Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước châu á và bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 110 trang )




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
====o0o====



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP



Đề tài:
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TẠI MỘT SỐ NƯỚC
CHÂU Á VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM








Người thực hiện
: Hoàng thị hải như
Lớp
: A14 – 41D – KTNT
Người hướng dẫn
: T.S VŨ THỊ KIM OANH













HÀ NỘI, 2006

Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

Mục Lục
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU
Chương một: Những lý luận chung về đầu tư mạo hiểm 4
I. Khái niệm, đặc điểm, bản chất của đầu tư mạo hiểm 4
II. Các yếu tố cấu thành đầu tư mạo hiểm 7
1. Vốn mạo hiểm 7
2. Chủ thể tham gia hoạt động đầu tư mạo hiểm 9
a. Các nhà đầu tư 9
b. Các nhà quản lý vốn mạo hiểm 10
c. Các doanh nhân khởi nghiệp 10
3. Quy trình đầu tư mạo hiểm 10
a. Lựa chọn dự án 10

b. Phân đoạn cấp vốn 11
c. Kết thúc đầu tư 12
III. Quỹ đầu tư mạo hiểm và các mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm 15
1. Quỹ đầu tư mạo hiểm 15
2. Đặc điểm của quỹ đầu tư mạo hiểm 16
3. Chức năng của quỹ đầu tư mạo hiểm 17
a. Nhóm chức năng tài chính 17
b. Nhóm chức năng phi tài chính 18
4. Các mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm 20
a. Mô hình Limited partnership 20
b. Mô hình đơn vị tín thác 21
c. Mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn 22
d. Mô hình công ty cổ phần 22
IV. Vai trò của đầu tư mạo hiểm đối với sự phát triển kinh tế 23
1. Vai trò của đầu tư mạo hiểm đối với các doanh nghiệp 23
2. Vai trò của đầu tư mạo hiểm đối với thị trường tài chính 25
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

3. Vai trò của đầu tư mạo hiểm đối với quá trình đổi mới công nghệ 26
Chương Hai: Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước châu Á 29
I. Sự ra đời và phát triển của đầu tư mạo hiểm trên thế giới 29
II. Đầu tư mạo hiểm tại một số nước châu Á 32
1. Đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc 32
2. Đầu tư mạo hiểm tại Ấn Độ 35
a. Tình hình chung 35
b. Nhận xét 39
3. Đầu tư mạo hiểm tại Đài Loan 41
a. Các kết quả đạt được 42

b. Vai trò của chính phủ đối với hoạt động đầu tư mạo hiểm tại Đài Loan 44
4. Đầu tư mạo hiểm tại Singapore 46
a. Bối cảnh chung 46
b. Vai trò của chính phủ đối với hoạt động đầu tư mạo hiểm tại Singapore 49
III. Một số kết luận rút ra từ hoạt động đầu tư mạo hiểm tại các nước châu Á 51
1. Sự hình thành đầu tư mạo hiểm 51
2. Mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm và cơ chế hoạt động đầu tư mạo hiểm 53
3. Vai trò của chính phủ đối với hoạt động đầu tư mạo hiểm 55
Chương Ba: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và một số biện pháp nhằm
thúc đẩy đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam 58
I. Sự cần thiết của việc hình thành và phát triển đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam 58
II. Thực trạng hoạt động đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam 60
1. Giai đoạn từ 1990 – 2002 60
2. Giai đoạn từ 2002 đến nay 64
3. Những thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành và phát triển đầu tư mạo
hiểm ở Việt Nam trong thời gian qua 68
a. Thuận lợi 68
b. Khó khăn 69
III. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 71
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

1. ĐTMH chỉ có thể phát huy vai trò của nó đối với nền kinh tế khi được phát triển
dựa trên nhu cầu của thị trường 72
2. Lĩnh vực mà các quỹ ĐTMH hướng đến trong giai đoạn đầu là lĩnh vực công
nghệ cao 72
3. Khu vực kinh tế tư nhân, lớp doanh nghiệp vừa và nhỏ là đối tượng chính của
quỹ ĐTMH 73
4. Mô hình tổ chức quỹ ĐTMH được coi là phù hợp với Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay là mô hình quỹ – công ty cổ phần 73
5. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình
thành và phát triển của ĐTMH 74
6. Phát triển ĐTMH là cả quá trình, liên quan đến nhiều lĩnh vực và phải phù hợp
với điều kiện và trình độ phát triển của nền kinh tế 77
IV. Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam 79
1. Hoàn thiện môi trường thể chế khuyến khích phát triển hình thức đầu tư mạo
hiểm 79
a. Xây dựng khung khổ pháp lý hỗ trợ hoạt động đầu tư mạo hiểm 79
b. Hoàn thiện các thể chế trên thị trường vốn nhằm hỗ trợ hoạt động đầu tư mạo
hiểm 81
c. Tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh và hạn chế độc quyền 83
d. Khuyến khích sự minh bạch trong hoạt động đầu tư mạo hiểm 84
e. Nâng cao tinh thần kinh doanh trong xã hội 84
2. Các biện pháp khuyến khích về tài chính dành cho nhà đầu tư mạo hiểm 85
a. Đầu tư của nhà nước vào các quỹ đầu tư mạo hiểm 85
b. Tín dụng đầu tư mạo hiểm 85
c. Các ưu đãi về thuế 86
d. Trợ cấp 86
3. Xúc tiến đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam 87
a. Xây dựng Website chung về hoạt động đầu tư mạo hiểm 87
b. Đào tạo, phổ biến kỹ năng đầu tư mạo hiểm phát triển công nghệ cao 88
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

c. Kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường vốn mạo hiểm ở
Việt Nam 88
4. Phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động đầu tư mạo hiểm 89
5. Phát triển các mạng lưới hỗ trợ đầu tư mạo hiểm 90

a. Phát triển cơ sở hạ tầng thông tin 90
b. Phát triển các mô hình vườn ươm công nghệ……………………………… 91
c. Phát triển thị trường dịch vụ tư vấn 92
d. Thành lập hiệp hội đầu tư mạo hiểm 92
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO









Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ĐTMH: Đầu tư mạo hiểm
R& D: Research and development: Nghiên cứu và phát triển
ĐTNN: Đầu tư nước ngoài
ROI: Return on investment: Suất sinh lời của vốn đầu tư
LBI: Leverage buy in: Mua lại nhờ vốn vay
KHCN: Khoa học công nghệ
CNC: Công nghệ cao

KCNC: Khu công nghệ cao
CNTT: Công nghệ thông tin
CTCP: Công ty cổ phần
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TTCK: Thị trường chứng khoán
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
MPDF: Chương trình phát triển dự án Mekong
OECD: Tổ chức hợp tác vàphát triển quốc tế
WB: Ngân hàng thế giới
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

2
LỜI MỞ ĐẦU

Trên thế giới, khái niệm đầu tư mạo hiểm không còn là một khái niệm mới
mẻ, và hoạt động đầu tư mạo hiểm thì đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển
kinh tế nói chung cũng như thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân nói riêng. Tại châu Á,
đầu tư mạo hiểm tuy ra đời chưa lâu nhưng ngày càng được quan tâm hơn bởi các
nhà đầu tư cũng như chính phủ. Các nước khác trong khu vực như Ấn Độ, Trung
Quốc, Singapore, Đài Loan, v.v…. cũng đã quan tâm đến vấn đề này. Tại Việt Nam
hiện nay, hoạt động đầu tư mạo hiểm đang được manh nha hình thành với một số
Quỹ đầu tư mạo hiểm đã được thành lập. Tuy nhiên sự thành công của các quỹ này
và nhất là tác động của các quỹ đó tới sự phát triển của nền kinh tế, và đặc biệt là
các doanh nghiệp tư nhân là rất hạn chế. Như vậy, thực chất, để phát triển khu vực
kinh tế tư nhân cũng như đầu tư cho lĩnh vực công nghệ cao, Việt nam có cần phải
thúc đẩy sự hình thành và phát triển của đầu tư mạo hiểm không? Việt Nam nên lựa
chọn những giải pháp nào, đâu là những yếu tố quan trọng để góp phần tạo ra thành

công cho hoạt động đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, v.v…? Những câu hỏi này đang
cần được làm sáng tỏ. Bên cạnh đó, việc Việt Nam đã chính thức gia nhập ngôi nhà
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đang đặt ra những tiềm năng cũng như thách
thức to lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Việc mở cửa nền kinh tế sẽ kéo theo
những tác động dây chuyền lan toả tới mọi lĩnh vực trong nền kinh tế. Và đầu tư
mạo hiểm không nằm ngoài mối quan hệ đó. Thực tế của hoạt động đầu tư mạo
hiểm trên thế giới nói chung và ở châu Á nói riêng đã chứng minh được những lợi
ích to lớn mà nó đem lại cho nền kinh tế và cũng đã cho thấy tính tất yếu khách
quan của việc hình thành và phát triển ĐTMH. Do vậy việc nghiên cứu những đặc
điểm của ĐTMH cũng như vai trò của nó tới nền kinh tế sẽ giúp chúng ta nhận thức
được tầm quan trọng của nó để áp dụng cho phù hợp với tình hình hiện nay của Việt
Nam.
Để đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, em đã chọn đề tài là “Hoạt động đầu
tƣ mạo hiểm tại một số nƣớc châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”
làm đề tài Khoá luận tốt nghiệp cho mình.
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

3



Nhiệm vụ chính của khoá luận là nhằm làm sáng tỏ các vấn đề sau:
 Hệ thống hoá những nội dung lý luận cơ bản của đầu tư mạo hiểm
và hoạt động đầu tư mạo hiểm gắn liền với quỹ đầu tư mạo hiểm
 Phân tích thực trạng đầu tư mạo hiểm của một số nước châu Á
 Phân tích thực trạng đầu tư mạo hiểm của Việt nam thời gian qua,
 Dựa trên kinh nghiệm quốc tế và thực tế hoạt động đầu tư mạo

hiểm ở Việt Nam, rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và đưa ra một số giải
pháp nhằm phát triển hoạt động đầu tư mạo hiểm trong thời gian tới.
Khoá luận sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp từ các tài liệu trong
và ngoài nước kết hợp với phương pháp thống kê. Các số liệu sử dụng trong khoá
luận chủ yếu tổng hợp từ các nghiên cứu đã được thực hiện về các vấn đề liên quan
mà không qua khảo sát và điều tra riêng.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, khoá luận gồm ba chương:
Chương Một: Những lý luận chung về đầu tư mạo hiểm
Chương Hai: Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước châu Á
Chương Ba: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và một số biện pháp nhằm
thúc đẩy hoạt động đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
Trong đó, chương Một đề cập đến các vấn đề có tính chất tổng quan về đầu
tư vốn mạo hiểm cũng như các kiến thức cơ bản về hoạt động của quỹ đầu tư mạo
hiểm và vai trò của đầu tư vốn mạo hiểm đối với nền kinh tế nói. Chương Hai sẽ đi
sâu nghiên cứu và phân tích thực trạng đầu tư mạo hiểm tại một số nước châu Á,
qua đó đưa ra một số nhận xét về hoạt động đầu tư mạo hiểm ở châu Á nói chung.
Và chương Ba, sau khi nghiên cứu thực trạng đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam trong
thời gian qua cũng như các yếu tố tác động đến đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, tác
giả rút ra một số bài học kinh nghiệm và tổng hợp một số biện pháp nhằm thúc đẩy
hoạt động đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam trong thời gian tới.
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

4
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo - Tiến sĩ Vũ Thị Kim Oanh, Bộ
môn Đầu tư nước ngoài, Khoa Kinh tế ngoại thương, người đã trực tiếp hướng dẫn
Em tận tình trong suốt thời gian qua cũng như toàn thể các thầy - cô giáo trong
trường Đại học Ngoại Thương đã truyền đạt cho Em những kiến thức quí báu trong

suốt thời gian học tập tại trường. Đồng thời, Em cũng chân thành cảm ơn Thạc sỹ
Đặng Thị Thu Hoài, cán bộ Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, cũng như
các anh chị cán bộ và nhân viên Quỹ đầu tư mạo hiểm IDG Việt Nam và Công ty
giải pháp phần mềm Hoà Bình Peacesoft đã nhiệt tình cung cấp tài liệu và trả lời
các câu hỏi liên quan tới khoá luận của Em.
Đầu tư mạo hiểm là một đề tài mới và khó, phạm vi nghiên cứu của đề tài
tương đối rộng, những kiến thức liên quan tới vấn đề này cũng chưa được hệ thống
hoá và có tính “giáo khoa”. Do kiến thức bản thân còn hạn chế, tác giả thực hiện
Khoá luận này với mong muốn đem lại một cái nhìn tổng quan về hoạt động đầu tư
mạo hiểm tại châu Á và Việt Nam. Khoá luận tốt nghiệp này không tránh khỏi
những thiếu sót, xin trân trọng biết ơn và tiếp nhận sự góp ý chân tình của thầy cô
và những người quan tâm đến đề tài này.


Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

5
CHƢƠNG MỘT
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƢ MẠO HIỂM

I.Khái niệm, đặc điểm, bản chất của đầu tƣ mạo hiểm
Mặc dù đầu tư mạo hiểm (ĐTMH) đã xuất hiện từ lâu và không còn mới mẻ
đối với nhiều người nhưng hiện nay trên thế giới vẫn chưa có một định nghĩa chung
thống nhất ĐTMH là gì. Hơn nữa do đặc thù kinh doanh của từng khu vực trên thế
giới có sự khác biệt nên có khá nhiều cách hiểu tương đối khác nhau về ĐTMH.
Về mặt ngữ nghĩa học, ĐTMH là được sử dụng từ tiếng Anh là “Venture
Capital”. Thuật ngữ venture có nghĩa tổng quát là một hành vi dám chấp nhận rủi

ro, được gọi là mạo hiểm. ngoài ra, “venture” cũng được hiểu tương đương với một
hành vi đầu tư dưới các hình thức của đầu tư trực tiếp. Tuy nhiên, sở dĩ chúng ta cần
thiết gọi tên loại hình đầu tư này là “ đầu tư mạo hiểm” là để phân biệt với hoạt
đông đầu tư trực tiếp thông thường, là để nhấn mạnh tới tính rủi ro cao hơn mà các
nhà đầu tư phải chấp nhận khi tiến hành đầu tư cho các dự án nhiều tính sáng tạo.
Về mặt kinh tế học: ĐTMH là một thuật ngữ chung nhằm miêu tả việc đầu tư
cho các dự án công nghệ hay khoa học đặc bịêt đang trong tình trạng “khát vốn”,
điển hình là các công ty vừa và nhỏ, mới thành lập hoặc đang trong giai đoạn khởi
sự, có ý tưởng hay kế hoạch kinh doanh tốt. Nhà đầu tư sẽ được hưởng cổ phần hay
lợi nhuận nếu công ty đó phát triển tốt, ngược lại nếu công ty thất bại, nhà đầu tư bị
mất phần đã đầu tư vào. Do đó, ĐTMH nhìn chung là một hoạt động mang tính rủi
ro rất lớn nhưng đồng thời cũng hàm chứa tiềm năng mang lại lợi nhuận cao.
ĐTMH ở từng khu vực mà có cách hiểu khác nhau
Tại châu Á: thuật ngữ này đề cập đến việc đầu tư vốn cổ phần vào các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, chưa được niêm yết chứng khoán và ở mức độ nào đó, có sự
tham gia của các nhà đầu tư vào quá trình quản lý công ty.
Tại châu Âu: theo ngân hàng Natwest – Anh Quốc thì ĐTMH là một hoạt
động được quản lý bởi các tổ chức hoặc cá nhân đầu tư dài hạn với độ rủi ro tài
chính cao cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ, mới thành lập hoặc đã phát triển,
chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán nhưng có tiềm năng tăng trưởng. Đây là
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

6
cách hiểu chung của các nước châu Âu về ĐTMH và được coi là cách hiểu theo
nghĩa rộng, bởi vì: xét về giai đoạn đầu tư, nó bao gồm cả khoản đầu tư vào doanh
nghiệp đã tăng trưởng rồi (tức là không chỉ đầu tư cho doanh nghiệp từ lúc khởi
đầu) và thậm chí cả khoản đầu tư mua lại công ty (MBOs, MBIs)

1
; về lĩnh vực đầu
tư, ĐTMH có thể đầu tư vào tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế, kể cả những lĩnh
vực không phải là những ý tưởng sáng tạo và công nghệ mới.
Tại Mỹ, theo Hiệp hội ĐTMH Mỹ: ĐTMH là đầu tư vốn vào doanh nghiệp
mới khởi nghiệp, doanh nghiệp trẻ, chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán, có
khả năng tăng trưởng nhanh, có tính sáng tạo và dựa vào công nghệ. Điểm khác biệt
trong quan niệm về ĐTMH giữa Mỹ và châu Âu đó là: theo quan điểm của Mỹ,
ĐTMH không bao gồm những khoản đầu tư vào doanh nghiệp đã phát triển và mua
quyền quản lý công ty như ở châu Âu, và lĩnh vực đầu tư chủ yếu là những ý tưởng
sáng tạo mới và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao
2
. Đây được
coi là cách hiểu theo nghĩa hẹp và được nhiều người chấp nhận.
Nhƣ vậy, có thể tổng quát lại và đƣa ra một khái niệm về ĐTMH nhƣ sau:
“ĐTMH là sự kết hợp giữa hoạt động đầu tư và tài chính. Nó không chỉ hoạt động
đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao mà còn bao gồm cả mọi hoạt động khác trong
nền kinh tế. Dưới góc độ đầu tư, ĐTMH là quá trình đưa vốn vào lĩnh vực nghiên
cứu phát triển công nghệ và sản phẩm tiềm ẩn nhiều rủi ro nhằm thúc đẩy nhanh
chóng quá trình thương mại hoá để có được lợi nhuận cao. Nếu thể hiện cả quá
trình thì ĐTMH là một phương thức đầu tư trong đó vốn được cung cấp vào công ty
mới khởi nghiệp, chưa niêm yết chứng khoán, công ty có thể phải chịu rủi ro rất
lớn, nuôi dưỡng doanh nghiệp phát triển nhanh chóng, sau vài năm thông qua niêm
yết trên thị trường chứng khoán, hợp nhất và chuyển nhượng cổ phần để thu được
sự hoàn vốn đầu tư với mức cao”.




1

MBOs: Management buy out – Mua laị từ đối tác bên ngoài
MBOIs: Management buy in - Mua lại trong nội bộ
2
Lĩnh vực được coi là công nghệ cao trên thế giới bao gồm: Công nghệ thông tin, công nghệ y - sinh học,
công nghệ vũ trụ, công nghệ nano, công nghệ năng lượng mới, công nghệ vật liệu mới. Tuy nhiên, theo quan
điểm của một số nước châu Á thì CNC còn bao gồm cả lĩnh vực tự động hoá.
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

7
ĐTMH có hai đặc điểm nhƣ sau:
(1) ĐTMH thực chất là một dạng kinh doanh vốn. Các nhà tư bản mạo hiểm
cung cấp vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp mới khởi sự, thường là trong lĩnh vực
công nghệ cao, có tính đổi mới mạnh mẽ, có khả năng tăng trưởng cao. Tỉ lệ thất bại
của doanh nghiệp trong giai đoạn đầu có thể rất cao, tới 80 – 90%, tức là tỉ lệ thành
công hoàn toàn của nó thấp hơn 30%. Tất nhiên, mức độ mạo hiểm càng cao thì khi
thành công sẽ cho lợi nhuận càng lớn. Do đó, ĐTMH là một hoạt động kinh doanh
mang tính rủi ro cao nhưng hàm chứa tiềm năng lợi nhuận lớn.
- Khác với ngân hàng và các quỹ tương hỗ, các nhà cung cấp vốn mạo hiểm
không thu hồi vốn và lãi của công ty tiếp nhận vốn đầu tư mà thoát vốn bằng cách
bán cổ phần khi công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc bán lại hay sáp
nhập công ty.
- ĐTMH là một khoản đầu tư mang tính chất lâu dài, là một loại hình đầu tư
mang tính chất “động” hay có thể nói là mang tính chu kỳ. Tính chu kỳ của nó thể
hiện ở chỗ các khoản đầu tư sẽ kết thúc trong một thời gian nhất định (thường là 7
đến 10 năm). Nếu quỹ đó hoạt động tốt, đội ngũ quản lý có năng lực thì có thể gọi
vốn thêm, hoặc công ty quản lý quỹ thu hút thêm vốn đầu tư lập nên những quỹ
mới.

(2) Nhà cung cấp vốn mạo hiểm không chỉ đầu tư vốn mà còn sử dụng kinh
nghiệm, tri thức và mạng lưới thông tin tích luỹ lâu năm của mình hỗ trợ cho cán bộ
quản lý doanh nghiệp để tiến hành kinh doanh sao cho tốt hơn. Thay vì thu hồi vốn
và lãi của khoản đầu tư, nhà cung cấp vốn mạo hiểm chỉ yêu cầu nắm giữ một số cổ
phần, đôi lúc kiểm soát tổ chức và chiến lược kinh doanh của công ty nhận vốn.
- ĐTMH là quá trình làm gia tăng giá trị của doanh nghiệp được đầu tư không
những bằng tài sản hữu hình mà còn bằng tài sản vô hình là chủ yếu, do đó yếu tố
then chốt trong quá trình đầu tư là con người. Tức là các nhà ĐTMH quan tâm trước
hết để một doanh nghiệp nhận được vốn mạo hiểm đó là ý tưởng kinh doanh khả
thi, là đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực và song song với quá trình cung cấp vốn
sẽ là việc đào tạo cho các cán bộ của doanh nghiệp đó. Đây là một đặc điểm nổi bật
của loại hình ĐTMH.
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

8
Như vậy, thực chất, ĐTMH là một dạng kinh doanh vốn, trong đó người có
vốn thông qua một người có kinh nghiệm quản lý đầu tư để đầu tư vào những doanh
nghiệp chưa trưởng thành và có khả năng thu lợi nhuận cao. Xét về khả năng cung
cấp vốn, ĐTMH chỉ là một hình thức cấp vốn mang tính chất bổ sung, không thể
thay thế các loại hình cấp vốn khác (như cấp vốn qua ngân hàng, vốn từ ngân sách
Nhà nước, v.v.).
Bảng 1
Sự khác biệt giữa ĐTMH và đầu tư từ vay ngân hàng
Các tiêu chí so sánh
ĐTMH
Đầu tư từ
vay ngân

hàng
Mục tiêu
Tối đa hoá tỷ suất thu hồi vốn
Thu lãi
Thời gian
2-5 năm
ngắn và dài
hạn
Qui định về thế chấp
Không

Quyền sở hữu của chủ
đầu tư

Không
Cách thu hồi vốn
Bán cổ phần trên thị trường chứng
khoán, bán cho bên thứ ba, bán cho
chủ doanh nghiệp
Thu hồi vốn
vay
Dịch vụ gia tăng trong
quá trình đầu tư
Có cung cấp những dịch vụ như: lập kế
hoạch tài chính và chiến lược kinh
doanh; tuyển những vị trí quản lý chủ
chốt; vay từ ngân hàng và các thể chế
tài chính khác; tiếp cận với thị trường
mới và công nghệ mới; điều hành các
hoạt động marketing và sản xuất kinh

doanh; niêm yết công ty trên thị trường
chứng khoán
Không có
Nguồn: Sunil Mani and Anthony Bartzokas, 2002, tr.16
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

9
II.Các yếu tố cấu thành ĐTMH
1. Vốn mạo hiểm
Theo Ronald J.Gibson và Bernard Black – Journal of Applied Corporate
Finance (Page 36 – 48, mùa đông 1999) thì “vốn mạo hiểm là khoản đầu tư do
những tổ chức chuyên môn hoá thực hiện tới những hãng tăng trưởng cao, rủi ro cao
và thường là có công nghệ cao đang cần vốn cổ phần để tài trợ cho phát triển sản
phẩm hoặc tăng trưởng”.
Khái niệm vốn mạo hiểm, theo một số tài liệu giáo khoa và nghiên cứu, được
dùng để chỉ các nguồn vốn chuyên dụng được quản lý một cách độc lập, tập trung
đầu tư vào vốn cổ phần hoặc liên quan đến vốn cổ phần của các công ty tư nhân
tăng trưởng cao. Tuy nhiên, xét về bản chất, vốn mạo hiểm có thể hiểu một cách
đơn giản là nguồn tài chính cung cấp cho các công ty tư nhân dưới hình thức vốn cổ
phần hoặc các khoản đầu tư gần giống như vốn cổ phần có thời gian tối thiểu là một
vài năm. Đầu tư vốn mạo hiểm là sự vận động của vốn (mạo hiểm) từ những người
có tiền, sẵn sàng chấp nhận rủi ro, dù ở mức độ khá cao, để tìm kiếm lợi nhuận sang
những người có ý tưởng, cơ hội kinh doanh nhưng không có khả năng tự biến ý
tưởng đó thành hiện thực. Nếu thiếu một trong hai yếu tố trên, luồng chu chuyển
vốn này sẽ không xuất hiện và đó chính là những yếu tố cơ bản phân biệt vốn mạo
hiểm với các nguồn vốn đầu tư thông thường khác.
Vốn mạo hiểm có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó

cách phổ biến nhất là phát hành cổ phiếu. Tuỳ thuộc vào tình hình phát triển với
những đặc thù của nghành công nghiệp vốn mạo hiểm ở mỗi nơi khác nhau mà có
sự tham gia ở mức độ khác nhau của các nhà đầu tư. Cho tới nay, một phần đáng kể
nguồn vốn mạo hiểm trên thế giới là xuất phát từ các quỹ hưu trí, các ngân hàng và
các doanh nghiệp bảo hiểm. Bên cạnh đó chính phủ ngày càng có những tác động
tích cực vào thị trường vốn đầu tư mạo hiểm thông qua việc cung cấp các khoản vay
giá rẻ cho có công ty kinh doanh nhỏ để các công ty này đem cho các doanh nhân
mà họ thấy xứng đáng vay lại hoặc góp vốn trực tiếp cho các quỹ đầu tư mạo hiểm
với tư cách như là một cổ đông nhưng được tư nhân quản lý một cách chuyên
nghiệp. Sự can thiệp của chính phủ sẽ có những tác động tích cực đến sự phát triển
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

10
của thị trường vốn đầu tư mạo hiểm và đến lược nó thúc đẩy sự ra đời của các
doanh nghiệp khởi sự
Cách thức huy động vốn tuỳ thuộc vào việc quỹ mạo hiểm được thành lập theo
hình thức tổ chức pháp lý nào, thông thường là phát hành cổ phiếu, trái phiếu, góp
vốn liên doanh, vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, v.v…
Quy mô vốn mạo hiểm: theo kinh nghiệm tổ chức của nhiều quỹ ở Mỹ và các
nước Tây Âu, một quỹ mạo hiểm trung bình chỉ đủ khả năng cung cấp vốn và tham
gia quản lý danh mục đầu tư vào khoảng 15 – 20 doanh nghiệp với tổng mức vốn
cấp trên một doanh nghiệp khoảng 2 -3 triệu USD. Như vậy, tính trung bình quy mô
vốn hoạt động của một quỹ mạo hiểm ước tính khoảng 30 – 50 triệu USD. Quy mô
của các quỹ mạo hiểm nhỏ chỉ khoảng 10 triệu USD hoặc ít hơn, cũng có một số rất
ít quỹ có vốn lớn, lên đến hàng tỷ USD. Các quỹ mạo hiểm do nhà nước thành lập
thường có số vốn rất lớn.
Như vậy các nguồn tài trợ cho quỹ đầu tư mạo hiểm rất đa dạng. Tính đa dạng

cũng như tỷ trọng của từng loại nguồn vốn của quỹ phụ thuộc vào sự phát triển của
thị trường tài chính, sự phát triển của các định chế tài chính, sự phát triển của các
ngành công nghệ cao và sự quan tâm của nhà đầu tư tư nhân cũng như của chính
phủ đối với hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm ở từng quốc gia.
2. Chủ thể tham gia hoạt động ĐTMH
Tham gia trực tiếp vào quá trình ĐTMH có 3 đối tượng chủ yếu:
 Các nhà đầu tư: Họ có thể là những nhà tư bản cá nhân giàu có (angle
capitalist), có thể là những tổ chức lớn hoạt động trong lĩnh vực tài chính (ngân
hàng, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, v.v…) hoặc phi tài chính (các tập đoàn sản
xuất). Họ có lượng tiền lớn sẵn sàng để đầu tư và chấp nhận rủi ro cao, hy vọng đạt
được mức lợi nhuận lớn.
- Cá nhân tự đầu tư: Theo cách này, sự chủ động của người đầu tư rất cao. Họ
có thể tự đánh giá các cơ hội, ý tưởng và lựa chọn đối tượng nhận đầu tư thích hợp,
tự đưa ra các quyết điịnh cần thiết trong quá trình đầu tư, đồng thời được hưởng
toàn bộ lợi nhuận thu được sau này mà không phải chia sẻ với ai. Tuy nhiên,
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

11
phương pháp này có rất nhiều nhược điểm. Trên thực tế, một cá nhân khó có thể có
một lượng vốn lớn cũng như được trang bị những kỹ năng, kiến thức chuyên môn
và kinh nghiệm thực tiễn đủ để thu được thành công. Hơn nữa, đầu tư một mình có
nghĩ là phải gánh chịu toàn bộ rủi ro có khả năng sẽ xảy ra trong tương lai.
- Tổ chức đầu tư: Trong trường hợp này, nhiều nhà đầu tư cùng góp vốn với
nhau để thực hiện đầu tư nhằm hướng tới mục tiêu chung. Ưu điểm của hình thức
này thể hiện rõ nhất ở khả năng phân tán và chia sẻ rủi ro. Sự kết hợp này có thể
diễn ra dưới nhiều dạng: hợp đồng hợp tác kinh doanh, thành lập công ty liên
doanh, thành lập quỹ ĐTMH, v.v…Quỹ ĐTMH tuy xuất hiện sau song càng ngày

càng chứng minh được nhiều điểm nổi trội so với những phương thức đầu tư vốn
mạo hiểm có tổ chức khác. Các vấn đề về quỹ ĐTMH sẽ được xem xét kỹ hơn ở
phần sau.
 Các nhà quản lý vốn mạo hiểm: Họ là những người hành nghề đầu tư
mạo hiểm chuyên nghiệp, vừa có tri thức về công nghệ, vừa có tài năng quản trị, họ
đảm nhiệm chức năng huy động vốn từ các nhà đầu tư, tìm kiếm và đánh giá cơ hội
đầu tư, tiến hành đầu tư theo những chiến lược nhất định để làm tăng giá trị cho
công ty nhận đầu tư, và cuối cùng là thực hiện thoát vốn để thu hồi vốn và lợi
nhuận, hoàn trả cho các nhà đầu tư.
 Các doanh nhân khởi nghiệp: Họ là những kỹ sư, những nhà khoa học,
nhà nghiên cứu,v.v…đang muốn biến những ý tưởng, phát minh khoa học của mình
thành sản phẩm thành công trên thương trường. Để nhận được những khoản vốn
ĐTMH, họ không chỉ cần có ý tưởng có tính khả thi, mang lại tiềm năng lợi nhuận
lớn, mà còn phải tuân theo những quy định của các quỹ đầu tư cũng như phải thực
hiện những cam kết về phân chia lợi nhuận và chia sẻ quyền quản lý doanh nghiệp
với quản lý vốn mạo hiểm.
Tại các nước có kênh lưu thông vốn mạo hiểm, mối quan hệ giữa ba đối tượng
này được xử lý theo những mô hình tổ chức và hoạt động khác nhau. Một mô hình
thành công là mô hình đảm bảo được những lợi ích hài hoà của cả ba đối tượng trên,
nhờ đó đạt được ba mục tiêu là: (1) khuyến khích và duy trì nguồn ý tưởng sáng tạo
và tinh thần kinh doanh (duy trì nhu cầu về vốn mạo hiểm), (2) tạo động lực cho
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

12
người có vốn bỏ ra ĐTMH và lặp lại hành động đó (phát triển nguồn cung), (3) phát
huy triệt để năng lực đặc biệt của các nhà quản lý quỹ chuyên nghiệp (đảm bảo hiệu
quả đầu tư).

3. Quy trình ĐTMH
a. Lựa chọn dự án
 Cách thức tuyển chọn dự án
Thực chất, hiệu quả hoạt động của ĐTMH phụ thuộc vào sự thành công của
các dự án đầu tư. Hay nói một cách khác, những người đầu tư và nhà quản lý sẽ
được hưởng lợi nhuận nếu những dự án công nghệ mà họ đầu tư hoạt động tốt và
mang lại lợi nhuận lớn. Dự án công nghệ tốt sẽ mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp,
các nhà đầu tư và các nhà quản lý từ đó sẽ khuyến khích nhiều nhà đầu tư tham gia
cung cấp vốn cho ĐTMH và nhiều doanh nghiệp muốn nhận được nguồn vốn mạo
hiểm. Chính vì vậy, việc lựa chọn dự án đầu tư rất được chú trọng. Quỹ ĐTMH sẽ
căn cứ vào những tiêu chí nhất định để lựa chọn các dự án đầu tư phù hợp và có
hiệu quả kinh tế cao. Thường thường, những dự án được tài trợ phải có ý tưởng rõ
ràng về công nghệ mới/sản phẩm mới và về thị trường.
 Các tiêu chí thẩm định dự án
- Mức độ hấp dẫn của thị trường (hay quy mô thị trường)
- Tính độc đáo của sản phẩm
- Năng lực của đội ngũ quản lý
- Quy mô vốn đầu tư
- Rủi ro và lợi nhuận
b. Phân đoạn cấp vốn
Cơ chế này giải quyết mối quan hệ giữa doanh nghiệp và Quỹ ĐTMH. Quỹ
ĐTMH không tài trợ một lần cho dự án mà giai đoạn đầu sẽ tài trợ một phần cho dự
án, nếu công ty thấy khoản đầu tư mang lại những kết quả theo đúng nhận định/cam
kết thì sẽ tiếp tục đầu tư trong giai đoạn tiếp theo. Có thể chia quá trình đầu tư đầy
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

13

đủ thành 5 giai đoạn
3
: tài trợ vốn mồi/ươm tạo, tài trợ khởi động, tài trợ giai đoạn
đầu, tài trợ mở rộng và tài trợ tăng tốc. Trong đó:
 Tài trợ vốn mồi, ươm tạo (seed financing): Quỹ cấp vốn cho những
doanh nghiệp để phát triển ý tưởng sáng tạo/phát minh sáng chế của mình, hoặc cấp
vốn để hỗ trợ phát triển sản phẩm. Vốn cấp ở giai đoạn này thường không lớn.
 Tài trợ khởi động (start-up financing): cấp vốn để phát triển sản phẩm và
hoạt động tiếp thị khởi đầu. Vốn này cấp cho những công ty mới được thành lập,
chưa lần nào giới thiệu sản phẩm ra thị trường. Những doanh nghiệp như vậy
thường đã có bộ máy quản lý, có kế hoạch kinh doanh và đã có nghiên cứu thị
trường.
 Tài trợ giai đoạn đầu (First-stage financing): tài trợ cho công ty thiếu
vốn để sản xuất hàng hoá và tung ra thị trường.
 Tài trợ giai đoạn mở rộng sản xuất (expansion financing): Quỹ ĐTMH
tài trợ cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất, mở rộng phạm vi thị trường; hoặc phát
triển nâng cấp một sản phẩm và tài trợ cho công ty chuẩn bị niêm yết lần đầu trong
vòng 6 tháng đến 1 năm tới. Đồng thời Quỹ cũng giúp doanh nghiệp xây dựng cơ
cấu sở hữu hợp lý của doanh nghiệp. Giai đoạn này đã bắt đầu mang lại lợi nhuận
tài chính cho các bên, kể cả lợi ích về xây dựng năng lực công nghệ cao, cho nền
kinh tế.
 Giai đoạn tài trợ tăng tốc: là giai đoạn đưa doanh nghiệp thâm nhập sâu
vào thị trường bằng các hoạt động kinh doanh tăng tốc, tạo sản phẩm mới. Thị
trường chứng khoán thường đóng vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường
trong giai đoạn này.


3
Lawrence Rausch, 2002, tr8. Việc phân chia chỉ mang tính tương đối và tuỳ thuộc vào quyết định của từng
quỹ. Phân chia càng nhỏ sẽ càng giảm mức độ rủi ro cho quỹ nhưng trong nhiều trường hợp có thể không

cần thiết. Có tài liệu chỉ chia thành 3 giai đoạn tài trợ trong đó gộp thành giai đoạn khởi động và giai đoạn
đầu làm một, giai đoạn mở rộng và giai đoạn tăng tốc làm một
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

14
Bảng 2
Rủi ro và lợi nhuận dự kiến trong quy trình vốn mạo hiểm
Khả năng rủi ro
Cao nhất Thấp nhất
Ươm tạo công nghệ Phát triển sản phẩm LBO
4

Giai đoạn
% ROI
5
dự kiến
50% 40% 30%
Cao nhất Thấp nhất
Khả năng lợi nhuận
c. Kết thúc đầu tư (hay còn gọi là thoát vốn)
Vốn mạo hiểm hoạt động theo chu kỳ, và mỗi chu kỳ thường kết thúc bằng
một đợt thoát vốn, tức là việc các nhà tư bản mạo hiểm tiến hành thanh lý các khoản
đầu tư, thu hồi vốn và lãi (nếu có) để phân phối cho các bên tham gia. Thoát vốn là
một khâu quan trọng, không chỉ bởi vì nó thoả mãn những lợi ích của các bên tham
gia mà còn vì nó sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn đóng góp tài chính và phi tài
chính của các nhà tư bản mạo hiểm do việc quay vòng vốn để hỗ trợ cho một thế hệ
công ty khởi nghiệp mới. Chính vì vậy đây là một nét đặc thù của kênh dẫn vốn

này.
Thoát vốn cũng có tác động tới mối quan hệ giữa một quỹ mạo hiểm và các
nhà đầu tư vào quỹ. Thoát vốn đáp ứng ba vấn đề trong mối quan hệ nhà tư bản mạo
hiểm – nhà cung cấp vốn. Một là, những người cung cấp vốn cần có một phương
thức để đánh giá kỹ năng của nhà tư bản mạo hiểm, để còn quyết định sẽ cung cấp
những lượng tiền mới cho những nhà quản trị nào. Hai là, những người cung câp
vốn cần phải đánh giá rủi ro và lợi nhuận trên các khoản đầu tư vốn mạo hiểm trong
tương quan với các khoản đầu tư khác, để quyết định có đầu tư hay không và đầu tư
bao nhiêu. Ba là, các nhà cung cấp vốn cần có khả năng rút lại vốn từ các nhà quản
trị kém thành công. Việc các quỹ mạo hiểm thoát vốn khỏi những danh mục đầu tư
cụ thể sẽ tạo ra một tiêu chuẩn so sánh cho phép những nhà cung cấp vốn đánh giá
cả kỹ năng của nhà tư bản mạo hiểm khác nhau cũng như khả năng thu lợi nhuận
của vốn mạo hiểm so với những khoản đầu tư khác. Đồng thời, việc thanh toán số
tiền nhận được sau khi thoát vốn cho các nhà cung cấp vốn sẽ cho phép họ quay


4
LBO: Leverage buy ouy – Mua lại nhờ vốn vay
5
ROI: Return on investment – Suất sinh lời của vốn đầu tư
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

15
vòng quỹ từ những nhà quản trị vốn mạo hiểm ít thành công sang các nhà quản trị
thành công hơn.
Các kênh thoát vốn
- Chào bán chứng khoán lần đầu ra công chúng (IPO): là việc một công ty lần

đầu tiên niêm yết trên thị trường chứng khoán và bán cổ phiếu lần đầu tiên ra công
chúng. Nếu một công ty trẻ phát đạt và cần thêm vốn cổ phần thì đây là một việc
đáng làm
Kênh thoát vốn này, mặc dù đòi hỏi những khoản chi phí không nhỏ, là kênh
được ưa thích vì nói chung, nó đem lại sự định giá cao nhất đối với công ty trong
khi vẫn bảo toàn được tính độc lập của ban quản lý. Tiềm năng thoát vốn thông qua
hình thức IPO cho phép người khởi nghiệp và quỹ vốn mạo hiểm tham gia vào một
hợp đồng ngầm tự động có hiệu lực đối với vấn đề kiểm soát, trong khi đó quỹ vốn
mạo hiểm thoả thuận trả lại quyền kiểm soát cho doanh nghiệp khởi nghiệp thành
công, bằng cách thoát vốn thông qua hình thức IPO với giả định là người khởi
nghiệp sẽ giữ lại quyền kiểm soát đối với một khối lượng cổ phần đủ lớn.
Thông qua hình thức IPO, phần đóng góp của quỹ mạo hiểm bị giảm đi và
doanh nghiệp tiếp nhận vốn sẽ không còn bị phụ thuộc vào sự tài trợ theo giai đoạn
của nhà tư bản mạo hiểm nữa. IPO giảm bớt những hạn chế về tính thanh khoản của
doanh nghiệp khởi nghiệp và thị trường cổ phiếu giảm bớt nhu cầu về sự giám sát
chặt chẽ của nhà tư bản mạo hiểm. Cuối cùng, hợp đồng công khai giữa quỹ mạo
hiểm và công ty tiếp nhận vốn đảm bảo rằng những quyền kiểm soát quan trọng mà
lúc đầu được trao cho quỹ sẽ mất đi sau khi áp dụng hình thức IPO, bất kể quỹ có
bán cổ phần hay không.
- Bán thương mại: là kênh thoát vốn khá phổ biến, nhất là ở châu Âu nơi mà
đa số các quốc gia đều có thị trường tài chính dựa vào ngân hàng là chính. Đó là
việc bán (hoặc sáp nhập) một công ty mới cho công ty khác lớn hơn. Cách này hấp
dẫn cả các thành viên hợp danh hữu hạn và thành viên quản lý đầu tư vốn, bởi nó là
sự hoàn trả tiền hoặc các chứng khoán dễ mua bán, và kết thúc sự tham gia của
thành viên hợp danh vào quỹ mạo hiểm. So với kênh thoát vốn chào bán lần đầu ra
công chúng (IPO), bán thương mại được coi là phương thức nhanh và rẻ hơn.
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT


16
Những công ty lớn, đặc biệt là các công ty đã có sản phẩm hoàn chỉnh và các luồng
thu nhập ổn định, thường quan tâm nhiều tới việc mua những doanh nghiệp mới
khởi sự có khả năng lợi nhuận hơn là xây dựng từ đầu những doanh nghiệp mới.
Phương thức này xác nhận khả năng được tái tài trợ bởi một nhà đầu tư mới tại thời
điểm kết thúc một quỹ đóng, trong khi cũng đảm bảo được sự định giá độc lập.
Ngoài ra, nó cho phép ban quản lý của doanh nghiệp nhận đầu tư vẫn ở lại ngay cả
khi không lựa chọn IPO, và cho phép một doanh nghiệp được tái vay vốn. Tuy
nhiên, kênh thoát vốn này thể hiện một bất lợi thế quan trọng của ban quản lý công
ty, bởi họ sẽ mất tính độc lập khi bị thôn tính hoặc bị sáp nhập với một công ty lớn
hơn
- Mua lại cổ phần: là kênh thoát vốn phổ biến trong ĐTMH và rất quan trọng
cho các nhà đầu tư. Đồng thời nó cũng cho phép công ty tiếp nhận vốn giành lại
quyền kiểm soát sau khi sẽ phải chia sẻ và chịu sự chi phối của quỹ mạo hiểm. Khi
tiến hành hình thức này, doanh nhân đối tác sẽ mua lại phần sở hữu của quỹ mạo
hiểm trong doanh nghiệp với giá trị cao hơn mức định giá vốn cổ phần mà họ đang
nắm giữ bằng cách vay vốn từ chính quỹ (cũng như từ bất kỳ nhà ĐTMH khác cùng
tham gia). Họ sẽ trả nợ dần về sau bằng các khoản thu nhập lấy từ doanh nghiệp
được mua lại và việc thanh toán nợ sẽ phải hoàn tất ở khâu kết thúc
III.Quỹ ĐTMH và các hình thức hoạt động của quỹ ĐTMH
1. Quỹ ĐTMH.
Hiện nay, có nhiều cách định nghĩa quỹ ĐTMH khác nhau, nhưng một trong
những định nghĩa phổ biến nhất coi quỹ ĐTMH là một tập hợp vốn nằm dưới sự
quản lý chuyên nghiệp, được huy động vì mục đích duy nhất là thực hiện những
khoản đầu tư vốn cổ phần trực tiếp, có quản lý một cách chủ động vào các công ty
tư nhân tăng trưởng nhanh và với một chiến lược thoát vốn đã được xác định rõ
ràng.
Quỹ ĐTMH là một loại hình quỹ đầu tư có tính chuyên biệt hoá (specialised
funds). Điều đó thể hiện ở việc nó chuyên cấp vốn theo phương thức ĐTMH vào

một số lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng nhanh và chủ yếu là các nghành công nghệ
cao. Do đó, cũng có thể coi nó là một loại quỹ tăng trưởng. Ngoài ra một số quỹ
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

17
ĐTMH cũng chuyên biệt cả theo hướng đầu tư vào một địa bàn nào đó hoặc một
quốc gia nào đó (country fund), có quỹ chuyên đầu tư vào một quỹ mạo hiểm khác
nhằm chia nhỏ rủi ro, gọi là quỹ trung gian (fund of funds).
Một điểm đáng chú ý khi đề cập tới khái niệm quỹ ĐTMH là khái niệm này
cần được phân biệt với khái niệm quỹ đầu tư vốn cổ phần tư nhân (Private equity
fund). Ở Mỹ, đây là hai khái niệm tương đối độc lập và phân biệt với nhau. Quỹ cổ
phần tư nhân bao gồm những quỹ mà vốn góp hình thành nên do quỹ đó được dành
cho nhiều hoạt động khác nhau: đầu tư mạo hiểm, mua cổ phiếu giành quyền kiểm
soát bằng cách sử dụng đòn bẩy, các vụ sáp nhập, đầu tư sử dụng nợ thứ cấp có
quyền ưu tiên thấp hơn nợ ngân hàng nhưng lại cao hơn so với chứng khoán vốn cổ
phần và thường gắn kèm chứng quyền, đầu tư vào chứng khoán nợ mà tổ chức phát
hành có nhiều nguy cơ bị mất khả năng thanh toán (chiến lược đầu tư nhằm mua trái
phiếu chiết khấu của một công ty bị cạn kiệt về mặt tài chính, sau đó chuyển các
chứng khoán đang nắm giữ thành chứng khoán vốn cổ phần và chủ động tham gia
vào quản lý công ty đó) và nhiều hoạt động hỗn hợp khác như cho thuê tài sản mạo
hiểm và mua nợ mạo hiểm (mua các khoản phải thu của những công ty non trẻ có
độ rủi ro cao). Còn khái niệm quỹ ĐTMH chủ yếu được dành cho những quỹ đầu tư
vào vốn cổ phần và những sản phẩm có liên quan đến vốn cổ phần trong các công ty
định hướng tăng trưởng. Tuy nhiên, ở một số khu vực khác, chẳng hạn như châu Âu
là nơi hoạt động của các quỹ đầu tư cũng tương đối phát triển, khái niệm quỹ
ĐTMH và quỹ cổ phần tư nhân thường được sử dụng thay thế nhau và không được
phân biệt rõ ràng.

Về nguyên tắc, quỹ cổ phần tư nhân có thể đầu tư vào một công ty ở mọi giai
đoạn như: hình thành ý tưởng, khởi sự, mở rộng, mua lại hoặc sáp nhập, cứu vãn
hoặc xoay chuyển tình thế, mua lại cổ phiếu đã niêm yết, v.v… Còn quỹ ĐTMH
thường tập trung vào các công ty ở giai đoanh hình thành ý tưởng, thành lập, khởi
sự và mở rộng.
2. Đặc điểm của quỹ đầu tư mạo hiểm
Quỹ ĐTMH thường gắn liền với nguồn vốn mạo hiểm và hoạt động ĐTMH.
Vì vậy, đặc điểm của quỹ ĐTMH cũng không tách rời và được bắt nguồn từ chính
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

18
những đặc điểm của hoạt động trên. Có thể nêu ra ở đây ba đặc điểm nổi bật của
quỹ ĐTMH so với các loại hình quỹ đầu tư thông thường khác.
 Tính rủi ro của các khoản đầu tư: ĐTMH là một hoạt động có tính rủi ro
rất cao do đối tượng được nhận vốn đầu tư của các quỹ ĐTMH chủ yếu là những
công ty tư nhân mới thành lập hoặc hoạt động trong những lĩnh vực mới hình thành.
Sự rủi ro xuất phát từ bốn yếu tố, cũng đồng thời là bốn đặc điểm của các công ty
nhận đầu tư, đó là: Sự không chắc chắn, thông tin không cân xứng, tính chất của tài
sản và các điều kiện trong thị trường tài chính và thị trường sản phẩm có liên quan.
Các công ty được đầu tư thường có số tài sản vô hình chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
giá trị tài sản, đó là những tài sản rất khó định giá và có thể không bán được trong
trường hợp hoạt động kinh doanh của công ty bị thất bại. Điều kiện thị trường của
các ngành được đầu tư cũng có tính biến động rất cao. Có những ngành mà sản
phẩm mới còn ở trong giai đoạn nghiên cứu, thử nghiệm chứ chưa được công
chúng thừa nhận rộng rãi. Sự không chắc chắn về thành công của sản phẩm, về phản
ứng của đối thủ cạnh tranh cũng như của khách hàng. Do đó, thành công của công
ty nhận vốn đầu tư, và kéo theo đó là lợi nhuận mà nhà đầu tư kỳ vọng nhận được

trong tương lai, cũng có tính không chắc chắn rất cao.
 Thời hạn của các khoản đầu tư: Các khoản đầu tư của các quỹ ĐTMH
thường là những khoản đầu tư trung đến dài hạn. Đối tượng nhận vốn đầu tư của
các quỹ ĐTMH chủ yếu là các công ty cổ phần tư nhân, chưa được niêm yết trên thị
trường chứng khoán, thậm chí mới ở giai đoạn hình thành ý tưởng. Để đi đến được
cái đích cuối cùng của quỹ là thực hiện một chiến lược thoát vốn hiệu quả, đem lại
lợi nhuận cao nhất cho các nhà đầu tư vào quỹ từ khoản vốn bỏ ra ban đầu, các công
ty đó phải đạt được sự phát triển ở mức độ nhất định sao cho cổ phiếu của chúng trở
nên có sức hấp dẫn. Điều này đòi hỏi một khoảng thời gian cần thiết cho sự tích luỹ
mở rộng, có thể kéo dài một vài năm, hoặc đến bảy hay mười năm.
 Người đầu tư: hai đặc điểm trên dẫn đến đặc điểm thứ ba của quỹ
ĐTMH, đó là đặc điểm về người đầu tư. Do các khoản đầu tư mà quỹ ĐTMH thực
hiện vừa có tính rủi ro cao vừa là những khoản đầu tư dài hạn nên không phải bất kỳ
ai có một khoản tiền tiết kiệm trong tay cũng có thể tham gia vào các quỹ này như
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

19
trong trường hợp của quỹ tương hỗ. Người đầu tư vào quỹ thường là các định chế
(nhà đầu tư có tổ chức) như các quỹ hưu trí, quỹ bảo trợ của các trường đại học,
công ty bảo hiểm, công ty kinh doanh thông thường hoặc một số ít những cá nhân
giàu có. Đặc biệt, các nhà đầu tư có tổ chức là đối tượng có vai trò quan trọng do họ
có số vốn lớn, có khả năng thực hiện sự đa dạng hoá và có thể chấp nhận đầu tư dài
hạn.
Bảng 4
So sánh quỹ đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư chứng khoán
Loại quỹ
Quỹ đầu tƣ mạo hiểm

Quỹ đầu tƣ chứng khoán
Cơ cấu huy động vốn
Kết thúc đóng
Kết thúc đóng hoặc mở
Hình thức đầu tƣ
Đầu tư trực tiếp (vốn cổ
phần – vốn góp
Theo danh mục đầu tư (cổ
phiếu, trái phiếu…đã
niêm yết
Đối tƣợng đầu tƣ
Các dự án, doanh nghiệp
nhỏ, chưa niêm yết, chủ
yếu trong lĩnh vực có tiềm
năng tăng trưởng nhanh
như công nghệ cao
Các doanh nghiệp đã phát
hành chứng khoán ra công
chúng
Quy mô vốn trung bình
Nhỏ, từ vài triệu đến vài
chục triệu USD
Lớn hơn, từ vài chục đến
hàng trăm triệu USD

3. Chức năng của quỹ ĐTMH
a. Nhóm chức năng tài chính của quỹ ĐTMH
 Huy động vốn: tuỳ thuộc vào hình thúc tổ chức pháp lý, quỹ ĐTMH
được lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn mà pháp luật cho phép như
phát hành cổ phiếu, trái phiếu (nếu được tổ chức theo kiểu doanh nghiệp), chứng chỉ

quỹ đầu tư (nếu theo kiểu tín thác đầu tư), vay vốn các tổ chức tín dụng theo quy
định
 Cấp vốn mạo hiểm dưới các hình thức
- Hợp đồng khoa học và công nghệ: Việc triển khai dự án cấp vốn mạo hiểm
dưới hình thức này cho phép giải phóng tối đa các nguồn lực khoa học và công nghệ
được tham gia vào hoạt động phát triển và đổi mới công nghệ. Trong hình thức hợp
đồng khoa học công nghệ cần chú trọng hơn cả đến loại hợp đồng nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ mà kết quả sẽ là cơ sở để tiến tới thoả thuận thành lập
Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Hoàng Thị Hải Như - A14K41D - KTNT

20
doanh nghiệp mới về công nghệ cao giữa quỹ và những nhà nghiên cứu – triển khai
công nghệ được tài trợ.
- Cấp vốn cổ phần - vốn góp: đây là hình thức phổ biến nhất và sẽ chiếm tỷ lệ
cao nhất trong tổng vốn hoạt động của quỹ ĐTMH.
 Cho doanh nhân đối tác vay để mua lại doanh nghiệp
Doanh nhân đối tác vốn là những nhà nghiên cứu – triển khai công nghệ,
những người đưa ra sáng kiến công nghệ cao và kế hoạch thương mại hoá sản
phẩm, có tinh thần kinh doanh và đã đứng ra thành lập doanh nghiệp với tư cách
sáng lập viên doanh nghiệp. Sau một quá trình được tài trợ bởi vốn mạo hiểm thì
phần sở hữu của họ trong doanh nghiệp sẽ bị giảm sút về tỷ lệ mặc dù số tiền thực
tế mà họ thu về là lớn (do giá trị gia tăng của doanh nghiệp dẫn tới phần sở hữu của
họ cũng tăng lên nhiều). Tuy nhiên các doanh nhân đối tác lúc này trong vai trò nhà
kinh doanh, có thể rất muốn dành lại quyền kiểm soát doanh nghiệp để tự mình
quản trị một cách độc lập doanh nghiệp. Bản thân quỹ có thể cho các doanh nhân
đối tác vay vốn để mua lại phần sở hữu của quỹ trong một doanh nghiệp công nghệ
cao mà thường quỹ được lời với giá bán khá cao vì doanh nhân đối tác luôn muốn

có phần sở hữu của quỹ để kiểm soát doanh nghiệp
b. Nhóm chức năng phi tài chính
Bên cạnh và không thể tách rời chức năng tài chính (cấp vốn mạo hiểm), quỹ
còn phải cung cấp các dịch vụ nhằm giúp các dự án R&D
6
và doanh nghiệp được
ươm tạo, khởi sự và từng bước phát triển thành công. Đây chính là một trong những
đặc trưng cơ bản của phương thức ĐTMH
 Hỗ trợ công tác quản trị doanh nghiệp: Vì các doanh nhân thành lập
doanh nghiệp công nghệ cao thường xuất thân là một nhà công nghệ nên thiếu kỹ
năng về quản trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chưa đủ uy tín và các quan hệ
rộng rãi trong giới kinh doanh khi bắt đầu công việc kinh doanh độc lập, mà đây là
một trong những yếu tố then chốt góp phần tạo nên sự thành công của sự nghiệp
kinh doanh. Bởi vậy, quỹ ĐTMH cần tiến hành các hoạt động tư vấn về quản trị
doanh nghiệp như các vấn đề về kế hoạch kinh doanh: sản xuất, tiếp thị, bán hàng,


6
R&D: Research and Development – Nghiên cứu và phát triển

×