Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

tích hợp văn hóa trong dạy học văn học dân gian ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.79 KB, 117 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM




NÔNG THỊ THU BẰNG



TÍCH HỢP VĂN HÓA
TRONG DẠY HỌC VĂN HỌC DÂN GIAN
Ở TRƢỜNG THPT




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC






Thái Nguyên - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



NÔNG THỊ THU BẰNG


TÍCH HỢP VĂN HÓA
TRONG DẠY HỌC VĂN HỌC DÂN GIAN
Ở TRƢỜNG THPT

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY - HỌC VĂN TIẾNG VIỆT

Mã số: 60.14.10


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Gia Cầu



Thái Nguyên - 2010


Lời cảm ơn
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Gia Cầu - người đã hướng
dẫn em trong suốt quá trình làm luận văn.

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, khoa Sau Đại
học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ em
trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Sở Giáo dục đào tạo Cao Bằng; Ban
giám hiệu Trường THPT Cách Linh, Phục Hòa, Cao Bằng; bạn bè; đồng nghiệp đã
tạo điều kiện cho em trong suốt thời gian qua.

Tác giả luận văn


Nông Thị Thu Bằng










QUY ƢỚC VIẾT TẮT

GV
:
Giáo viên
HS
:
Học sinh
Nxb

:
Nhà xuất bản
SGK
:
Sách giáo khoa
SGV
:
Sách giáo viên
THPT
:
Trung học phổ thông
THCS
:
Trung học cơ sở
Tr
:
Trang
VHDG
:
Văn học dân gian



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích nghiên cứu 9
4. Đối tƣợng nghiên cứu 9
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 9

6. Phƣơng pháp nghiên cứu 10
7. Bố cục luận văn 10
NỘI DUNG 11
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÍCH HỢP
VĂN HÓA TRONG DẠY HỌC VĂN HỌC DÂN GIAN 11
1.1. Một số vấn đề lý luận về VHDG 11
1.1.1. Bản chất và đặc trƣng của VHDG 11
1.1.2. Hƣớng khai thác VHDG trong chƣơng trình THPT 15
1.1.3.Văn học dân gian trong chƣơng trình SGK Ngữ văn 10 tập 1 17
1.2. Văn hóa và văn hóa trong văn học dân gian 19
1.2.1. Khái niệm văn hóa 19
1.2.2. Văn hóa trong văn học dân gian 21
1.3. Lý thuyết tích hợp 24
1.4. Tích hợp văn hóa 30
1.5. Khảo sát thực tế dạy học VHDG ở trƣờng THPT 31
CHƢƠNG 2: ĐỊNH HƢỚNG TÍCH HỢP VĂN HÓA TRONG DẠY HỌC VĂN
HỌC DÂN GIAN Ở TRƢỜNG THPT 36
2.1. Nguyên tắc của việc đề ra phƣơng hƣớng và biện pháp để thực hiện tích hợp
văn hóa trong dạy học văn học dân gian ở trƣờng THPT 36
2.2.Một số phƣơng hƣớng và biện pháp để thực thi tích hợp văn hóa trong dạy học
văn học dân gian ở trƣờng THPT 38
2.2.1. Phƣơng hƣớng thực thi tích hợp văn hóa trong dạy học VHDG ở trƣờng
THPT 38


2.2.1.1. Nắm vững những mục tiêu cơ bản của chƣơng trình môn Ngữ văn THPT,
trong đó có mục tiêu tích hợp văn hóa 38
2.2.1.2. Trang bị kiến thức về tích hợp và kiến thức về văn hóa cho giáo viên để có
thể vận dụng linh hoạt trong giờ dạy học VHDG 40
2.2.1.3. Nghiên cứu phần VHDG trong chƣơng trình Ngữ văn THPT nhằm phát

hiện khả năng tích hợp văn hóa 41
2.2.1.4. Thiết kế dạy học VHDG mang tính tích hợp văn hóa 44
2.2.1.5. Không biến giờ dạy học VHDG thành giờ dạy văn hóa 45
2.2.1.6. Đánh giá hiệu quả giờ dạy chất lƣợng dạy 46
2.2.2. Một số biện pháp thực thi tích hợp văn hóa trong dạy học văn học dân gian ở
trƣờng THPT 49
2.2.2.1. Giáo viên và học sinh chuẩn bị cho giờ dạy học một cách chu đáo 49
2.2.2.2. Dạy học tích hợp văn hóa ở mỗi văn bản VHDG 50
2.2.2.3. Không chỉ tích hợp ở nội dung mà tích hợp ở cả phƣơng pháp 55
2.2.2.4. Không chỉ tích hợp văn hóa khi dạy học mà khi ôn tập VHDG cũng tích
hợp tri thức văn hóa 56
2.2.2.5. Tổ chức hoạt động ngoại khóa 56
CHƢƠNG 3: THIẾT KẾ THỰC NGHIỆM DẠY HỌC TÍCH HỢP VĂN HÓA
TRONG DẠY HỌC VĂN HỌC DÂN GIAN Ở TRƢỜNG THPT 59
3.1. Nội dung của tích hợp văn hóa trong dạy học VHDG 59
3.2. Thiết kế thực nghiệm 77
3.2.1. Mục đích thực nghiệm 77
3.2.2. Đối tƣợng, địa bàn và thời gian thực nghiệm 77
3.2.3. Thiết kế dạy học 78
3.3. Giải thích ý đồ thiết kế dạy học 88
3.4. Kết quả thực nghiệm 91
3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm 92
KẾT LUẬN 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96



1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1.1. Văn học dân gian (VHDG) là một bộ phận đặc biệt của nền văn học Việt Nam.
Dạy một tác phẩm VHDG cũng nhƣ dạy học một tác phẩm văn chƣơng, cần phải
chú ý dạy theo đặc trƣng thi pháp thể loại. Tuy nhiên VHDG là một bộ phận văn
học đặc biệt, có những đặc điểm riêng biệt so với văn học viết. Khi dạy, ta không
chỉ chú ý đến những yếu tố ngoài văn bản nhƣ hoàn cảnh ra đời, các yếu tố lịch
sử.v.v… mà cần chú ý nhiều hơn đến môi trƣờng sinh hoạt văn hóa đặc trƣng của
từng vùng miền – nơi đã khai sinh ra tác phẩm đầu tiên và nơi xuất hiện thêm
những dị bản. Những yếu tố đó có những ảnh hƣởng nhất định đến nội dung tƣ
tƣởng của tác phẩm VHDG.
Chúng ta biết rằng văn học dân gian vừa là văn học vừa là văn hóa, VHDG có
nguồn gốc từ trong văn hóa dân gian mà biểu hiện của nó là ở nội dung phản ánh.
VHDG đã phản ánh những vấn đề nằm trong nội dung của văn hóa truyền thống,
thực hiện những chức năng của văn hóa truyền thống.
Những gì SGK đƣa đến cho học sinh chỉ là những văn bản ngôn từ, mà VHDG
thì không phải là những văn bản ngôn từ nhƣ văn học viết mà VHDG chỉ thật sự
sống khi nó nằm trong môi trƣờng riêng của nó – môi trƣờng diễn xƣớng. Chúng ta
đều biết VHDG không phải là văn hóa đọc mà là văn hóa diễn xƣớng. Nó là sự kết
hợp của cả nói, kể, hát, múa.v.v… Vì thế, để hiểu một cách trọn vẹn về một tác
phẩm VHDG, học sinh (HS) cần nắm vững đƣợc thế giới đã tạo nên tác phẩm.
Về vấn đề này, tác giả Hồ Liên đã viết: “Văn hóa dân tộc quốc gia là nguồn sữa
tinh thần nuôi dƣỡng và hình thành nhân cách của mỗi cá thể trong cộng đồng. Vốn
hiểu biết cơ bản và có hệ thống về văn hóa Việt Nam là hết sức cần thiết và bổ ích
trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ, hình thành nhân cách văn hóa, bản lĩnh chính trị
và cả tiềm lực chuyên môn của họ. Văn hóa Việt Nam phải là môn học bắt buộc và
hữu ích không chỉ trong chƣơng trình đại học, cao đẳng, dạy nghề, mà trƣớc hết
trong các cấp học phổ thông.” [22]


2
Vấn đề dạy học văn hóa trong nhà trƣờng phổ thông hiện nay đang đƣợc chú ý

đến. Văn học có trở thành một môn học trong trƣờng phổ thông nhƣ mong muốn
của tác giả Hồ Liên hay không thì trƣớc mắt tích hợp văn hóa trong dạy học VHDG
nói riêng và văn học nói chung là một trong những hƣớng đi để tích lũy, kế thừa và
phát huy văn hóa và văn học dân tộc. Hơn thế nữa, giáo dục văn hóa cho học sinh
góp phần hình thành nhân cách cho những chủ nhân tƣơng lai của đất nƣớc.
1.2. Hiện nay, nhằm nâng cao chất lƣợng dạy và học, nội dung chƣơng trình sách
giáo khoa (SGK )cũng nhƣ phƣơng pháp dạy học càng đƣợc quan tâm nhiều hơn.
Trong cuốn SGK Ngữ văn 10, tập 1(sách cơ bản), Nxb Giáo dục, 2006, phần
VHDG đã có nhiều sự thay đổi so với chƣơng trình SGK chỉnh lý hợp nhất năm
2000. Trích đoạn “Đi bắt nữ thần Mặt trời”(Sử thi Đăm Săn) đƣợc thay bằng trích
đoạn “Chiến thắng Mtao Mxây”(Sử thi Đăm Săn), gộp hai chùm bài cao dao Những
câu hát than thân; Những câu hát nghĩa tình thành chùm Ca dao than thân yêu
thương tình nghĩa và có thêm chùm Ca dao hài hước. Ngoài ra, chƣơng trình còn
đƣa thêm thể loại truyện cƣời vào phần đọc văn và thể loại chèo (chƣơng trình nâng
cao) vào phần đọc thêm. Sự thay đổi này làm phong phú thêm lƣợng tri thức VHDG
cho học sinh. Tuy đã có những hƣớng dẫn cụ thể về việc thực hiện chƣơng trình
mới nhƣng trong quá trình thực hiện, cả giáo viên và học sinh vẫn gặp phải một số
khó khăn, lúng túng.
Trên thực tế dạy học của bản thân và những lần dự giờ đồng nghiệp, ngƣời viết
nhận thấy không phải giờ dạy học tác phẩm VHDG nào cũng giản dị, dễ hiểu nhƣ
đặc trƣng vốn có của những tác phẩm VHDG, và đôi khi không đạt đƣợc hiệu quả
nhƣ mong muốn. Trong những giờ dạy học đó, có những bài học giáo viên (GV)
khai thác nhƣ bài học ở các thể thành văn, giáo viên chỉ phân tích một cách cô lập
trên văn bản ngôn từ mà không đặt tác phẩm vào trong môi trƣờng diễn xƣớng, môi
trƣờng văn hóa dân gian… để khai thác, hoặc là chỉ diễn nôm tác phẩm VHDG.
Một trong những phƣơng pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học là phƣơng pháp
tích hợp. Vấn đề dạy học theo hƣớng tích hợp đã đƣợc chú ý và thực thi không chỉ
riêng bộ môn Văn mà bao gồm tất cả các môn học khác. Đối với môn Văn, hiện nay



3
dạy học theo hƣớng tích hợp chủ yếu là tích hợp các kiến thức của cả ba phân môn
(đọc văn, tiếng Việt, làm văn) trong môn Ngữ Văn hoặc tích hợp kiến thức của các
môn học khác nhƣ: Lịch sử, Địa lý… còn vấn đề tích hợp văn hóa trong dạy học
văn tuy cũng đã đƣợc đề cập đến song chƣa nhiều. Tích hợp văn hóa trong dạy học
VHDG sẽ giúp nâng cao năng lực cảm thụ văn học nói chung và VHDG nói riêng.
Ngoài ra, trƣớc hiện thực hội nhập của cuộc sống hiện đại, văn hóa cũng đang
đƣợc hòa nhập và có nguy cơ hòa tan thì giáo dục văn hóa cho học sinh thông qua
các môn học trong nhà trƣờng cũng là một biện pháp để bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc. Trong khi còn đang băn khoăn không biết có nên đƣa văn hóa trở
thành một môn học trong trƣờng phổ thông hay không thì tích hợp văn hóa trong
dạy học VHDG là một biện pháp giúp học sinh hiểu rõ hơn về văn hóa truyền
thống, từ đó nâng cao ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Chính Tổng bí thƣ Nông Đức Mạnh cũng đã nói: “Văn hóa là một trong những
đặc trƣng của dân tộc; một dân tộc, nếu để mai một truyền thống văn hóa thì khó mà
giữ đƣợc bản sắc văn hóa dân tộc. Văn hóa là những lĩnh vực cốt lõi của sự tồn tại
mỗi dân tộc. Muốn xây dựng kinh tế phải có con ngƣời đƣợc đào tạo, rèn luyện
trong một môi trƣờng văn hóa lành mạnh” [23]
Hơn nữa, bản chất của VHDG vừa là văn học vừa là văn hóa, dạy học VHDG
vừa để học sinh hiểu và cảm đƣợc những đời sống tinh thần của dân tộc Việt qua
những tác phẩm VHDG, vừa biết gìn giữ những giá trị văn hóa lâu đời của ngƣời
Việt để đến muôn đời sau.
Vì vậy, ngƣời viết mạnh dạn chọn đề tài “Tích hợp văn hóa trong dạy học văn
học dân gian ở trường THPT” với mong muốn có một chút đóng góp cho sự nghiệp
giáo dục nói chung và việc dạy học Ngữ Văn nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về vấn đề nghiên cứu phƣơng pháp dạy học VHDG
Về dạy học VHDG trong trƣờng trung học phổ thông (THPT), cho đến nay đã
có nhiều công trình nghiên cứu, chủ yếu tập trung vào việc dạy học theo loại thể.



4
- “Mấy vấn đề về phương pháp giảng dạy - nghiên cứu văn học dân gian”, GS.
Hoàng Tiến Tựu, Nxb GD, 1993. Trong cuốn sách này, GS đã khẳng định sự cần
thiết xây dựng những quy phạm riêng cho việc dạy học VHDG ở trƣờng phổ thông.
Tác giả đề cập đến các phƣơng pháp nghiên cứu VHDG, làm sáng tỏ vấn đề dạy
học VHDG theo đặc trƣng loại thể nhƣ: Dạy truyện dân gian, tục ngữ, ca dao… Ở
mỗi thể loại tác giả đƣa ra cách khai thác theo từng bƣớc, từng khâu; ở mỗi bƣớc,
mỗi khâu từng lớp ý nghĩa tác phẩm đƣợc dần dần khám phá.
- “Những đặc điểm thi pháp của các thể loại VHDG”, GS. Đỗ Bình Trị, Nxb
GD, 1999, đề cập tới mục đích của việc nghiên cứu thi pháp thể loại: “Thể loại
đƣợc gọi là đơn vị cơ sở của văn hóa dân gian và là điểm xuất phát tất yếu của công
việc nghiên cứu văn học dân gian. Và mỗi thể loại văn học dân gian có cách nói
riêng của nó. Thi pháp thể loại chính là cách nói riêng ấy. Có nắm đƣợc thi pháp
thể loại mới có khả năng “giải mã” các tác phẩm thuộc thể loại”. Tác giả cũng chỉ
rõ, trong nhà trƣờng “việc nghiên cứu thi pháp thể loại ngƣời giáo viên không
những có khả năng tự hiểu mình đúng, hiểu sâu hơn các tác phẩm văn học dân gian
trong chƣơng trình, mà còn có khả năng hoàn thiện hệ thống thao tác phân tích tác
phẩm nhằm luyện tập cho học sinh cách đọc – hiểu tác phẩm ngay chính trong quá
trình các em đƣợc hƣớng dẫn tìm hiểu tác phẩm”.
Nhƣ vậy, tác giả một lần nữa nhấn mạnh tới vai trò của thi pháp thể loại, coi đó
là chìa khóa giúp cho ngƣời giáo viên mở cánh cửa VHDG trong nhà trƣờng.
- Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể), Nguyễn Viết Chữ,
Nxb Đại học sƣ phạm, 2004. Đây là một chuyên đề khoa học của ngành khoa học
phƣơng pháp dạy học văn với tính chất đặt vấn đề và bƣớc đầu tìm đến, xác định
những mấu chốt trong cơ chế: thầy, trò, tác phẩm, nhà văn… khi chủ quan, khi
khách quan, khi ẩn, khi hiện.
Trong cuốn sách này, về phần VHDG, tác giả đã phân VHDG thành hai loại
hình tự sự dân gian và trữ tình dân gian. Trong đó, tự sự dân gian gồm thần thoại,
truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cƣời, sử thi; trữ tình dân gian gồm có tục



5
ngữ và ca dao. Ở mỗi thể loại, tác giả nêu đặc trƣng thể loại, sau đó đƣa ra những
phƣơng pháp dạy học cụ thể.
- Phương pháp dạy học văn, tập 1, Phan Trọng Luận (chủ biên)- Trƣơng Dĩnh,
Nxb Đại học sƣ phạm, 2004, tác giả cũng đã nhấn mạnh đến việc dạy học VHDG
theo thể loại. Khi biên soạn phần phụ lục 1 GIẢNG DẠY VĂN HỌC DÂN GIAN
THEO THỂ LOẠI, tác giả đã nêu một số vấn đề về thi pháp văn học dân gian, sau
đó đƣa một số phƣơng pháp cụ thể ở mỗi thể loại văn học dân gian. Trong đó tác
giả có nhấn mạnh việc dạy học VHDG theo quan điểm hệ thống bằng phƣơng pháp
hệ thống. Đây cũng là quan điểm dạy học VHDG theo thi pháp VHDG. Tác giả
cũng đã đƣa ra một mô hình tiếp cận VHDG theo phƣơng pháp hệ thống.
Bên cạnh các công trình chúng tôi đã nêu trên còn rất nhiều công trình quý báu
giúp ngƣời hoàn thành luận văn nhƣ cuốn “Giảng văn văn học dân gian Việt Nam”,
Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc, NXB Giáo dục, 1993; “Văn học Việt Nam – Văn
học dân gian, những công trình nghiên cứu”, của nhiều tác giả, do Bùi Mạnh Nhị
chủ biên, NXB Giáo dục, tái bản 2000… Và những cuốn sách tham khảo đã đƣợc
xuất bản. Sách tham khảo đƣợc chia thành hai loại: loại sách phân tích, bình giảng
các tác phẩm trong chƣơng trình SGK; loại sách gợi ý về phƣơng pháo dạy học nhƣ
cuốn Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10 của TS. Hoàng Hữu Bội, Thiết kế bài học Ngữ
văn 10 do GS Phan Trọng Luận chủ biên…
2.2. Vấn đề tích hợp trong môn Ngữ văn
*) Về vấn đề tích hợp, cũng đã có nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
- “Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ Văn ở THCS” và “Tìm hiểu chương trình
và sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thông”, TS. Đỗ Ngọc Thống, Nxb GD,
2002, 2006, tác giả đã có một hệ thống bài viết về quan điểm tích cực và việc dạy
học Văn theo hƣớng tích hợp, giúp ngƣời đọc hiểu rõ “việc lấy tên chung của cuốn
sách là Ngữ Văn không chỉ đơn thuần là dồn ba phân môn lại thành một cuốn sách
theo kiểu gộp lại mà chúng đƣợc xây dựng theo tinh thần tích hợp”.

Trong bài viết “Dạy học môn Ngữ văn theo nguyên tắc tích hợp”, tác giả chỉ ra
ba biểu hiện của tích hợp là “trong cuốn sách cả ba môn Văn, Tiếng Việt, làm Văn


6
cùng dựa trên một văn bản chung để khai thác, hình thành, rèn luyện các kiến thức
và kĩ năng của mỗi phân môn”. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra ƣu điểm của nguyên tắc
dạy học tích hợp, tích hợp thể hiện trong việc xây dựng cấu trúc SGK, trong quá
trình tổ chức giờ dạy học, thay đổi cách soạn giáo án, cách kiểm tra đánh giá chất
lƣợng học sinh.
- “Tích hợp trong dạy học Ngữ Văn”, GS. Nguyễn Thanh Hùng, Tạp chí Khoa
học giáo dục số 6, tháng 3, năm 2006 đã chỉ ra bản chất của tích hợp và “phƣơng
hƣớng phối hợp (Integrate) một cách tốt nhất của quá trình học tập của nhiều môn
học cũng nhƣ các phân môn Văn, Tiếng Việt, Làm Văn trong một môn Ngữ Văn”.
Trên cơ sở phân tích tƣ tƣởng tích hợp, tác giả chỉ ra ý nghĩa của tích hợp: “Tích
hợp trong nhà trƣờng sẽ giúp học sinh học tập thông minh và vận dụng sáng tạo
kiến thức, kĩ năng và phƣơng pháp của khối lƣợng tri thức toàn diện, hài hòa
(Hamonie) và hợp lý (Algebra) trong tình huống khác nhau và mới mẻ của cuộc
sống hiện đại”.
Cũng bài viết này, tác giả chỉ ra “cái gốc của quan niệm tích hợp trong dạy học
Ngữ văn” là “ Hiểu một cách đơn giản là dạy học ba phân môn hợp nhất, hòa trộn
vào nhau, học cái này thông qua cái kia và ngƣợc lại”. Tác giả nêu rõ: “mục đích
bao quát của nguyên tắc tích hợp trong chƣơng trình và SGK Ngữ văn là điều kiện
giáo dục phù hợp, khả thi, phƣơng pháp dạy và học mới có hiệu quả và cơ sở lý
luận tích hợp một cách khoa học cùng với cách thức và mô hình tích hợp đa dạng để
hình thành và phát triển năng lực đọc hiểu tác phẩm văn chƣơng kết hợp với việc
nâng cao dần kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, trong văn hóa giao tiếp cho học sinh”.
-TS. Nguyễn Trọng Hoàn trong bài Tích hợp và liên hội hướng tới kết nối trong
dạy học Ngữ văn (Tạp chí Giáo dục số 22, năm 2002) xác nhận: “Những tri thức
riêng lẻ, tri thức bộ phận khi dạy học tích hợp sẽ đƣợc tiếp cận một cách có định

hƣớng trong mối quan hệ đồng bộ của một bài học hoàn chỉnh và nhất quán theo
đặc trƣng bộ môn. Nói cách khác, dạy học theo hƣớng tích hợp có thể giúp HS vừa
nắm đƣợc kiến thức cơ bản, vừa hình thành đƣợc các thái độ, năng lực và kỹ năng
thực tiễn mà môn học đặt ra. Đó cũng chính là rèn luyện cho HS tƣ duy tổng hợp”.


7
Cũng theo TS việc dạy học tích hợp “Đƣợc nhìn nhận nhƣ là quá trình GV tổ chức
và hƣớng dẫn ngƣời học tiếp nhận và chuyển hoá kiến thức từ thể tiềm năng sang
khả năng thực hiện”.
Trên đây là một số cuốn sách bàn về tích hợp trong dạy học Ngữ văn mà ngƣời
làm luận văn hệ thống đƣợc. Ngoài ra còn một số sách tham khảo, các bài báo, luận
văn viết về tích hợp, tích cực trong dạy học. Rõ ràng là, đề cập tới vấn đề tích hợp,
chúng ta có thể thấy rằng, ở mỗi công trình nghiên cứu có thể bàn đến một góc độ
khác nhau của vấn đề. Nhƣng nhìn chung, các tác giả đều khẳng định vai trò quan
trọng và tính tất yếu, khách quan của quan điểm dạy học này.
2.3. Vấn đề tích hợp văn hóa trong dạy học VHDG ở trƣờng phổ thông
Vấn đề tích hợp trong dạy học văn nói chung và VHDG nói riêng đã đƣợc quan
tâm chú ý, chủ yếu là tích hợp ba phân môn trong một môn Ngữ Văn, hay tích hợp
giữa môn Ngữ Văn và các môn học khác. Còn việc tích hợp văn hóa trong dạy học
môn Ngữ Văn cho đến hiện nay cũng đã đƣợc đề cập đến.
- “Con đường giúp học sinh miền núi vượt qua khoảng cách lịch sử - văn hóa
trong tiếp nhận văn chương”, Hoàng Hữu Bội, Báo văn nghệ Thái Nguyên, số 4,
tháng 4 năm 1997. Trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra cái khó khăn, lúng túng của
học sinh miền núi khi tiếp nhận tác phẩm văn chƣơng với những yếu tố văn hóa lịch
sử gắn với thời đại. Tác giả khẳng định “chính điều này tạo ra khoảng cách giữa tác
phẩm với bạn đọc. Khoảng cách này càng rộng hơn đối với bạn đọc – học sinh miền
núi”.
Tác giả đã đƣa ra biện pháp để giải quyết tình trạng trên, điều quan trọng là
trang bị vốn kiến thức văn hóa lịch sử, giúp các em làm quen với những phong tục

tập quán khác quê hƣơng mình,với những thời đại ở xa thời đại mình… thông qua
các phƣơng tiện nghe nhìn, truyền thông đại chúng… Điều này tuy “vụn vặt, mất
thời gian” nhƣng lại gây đƣợc ấn tƣợng lớn với học sinh, giúp các em tạo đƣợc tâm
thế để “hiểu tác phẩm… hình dung đƣợc diện mạo tình cảm của thời đại mà tác
phẩm ấy ra đời”.


8
- “Tích hợp văn học với văn hóa trong dạy học tiếp nhận văn chương ở trường
phổ thông”, Hoàng Thị Huyền Hƣơng, LV thạc sĩ, ĐHSP Huế, 2006. Luận văn đã
phân tích, đánh giá thực trạng dạy học Ngữ văn của giáo viên cũng nhƣ học sinh đối
với vấn đề tích hợp văn học với văn hóa trong dạy học tiếp nhận tác phẩm văn
chƣơng, từ đó xây dựng lý luận thực tiễn nhằm đạt hiệu quả trong quá trình dạy học.
- “Vận dụng tiếp cận văn hóa trong dạy học tác phẩm văn chương ở nhà trường
phổ thông”, Bùi Thị Thu Hà, Tạp chí Giáo dục, số 167, 2007. Ở bài viết này, tác giả
đƣa thêm một phƣơng diện tiếp cận tác phẩm văn chƣơng là vận dụng tiếp cận văn
hóa. Mục đích là nâng cao chất lƣợng giờ học, hấp dẫn học sinh và tìm kiếm vẻ đẹp
văn hóa, giá trị văn hóa của tác phẩm, tránh khuynh hƣớng tiếp nhận xã hội học
dung tục. Vận dụng tiếp cận văn hóa trong dạy học tác phẩm văn chƣơng nên đi
theo khuynh hƣớng tiếp cận văn bản, tiếp cận thi pháp, tiếp cận lịch sử phái sinh.
- “Giảng dạy tục ngữ đạo đức lối sống (Ngữ văn 10 nâng cao) thông qua tìm
hiểu tri thức tục ngữ về lối ứng xử trong sự giao thoa văn hóa”, Ngô Thị Thanh
Quý, Tạp chí Giáo dục, số 174, 2007. Tác giả đã giới thiệu mở rộng thêm tri thức về
tục ngữ về lối sống ứng xử trong sự giao thoa văn hóa của dân tộc Việt, Mƣờng,
Tày – Nùng. Tác giả cũng đã chỉ ra nét tƣơng đồng giữa tục ngữ Tày – Nùng,
Mƣờng và Việt là ngắn gọn, cô đọng, cặp đối tƣơng xứng, diễn đạt bằng thủ pháp
nghệ thuật so sánh giàu hình tƣợng, tạo dấu ấn riêng cho mỗi dân tộc. Theo tác giả,
nguyên nhân của sự giao thoa tri thức tục ngữ giữa các dân tộc là do vay mƣợn lẫn
nhau trong quá trình giao lƣu văn hóa và do nguồn gốc chung trong lịch sử hình
thành và phát triển. Chẳng hạn, dân tộc Mƣờng và Việt có chung nguồn gốc.

- “Dạy học truyền thuyết theo hướng tiếp cận văn hóa”, Lỗ Bá Đạt, tạp chí Giáo
dục, số 198, 2008. Ở bài viết này, tác giả đã chỉ ra một số khó khăn khi dạy học
truyền thuyết và đƣa ra hƣớng dạy học truyền thuyết theo hƣớng tiếp cận văn hóa
chủ yếu thông qua các biểu tƣợng văn hóa, gồm hai hoạt động chủ yếu là: Tự học
tài liệu tham khảo và phân tích tác phẩm theo hƣớng tiếp cận văn hóa. Khi phân tích
tác phẩm sẽ tiến hành theo ba bƣớc:
Bƣớc 1: Tìm hiểu giá trị văn hóa dân tộc.


9
Bƣớc 2: Phân tích nhân vật qua hệ thống biểu tƣợng.
Bƣớc 3: Tìm vẻ đẹp văn hóa của dân tộc trong cách ứng xử, thái độ, suy nghĩ,
tình cảm, trí tuệ của nhân dân.
Tác giả khẳng định: “Phƣơng pháp này vừa tôn trọng đặc trƣng của loại thể TT
vừa đáp ứng đƣợc mục đích giáo dục văn hóa, phát triển giá trị nhân văn, hình
thành nhân cách văn hóa cho học sinh; phù hợp yêu cầu đổi mới PPDH, phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh”
Các tài liệu trên đã đặt cơ sở lý luận cho việc dạy học VHDG theo hƣớng tích
hợp với văn hóa. Đề tài này sẽ tiếp tục nghiên cứu, tổng hợp những vấn đề VHDG,
về văn hóa, về hƣớng dạy học tích hợp để làm cơ sở cho việc khảo sát thực tế, tìm
ra những thành công và hạn chế trong dạy học VHDG theo hƣớng tích hợp văn hóa.
Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp phù hợp với lý luận và thực tế, đồng thời
thiết kế một bài học VHDG theo hƣớng tích hợp văn hóa để dạy thực nghiệm và rút
ra những kết luận khoa học cần thiết và hiệu quả sƣ phạm cho những thiết kế đó.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm một phƣơng án dạy học để giúp học sinh không chỉ nhận thấy đƣợc vẻ đẹp
văn hóa, giá trị văn hóa của tác phẩm VHDG, mà còn am hiểu về truyền thống văn
hóa dân tộc hơn. Từ đó làm tăng thêm hứng thú của học sinh đối với môn học.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Cách dạy học VHDG trong SGK Ngữ Văn 10 theo hƣớng tích hợp, cụ thể là tích

hợp văn hóa với VHDG.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tìm hiểu khái niệm VHDG và các đặc trƣng của nó. Tìm hiểu lý thuyết về tích
hợp và cách dạy VHDG theo hƣớng tích hợp.
5.2. Nghiên cứu thực trạng dạy học VHDG trong SGK Ngữ Văn 10.
5.3. Đề xuất một phƣơng án có tính khả thi nhằm nâng cao chất lƣợng dạy học theo
hƣớng tích hợp văn hóa. (Thể hiện qua thiết kế dạy học và tổ chức thực nghiệm sƣ
phạm).



10
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp nghiên cứu tổng hợp lý luận.
- Phƣơng pháp khảo sát.
- Thực nghiệm sƣ phạm.
7. Bố cục luận văn
Chƣơng 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc tích hợp văn hóa trong dạy
học văn học dân gian ở trƣờng THPT
Chƣơng 2. Thực trạng và định hƣớng dạy học văn học dân gian ở trƣờng THPT
theo hƣớng tích hợp văn hóa
Chƣơng 3. Thiết kế thực nghiệm dạy học văn học dân gian ở trƣờng THPT theo
hƣớng tích hợp văn hóa





















11
NỘI DUNG

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÍCH HỢP VĂN
HÓA TRONG DẠY HỌC VĂN HỌC DÂN GIAN

1.1. Một số vấn đề lý luận về VHDG
1.1.1. Bản chất và đặc trƣng của VHDG
a. Bản chất của văn học dân gian vừa là văn học vừa là văn hóa
Đây là một khái niệm có ý nghĩa khá rộng lớn, bởi vì VHDG là văn học chức
năng đồng thời cũng là một nghệ thuật - nghệ thuật thực hành. Văn học chức năng
là một loại của nghệ thuật ngôn từ. Nghệ thuật thực hành là một thành tố hợp thành
chỉnh thể văn hóa dân gian có tính thẩm mĩ.
Bản chất của văn học là nghệ thuật dùng ngôn từ. Văn học có khả năng phản ánh
tất cả mọi phƣơng diện của đời sống, từ nếp sống bình thƣờng, giản dị cho đến cái
vĩ đại lớn lao, cái bình yên hoặc giông tố hay bão táp có tính bản lề của lịch sử. Qua

văn học, con ngƣời thấy đƣợc khả năng cải tạo và hoàn thiện cuộc sống trên nhiều
phƣơng diện, nhiều khía cạnh; từ thiếu tự do cho đến thế giới tự do và hạnh phúc.
Văn học cũng là phƣơng tiện biểu hiện và truyền thụ cái đẹp. Nhƣ vậy, văn học thực
sự đạt đến chủ nghĩa nhân văn cao cả. Văn học khám phá đời sống nhƣng trƣớc hết
là khám phá thế giới bên trong con ngƣời với mọi chiều kích nên nhiệm vụ của văn
học là phải luôn phát hiện ra những bộ mặt mới của nhân vật thời đại… tất cả quan
niệm về bản chất văn học đều cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng quát về sự tự ý
thức của văn hóa qua văn học và tính đại diện cho văn hóa của văn học.
Thuộc tính văn hóa của VHDG thể hiện ở tính nguyên hợp. Nguyên hợp về lao
động xã hội, nguyên hợp về ý thức xã hội và nguyên hợp về cộng đồng xã hội.
Trong xã hội thị tộc bộ lạc, lao động là quá trình sản xuất đa chức năng, sản xuất vật
chất đồng thời sản xuất tinh thần; những câu ca, hò, vè… chính là những hoạt động
tinh thần đƣợc “sản xuất” ra trong quá trình lao động. VHDG còn là cuốn bách khoa


12
toàn thƣ về đạo đức, chính trị, tín ngƣỡng, khoa học, tâm tƣ tình cảm của con ngƣời.
Chẳng hạn nhƣ những câu tục ngữ đã thể hiện kinh nghiệm khoa học, bản chất văn
hóa và những vấn đề thế sự.
Tập hợp tất cả những yếu tố trên lại hiện lên mô hình cấu trúc văn hóa trong
VHDG. Hệ thống chỉnh thể chức năng văn hóa trong VHDG, kèm theo đó là đặc
trƣng văn hóa (tính hệ thống, tính chuẩn mực, tính nhân vi,tính lịch sử) tác động
vào xã hội, điều tiết xã hội; tác động vào mặt giáo dục của xã hội, giúp con ngƣời
ứng xử giao tiếp với nhau trong xã hội.
VHDG là kết quả của vốn sống nhạy cảm đời thƣờng, cảm hứng và phƣơng tiện
của VHDG đều dựa trên mối quan hệ cá nhân - tập thể, mà trong đó là quá trình
sáng tác, thƣởng thức và trình diễn mà văn học viết gọi là hoạt động tiếp nhận.
VHDG dựa vào truyền thống để ứng tác, đằng sau mỗi công thức sáng tác VHDG là
tiềm ẩn những lớp nghĩa văn hóa trong truyền thống. Đối tƣợng và nhiệm vụ ngƣời
nghiên cứu là phải giải mã, từ mã văn hóa dẫn đến mã ngôn ngữ và cuối cùng là mã

thẩm mĩ.
Nếu nhƣ văn học viết là văn hóa đọc, ra đời vì lí do nghệ thuật, là kết quả của hệ
tƣ tƣởng, đƣợc tạo nên từ vốn chữ và vốn hiểu biết hàn lâm thì VHDG lại là văn
hóa diễn xƣớng, ra đời vì lí do xã hội, là kết quả của hệ tâm lí xã hội, đƣợc tạo nên
bằng vốn sống và sự nhạy cảm của ngƣời sáng tác. Vì vậy, khi dạy học VHDG,
không thể đồng nhất văn bản VHDG với văn học viết, nghiên cứu VHDG nhƣ văn
học viết mà phải nghiên cứu trong hệ thống văn hóa, thu hẹp khoảng cách văn hóa;
nghĩa văn bản phải đƣợc chế định bởi môi trƣờng diễn xƣớng (yếu tố văn hóa phi
vật thể), phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngoài văn bản. Nhƣng cũng không thể coi tác
phẩm VHDG là tác phẩm văn hóa, là một tác phẩm về phong tục tập quán mà phải
coi tác phẩm VHDG nhƣ một chỉnh thể các giá trị tinh thần có tính nghệ thuật. Khi
dạy học VHDG theo quan niệm trên thì đó chính là phƣơng pháp trên tinh thần tiếp
cận một tác phẩm folklore (chính là văn hóa dân gian - một chỉnh thể bao gồm ba
loại thành tố: ngữ văn dân gian, nghệ thuật trình diễn dân gian, nghệ thuật tạo hình
dân gian).


13
Nếu nhƣ văn học là một bộ phận của văn hóa, đại diện cho văn hóa và có tác
động tích cực trở lại đối với văn hóa thì VHDG là một bộ phận của văn hóa dân
gian, đồng thời cũng là một bộ phận của văn hóa vì văn hóa dân gian là một bộ
phận không thể thiếu của văn hóa.
b. Đặc trưng cơ bản của VHDG
Về đặc trƣng của VHDG, ngƣời viết cũng tham khảo ở ba cuốn giáo trình đã nói
ở trên.
*) GS Đỗ Bình Trị trong giáo trình “Văn học dân gian Việt Nam”, Nxb Giáo
dục, 1991 quan niệm VHDG có các đặc trƣng cơ bản sau:
Thứ nhất, VHDG là sáng tác của nhân dân. Ở phần này tác giả làm rõ khái niệm
về tác giả của VHDG. Khi nhắc tới khái niệm “văn học dân gian là sáng tác của
nhân dân”, tác giả muốn làm rõ nhân dân là ai, và tác giả cho rằng định nghĩa này

“cần đƣợc tiếp tục làm sáng tỏ ở bản chất bên trong của nó”. Sau đó, GS Đỗ Bình
Trị nói đặc điểm nội dung của VHDG chính là khát vọng tâm lí và lí tƣởng của
nhân dân. Ngoài ra, tác giả còn nhắc tới tính dân tộc và tính quốc tế của VHDG,
nhìn thấy nét “tƣơng đồng nhân loại” trong những tác phẩm VHDG.
Thứ hai, VHDG đƣợc coi là một nghệ thuật tổng hợp, một loại của nghệ thuật
ngôn từ. Vì trong VHDG có sự hòa lẫn các hình thức khác nhau của ý thức xã hội.
Thứ ba, VHDG là một loại nghệ thuật gắn liền với sinh hoạt nhân dân. Ngoài ra,
tác giả nói thêm rằng “còn có những đặc trƣng khác, chủ yếu có liên quan đến mĩ
học đặc thù của nó.”
*) Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam (Lê Chí Quế chủ biên), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2004) đƣa ra hai đặc điểm cơ bản của VHDG là tính nguyên hợp
và tính đa chức năng của VHDG; tính tập thể và tính truyền miệng của VHDG.
- Về tính nguyên hợp và tính đa chức năng của VHDG, tác giả Lê Chí Quế nhận
định: Tính nguyên hợp là “có sự hòa lẫn, trộn lẫn nhau một cách tự nhiên vốn có
của nhiều yếu tố khác nhau ”(PGS.Chu Xuân Diên). Tính nguyên hợp còn thể hiện
ở sự chƣa tách rời các loại hình nghệ thuật trong tổng thể folklore, nghĩa là bộ phận
nghệ thuật ngôn từ gắn bó chặt chẽ với các loại hình nghệ thuật khác nhƣ vũ đạo,


14
âm nhạc, tạo hình… Từ tính nguyên hợp dẫn đến tính đa chức năng của VHDG.
Trong VHDG, chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mĩ và
chức năng sinh hoạt hợp thành một thể thống nhất. Vì vậy mà VHDG trở thành đối
tƣợng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau.
- Về tính tập thể và tính truyền miệng của VHDG, GS cho rằng: Sự sáng tác tập
thể không đối lập với vai trò cá nhân mà tác phẩm VHDG là kết quả của một quá
trình sáng tạo tập thể trong đó mỗi ngƣời tham gia vào quá trình là một cá nhân
sáng tạo. Mối quan hệ biện chứng giữa vai trò cá nhân với tập thể đã tạo nên tính
tập thể của VHDG. Chính tính tập thể đã chi phối tính truyền miệng. Tính truyền
miệng của VHDG đƣợc thể hiện khác nhau qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.

Trong quá trình truyền miệng, có hai yếu tố thƣờng đƣợc sử dụng là truyền thống và
ứng tác. Từ đó nảy sinh một khái niệm mang tính chất nhƣ một thuật ngữ là tính dị
bản hay biến thể.
*) Chu Xuân Diên trong giáo trình “Văn học dân gian Việt Nam”, (Đinh Gia
Khánh chủ biên) Nxb Giáo dục, tái bản lần thứ 12 - 2009 sau khi nghiên cứu, phân
tích về đặc trƣng của VHDG đã “đƣa ra một công thức chung về những đặc trƣng
thuộc loại hình nghệ thuật của VHDG nhƣ sau:”
1. Tính thống nhất hữu cơ của các thành phần ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau:
lời, nhạc, múa và động tác kịch, trong đó thành phần lời là quan trọng và ngày càng
chiếm vai trò chủ yếu.
2. Tính tập thể của quá trình sáng tác biểu hiện thành tính thống nhất biện chứng
giữa các nguyên tắc sáng tác cá nhân và sáng tác tập thể, truyền thống và ứng tác.
3. Sự tồn tại và hình thức sinh hoạt của nó gắn liền và làm thành một nhân tố,
một bộ phận hữu cơ trong sinh hoạt lao động, sinh hoạt gia đình, sinh hoạt xã hội
quần chúng nhân dân.
Tác giả nói thêm rằng: Cần chú ý rằng tất cả các đặc trƣng trên đây phải đƣợc
hình dung trong sự thống nhất hữu cơ của chúng, với ý nghĩa là đặc trƣng này là
điều kiện đồng thời cũng là kết quả của đặc trƣng kia. Mặt khác những đặc trƣng
trên đây chỉ có ý nghĩa là đặc trƣng của văn học dân gian khi loại hình nghệ thuật


15
này nằm trong tay nhân dân, đƣợc nhân dân sử dụng làm phƣơng tiện thể hiện thực
tiễn nghệ thuật của mình.
1.1.2. Hƣớng khai thác VHDG trong chƣơng trình THPT
Về phƣơng pháp dạy học VHDG, đã có nhiều nhà khoa học dày công nghiên
cứu, đƣa ra nhiều phƣơng án nhằm nâng cao chất lƣợng dạy và học.
Tác giả Hoàng Tiến Tựu trong cuốn Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy -
nghiên cứu Văn học dân gian (Nxb Giáo dục,1997), bên cạnh việc đề cập đến tình
hình nghiên cứu và giảng dạy VHDG, tác giả còn đƣa ra phƣơng pháp giảng dạy cụ

thể ở thể loại ca dao, truyên dân gian và tục ngữ.
- Về dạy học ca dao, theo ông đó là quá trình lĩnh hội và phân tích… những
khâu, những bƣớc chủ yếu và quan trọng có thể đƣợc tóm tắt dƣới dạng các câu hỏi
(gồm 9 câu hỏi). Còn về dạy học truyện dân gian và dạy học tục ngữ đƣợc tác giả
trình bày theo khâu và bƣớc. Mỗi thể loại gồm 7 bƣớc thực hiện, chủ yếu là xác
định thể loại, so sánh với các thể loại khác và phân tích chủ đề, nhân vật.
Tuy nhiên, tác giả cũng lƣu ý thêm rằng cách sắp xếp có thể linh hoạt thay đổi
trình tự các khâu và các bƣớc; và đây cũng chỉ là quá trình của giáo viên, còn khi
trình bày trƣớc học sinh thì đó lại là một công việc khác.
Còn trong cuốn Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể), Nxb
Đại học Sƣ phạm, 2004, tác giả Nguyễn Viết Chữ nêu phƣơng pháp giảng dạy
VHDG cụ thể ở hai phần: tác phẩm tự sự và tác phẩm trữ tình. Ở mỗi thể loại tác
giả đều nêu đôi nét về đặc điểm thi pháp của thể loại đó, sau đó mới đƣa ra những
phƣơng pháp dạy học theo đặc trƣng loại thể.
Thứ nhất, về công việc dạy học các tác phẩm tự sự dân gian gồm thần thoại,
truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cƣời, sử thi. Tác giả chú ý đến
việc nghiên cứu tình hình tƣ liệu của các thể loại, sau đó là phân tích nội dung ở
khía cạnh đề tài, nhân vật và bài học có đƣợc.
Thứ hai, về công việc dạy học loại trữ tình dân gian. Tác giả đƣa ra phƣơng
pháp dạy học tục ngữ, ca dao và vè. Chủ yếu là sƣu tầm thêm các câu ca dao, tục


16
ngữ, vè; gây tình huống trong giờ dạy học, đặt tác phẩm đang học trong hệ thống
của nó; tăng cƣờng các hoạt động liên môn.
Trong cuốn Phương pháp dạy học Văn (tập một), Nxb Đại học sƣ phạm, 2004,
Phan Trọng Luận (chủ biên), tác giả sau khi nêu đặc điểm thi pháp thể loại, đã nêu
phƣơng pháp dạy học cụ thể một số thể loại VHDG ở trung học phổ thông nhƣ sau:
Tác giả rất chú ý đến bầu không khí của các thể loại: truyện cổ tích là “thế giới cổ
tích”, ca dao là không khí làng quê xƣa với môi trƣờng văn hóa dân gian; rồi sau đó,

định hƣớng cho học sinh thâm nhập bầu không khí ấy và tìm ra vẻ đẹp của thế giới
đó, nhận ra giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật và các giá trị khác (nếu có). Qúa trình
dạy học này đƣợc tác giả đƣa ra những bƣớc cụ thể.
Tác giả cũng lƣu ý ngƣời thực hiện rằng các bƣớc, các mục nói trên cần đƣợc
vận dụng linh hoạt tùy theo từng bài ca dao cụ thể.
Còn PGS.TS Nguyễn Huy Quát trong chuyên đề “Một số vấn đề đổi mới nội
dung, phương pháp giảng dạy Văn học dân gian ở trường trung học phổ thông”(Tài
liệu bồi dƣỡng thƣờng xuyên cho giáo viên THPT chu kì III 2004 - 2007) đã đƣa ra
phƣơng pháp dạy học cụ thể cho 8 thể loại VHDG đƣợc đƣa vào dạy học trong
SGK: sử thi, thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cƣời, ca dao - dân ca,
tục ngữ, truyện thơ. Ở mỗi thể loại, tác giả cũng nêu những đặc trƣng thi pháp của
từng thể loại, sau đó định hƣớng nội dung khai thác của mỗi thể loại đó.
Trên đây là một số định hƣớng dạy học VHDG trong trƣờng phổ thông của một
số nhà khoa học. Chúng ta thấy rằng, các tác giả chú ý nhiều đến phƣơng pháp dạy
học theo đặc trƣng thể loại, và các hoạt đông dạy học tích cực nhằm khơi gợi tính
chủ động, sáng tạo ở học sinh. Các tác giả cũng đã ít nhiều chú ý đến không khí văn
hóa trong các tác phẩm VHDG. Tuy nhiên, tất cả những phƣơng pháp đã đƣa ra
không thể vận dụng một cách máy móc, mà cần có sự vận dụng một cách linh hoạt
của giáo viên trong mỗi bài học cụ thể, ở mỗi vùng miền cụ thể và đối tƣợng học
sinh cụ thể.



17
1.1.3. Văn học dân gian trong chƣơng trình SGK Ngữ văn 10 tập 1 (Nxb Giáo
dục - 2006 - Phan Trọng Luận (chủ biên))
SGK là cuốn sách hƣớng tới đối tƣợng học sinh THPT, một đối tƣợng mà trình
độ lĩnh hội không còn non nớt nhƣng tƣ duy tiếp nhận cũng chƣa thể nhƣ những
sinh viên nghiên cứu theo chuyên nghành. Vì vậy, kiến thức cung cấp cho học sinh
THPT là những kiến thức dễ hiểu và đặc trƣng nhất. Các nhà viết sách đã chú ý tới

điều đó, nên tri thức VHDG đƣa vào trong SGK Ngữ văn 10 là những tri thức dễ
hiểu, ngắn gọn và mang tính đặc thù của VHDG.
a. Khái niệm.
“Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, sản
phẩm của quá trình sáng tác tập thể nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho các sinh
hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.” [1]
b. Đặc trưng.
Ngƣời viết SGK nêu ra hai đặc trƣng của VHDG là: tính truyền miệng(VHDG là
những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng), tính tập thể(VHDG là sản phẩm
của quá trình sáng tác tập thể).
c. Phân loại.
- SGK Ngữ văn 10 tập một (Nxb Giáo dục – 2006 - Phan Trọng Luận (chủ biên)
chia VHDG thành mƣời hai thể loại: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích,
truyện ngụ ngôn, truyện cƣời, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, truyện thơ, chèo.
d. Những thể loại được đưa vào chương trình.
Ngoài sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích; truyện cƣời đƣợc đƣa thêm vào
chƣơng trình SGK mới. Về ca dao, ngoài ca dao than thân, yêu thƣơng tình nghĩa
còn đƣa thêm ca dao hài hƣớc. Truyện thơ là phần tác phẩm dân gian của các dân
tộc thiểu số đƣợc đƣa vào phần Đọc thêm để tạo nên sự toàn diện, cân đối giữa văn
học ngƣời Việt và văn học dân tộc các anh em. Nội dung chƣơng trình SGK đã
đƣợc xây dựng trên cơ sở kề thừa và đổi mới để nội dung kiến thức VHDG phong
phú nhƣng không quá nặng nề đối với học sinh. Sự thay đổi văn bản VHDG và nội
dung bài học nhằm thấy đƣợc khá đầy đủ diện mạo VHDG và thấy đƣợc những giá


18
trị cơ bản của VHDG về nội dung phản ánh và tác dụng của VHDG trên hai bình
diện: yêu nƣớc và nhân đạo. Đồng thời thấy đƣợc VHDG là kho tàng lƣu giữ đời
sống tâm hồn dân tộc hết sức phong phú, là kho tri thức đủ mọi lĩnh vực đời sống và
là loại hình nghệ thuật đa dạng mang đậm nét dân gian.

e. Hướng khai thác của SGK và sách giáo viên (SGV).
Ở SGK, cấu trúc của mỗi bài học là: kết quả cần đạt, tiểu dẫn, văn bản, hƣớng
dẫn học bài, ghi nhớ và cuối cùng là phần luyện tập. Phần kết quả cần đạt nêu lên
những yêu cầu chủ yếu nhất của bài học về nội dung kiến thức, rèn luyện kĩ năng và
bồi dƣỡng tƣ tƣởng tình cảm để học sinh dễ dàng định hƣớng đi khi chuẩn bị bài ở
nhà. Phần hướng dẫn học bài giữ vị trí trung tâm, bao gồm những câu hỏi mang
tính chất hƣớng dẫn học sinh cách đọc, hiểu văn bản, phân tích những vấn đề về nội
dung, nghệ thuật của văn bản, từ đó có năng lực sáng tạo, biết vận dụng những tri
thức đã học vào cuộc sống. Hệ thống câu hỏi này giúp học sinh tự phát hiện, phát
huy những suy nghĩ cá nhân, giải thích cơ sở khao học của sự lựa chọn ở những
câu hỏi trắc nghiệm.
SGV là cuốn sách đƣợc coi là kim chỉ nam của mỗi giáo viên đứng lớp. Ngoài
phần hƣớng dẫn dạy học cụ thể ở mỗi bài, SGV cũng đã định hƣớng khái quát về
phƣơng pháp dạy học cho mỗi phần. Ở phần văn học, SGV định hƣớng cho giáo
viên những công việc cần có trong một giờ dạy học văn. Hƣớng đọc hiểu, phân tích
văn bản, định hƣớng dạy học đã đƣợc xác định ở phần Kết quả cần đạt, giáo viên
cần đọc kĩ để xác định đúng. Ở phần Tiểu dẫn không chỉ cho học sinh đọc mà cần
cho học sinh nắm đƣợc tri thức ở phần đó. Học sinh đọc văn bản theo hệ thống câu
hỏi từ dễ đến khó, từ cụ thể đến khái quát tổng hợp. Cần lƣu ý là giáo viên không
nên áp đặt kết luận trƣớc. Không nên cho học sinh đọc phần ghi nhớ một cách máy
móc thụ động mà để học sinh ghi nhớ trên cở sở hiểu bài, nắm đƣợc trọng tâm của
bài. Phần Luyện tập cần đƣợc vận dụng linh hoạt theo từng bài, có thể củng cố, mở
rộng hay nân cao kiến thức cho học sinh… Phần Kiểm tra đánh giá cũng là một
khâu vô cùng quan trọng, giáo viên cần khắc phục lối đánh giá phiến diện, cần chú
ý đến sức sáng tạo, màu sắc cá nhân trong mỗi bài viết của học sinh.


19
SGV cũng nhấn mạnh đến vấn đề tích hợp khi dạy học Ngữ văn, không chỉ tích
hợp ba phân môn mà cần tích hợp thêm các tri thức khác.

1.2. Văn hóa và văn hóa trong văn học dân gian
1.2.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một danh từ đƣợc ngƣời Nhật mƣợn trong kho từ vựng của Trung
Hoa để dịch chuyển một thuật ngữ của ngƣời Châu Âu là danh từ “culture” trong
tiếng Anh và tiếng Pháp, “kultura” trong tiếng Nga, “kultur” trong tiếng Đức. Gốc
của những từ này bắt nguồn từ tiếng Latinh: “cultus” có nghĩa là “trồng trọt”. Sau
này nó mang trong mình hai nét nghĩa, nghĩa đen “cultus agri” – trồng trọt, nghĩa
bóng “cultus animi” – trồng trọt tinh thần. Nhƣ vậy, nghĩa gốc văn hóa (culture) gắn
liền với việc đào tạo, giáo dục con ngƣời hay một tập thể ngƣời để cho họ có đƣợc
phẩm chất tốt đẹp, có ích cho toàn thể cộng đồng. Vậy là văn hóa không phải là cái
vốn có tự nhiên mà là quá trình giáo dục, tiếp nhận của con ngƣời.
Từ văn hóa hiện nay đang dùng là một từ Hán Việt. Trong thƣ tịch cổ Trung
Hoa, từ này xuất hiện khá sớm. Trong Dịch truyện của Khổng Tử thì đây là một từ
ghép, bao hàm hai từ tố Văn và Hóa. Văn theo nghĩa cổ có nghĩa là sắc đẹp do màu
sắc tạo ra, nhƣ màu sắc cầu vồng. Về sau, từ này đƣợc dùng để chỉ vẻ đẹp con
ngƣời ở mặt hình thể, tính chất, nhƣ văn thể, văn đức. Cuối cùng, từ Văn đƣợc dùng
để chỉ toàn bộ vẻ đẹp trong tự nhiên, trong con ngƣời, nhƣ nhân văn, địa văn. Còn
từ Hóa, nghĩa cổ có nghĩa là biến đổi, sau có nghĩa là giáo hóa, tức là làm thay đổi
con ngƣời từ xấu thành tốt, theo tiêu chuẩn nhân văn.
Nhƣ vậy, văn hóa - culture có nét nghĩa tƣơng đồng, đó là sự giáo dục, bồi
dƣỡng tâm hồn con ngƣời. Trong đời sống hiện tại, văn hóa là một khái niệm đƣợc
dùng khá phổ biến và đa nghĩa. Theo nghĩa thông dụng, văn hóa dùng để chỉ học
thức (trình độ văn hóa) hay lối sống (nếp sống văn hóa). Theo nghĩa chuyên nghiệp,
văn hóa chỉ trình độ phát triển của một cộng đồng ngƣời trong một giai đoạn lịch
sử. Ví dụ nhƣ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn.
Văn hóa là một khái niệm đa nghĩa nhƣ vậy, cho nên những định nghĩa về nó
cũng thật vô cùng phong phú. Đến nay, thống kê đƣợc khoảng 400 định nghĩa khác

×