước; (v) tác động của kiều hối đến thị trường chứng
khoán; (vi) tác động của kiều hối đến đến đầu tư và khuynh hướng tiêu dùng trong
nước; (vii) tác động của kiểu hối đến đến thị trường nhà đất; (viii) tác động /mối
quan hệ của kiều hối đến đến đến dịch chuyển lao động (xuất khẩu lao động); (ix)
tác động của kiều hối đến xóa đói giảm nghèo/phân hóa giầu-nghèo;
- Trên cơ sở tổng quan lý luận về kiều hối, luận án phân tích chính sách kiều
hối của một số nước Châu Á, trong đó giới hạn phạm vi nghiên cứu đến ba quốc gia
tiêu biểu nhất là Ấn Độ, Trung Quốc và Philippines.
18
- Từ sự phân tích chính sách kiều hối của ba quốc gia trên, luận án đưa ra
sự so sánh về chính sách thu hút kiều hối của ba quốc gia để từ đó rút ra những
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc thu hút và sử dụng có hiệu quả
nguồn kiều hối cho phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
- Để minh chứng cho những luận điểm của luận án, phạm vi nghiên cứu
của luận án chọn mẫu điển hình ba quốc gia Ấn Độ, Trung Quốc và Philippines
với thực trạng và tác động của kiều hối trong khoảng thời gian từ năm 1995 trở
lại đây.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Sử dụng những phương pháp chủ yếu trong khoa học xã hội gồm phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp
so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp.
- Trên cơ sở thực tiễn về chính sách kiều hối của Ấn độ, Trung Quốc và
Philippines để phân tích những tác động của nó đến phát triển kinh tế xã hội.
- Bên cạnh đó, luận án sẽ sử dụng các công cụ thống kê, biểu đồ, mô hình
hoá phổ biến để phân tích và chứng minh cho các nhận định và quan điểm học
thuật.
6. Những đóng góp của luận án:
- Tổng hợp những vấn đề chung về kiều hối và chính sách kiều hối làm cơ
sở lý luận cho việc nghiên cứu đánh giá những tác động của kiều hối cho sự phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- So sánh và đánh giá chính sách kiều hối của ba quốc gia Ấn độ, Trung
Quốc và Philippines nhằm đúc rút những bài học kinh nghiệm cho chính sách kiều
hối của Việt Nam để thu hút, quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn kiều hối.
- Luận án mạnh dạn đưa ra những kiến nghị về chính sách kiều hối của Việt
Nam vận dụng trong giai đoạn phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020 trên cơ sở
19
đánh giá thực trạng thu hút và sử dụng kiều hối của Việt Nam trong giai đoạn từ
1995 đến nay.
7. Kêt cấu của luận án;
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu của luận án được
chia làm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về kiều hối và chính sách kiều hối
Chương II: Kiều hối và chính sách kiều hối của một số nước Châu Á
Chương III: Bài học kinh nghiệm cho việc hoạch định và thực thi chính sách
kiều hối ở Việt Nam
20
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIỀU HỐI
VÀ CHÍNH SÁCH KIỀU HỐI
1.1 Tổng quan về kiều hối
1.1.1 Khái niệm về kiều hối
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) định nghĩa kiều hối “là hàng hoá và các
công cụ tài chính do người lao động sống và làm việc ở nước ngoài từ
một năm trở lên chuyển về đất nước họ”. Theo Ngân hàng thế giới (WB):
“Kiều hối bao gồm các khoản chuyển tiền từ nước ngoài có nguồn gốc là
thu nhập của người lao động, dân di cư ở nước ngoài, được thể hiện
trong cán cân thanh toán quốc tế là các khoản chuyển tiền (ròng)”. Mặc
dù việc chuyển tiền (remittances) có thể mang tính quốc tế hoặc nội địa (giữa
các vùng khác nhau của cùng một nước) nhưng trong luận án chỉ đề cập đến
việc chuyển tiền quốc tế (international remittances). Theo Puri & Ritzema
(1999), kiều hối (international remittances) có thể được định nghĩa là “phần
thu nhập của người lao động ở nước ngoài gửi về nước”.
Lãnh sự quán Việt Nam tại Hoa Kỳ đã đánh giá về kiều hối là “một
nguồn lực quý giá theo nhiều nghĩa, là một kênh mang lại nguồn ngoại tệ
mạnh cho đất nước mà không một kênh nào có thể sánh nổi về hiệu quả”.
Kiều hối đang ngày càng trở nên quan trọng đối với các nước đang phát triển
do đó nó là nguồn tài chính ổn định và ít biến động ngay cả trong giai đoạn
khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Và tại Việt Nam, kiều hối không chỉ là nguồn
thu nhập của thân nhân những người đang lao động ở nước ngoài mà nó còn
là nguồn động viên thiết thực đối với sự phát triển nền kinh tế của Việt Nam.
21
Theo quyết định 170/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày
19/08/1999 đã giải thích định nghĩa về kiều hối: “Kiều hối là các ngoại tệ tự
do chuyển đổi được chuyển vào Việt Nam theo các hình thức sau:
- Chuyển ngoại tệ thông qua các tổ chức tín dụng được phép;
- Chuyển ngoại tệ thông qua các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài
chính bưu chính quốc tế;
- Cá nhân mang ngoại tệ theo người vào Việt Nam. Cá nhân ở nước
ngoài khi nhập cảnh vào Việt Nam có mang theo ngoại tệ hộ cho người
Việt Nam ở nước ngoài phải kê khai với Hải quan cửa khẩu số ngoại tệ
mang hộ từ nước ngoài gửi về cho người thụ hưởng ở trong nước.”
Như vậy, quan điểm về định nghĩa kiều hối của Việt Nam thống nhất
với định nghĩa của Ngân hàng thế giới và luận án dựa vào quan điểm thống
nhất này làm cơ sở lý luận cho phân tích.
1.1.2 Sơ lược về dòng chu chuyển kiều hối toàn cầu
Sự khác biệt về chính trị, về sự phát triển kinh tế và mức sống giữa các
quốc gia luôn tạo ra dòng dân di cư từ những nước có nền kinh tế kém phát
triển, chính trị kém ổn định sang những nước có nền kinh tế, chính trị ổn
định và phát triển hơn. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng thế giới, tính
đến năm 2010 có khoảng 250 triệu người, chiếm khoảng 3% dân số toàn thế
giới sống tại nước khác nơi họ sinh ra. Năm 2010 có 42,8 triệu người nhập
cư vào Mỹ, 12,3 triệu người nhập cư vào Nga, 10,8 triệu người nhập cư vào
Đức và 7,2 triệu người nhập cư vào Canada. Một số liệu khác đưa ra để có
thể thấy dòng nhập cư lớn trên thế giới: tại Qatar, 86,5% dân số là dân nhập
cư; tại Monaco tỷ lệ này chiếm 71,6% tổng dân số và tại Macao, 54,7% dân
số là dân nhập cư [19]. Một vài số liệu trên đã cho chúng ta thấy sự di
chuyển cơ học dân số lớn trên thế giới. Điều này sẽ kéo theo một dòng ngoại
22
tệ chảy từ những nước có dân nhập cư về những nước có dân di cư do những
người dân di cư này gửi tiền về quê hương đầu tư hoặc giúp đỡ những người
thân đang sinh sống tại quê hương. Có thể nói, nguồn ngoại tệ này đã đóng
một vai trò quan trọng trong việc cải thiện cuộc sống của nhiều gia đình nói
riêng và phát triển kinh tế của các quốc gia nói chung, đặc biệt đối với các
quốc gia đang phát triển. Trong năm 2010, dòng kiều hối trên toàn thế giới
đạt hơn 440 tỷ USD, trong đó các nước đang phát triển nhận được 325 tỷ
USD, đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ, Mexico, Philippines và Pháp [19].
Nguồn kiều hối đã trở thành một nguồn ngoại tệ quan trọng của các quốc gia
đang phát triển trên thế giới. Nghiên cứu của Dilip Ratha và đồng tác giả
(2010) đã chỉ ra rằng nguồn tiền gửi về từ kiều hối được xem như là nguồn
ngoại tệ quan trọng thứ hai sau nguồn đầu tư trực tiếp của các nước đang
phát triển, nó chiếm khoảng 2% trong tổng GDP của các quốc gia đang phát
triển và chiếm 6% của các quốc gia có thu nhập thấp, thậm chí trong một số
quốc gia nguồn này chiếm khoảng ¼ GDP [10]. Nguồn thu từ kiều hối được
xem như là một thu an toàn, tương đối ổn định và ít rủi ro so với các nguồn
ngoại tệ khác như đầu tư trực tiếp từ nước ngoài hay các khoan vay nợ nước
ngoài. Từ hình 1.1 sau đây, chúng ta nhận thấy rằng nguồn thu từ kiều hối
khá ổn định và có xu hướng tăng từ năm 1991 đến năm 2008.
23
Hình 1.1 : So sánh nguồn thu ngoại tệ từ kiếu hối và các nguồn khác của các
nước đang phát triển
Nguồn: World Bank (2011)
Điều này có thể được giải thích trong những năm gần đây việc gửi tiền
trở nên đơn giản hơn nhờ sự phát triển của các dịch vụ tài chính quốc tế và
việc đi lại giữa các quốc gia cũng dễ dàng hơn.
Tuy nhiên đến năm 2008 - 2009 dòng tiền này bị giảm do cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra đã tác động lớn đến thu nhập của kiều bào, số
lượng người thất nghiệp tại Mỹ cũng như các nước phát triển khác tăng lên
đáng kể. Nếu từ năm 2008, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn ODA
và các khoản vay nợ giảm mạnh thì lượng tiền từ kiều hối chỉ giảm nhẹ và có
chiều hướng đi lên ngay sau năm 2009 trong khi các nguồn vốn khác vẫn có
xu hướng giảm. Mặt khác, các số trong hình vẽ cũng khẳng định vị trí thứ 2
của nguồn kiều hối so với các nguồn thu ngoại tệ khác. Để hiểu rõ hơn vai
24
trò của kiều hối cũng như dòng chu chuyển kiều hối của các quốc gia, hãy
xem xét bảng số liệu sau đây:
Bảng 1.1: Thu hút kiều hối của các châu lục (Đơn vị: tỷ USD)
Châu lục 199
5
2000 200
4
2005 2006 2007 200
8
2009 2010
Châu Á-
Thái Bình
Dương
8.9 15.8 40.0 50.3 57.4 71.1 85.5 85.7 91.2
Châu Âu
và Trung
Á
6.5 10.4 16.0 23.3 28.4 39.3 45.8 35.4 36.7
Mỹ La
tinh và
Caribe
13.3 20.2 43.4 50.1 59.2 63.3 64.6 56.9 58.1
Trung
Đông và
Bắc phi
13.3 131 23.2 25.1 26.5 32.1 35.9 33.7 35.4
Nam Á 10.0 17.2 28.7 33.9 42.5 54.0 71.6 74.9 82.6
Cận
Saharan và
Châu Phi
3.2 4.6 8.0 9.4 12.7 18.6 21.4 20.6 21.5
Nguồn: World bank, 2011
Từ bảng trên chúng ta thấy rằng từ năm 1995 đến 2006 Mỹ La Tinh và
Caribe là những khu vực nhận được dòng ngoại tệ từ kiều hối lớn nhất, cụ thể
năm 2006, khu vực này đã nhận được 59.2 tỷ USD. Trong những năm này số
lượng người dân Mexico tràn qua biên giới Mỹ để nhập cư bất hợp pháp gia
tăng, điều này góp phần giải thích lượng tiền ngoại tệ gửi về khu vực này
chiếm con số cao nhất. Tuy nhiên từ năm 2007 đến nay, số kiều hối của khu
25