Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường trung học cơ sở ngô quyền thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.78 KB, 109 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XXI - thế kỷ của văn minh trí tuệ, của nền kinh tế tri thức, một
nền kinh tế - xã hội “dựa vào tri thức” phải bắt nguồn từ chính tiềm năng
con người, lấy việc phát huy nguồn lực người làm nhân tố cơ bản của sự
phát triển nhanh chóng và bền vững. Trong xu thế phát triển có tính khách
quan ấy, nền kinh tế xã hội đòi hỏi phải có sự chăm lo phát triển toàn diện,
chú ý phát huy tiềm năng con người trên các bình diện tinh thần, trí tuệ, đạo
đức và thể chất. Có như vậy mới đáp ứng được các yêu cầu phát triển và tiến
bộ xã hội. Hơn ai hết, GD có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát
triển con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Những thanh thiếu niên đang
đến trường ngày hôm nay sẽ là lực lượng sản xuất cơ bản, trực tiếp trong xã
hội cho ngày mai, cho tương lai. Có thể nói: “Tương lai chính là bây giờ”.
Vì thế, nhà trường phải có trách nhiệm chuẩn bị cho thế hệ trẻ hôm nay
những gì là cơ bản nhất để họ có thể đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn
cách mạng mới. Trong những năm qua ngành GD&ĐT cả nước nói chung,
Hải Phòng nói riêng đã thu được những thành tựu quan trọng cả về số lượng
và chất lượng, tạo dựng những thành tựu đó có vai trò to lớn của đội ngũ cán
bộ quản lý và các thầy cô giáo - lực lượng cốt cán của sự nghiệp trồng
người, trong đó GVCNL có vai trò hết sức quan trọng để thực hiện trách
nhiệm này. Xây dựng một thế hệ mới là vinh dự và trách nhiệm nặng nề đối
với người GV, trong đó có GVCNL, xét theo chức năng là người “tổ chức
thực hiện mọi quá trình giáo dục”. Hoạt động của GVCNL về bản chất là
một trong những hoạt động sáng tạo mang tính nghệ thuật sư phạm trong
quá trình dạy học và GD toàn vẹn.
Đối với giáo dục trung học, người GVCNL có vai trò quan trọng
trong việc GD toàn diện HS. Người ta vẫn thường nói rằng người GVCNL
là “một đại diện của Hiệu trưởng” trong tập thể lớp mình phụ trách. Người
1
GVCNL chiếm vị trí trung tâm, trụ cột trong quá trình giáo dục HS, là linh
hồn của lớp học, là người cố vấn đáng tin cậy dẫn dắt, định hướng, giúp HS


biết vươn lên, tự hoàn thiện và phát triển nhân cách. GVCNL có vai trò rất
lớn tới chất lượng học tập của lớp. Sự phát triển toàn diện của HS, sự đi lên
của tập thể lớp đều có sự đóng góp quan trọng của GVCNL. Đảng ta đã xác
định “để đảm bảo chất lượng giáo dục phải giải quyết tốt vấn đề thầy giáo”.
Rõ ràng là, người giáo viên nói chung, GVCNL nói riêng ngày càng có vị
trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp giáo dục toàn diện thế hệ trẻ. Xu thế
xã hội ngày càng đặt ra những yêu cầu mới về phẩm chất và năng lực, làm
thay đổi vai trò và chức năng của người giáo viên, trong đó có người giáo
viên chủ nhiệm lớp. Ở trường THCS hiện nay yêu cầu GD toàn diện HS là
một yêu cầu bức thiết đang đặt ra cho nhà trường. Việc thực hiện GD toàn
diện HS phải thống nhất từ khâu chỉ đạo của Hiệu trưởng cho tới các tổ
nhóm chuyên môn và từng giáo viên, trong đó GVCNL đóng vai trò hết sức
quan trọng. Vai trò xã hội của người GVCNL trở nên lớn hơn nhiều so với
chức năng của người giảng dạy bộ môn. Ngoài việc trực tiếp giảng dạy ở lớp
chủ nhiệm, họ trước hết phải là nhà GD, là người tổ chức các hoạt động GD,
quan tâm tới từng HS, chăm lo đến việc rèn luyện đạo đức, hành vi, những
biến động về tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng của các em. Học sinh cấp
THCS đang bước sang lứa tuổi thanh thiếu niên, ở lứa tuổi các em đang
muốn tự khẳng định mình, ưa cái mới lạ nhưng cũng rất dễ bị tổn thương,
rất cần có sự giúp đỡ và định hướng của người lớn, nên nhà giáo dục đặc
biệt là GVCNL cần nắm vững tâm sinh lý lứa tuổi của các em để từ đó lựa
chọn phương pháp GD cho phù hợp. Nếu không, với vốn kinh nghiệm sống
ít ỏi của mình, các em sẽ khó tránh khỏi những ảnh hưởng không lành mạnh,
nhất là hệ quả của mặt trái nền kinh tế thị trường hiện nay. Người GVCNL
bằng chính nhân cách của mình, là tấm gương tác động tích cực đến việc
hình thành các phẩm chất đạo đức, nhân cách của HS. Mặt khác, họ còn là
2
cầu nối giữa tập thể HS với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường, là
người tổ chức phối hợp các lực lượng GD. Họ còn là người dẫn dắt, tổ chức
cho HS tham gia các hoạt động xã hội, góp phần xây dựng và phát triển đất

nước. Người GVCNL là người đại diện cho quyền lợi chính đáng của HS,
bảo vệ HS về mọi mặt một cách hợp lý. Họ phản ánh trung thành mọi nhu
cầu, tâm tư, nguyện vọng của HS với BGH nhà trường, với các GVBM, với
gia đình HS, với cộng đồng và với các đoàn thể xã hội khác.
GVCNL có trách nhiệm quản lý, điều hành mọi hoạt động của lớp chủ
nhiệm và tác động đến sự phát triển nhân cách của mỗi HS trong tập thể đó,
chịu trách nhiệm trước nhà trường về chất lượng GD của lớp mình.
Hơn nữa sự phát triển của nhà trường gắn liền với sự tiến bộ và
trưởng thành của từng tập thể lớp học, gắn liền với sự tiến bộ và trưởng
thành của đội ngũ giáo viên, đặc biệt là các GVCNL. Chất lượng GD toàn
diện của nhà trường phụ thuộc phần lớn vào kết quả công tác GD của từng
GVCN đối với lớp mà họ phụ trách. Bởi đây chính là một mắt xích quan
trọng trong GD toàn diện HS.
Người GVCNL có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc GD toàn diện
học sinh qua thực tế làm công tác CNL của người viết, qua quan sát và tìm
hiểu về quản lý công tác CNL ở các trường THCS quận Lê Chân tôi chọn đề
tài nghiên cứu “Biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường
Trung học cơ sở Ngô Quyền thành phố Hải Phòng” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về quản lý công tác chủ nhiệm lớp,
thực tiễn quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường THCS Ngô Quyền quận
Lê Chân, xác định các biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm góp phần nâng
cao hiệu quả của công tác này nhằm nâng cao chất lượng GD toàn diện cho
HS trong nhà trường.
3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường trung học cơ sở .
3.2. Đối tượng nghiên cứu

Công tác chủ nhiệm lớp và biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp
ở trường THCS Ngô Quyền thành phố Hải Phòng .
4. Giả thuyết khoa học
Quản lý công tác CNL là một trong những hoạt động quan trọng
thường xuyên ở nhà trường THCS, nếu nghiên cứu tìm ra các biện pháp
quản lý phù hợp như: Xây dựng kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp; Bồi
dưỡng năng lực làm công tác CNL cho giáo viên; Xây dựng cơ chế phối
kết hợp giữa GVCNL với các lực lượng GD trong và ngoài nhà
trường để thúc đẩy, hỗ trợ cho công tác CNL nhằm nâng cao hiệu quả của
công tác này góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh
trong nhà trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài và các vấn đề liên quan.
5.2. Nghiên cứu thực trạng công tác chủ nhiệm lớp và quản lý công tác chủ
nhiệm lớp ở trường THCS Ngô Quyền quận Lê Chân thành phố Hải Phòng.
5.3. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác chủ nhiệm lớp và việc
quản lý công tác này tại một số trường THCS trong quận Lê Chân nói chung
và tại trường THCS Ngô Quyền nói riêng.
5.4. Đề ra các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng
công tác chủ nhiệm lớp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
học sinh tại các trường Trung học cơ sở trong quận Lê Chân, mà trước hết là
trường THCS Ngô Quyền quận Lê Chân thành phố Hải Phòng.
4
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Khảo sát thực trạng quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường THCS
Ngô Quyền thành phố Hải Phòng từ năm học 2008-2011.
Biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng ở trường
THCS Ngô Quyền thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011-2015.
7. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài sử dụng kết hợp các nhóm phương pháp

nghiên cứu:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích sách báo, tài liệu nghiên cứu, tạp chí liên quan tới đề tài.
Phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa các nội dung về lý luận giáo dục,
thực tiễn giáo dục.
Nghiên cứu các văn bản pháp quy, những quy định của ngành có liên
quan đến công tác chủ nhiệm lớp.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát thu thập dữ liệu từ thực tiễn công tác chủ nhiệm lớp và thực
tiễn quản lý công tác chủ nhiệm lớp.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Xây dựng các phiếu điều tra, bằng hệ thống câu hỏi để khảo sát các
đối tượng: cán bộ quản lý, giáo viên chủ nhiệm lớp, tổ trưởng chuyên môn
và một số đối tượng có liên quan.
7.2.3. Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm giáo dục
Tổng kết kinh nghiệm công tác chủ nhiệm lớp từ những giáo viên chủ
nhiệm lớp và kinh nghiệm quản lý công tác chủ nhiệm lớp từ những người
đã kinh qua công tác quản lý giáo dục và đặc biệt là những người đang
đương chức.
7.2.4. Phương pháp chuyên gia
5
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu thông
qua phiếu điều tra và thực nghiệm sư phạm.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị, Tài liệu tham khảo và
Phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác chủ nhiệm lớp và quản lý công
tác chủ nhiệm lớp ở trường THCS.

Chương 2: Thực trạng về công tác chủ nhiệm lớp và quản lý công tác
chủ nhiệm lớp ở trường THCS Ngô Quyền, quận Lê Chân, Hải Phòng.
Chương 3: Biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu
trưởng ở trường THCS Ngô Quyền, quận Lê Chân, Hải Phòng.

6
CHƯƠNG1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP
VÀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khi đề cập đến công tác chủ nhiệm lớp đã có nhiều tài liệu, công trình
nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, có thể kể đến các công trình tiêu biểu như:
Giáo dục học 2004 (Chương XVI, Người giáo viên chủ nhiệm) của Phạm
Viết Vượng- Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội; Phương pháp công tác
của người giáo viên chủ nhiệm ở trường Trung học phổ thông của Hà Nhật
Thăng (chủ biên)- Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2004; Công tác
giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông của Hà Nhật Thăng ( chủ biên )
- Nhà xuất bản Giáo dục, 2005; Những tình huống giáo dục học sinh của
người GVCN của Hà Nhật Thăng ( chủ biên ) - Nhà xuất bản Đại học quốc
gia Hà Nội, 2000; Công tác GVCN ở trường phổ thông - NXBGD, 1998; Kỷ
yếu hội thảo - Công tác GVCN ở trường phổ thông – NXBGD, 2010.
Tác giả Nguyễn Thanh Bình với công trình: Công tác chủ nhiệm lớp
ở trường THPT đề tài mã số SPHN – 09 – 465 NCSP, 2010, cũng như cuốn
Một số vấn đề trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT hiện nay - Nhà
xuất bản ĐHSP, 2011. Ở đây các tác giả đề cập đến những vấn đề cơ bản
của công tác chủ nhiệm lớp và những nội dung trong công tác CNL ở trường
THPT hiện nay từ góc nhìn của chuẩn nghề nghiệp GV trung học. Tác giả
Nguyễn Thị Kim Dung cũng thể hiện quan điểm của mình trong đào tạo bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên sư phạm ( Kỷ yếu hội thảo khoa

học - Nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các trường Đại
học sư phạm, 2010 )
7
Một số tác giả còn đi sâu vào nghiên cứu những khía cạnh khác có
liên quan đến công tác chủ nhiệm như Nguyễn Thanh Bình với tác phẩm
Giáo dục kỹ năng sống - Nhà xuất bản Đại học sư phạm Hà Nội - 2007;
Nguyễn Thị Kim Dung và cộng sự Hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp (Tài liệu dành cho lớp 11); Nguyễn Thị Kim Dung với đề
tài Rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm của học sinh tiểu học thông qua hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp -2007, mã số: B 2006 – 17 – 01 – 2007.
Một số không nhiều bài báo, tài liệu khác viết về công tác GVCNL
như: Rèn luyện một số kỹ năng làm công tác giáo viên chủ nhiệm lớp cho
sinh viên Cao đẳng sư phạm của Vũ Đình Mạnh. Tạp chí Giáo dục số 126
(11/2005); Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng làm công tác giáo viên chủ
nhiệm lớp cho sinh viên Cao đẳng sư phạm của Vũ Đình Mạnh. Tạp chí
Giáo dục số 135 (kỳ 1 – 4/2006).
Nghiên cứu về biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp có Một số
biện pháp tăng cường quản lý của Hiệu trưởng đối với công tác chủ nhiệm
lớp trong các trường THPT tỉnh Bắc Ninh – 2005 của Nguyễn Khắc Hiền.
Ở Hải Phòng, công tác chủ nhiệm lớp ở trường trung học cũng được
Ban lãnh đạo Sở GD&ĐT Hải Phòng rất quan tâm, chỉ đạo sát sao với Hội
thảo Vai trò của công tác chủ nhiệm trong trường phổ thông do Sở GD&ĐT
kết hợp với Hội KH Tâm lý – Giáo dục năm 2006; Hội nghị Đổi mới công
tác chủ nhiệm lớp trường trung học do Sở GD&ĐT tổ chức tháng 11 năm
2009 đã được hầu hết các trường phổ thông trong thành phố tham gia rất
nhiệt tình với nhiều bài viết, tham luận, báo cáo của các cấp lãnh đạo các
trường và của chính các đồng chí giáo viên trực tiếp làm công tác chủ nhiệm
trình bày như Chỉ đạo công tác chủ nhiệm ở trường THPT Thái Phiên của
Đào Thị Huệ; Trường THPT Nguyễn Trãi với công tác bồi dưỡng giáo viên
chủ nhiệm của Lê Hoàng Việt; Công tác chủ nhiệm với việc xây dựng

8
trường học thân thiện, học sinh tích cực của Trần Thị Hương Duyên; Tầm
quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp của Trương Thị Yến. Các bài viết
trên tác giả đã nêu được tầm quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp, thực
trạng công tác chủ nhiệm lớp, những kinh nghiệm quý báu được đúc kết
trong quá trình làm công tác chủ nhiệm cũng được các tác giả chia sẻ với
các đồng nghiệp trong hội nghị, lãnh đạo các nhà trường cũng đưa ra những
biện pháp rất tích cực để chỉ đạo, bồi dưỡng công tác này đồng thời cũng có
những ý kiến đề xuất trình lên các cấp lãnh đạo cao hơn nhằm hoàn thiện
hơn nữa công tác chủ nhiệm và gửi đến hội nghị cái nhìn toàn diện đầy đủ
của công tác này trong sự nghiệp GD chung của toàn ngành. Tuy vậy cũng
chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên sâu về quản lý công tác chủ
nhiệm lớp đặc biệt dành cho khối THCS - Đây là một vấn đề nghiên cứu khá
mới trong giai đoạn hiện nay ở thành phố Hải Phòng.
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường.
1.2.1.1 Những khái niệm về quản lý, chức năng quản lý
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, con người muốn
tồn tại và phát triển cần phải có sự phối hợp với nhau trong một nhóm, một
tổ chức. Để tổ chức, điều khiển tạo nên sự phối hợp của nhóm người hoạt
động theo yêu cầu nhất định, một loại hình lao động mới xuất hiện – Đó là
hoạt động quản lý.
Quản lý là một loại hình lao động của con người trong cộng đồng nhằm
thực hiện các mục tiêu mà tổ chức hoặc xã hội đặt ra, quản lý là một hoạt
động bao trùm mọi mặt đời sống xã hội và là nhân tố không thể thiếu trong sự
phát triển của xã hội. Các triết gia, các nhà chính trị từ thời cổ đại đến nay đều
rất coi trọng vai trò của quản lý trong sự ổn định và phát triển của xã hội.
Quản lý là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử.
9
Tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt coi “ Quản lý là một quá trình

định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được
những mục tiêu nhất định”[23]
Quản lý là sự tác động có chủ đích (có kế hoạch, có phương pháp,
cách thức tiến hành) của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt
mục tiêu quản lý, đảm bảo cho hệ thống vận hành đúng quy luật và mang lại
lợi ích cho hệ thống và xã hội.
Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt giúp con người
hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định.
Quản lý là một khoa học vì nó có đối tượng nghiên cứu là các quan hệ
quản lý. Đó là mối quan hệ hình thành giữa con người có liên quan đến hệ
thống và được hình thành theo những quy luật nhất định.
Một định nghĩa khác: Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi hoạt
động của con người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù
hợp với quy luật khách quan.
* Chức năng quản lý:
Quản lý có 4 chức năng sau: Chức năng kế hoạch hóa; Chức năng tổ
chức; Chức năng chỉ đạo; Chức năng kiểm tra. Bốn chức năng này được coi
như bốn công đoạn tạo nên một chu trình QL. Chúng có quan hệ chặt chẽ
với nhau, đan xen nhau, bổ sung cho nhau và đều cần đến thông tin quản lý.
Hoạt động QL là một chu trình thống nhất biện chứng với đầy đủ cả bốn
chức năng trên.
Khoa học QL đặt trên nền tảng phương pháp luận của triết học, chính
trị học, điều khiển học, kinh tế học, văn hóa học, lý thuyết thông tin… Để
làm một nhà QL, trước hết người ta phải được đào tạo, bồi dưỡng về khoa
học QL thì mới có thể làm đúng chứ chưa thể làm tốt công tác QL. Bởi quản
10
lý là một nghề, mà đã làm nghề thì phải được đào tạo ban đầu và bồi dưỡng
thường xuyên, liên tục thì mới đáp ứng được yêu cầu của công việc trong
bối cảnh xã hội thay đổi từng ngày, từng giờ như hiện nay.

1.2.1.2. Giáo dục, quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là quá
trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ con
người. GD là một loại hình hoạt động cơ bản của xã hội loài người nhằm
chuyển giao cho các thế hệ kế tiếp những giá trị vật chất và tinh thần của
loài người đã được tích lũy và phát triển trong nhiều năm đã và đang trở
thành một nhu cầu không thể thiếu cho mỗi cá nhân và cả cộng đồng trong
các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau. GD đứng ở trung tâm của sự phát
triển vừa của cá nhân con người vừa của cộng đồng. GD đã góp phần làm
cho xã hội loài người không ngừng phát triển. Trong thời đại ngày nay sự
tiến bộ của mỗi quốc gia đều phụ thuộc rất nhiều vào số và chất lượng của
GD mà nhân dân của mỗi quốc gia đó thừa hưởng. Vì GD là tiền đề quan
trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực xã hội như: chính trị, kinh tế,
văn hóa, an ninh quốc phòng. Do vậy phải coi GD một bộ phận hữu cơ quan
trọng nhất trong chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
trong đó mục tiêu GD phải được coi là một trong những mục tiêu quan trọng
nhất của sự phát triển.
Quản lý GD có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả của giáo dục. Người quản lý cần phối hợp sử dụng các
nguồn nhân lực, vật lực, tài lực và tin lực của tổ chức để đạt được mục tiêu
giáo dục. Khái niệm “quản lý giáo dục” chủ yếu có hai cấp độ là cấp vĩ mô
và cấp vi mô.
Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã đưa ra một số định nghĩa
về quản lý giáo dục:
- Đối với cấp vĩ mô:
11
Quản lý giáo dục:
Theo Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt
động điều hành phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh
công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội” {2;tr.31}

Quản lý GD là quản lý một hệ thống xã hội hết sức năng động và phức
tạp, nó không chỉ đơn thuần là sử dụng sức mạnh luật pháp mà còn sử dụng
hàng loạt những biện pháp đối nhân xử thế để điều khiển, định hướng, điều
chỉnh, tác động vào toàn bộ hệ thống thúc đẩy nó đạt tới mục tiêu mong muốn
khả thi. Đối tượng của quản lý GD chủ yếu là con người, đồng thời mục tiêu
QL cũng chính là hình thành và phát triển nhân cách của con người, do đó
phương pháp QL càng trở lên phong phú, đa dạng và phức tạp hơn.
Phải chăng quản lý GD là một hệ thống có kế hoạch, có mục đích của
chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý. Quản lý GD chính là một quá trình
tác động có định hướng của nhà quản lý GD trong việc vận dụng những
nguyên lý, phương pháp chung nhất của khoa học quản lý vào lĩnh vực GD
nhằm đạt được những mục tiêu GD đã đặt ra.
Hay nói cách khác ở cấp vi mô thì quản lý GD là quản lý nhà trường.
Nhà trường được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của nhà nước
nhằm phát triển sự nghiệp GD. Trường học là cơ quan hành chính nhà
nước đồng thời là một tổ chức mang tính xã hội. Do đó quản lý trường học
vừa có tính chất nhà nước vừa có tính chất xã hội. Nhà nước và xã hội
cùng hợp tác chăm lo xây dựng, quản lý nhà trường, tạo mọi điều kiện tối
ưu cho sự phát triển của trường học, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo
dục, đào tạo học sinh.
Theo Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là hoạt động của các cơ
quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức hoạt động của giáo viên, học sinh và
các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo
12
dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường”{24, tr
31}
Theo Trần Kiểm: “Quản lý trường học có thể hiểu là một hệ thống
những tác động sư phạm hợp lý và có hướng đích của chủ thể quản lý đến
tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường
nhằm huy động và phối hợp sức lực và trí tuệ của họ vào mọi mặt hoạt động

của nhà trường hướng tới hoàn thành có chất lượng và hiệu quả mục tiêu dự
kiến”{18, tr 27}
Tóm lại, quản lý trường học về bản chất là QL con người (tập thể cán
bộ, giáo viên và học sinh ) và QL các nguồn lực cơ sở vật chất, thiết bị GD
của nhà trường. Có thể hiểu QL nhà trường là hoạt động phối hợp điều hành
của chủ thể quản lý - Hiệu trưởng đối với GV, HS và các lực lượng xã hội
liên quan nhằm đẩy mạnh các hoạt động của nhà trường. Cụ thể là thúc đẩy
phong trào đào tạo thế hệ trẻ, thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch
đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mong muốn.
1.2.1.3. Quản lý nhà trường
QL nhà trường là một bộ phận trong quản lý GD. Nhà trường (cơ sở
GD) chính là nơi tiến hành quá trình GD đào tạo, có nhiệm vụ trang bị kiến
thức cho một nhóm dân cư nhất định thực hiện tối đa một quy luật tiến bộ xã
hội là: “Thế hệ đi sau phải lĩnh hội được các kinh nghiệm xã hội mà thế hệ
trước tích lũy và truyền lại, đồng thời phải làm phong phú thêm những kinh
nghiệm đó”{9;tr 15}
Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của XH thực hiện chức năng kiến
tạo các kinh nghiệm XH cho một nhóm dân cư nhất định của XH đó. Nhà
trường được tổ chức cho việc kiến tạo XH nói trên đạt được các mục tiêu
XH đó đặt ra cho nhóm dân cư được huy động vào sự kiến tạo này một cách
tối ưu theo quan niệm XH. Trường học là cơ sở tổ chức giáo dục mang tính
Nhà nước - XH. Trường học là một thành tố khách thể cơ bản của tất cả các
13
cấp quản lý từ địa phương đến trung ương, lại vừa là một hệ thống độc lập
tự quản của xã hội, do đó quản lý nhà trường vừa có tính chất nhà nước vừa
có tính xã hội. Quản lý nhà trường chính là quản lý GD nhưng trong một
phạm vi xác định của đơn vị GD mà nền tảng là nhà trường. Do đó quản lý
nhà trường phải vận dụng tất cả các nguyên lý chung của quản lý GD để đẩy
mạnh hoạt động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo. Theo Phạm Minh
Hạc: “Quản lý nhà trường là quản lý dạy và học, tức là làm sao đưa hoạt

động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu
giáo dục” {14; tr.71}
Quản lý nhà trường là hoạt động điều hành, phối hợp của Hiệu trưởng
đối với GV, HS và các lực lượng XH liên quan nhằm thực hiện mục tiêu
GD. Đích cuối cùng của mục tiêu GD là giáo dục HS toàn diện. Mà QL là
nhằm hiện thực hóa cái đích ấy cho nên QL trong nhà trường có thể coi như
một hoạt động GD.
Trường THCS là cấp học chuyển giao giữa tiểu học và THPT, cấp
học có ý nghĩa then chốt đối với sự phát triển trí tuệ và nhân cách cho HS, ở
cấp học này HS không những cần tÝch lòy kiÕn thức, tri thức tốt chuÈn bÞ ®Ó
tiÕp tôc cho bậc THPT m cà òn cần có nhân cách tốt, có các kỹ năng mềm để
có thể tự ứng xử với những tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày.
Mục đích dạy học ở trường THCS nhằm thực hiện đồng thời 3 chức
năng bộ phận của quá trình dạy học: Giáo dưỡng – nắm vững hệ thống tri
thức kỹ năng, kỹ xảo và cách vận dụng chúng - phát triển tư duy khái niệm,
tư duy logic, tư duy biện chứng… và giáo dục – thái độ đạo đức… Ba chức
năng bộ phận này gắn bó hữu cơ với nhau, thâm nhập vào nhau, quy định
lẫn nhau và tạo ra một hệ toàn vẹn ba nhiệm vụ dạy học trong trường THCS
nhằm mục đích phát triển toàn diện con người - Phát triển nhân cách. Ngày
nay phát triển nhân cách là nhiệm vụ số một của GD, là vấn đề trọng tâm
trong chiến lược con người được các nhà khoa học trong nước cũng như trên
14
thế giới quan tâm nghiên cứu. Một trong những công tác góp phần thực hiện
tốt 3 nhiệm vụ trên ở trường THCS là công tác GVCNL.
1.2.2. Công tác chủ nhiệm lớp
1.2.2.1. Khái niệm công tác chủ nhiệm lớp
Trong hệ thống tổ chức của các trường phổ thông, đơn vị cơ bản được
tổ chức để giảng dạy và giáo dục HS là lớp học. Hình thức tổ chức dạy học,
giáo dục theo lớp được hình thành từ thế kỉ XVI do nhà giáo dục Tiệp Khắc
Comenxki đề xướng. Để quản lý lớp học, nhà trường cử ra một trong những

giáo viên đang giảng dạy làm GVCNL. GVCN được Hiệu trưởng lựa chọn
từ những GV có kinh nghiệm GD, có uy tín trong HS, được Hội đồng giáo
dục nhà trường nhất trí phân công làm chủ nhiệm các lớp học xác định để
thực hiện mục tiêu GD. Như vậy khi nói đến người GVCNL là đề cập đến vị
trí, vai trò, chức năng của người làm công tác CNL, còn nói công tác chủ
nhiệm lớp trong nhà trường nói chung và trường THCS nói riêng là đề cập
đến những nhiệm vụ, nội dung công việc mà người GVCNL phải làm, cần
làm và nên làm.
1.2.2.2 Vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm
lớp trong nhà trường phổ thông
* Vị trí và vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp
GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là
người thay mặt Hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và CMHS quản lý và chịu
trách nhiệm về chất lượng GD toàn diện HS lớp mình phụ trách, tổ chức
thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp.
Với tư cách là người đại diện cho tập thể các nhà sư phạm, GVCNL
có trách nhiệm truyền đạt tất cả yêu cầu, kế hoạch GD của nhà trường tới
tập thể và từng HS của lớp chủ nhiệm. Đồng thời, GVCNL có khả năng biến
15
những chủ trương, kế hoạch đào tạo của nhà trường thành chương trình hành
động của tập thể lớp và của mỗi học sinh.
Mỗi GVCNL còn là một thành viên tham mưu của Hội đồng sư
phạm, có trách nhiệm phản ánh đầy đủ thông tin về lớp chủ nhiệm cũng
như từng thành viên trong tập thể lớp, đề xuất các giải pháp giáo dục HS,
giúp cán bộ quản lý, lãnh đạo nhà trường đưa ra các định hướng, giải
pháp quản lý, giáo dục học sinh hiệu quả.
Đối với HS và tập thể lớp, GVCNL là nhà giáo dục và là người lãnh
đạo gần gũi nhất, người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, kiểm tra toàn diện
mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc phạm vi lớp mình phụ trách
dựa trên đội ngũ tự quản là cán bộ lớp, cán bộ Đoàn – Đội và tính tự giác

của mọi HS trong lớp.
GVCNL còn là người tập hợp ý kiến, nguyện vọng của từng HS của
lớp phản ánh với Hiệu trưởng, với các tổ chức trong nhà trường và với các
GVBM. GVCN với tư cách là đại diện cho lớp còn có trách nhiệm bảo vệ,
bênh vực quyền lợi mọi mặt cho HS trong lớp chủ nhiệm.
Như vậy, GVCN là cầu nối giữa Hiệu trưởng (BGH), giữa các tổ chức
trong nhà trường, giữa các GVBM với tập thể HS. Nói một cách khác, GVCN
là người đại diện hai phía, một mặt đại điện cho Hội đồng sư phạm, mặt
khác lại đại diện cho tập thể HS trong quá trình thực hiện công tác CNL.
GVCNL là người cố vấn cho công tác Đội và công tác Đoàn ở lớp
chủ nhiệm. GVCNL giữ vai trò là người cố vấn cho Ban chỉ huy chi đội của
lớp chủ nhiệm ở trường THCS, và là người cố vấn cho Ban chấp hành chi
đoàn ở trường THPT.
GVCNL có thể tư vấn cho đội ngũ này về việc lập kế hoạch và tổ chức
các hoạt động theo tôn chỉ, mục đích của từng tổ chức, đồng thời kết hợp với
các hoạt động GD trong kế hoạch của lớp sẽ đem lại hiệu quả cao.
16
Trong quan hệ với các lực lượng GD khác trong và ngoài nhà trường,
GVCNL là nhân vật trung tâm để hình thành, phát triển nhân cách HS và là
cầu nối giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
GVCNL vừa đưa ra những định hướng, mục tiêu phát triển, giáo dục
HS vừa phải tổ chức phối hợp với các lực lượng xã hội có liên quan nhằm
thực hiện mục tiêu GD của lớp chủ nhiệm, giáo dục HS hiệu quả.
GVCNL cũng là người triển khai những yêu cầu giáo dục của nhà
trường đến với gia đình, CMHS, đồng thời cũng là người tiếp nhận các
thông tin phản hồi từ HS, gia đình học sinh, các dư luận xã hội về HS trở lại
với nhà trường để giúp lãnh đạo nhà trường có giải pháp quản lý, phối hợp
hiệu quả, đồng thời tạo lập mối liên hệ thông tin đa chiều giữa nhà trường –
gia đình – xã hội.
* Chức năng của người giáo viên chủ nhiệm lớp

a. Chức năng quản lý
GVCNL là người thay mặt Hiệu trưởng làm nhiệm vụ quản lý toàn
diện HS một lớp học. Để đạt được mục tiêu quản lý một tập thể HS,
GVCNL phải thực hiện phối hợp các chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ
đạo và kiểm tra.
b. Chức năng giáo dục
GVCNL trước hết phải là một nhà giáo dục, thông qua việc tổ chức
các hoạt động của tập thể lớp để GD những phẩm chất, nhân cách của mỗi
HS. Qua các hoạt động đa dạng và phong phú, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp
giữa học sinh và học sinh, giữa Hs với những người khác, hướng vào việc
hình thành cho học sinh những thói quan, hành vi phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức của xã hội.
Từ 2 chức năng trên, ta thấy người GVCNL phải đồng thời quản lý
hoạt động học tập và quản lý sự hình thành, phát triển nhân cách HS. Hai
mặt này có quan hệ hỗ trợ, tác động lẫn nhau, việc GD đạo đức có tác động
17
mạnh mẽ đến chất lượng học văn hóa, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi
từng ngày, từng giờ những cám dỗ, những ảnh hưởng tiêu cực của xã hội,
mặt trái của nền kinh tế thị trường đang dội vào nhà trường.
Muốn thực hiện chức năng quản lý giáo dục toàn diện, GVCNL phải
có những tri thức cơ bản về tâm lý học, giáo dục học và phải có hàng loạt kỹ
năng sư phạm như: kỹ năng tiếp cận đối tượng HS, kỹ năng nghiên cứu tâm
lý lứa tuổi, nghiên cứu xã hội, kỹ năng lập kế hoạch công tác CNL và phải
có sự nhạy cảm sư phạm để có dự đoán đúng, chính xác sự phát triển nhân
cách của học sinh, định hướng và giúp các em lường trước những khó khăn,
thuận lợi, vạch ra những dự định để các em tự hoàn thiện về mọi mặt.
c. Chức năng đại diện
Người GVCNL đại diện cho Hiệu trưởng truyền đạt những yêu cầu đối
với học sinh. GVCNL còn là đại diện cho quyền lợi chính đáng của HS
trong lớp, bảo vệ HS một cách hợp pháp. Phản ánh kịp thời với Hiệu trưởng,

các giáo viên bộ môn, với gia đình HS, các đoàn thể trong và ngoài nhà
trường về những nguyện vọng chính đáng của HS và của tập thể lớp để cùng
có các biện pháp giải quyết phù hợp, kịp thời, có tác dụng GD.
Đối với học sinh THCS, người GVCNL cần xác định mình có vai trò
cố vấn cho tập thể lớp. Điều này có nghĩa GVCNL không nên làm mọi việc
thay cho đội ngũ tự quản của lớp (Ban cán sự lớp, Ban chấp hành chi đội)
mà nhiệm vụ chủ yếu của GVCNL là bồi dưỡng năng lực tự quản cho HS.
Những GVCNL có kinh nghiệm thường thu hút hầu hết HS của lớp vào các
hoạt động. Đội ngũ tự quản thường chiếm khoảng 30% số học sinh của lớp
và mỗi năm luân phiên đội ngũ tự quản 20% để sau một cấp học số em có
thể được huấn luyện tự quản nhiều hơn.
Để phát huy vai trò cố vấn, GVCNL cần có năng lực dự báo chính xác
khả năng của HS trong lớp. GVCNL phải phát hiện và bồi dưỡng tiềm năng
sáng tạo của các em trong việc đề xuất các nội dung hoạt động, xây dựng kế
18
hoạch hoạt động toàn diện của mỗi tháng, mỗi học kỳ, của từng năm học.
GVCNL chỉ là người giúp HS tự tổ chức các hoạt động đã được kế hoạch
hóa. Điều đó không có nghĩa là GVCNL khoán trắng, đứng ngoài hoạt động
của tập thể lớp chủ nhiệm mà GVCNL nên hướng dẫn, điều chỉnh hoạt
động, bàn bạc, tranh thủ các lực lượng trong và ngoài nhà trường, tạo điều
kiện thuận lợi cho HS lớp mình tổ chức hoạt động.
Ngoài ra, GVCNL còn là người đại diện cho nhà trường trong việc
phối hợp với các tổ chức xã hội để thống nhất biện pháp giáo dục HS. Trong
hoàn cảnh hiện nay, do tác động của nền kinh tế thị trường, HS sống trong
xã hội nhiều vẻ và phức tạp; học sinh THCS luôn nhạy cảm với những cái
mới lạ, trong đó có cả cái tốt và cái xấu. Vì vậy GVCNL cần có ý thức sâu
sắc trong việc giúp các em thiết lập quan hệ đúng đắn, lành mạnh với mọi
người. Đó là nhiệm vụ không hề đơn giản và rất cần thiết đối với công tác
CNL. GVCNL cần xác định rằng giáo dục nhà trường có vai trò định hướng,
tạo ra sự thống nhất tác động đến thế hệ trẻ (trong đó có gia đình và các tổ

chức xã hội khác). Cần khẳng định rằng gia đình và giáo dục gia đình là môi
trường GD gần gũi các em nhất và có nhiều ảnh hưởng tới quá trình hình
thành, phát triển nhân cách của các em nhất.
* Nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường trung học
Trước hết GVCN phải là giáo viên giảng dạy bộ môn, thực hiện đầy
đủ các nhiệm vụ của một người giáo viên đứng lớp đó là : Dạy học và GD
theo chương trình, kế hoạch GD, kế hoạch dạy học của nhà trường theo chế
độ làm việc của GV do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy định; Quản lý HS trong
các hoạt động GD do nhà trường tổ chức; Tham gia các hoạt động của tổ
chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả GD; Tham gia
nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng; Tham gia công tác phổ cập GD ở
địa phương; Rèn luyện đạo đức, học tập văn hóa, bồi dưỡng chuyên môn,
19
nghiệp vụ để nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và GD; Vận dụng các
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
đồng thời rèn luyện phương pháp tự học của HS; Thực hiện điều lệ nhà
trường; Thực hiện quyết định của Hiệu trưởng, chịu sự kiểm tra, đánh giá
của Hiệu trưởng và các cấp QLGD; Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của
nhà giáo, gương mẫu trước HS; Thương yêu, tôn trọng HS, đối xử công
bằng với HS, bảo vệ các quyền lợi chính đáng của HS; Đoàn kết, giúp đỡ
đồng nghiệp, tạo dựng môi trường học tập và làm việc dân chủ, thân thiện,
hợp tác, an toàn và lành mạnh.
Phối hợp với các GV khác, gia đình HS, Đoàn thanh niên cộng sản
HCM, Đội thiếu niên tiền phong HCM trong dạy học và GD học sinh; Thực
hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài các nhiệm vụ quy định trên, GVCNL còn có những nhiệm vụ
sau đây: Tìm hiểu và nắm vững HS trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ
chức GD sát với đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng
HS; Thực hiện các hoạt động GD theo kế hoạch đã xây dựng; Cộng tác chặt
chẽ với gia đình HS, chủ động phối hợp với các GV bộ môn, Đoàn thanh

niên Cộng sản HCM, Đội Thiếu niên Tiền phong HCM, các tổ chức xã hội
có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục HS của lớp mình chủ
nhiệm và góp phần huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát triển nhà
trường; Nhận xét, đánh giá và xếp loại HS cuối kỳ và cuối năm học, đề nghị
khen thưởng và kỷ luật HS, đề nghị danh sách HS được lên lớp thẳng, phải
kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại
lớp, hoàn chỉnh việc ghi vào sổ điểm và học bạ; Báo cáo thường kỳ hoặc đột
xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng.
1.2.3. Quản lý công tác chủ nhiệm lớp
20
Quản lý công tác chủ nhiệm lớp là một mảng trong hệ thống công tác
quản lý nhà trường của Hiệu trưởng, đây là một công việc mang tính chiến
lược lâu dài, thường xuyên. Để làm tốt công tác này người Hiệu trưởng phải
căn cứ vào tình hình GD thực tiễn của nhà trường như số lượng HS, địa bàn
nhà trường, số lượng GVCNL, đặc diểm của đội ngũ GVCNL để lên kế
hoạch cho từng công việc cụ thể, thời gian thực hiện những công việc này,
rồi tiến hành tổ chức, chỉ đạo đội ngũ GVCNL thực hiện từng công việc
hoặc thực hiện đồng thời các công việc theo đặc trưng từng khối lớp, tiếp
theo đó là đánh giá, kiểm tra việc thực hiện các công việc này của đội ngũ
GVCNL nhằm phát hiện kịp thời các sai lệch, yếu kém để từ đó người Hiệu
trưởng có các biện pháp tư vấn, thúc đẩy, giúp đỡ GVCNL khắc phục, giải
quyết các tồn tại nhằm hoàn thiện, đồng bộ công tác CNL góp phần nâng
cao hiệu quả GD toàn diện HS trong nhà trường phổ thông.
1.3. Công tác chủ nhiệm lớp ở trường trung học cơ sở
1.3.1. Trường trung học cơ sở trong hệ thống giáo dục quốc dân
Điều lệ trường THCS, THPT và trường phổ thông có nhiều cấp
học được ban hành theo thông tư số: 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3/2011
của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT. Trường trung học trong hệ thống GD quốc dân
được quy định có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động GD khác theo mục tiêu,

chương trình GD phổ thông dành cho cấp THCS và cấp THPT do Bộ trưởng
Bộ GD&ĐT ban hành. Công khai mục tiêu, nội dung các hoạt động GD,
nguồn lực và tài chính, kết quả đánh giá chất lượng giáo dục.
2. Quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên theo quy định của pháp luật.
3. Tuyển sinh và tiếp nhận HS; vận động HS đến trường; quản lý học
sinh theo quy định của Bộ GD&ĐT.
4. Thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi được phân công.
21
5. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục.
Phối hợp với gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục.
6. Quản lý, sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy
định của Nhà nước.
7. Tổ chức cho giáo viên, nhân viên, học sinh tham gia hoạt động xã hội.
8. Thực hiện các hoạt động về kiểm định chất lượng giáo dục.
9. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1.3.2. Nội dung công tác chủ nhiệm lớp
1.3.2.1.Tìm hiểu và nắm vững đối tượng GD
U.D.Usinxki- Nhà GD người Nga cho rằng: “Muốn GD con người về
mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt”. Nếu hiểu rõ HS thì mới thực
hiện được chức năng QL để GD toàn diện HS của mình, lựa chọn được những
biện pháp tác động phù hợp mới biến quá trình GD của GV thành quá trình tự
GD của HS với tư cách HS là chủ thể của quá trình GD, mới đánh giá đúng
đắn và chính xác chất lượng và hiệu quả của GD. Tìm hiểu và nắm vững đối
tượng GD vừa là nội dung vừa là điều kiện để làm tốt công tác của GVCN lớp.
* Nội dung tìm hiểu:
+ Tìm hiểu và nắm vững đặc điểm của lớp chủ nhiệm
- Đặc điểm tình hình của lớp: Phong trào, truyền thống, khó khăn,
thuận lợi, chất lượng GD chung, kết quả xếp loại văn hóa, hạnh kiểm, bầu
không khí học tập, quan hệ xã hội
- Đội ngũ GV giảng dạy tại lớp: Uy tín, khả năng, trình độ

- Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của lớp: Đầu cấp, cuối cấp
- Đặc điểm tình hình địa phương, hoàn cảnh kinh tế của địa phương
+ Tìm hiểu và nắm vững đặc điểm của từng HS
- Sơ yếu lý lịch: Họ tên cha mẹ, nghề nghiệp, địa chỉ, sở thích năng khiếu
22
- Hoàn cảnh sống của HS: Điều kiện kinh tế gia đình, trình độ văn hóa
của CMHS, điều kiện học tập, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, quan
hệ XH, tình hình kinh tế - xã hội, an ninh trật tự tại địa phương nơi cư trú.
- Đặc điểm tâm, sinh lý, năng lực, trình độ, sở thích, phẩm chất đạo
đức, các mối quan hệ, cách ứng xử của HS trong gia đình, với bạn bè, trong
nhà trường và ngoài xã hội
- Những biến đổi và sự phát triển về thể chất, tâm lý và xã hội của HS
theo các giai đoạn phát triển của lứa tuổi.
Tóm lại, GVCN cần hiểu rõ toàn bộ cuộc sống tâm hồn, tình cảm của
HS kể cả những thay đổi trong đời sống nội tâm của từng HS. Đặc biệt đối
với những HS cá biệt cần tìm hiểu kỹ những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
cá biệt để có các giải pháp tác động phù hợp, kịp thời, hiệu quả.
Tìm hiểu HS là một quá trình khó khăn, lâu dài, phức tạp, đòi hỏi
GVCNL phải kiên trì, thận trọng, có tinh thần trách nhiệm cao và lòng
thương yêu HS sâu sắc. Đồng thời, GVCN phải là người có đạo đức và tri
thức, một người Thầy có nhân cách để HS tôn trọng và nể phục nhưng cũng
là người dễ chia sẻ và thông cảm với HS, có thể trở thành người bạn lớn để
HS có thể chia sẻ, trình bày ước mơ nguyện vọng, những khúc mắc, lo âu
của bản thân.
1.3.2.2. Lập kế hoạch chủ nhiệm
Kế hoạch chủ nhiệm là chương trình hoạt động của GVCN được vạch ra
một cách có hệ thống về những công việc dự định làm trong thời gian một năm
học với cách thức và trình tự tiến hành nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Bản kế
hoạch chủ nhiệm là văn bản trong đó thiết kế cụ thể toàn bộ nội dung công tác
CNL, chương trình hành động của chủ nhiệm trong từng tháng với thời gian,

công việc và địa điểm cụ thể. Đó là kết quả sáng tạo của GVCN, phản ánh
năng lực dự đoán và thiết kế của GVCN và đã được Hiệu trưởng phê duyệt.
23
Kế hoạch chủ nhiệm thường được xây dựng theo trục thời gian của
năm học, kế hoạch học kì, kế hoạch tháng, kế hoạch tuần và theo nội dung
của các hoạt động GD chung trong nhà trường như kế hoạch tập văn nghệ,
hội khỏe phù đổng, lao động, ôn thi học kì, chào mừng các ngày lễ lớn
1.3.2.3. Tổ chức đội ngũ cán bộ tự quản và xây dựng tập thể HS lớp tự quản
Xây dựng tập thể HS phát triển và thân thiện vừa là mục đích vừa là
phương tiện để GD nhân cách từng HS, đồng thời đưa tập thể đến trạng thái
phát triển cao hơn là nhiệm vụ của GVCN. Nguyên tắc giáo dục trong tập
thể bằng tập thể cần được quán triệt trong công tác CNL.
Đội ngũ cán bộ lớp là những người trợ giúp đắc lực giúp GVCN thực hiện
chức năng của mình. Đội ngũ cán bộ lớp tốt, có trách nhiệm sẽ tạo cho lớp thành
tập thể tốt, qua đó có tác dụng GD tích cực đến các thành viên trong lớp, nhưng
đội ngũ cán sự không phải là công cụ, hay cánh tay nối dài của GVCN. GVCN
cần phải bồi dưỡng năng lực tổ chức và quản lý tập thể lớp cho đội ngũ cán bộ
lớp để đảm bảo sự thống nhất giữa quản lý của GVCN và tự quản của HS.
1.3.2.4. Chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nội dung, hoạt động giáo dục toàn diện
Hoạt động GD ngoài giờ lên lớp theo chương trình, hoạt động sinh
hoạt dưới cờ, giờ sinh hoạt lớp, hoạt động tư vấn trong công tác hướng
nghiệp, dạy nghề…
1.3.2.5. Liên kết với các lực lượng giáo dục trong và ngoài trường
Đảm bảo sự thống nhất trong giáo dục học sinh và tăng cường sức mạnh
đồng bộ nhằm đem lại hiệu quả GD toàn diện nhất.
Giáo dục mỗi cá nhân HS và tập thể HS là trách nhiệm của tất cả các
giáo viên, các lực lượng GD trong nhà trường, trong đó GVCNL giữ vai trò
chủ đạo. GVCNL thường xuyên gặp gỡ trao đổi với GVBM đang giảng dạy
tại lớp của mình về tình hình học tập của HS, nắm chắc ý thức học tập, thế
mạnh, thế yếu của từng HS ở mỗi môn học.

24
GVCNL cần có kế hoạch kết hợp với tổ chức Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh để tiến hành giáo dục toàn diện ở lớp. Mặt khác
GVCNL phải giúp đỡ chi đoàn lớp xây dựng kế hoạch công tác, bồi
dưỡng cán bộ nòng cốt, cố vấn cho Ban chấp hành chi đoàn tổ chức các hoạt
động giáo dục.
Gia đình là môi trường giáo dục – lực lượng giáo dục đầu tiên, ảnh
hưởng một cách sâu sắc đến HS. GVCNL là người thay mặt nhà trường thực
hiện sự liên kết này. GVCNL giúp CMHS hiểu rõ chủ trương, kế hoạch GD
của nhà trường và mục tiêu, kế hoạch phấn đấu của lớp trong năm học.
GVCNL thống nhất với gia đình về yêu cầu, nội dung, biện pháp, hình thức
giáo dục .
1.3.2.6. Đánh giá kết quả giáo dục và học tập của HS lớp chủ nhiệm
Đánh giá là một nội dung không thể thiếu trong công tác của GVCNL
trong nhà trường. Đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, phát triển nhân cách
của HS đòi hỏi sự khách quan, chính xác, công bằng của người GVCNL.
Mục đích của đánh giá là nhằm thúc đấy sự cố gắng vươn lên của HS, kích
thích ở các em động cơ phấn đấu đúng đắn, hình thành niềm tin vào khả
năng của bản thân, vào tập thể và thầy cô giáo.
1.3.3. Mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh các trường trung học
Khỏe mạnh về thể lực và tinh thần
Sức khỏe cơ thể và tinh thần là điều kiện tiên quyết của một tuổi thơ
và tuổi vị thành niên tươi vui và hạnh phúc. Học sinh cấp THCS được
chăm sóc chu đáo và rèn luyện thường xuyên để phát triển cân đối về thể
chất và phát huy tối đa về năng lực tư duy cũng như một đời sống tinh thần
phong phú.
Sống lành mạnh và tự tin
Học sinh cấp THCS được rèn luyện một tinh thần tự tin và tự trọng,
biết tôn trọng bạn bè và kính trọng thầy cô. Nhà trường đảm bảo sự công
25

×