ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm qua, Việt Nam đã sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng
đặc trưng của miền nhiệt đới nóng ẩm. Một trong những mặt hàng đặc trưng đấy
phải kể đến các sản phẩm của cây Hồi. Đây là loài cây đặc sản thuộc nhóm cây
lâm sản ngoài gỗ. Sảm phẩm Hoa Hồi Lạng Sơn được Cục sở hữu trí tuệ và bầu
trọn là TOP 10 sản phẩm thiên nhiên tốt nhất
[17]
. Nhiều nghiên cứu trên quan
điểm phát triển nông - lâm - môi trường - bảo tồn và đa dạng sinh học cho thấy
phát triển Hồi cùng một lúc đạt được nhiều mục tiêu: Kinh tế - Xã hội - Môi
trường. Chính vì điều đó trong những năm qua các dự án về phát triển kinh tế
nông hộ, dự án phủ xanh đất trống đồi núi trọc, dự án trồng rừng Việt Đức, dự
án 06 của chính phủ tiến hành trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã chọn cây Hồi như
một giải pháp đầu tư thực hiện. Phát triển Hồi là định hướng chiến lược trước
mắt cũng như lâu dài của tỉnh Lạng Sơn. Cây Hồi Lạng Sơn ngoài ý nghĩa lớn
về kinh tế nó còn mang một sắc thái nhân văn tốt đẹp, đó là tính kế thừa truyền
thống từ đời này qua đời khác một cách có ý thức.
Hồi có phân bố chủ yếu ở vùng núi phía Nam Trung Quốc kéo dài xuống
vùng núi phía Bắc của Việt Nam. Tại Việt Nam, cây Hồi có phân bố nhiều ở các
tỉnh biên giới Việt - Trung như Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Quảng Ninh.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía Bắc, có tổng diện tích tự nhiên là
832.378,38 ha. Trong đó đất có rừng 372.500,8 ha, diện tích rừng Hồi 33.503
ha ,chiếm 70% so với diện tích rừng Hồi cả nước. Hồi phân bố hầu hết ở các
huyện, thành phố của Lạng Sơn, nhưng tập trung nhiều ở các huyện: Văn Quan,
Bình Gia. Diện tích trồng Hồi của 2 huyện này chiếm tới 55,9% diện tích trồng
Hồi toàn tỉnh (do ở những địa phương này đất được phát triển trên đá mẹ Riolit
& phiến thạch màu nâu đỏ hoặc đỏ vàng, tầng đất sâu, tỷ lệ mùn cao)
[1]
. Với diện
tích rừng Hồi nói trên, trong vài năm tới đây cây Hồi đến thời điểm cho thu
hoạch thì đây là tiềm năng rất lớn đem lại hiệu quả kinh tế cao cho bà con các
dân tộc tỉnh Lạng Sơn.
Văn Lãng là một huyện nổi tiếng từ lâu về trồng Hồi, song do nhiều yếu
tố chi phối nên việc phát triển và mở rộng quy mô Hồi của huyện gặp không ít
1
khó khăn. Những năm 1995 trở lại đây có nhiều thay đổi trên bình diện chung
của cả nước và của Lạng Sơn nói riêng: Về kinh tế, chính trị, về giao lưu thị
trường, cây Hồi đang có cơ hội để phát triển.
Trong những năm gần đây, do nhu cầu sử dụng tinh dầu Hồi trên thế giới
ngày càng tăng, giá cả thị trường tương đối ổn định, cây Hồi được trả đúng vị trí
của nó. Hơn nữa, Hồi còn là cây đa mục đích, vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao
cho người dân vừa có tác dụng che phủ bảo vệ đất cũng như bảo vệ môi trường
sinh thái lâu dài và bền vững. Trong chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng giai
đoạn 2001 – 2010 của chính phủ
[5]
, Hồi là một trong những cây trồng chính của
tỉnh Lạng Sơn. Đồng thời cũng là cây góp phần xoá đói giảm nghèo chủ yếu cho
đồng bao các Dân tộc vùng sâu vùng xa của tỉnh. Chuyên đề nghiên cứu sinh
viên “Thực trạng gây trồng và tiêu thụ các sản phẩm từ cây Hồi trên địa bàn
huyện Văn Lãng – tỉnh Lạng Sơn” rất cần thiết, thông qua đánh giá thực trạng
gây trồng và tiêu thụ để tổng hợp được những tồn tại, khó khăn làm cơ sở đề
xuất giải pháp phát triển vùng Hồi của địa phương.
2
Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CÂY HỒI
Trong hệ thực vật Việt Nam, chi Hồi (Illicium) có nguồn gen rất phong
phú, rất đa dạng, hiện đó thống kê được khoảng 16 loài
[3]
. Tất cả các loài trong
chi Hồi (Illicium) ở nước ta đều chứa tinh dầu với các thành phần hoá học khác
nhau. Ở một số loài tinh dầu lại chứa chủ yếu là safrol, linalool và methyl
eugenol… Các loài trong chi Hồi ở Việt Nam là nguồn gen quý cần được nghiên
cứu để khai thác, bảo tồn, phát triển và sử dụng bền vững. Ngoài ra, tinh dầu
Hồi còn được dùng làm hương liệu để chế biến các đồ mỹ phẩm cao cấp. Sau
khi ép lấy tinh dầu, bã còn lại dùng làm thuốc trừ sâu, làm men, than hoạt tính,
phân bón, thức ăn gia súc Trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài
người có liên quan mật thiết đến các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cùng với tốc
độ phát triển của kinh tế thì nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm của cây Hồi ngày
càng tăng. Vì vậy việc nghiên cứu để hiện trạng gây trồng và thị trường tiêu thụ
các sản phẩm của cây Hồi cần được coi trọng.
Cây Hồi là nguyên liệu quý trong công nghiệp dược phẩm và thực phẩm.
Không chỉ ở châu Á (đặc biệt là các nước khu vực Đông Nam Á), mà tại nhiều
nước châu Âu (Pháp, Đức, Ý…) và châu Mỹ (Hoa Kỳ, Cu Ba…) quả và tinh
dầu Hồi được coi là gia vị ưa thích trong chế biến thực phẩm. Trong danh mục
các thương phẩm an toàn được phép sử dụng trong sản xuất thuốc và chế biến
thực phẩm của Hoa Kỳ, quả hồi mang ký hiệu “GRAS 2095” và tinh dầu Hồi
mang ký hiệu “GRAS 2096”. Hồi lại là nguồn nguyên liệu có thể tách chiết acid
shikimic, nguồn nguyên liệu để tổng hợp chất Osaltamivir - hoạt chất của thuốc
tamiflu - hiện được coi là thuốc kháng virus có hiệu quả trong việc phối hợp
điều trị cúm gia cầm H5N1 trên người nếu được sử dụng ở giai đoạn sớm. Theo
thống kê (chưa đầy đủ) thì diện tích rừng Hồi ở Lạng Sơn, Quảng Ninh tới năm
2005 đạt trên 30.000 ha, với sản lượng quả là 3.426 tấn. Dự kiến đến năm 2010
chúng ta sẽ có thêm 20.000 ha hồi. Riêng tinh dầu, hàng năm cũng đó chưng cất
được từ 150 – 250 tấn. Quả Hồi và tinh dầu Hồi là mặt hàng xuất khẩu có giá trị
trên thị trường thế giới. Trong những năm (1994 - 1997), giá mua bán tinh dầu
Hồi trong khoảng 9.500 – 10.900 USD/tấn và quả Hồi khô trong khoảng 1.400-
1.600 USD/tấn. Cây Hồi trồng sau 7 – 8 năm bắt đầu bói quả và sai quả ở độ
tuổi 20-60 năm. Với rừng Hồi có năng suất cao nhất có thể đạt 30-40 kg quả
3
khô/cây/năm; trung bình 10-15 kg quả khô/cây/năm. Năm 2008 thì sản lượng
khai thác Hoa Hồi bình quân tính từ năm 2000 – 2008 đạt 5.161 tấn bằng 52-
65% mục tiêu đặt ra (8.000 - 10.000 tấn/năm)
[25]
.
1.1. Trên thế giới
Cây Hồi (Illicium verum Hook) là cây đặc hữu chỉ phân bố ở một số nước
như Ấn Độ, Nhật Bản, phía nam Trung Quốc và Việt Nam. Trên thị trường thế
giới, Hồi là tên thương mại chung cho các loại sản phẩm của hai loài thực vật
khác nhau, Đại Hồi (Illicium verum) và Tiểu hồi (Anisum Pimpinella). Hầu hết
lượng tinh dầu Hồi giao dịch trên thường thế giới có nguồn gốc từ cây Đại Hồi
(thường gọi là cây hồi - Illicium verum), được trồng chủ yếu ở vùng Viễn Đông,
tập trung ở Trung Quốc hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây Trung Quốc
[20]
và ở
Việt Nam cung cấp trên 80% tổng sản lượng hồi toàn cầu. Ngoài hai nước sản
xuất chính là Trung Quốc và Việt Nam, gần đây Nhật Bản, Indonesia cũng trồng
và sản xuất một số sản phẩm thương mại từ cây Hồi (quả Hồi phơi khô và tinh
dầu Hồi). Theo đánh giá chung, sản lượng và chất lượng tinh dầu Hồi của các
nước này không cao. Những năm gần đây, một số nước như Ấn Độ, Lào,
Philipin, cũng trồng thử nghiệm cây Hồi nhưng sản lượng không đáng kể. Do
vậy, tới nay Trung Quốc và Việt Nam vẫn là hai quốc gia sản xuất Hồi chủ yếu
trên thế giới. Tuy nhiên, công nghiệp chưng cất tinh dầu Hồi lại tập trung chủ
yếu ở các nước nhập khẩu như Hoa Kỳ, Pháp, Nga, Tây Ban Nha và Ba Lan
[26]
Tinh dầu từ cây Tiểu Hồi (Pimpinella anisum), có vị ngọt và mùi dễ chịu
hơn, nhưng sản lượng khá hạn chế so với Đại Hồi. Tiểu Hồi có nguồn gốc ở
vùng đông Địa Trung Hải và Tây Nam Á và hiện được trồng ở nhiều nước như
Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Nga, Tây Ban Nha, Italia, Ấn Độ, Hy Lạp, Bắc Phi,
Argentina, Malta, Romania và Syria
[25]
Trong những năm gần đây, Đại Hồi
được các nước phương Tây sử dụng như chất thay thế cho Tiểu Hồi trong công
nghiệp thực phẩm cũng như dược phẩm do giá rẻ hơn và nguồn cung lớn hơn.
Hồi là một thành phần để chế rượu anis, hương liệu, làm thuốc chữa bệnh và là
một thành phần đặc trưng không thể thiếu được trong ẩm thực của nhiều nước.
Sản phẩm chủ yếu từ cây Hồi hiện được buôn bán trên thị trường thế giới gồm
hai loại chính:
4
- Quả Hồi sấy (hoặc phơi) khô, thường được gọi là “Hoa Hồi” là sản
phẩm tiêu thụ chủ yếu trên thị trường. Hồi khô có hương vị đặc biệt, là hương
liệu thiên nhiên được sử dụng rộng rãi trong chế biến thực phẩm, dược phẩm,
mỹ phẩm, thức ăn gia súc Quả Hồi khô được dùng rộng rãi trong đời sống hàng
ngày của người dân nhiều nước, kể cả các nước không trồng được Hồi như các
nước Châu Âu và Trung Đông
[22]
.
- Tinh dầu Hồi là sản phẩm chủ yếu thu từ quả Hồi và thân lá hồi với
thành phần chủ yếu là Anethole (ước tính chiếm khoảng 80% - 90%), là hương
liệu quan trọng trong sản xuất rượu thơm, trong công nghiệp thực phẩm dược
phẩm. Trong công nghiệp hoa chất, dầu Hồi và các chất tinh cất như Oleom
Anisi Stellati, Anethole và Anisi aldehyde, Anisonitrile được dùng làm làm
hương liệu cao cấp, là thành phần quan trọng để sản xuất nước hoa và các hóa
mỹ phẩm khác. Trong những năm gần đây, dầu Hồi được quan tâm hơn như là
nguyên liệu chính để sản xuất Tamiflu chữa bệnh cúm, hiện được là loại thuốc
chữa dịch cúm hiệu nghiệm nhất trên thế giới.
Nhu cầu của thế giới đối với nguyên liệu Hồi và sản phẩm Hồi vẫn đang có xu
hướng tăng, đặc biệt là với các sản phẩm hữu cơ. Châu Âu, Bắc Mỹ, Hoa Kỳ,
Nhật Bản và thị trường các quốc gia Hồi giáo là những nước sử dụng các sản
phẩm Hồi lớn nhất thế giới
[[23]
.
Xuất khẩu hồi thế giới : Theo Trung tâm thương mại quốc tế ,năm 2009
đạt 20.238 tấn, trị giá 52,123 triệu USD, giảm bình quân 9% về lượng nhưng lại
tăng 10% về giá trị trong giai đoạn 2005 - 2009. Bên cạnh các nước trồng Hồi
như Trung Quốc, Việt Nam, Syri hay Ấn Độ, các nước nhập khẩu Hồi như Tây
Ban Nha, Đức và Hà Lan cũng chiếm vị trí quan trọng trong xuất khẩu Hồi thế
giới.
Syri hiện là nước xuất khẩu Hồi lớn nhất thế giới, chiếm 22,6 % tổng
KNXK toàn cầu với lượng xuất khẩu 3.139 tấn trong năm 2009, trị giá 11,776
triệu USD, giảm bình quân 11% về lượng nhưng tăng tới 13% về giá trị trong
giai đoạn 2005-2009. Syri chủ yếu xuất khẩu Hồi sang Hoa kỳ (chiếm 28%
trong tổng KNXK Hồi của nước này năm 2009), Brazil (17%), Pháp (6,6%), Hà
Lan (5,7%) và CH Dominica (5,5%)
Thổ Nhĩ Kỳ đứng thứ hai về xuất khẩu Hồi thế giới , chiếm 16,5% tổng
KNXK toàn cầu với lượng xuất khẩu 2.053 tấn trong năm 2009, trị giá 8,616
triệu USD, giảm bình quân 2% về lượng nhưng tăng tới 21% về giá trị trong giai
5
đoạn 2005-2009. Thổ Nhĩ Kỳ chủ yếu xuất khẩu Hồi sang Hoa Kỳ (thị trường
chiếm 28,7% tổng KNXK của Thổ Nhĩ Kỳ năm 2009), Brazil (18,6%), Đức
(10,7%), Pêru (8,1%) và Italia (5,3%)
Trung Quốc đứng thứ ba trên thế giới về xuất khẩu Hồi, chiếm 16,2%
tổng KNXK toàn cầu với lượng xuất khẩu 3.806 tấn trong năm 2009, trị giá
8,462 triệu USD, giảm bình quân 6% về lượng nhưng tăng 5% về giá trị trong
giai đoạn 2005-2009. Các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Trung Quốc là Ấn
Độ (chiếm 34,5% tổng KNXK), Hồng Công (10,2%), Malaysia (8,9%),
Indonesia (6,7%) và Đài Loan (5,5%)
Việt Nam là nước đứng thứ tư trên thế giới về xuất khẩu Hồi, chiếm
12,1% tổng KNXK toàn cầu với lượng xuất khẩu 3.703 tấn trong năm 2009, trị
giá 6,309 triệu USD, giảm bình quân 19% về lượng và giảm 12% về giá trị trong
giai đoạn 2005-2009. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu Hồi sang các nước trong khu
vực như Ấn Độ (52,6%, Malaysia (6,2%,) Thái Lan (5,7%), Singapore (4,3%),
xuất khẩu sang các nước phương tây còn khá hạn chế Một phần hoa Hồi Việt
Nam xuất thô và tái xuất khẩu sang các nước khác.
Đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu Hồi là Tây Ban Nha, chiếm 6,0% tổng
KNXK toàn cầu với lượng xuất khẩu 745 tấn trong năm 2009, trị giá 3,109 triệu
USD, tăng bình quân 26% về lượng và tăng tới 36% về giá trị trong giai đoạn
2005-2009. Tây Ban Nha chủ yếu xuất khẩu Hồi sang các nước Hà Lan (18,4%),
Đức (17,5%), Paragoay (15,8%), Italia (9,5%) và Hoa Kỳ (7,5%)
[26]
Nhập khẩu hồi thế giới : theo nguồn Trung tâm thương mại quốc tế
năm 2010: Hoa Kỳ, Ấn Độ, một số các nước thành viên EU, Braxin và Paragoay
là những nước nhập khẩu Hồi lớn nhất thế giới . Các nước này chủ yếu nhập
khẩu Hồi để phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa, Ấn Độ và một số nước châu Âu
như Đức, Hà Lan, Pháp dùng một tỷ lệ lớn Hồi nhập khẩu để chế biến và tái
xuất khẩu sang các nước khác, điều có thể thấy qua cán cân thương mại mặt
hàng này.
Hoa kỳ là nước nhập khẩu Hồi lớn nhất thế giới, chiếm 17,1% tổng kim
ngạch nhập khẩu (KNNK) Hồi toàn cầu với lượng nhập khẩu năm 2009 đạt
2.157 tấn, trị giá 8,236 triệu USD. Hoa Kỳ nhập khẩu Hồi chủ yếu từ Syri (nước
cung cấp 40% tổng KNNK hồi Hoa Kỳ), Thổ Nhĩ Kỳ (37,9%), Trung Quốc
(7,3%), Ai Cập (2,8%) và Tây Ban Nha (2,5%)…
6
Đứng thứ hai thế giới về KNNK Hồi là Ấn Độ, chiếm 9,7% tổng KNNK
Hồi toàn cầu với lượng nhập khẩu năm 2009 đạt 3.101 tấn, trị giá 4,690 triệu
USD. Ấn Độ nhập khẩu Hồi chủ yếu từ Việt Nam (nước chiếm 70,8% tổng
KNNK hồi của Ấn Độ), Trung Quốc (27,8%), Malaysia (1%) và Pakixtan
(0,2%)…
Đứng thứ ba thế giới về KNNK Hồi là Brazil, chiếm 9,3% tổng KNNK
Hồi toàn cầu với lượng nhập khẩu năm 2009 đạt 1.181 tấn, trị giá 4,494 triệu
USD. Braxin nhập khẩu Hồi chủ yếu từ Syri (44,6%), Thổ Nhĩ Kỳ (42,6%), Ai
Cập (5,7%), Việt Nam (2,7%) và Trung Quốc (2,4%).
Đức đứng thứ tư thế giới về KNNK Hồi, chiếm 8,7% tổng KNNK Hồi
toàn cầu với lượng nhập khẩu năm 2009 đạt 892 tấn, trị giá 4,217 triệu USD.
Đức nhập khẩu Hồi chủ yếu từ Thổ Nhĩ Kỳ (22,2% tổng KNNK), Tây Ban Nha
(18,2%), Hà Lan (15,1%), Syri (14,5%) và Ai Cập (12,1%) , sau đó chế biến và
tái xuất sang các nước thành viên EU.
Cũng như Đức, Hà Lan là nước nhập khẩu và tái xuất Hồi lớn. Hà Lan
đứng thứ năm thế giới về KNNK, chiếm 4,4% tổng KNNK hồi và đứng thứ tám
thế giới về xuất khẩu, chiếm 3,0% tổng KNNK hồi toàn cầu, với lượng nhập
khẩu năm 2009 đạt 547 tấn, trị giá 2,108 triệu USD. Hà Lan nhập khẩu hồi chủ
yếu từ Syri (31,9% tổng KNNK), Tây Ban Nha (26,5%), Thổ Nhĩ Kỳ (24,1%),
Việt Nam (11,1%) và Trung Quốc (2,5%)…
[6]
Nhu cầu thị trường thế giới về sản phẩm Hồi luôn có xu hướng tăng
trong những năm qua do Hồi ngày càng được ứng dụng rộng rãi, đa dạng trong
nhiều ngành sản xuất công nghiệp và tiêu dùng vì những giá trị ưu việt của Hồi
như một loại cây hương liệu cao cấp và một loại thực phẩm bổ dưỡng, có tác
dụng hỗ trợ cho sức khoẻ. Tuy nhiên, các nước tiêu thụ và buôn bán tinh dầu
chủ lực, chiếm tỉ lệ lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu toàn cầu đều có hàng
rào kỹ thuật về tiêu chuẩn chất lượng rất chặt chẽ như quy định về canh tác sạch
Bio Organic, thu hái sạch, bảo quản sơ chế nguyên liệu sạch theo tiêu chuẩn
Global GAP, tiêu chuẩn chế biến sản xuất vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu
chuẩn HACCP, GMP… Do đó, thị trường quốc tế đòi hỏi phải có rất nhiều dạng
sản phẩm đa dạng, phong phú với các chỉ tiêu, thông số tiêu chuẩn chất lượng
cao.
Cho tới nay, chất lượng tinh dầu của Trung Quốc và Việt Nam vẫn được
thị trường quốc tế đánh giá là loại tinh dầu có chất lượng cao thuộc hàng đầu thế
7
giới. Tuy nhiên, những năm gần đây đó xuất hiện nhiều mẫu tinh dầu Hồi có
chất lượng khá thấp (hàm lượng anethole chỉ đạt 60-70%). Với những tinh dầu
loại này giá mua rất thấp do chi phí để tinh chế cao. Để giáo dịch trên thị trường
quốc tế và có khả năng cạnh tranh cao, nhiều tổ chức kinh doanh thường chào
hàng với chất lượng cao hơn tiêu chuẩn truyền thống (hàm lượng trans-anethole
không dưới 85%). Thực tế này đó đặt vùng sản xuất Hồi trước thách thức phải
nâng cao chất lượng sản phẩm tinh dầu.
Chiến lược marketing của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm tiêu
dùng cuối cùng từ nguyên liệu tự nhiên như hương liệu, gia vị, đồ uống, mỹ
phẩm, dược phẩm… đang hướng tới những sản phẩm tự nhiên (Bio -Organic),
sản phẩm hoàn toàn sạch và an toàn cho người tiêu dùng. Trên thực tế, các
doanh nghiệp nhập khẩu/chế biến tại các nước phát triển trên thế giới hiện nay
không quan tâm đến công đoạn tái chế nguyên liệu đầu vào đối với các sản
phẩm không đủ tiêu chuẩn, chất lượng hoặc tiêu chuẩn không phù hợp vỡ phải
đầu tưu thêm thiết bị xử lý rất tốn kém. Do đó, việc tiêu chuẩn hoá sản phẩm
phù hợp là yêu cầu bức xúc đặt ra đối với các sản phẩm xuất khẩu nói chung và
các sản phẩm mang tính dược liệu, hương liệu và gia vị cũng như các sản phẩm
Hồi nói riêng.
1.2. Ở Việt Nam
Tại Việt Nam, cây Hồi đã được trồng từ rất lâu đời tại các khu vực đồi núi
vùng Đông Bắc Việt Nam như Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh (Bình Liêu).
Hồi được trồng chủ yếu ở Lạng Sơn (Văn Quan, Bình Gia, Cao Lộc, Bắc
Sơn, Chi Lăng, Văn Lãng, Thị xã Lạng Sơn, Lộc Bình, Đình Lập, Tràng
Định…). Các rừng Hồi hiện có, tập trung chủ yếu ở độ cao 200-300 - 400-600m,
với nhiệt độ trung bình năm trong khoảng 18- 22
0
C và tổng lượng mưa
trung bình năm 1.000-1.400 - 1.600 -2.800 mm. Vùng trồng Hồi tập trung ở
cả Việt Nam và Trung Quốc đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Đông
Bắc, hàng năm có tới 4 tháng nhiệt độ không khí xuống thấp (trung bình 13,5-
15
0
C)
[10]
và thường có sương muối.
Những năm trước đây từ thời kỳ bao cấp. Hoa Hồi Lạng Sơn đó được xuất
khẩu sang các nước Đông Âu như Liên Xô, Cộng hoà Dân chủ Đức, Ba Lan,
Tiệp Khắc để tìm kiếm ngoại tệ về cho Việt Nam. Thực hiện các phương thức
thanh toán bằng ngoại tệ hoặc trao đổi hàng đối lưu, Lạng Sơn xuất khẩu hàng
8
nông – lâm sản đổi lấy máy móc, thiết bị hoặc ô tô, đó có lần Lạng Sơn đổi Hoa
Hồi lấy xe ô tô con Uwat của Liên Xô thông qua Công ty XNK Lạng Sơn
(Laximex Lạng Sơn)
[26]
. Thời kỳ này chủ yếu Laximex Lạng Sơn mua Hồi và
mua theo chỉ tiêu kế hoạch nhà nước để xuất khẩu hoặc uỷ thác cho các công ty
của trung ương xuất khẩu sang các nước theo nghị định thư của Chính phủ.
Sau khi xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang cơ chế thị
trường, Laximex không mua được nữa và từ đó quan hệ giữa các công ty của
trung ương với Laximex Lạng Sơn bị gián đoạn, mất mỗi quan hệ. Trong những
năm gần đây các công ty nhà nước của Trung Ương cũng đó chuyển đổi theo
luật doanh nghiệp thành các công ty cổ phần và nhiều công ty khác mới được
thành lập theo luật doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp tư nhân, vẫn tiếp tục
xuất khẩu mặt hàng Hoa Hồi sang các nước Ấn Độ, Singapo, các nước Trung
Đông và các nước Châu Âu là những thị trường tuyền thống, nhưng với số
lượng không tập trung và chất lượng cũng không đồng đều, giá cả không ổn
định và nhìn chung là ở mức thấp. Về khai thác nguồn hàng các Công ty liên hệ
trực tiếp với các hộ thu mua gom ở Thành phố Lạng Sơn và các huyện Văn
Quan, Bình Gia, Chi Lăng rồi vận chuyển về các tỉnh phía sau phân loại đóng
gói xuất khẩu. Hiện nay lượng hàng rất phân tán và kinh doanh mặt hàng Hồi
hiệu quả thấp và rủi ro cao, do vậy các Công ty lớn chủ yếu xuất uỷ thác cho các
Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc các Doanh nghiệp tư nhân hoặc mua trực tiếp
với các Doanh nghiệp nhỏ để xuất khẩu.
Qua đây có thể thấy rằng: hiện tượng mua bán Quốc tế giữa các doanh
nghiệp hiện nay rất đa dạng, xuất phát từ cơ chế thị trường, các Công ty đều tạo
điều kiện cho nhau để kinh doanh mang lại lợi nhuận tối đa, do vậy việc áp dụng
các quy định nhãn, mác những mặt hàng nông – lâm sản xuất khẩu mà bị quản
lý chặt chẽ về chất lượng gắn với thương hiệu mà trước mắt chưa có lợi cho họ
là họ không muốn thực hiện. Chúng tôi khảo sát một số điểm trên địa bàn thành
phố Hà Nội, Hưng Yên, Hoà Bình, Bắc Ninh nhận thấy rằng có nhiều công ty
làm ăn chân chính, kinh doanh bài bản, hợp đồng mua bán rõ ràng, yêu cầu chất
lượng hết sức cụ thể, thanh toán sòng phẳng. Song bên cạnh đó còn một số công
ty kinh doanh theo kiểu nhỏ lẻ, phân tán, họ chưa có tư tưởng hoặc chưa sẵn
sàng cộng tác với Hội SX,CB&KD hồi Lạng Sơn để gắn nhãn, mác dấu hiệu
Hồi Lạng Sơn đó được mang chỉ dẫn địa lý và được Nhà nước bảo hộ. Do vậy
các hộ mua gom Hồi ở Lạng Sơn cũng phải thực hiện theo yêu cầu của họ, chưa
9
có cách nào khác tối ưu hơn, nếu thực hiện nghiêm túc theo quy chế quản lý
hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý thì các đơn vị XNK họ không mua hoặc mua với
giá thấp, từ đó ngay bản thân các hộ thu mua ở Lạng Sơn không muốn tiết lộ
cách làm ăn của họ cho Hội hoặc cán bộ quản lý biết, mà họ cũng không cần xin
được cấp quyền sử dụng CDĐL, mang dấu hiệu (nhãn hiệu) Hồi được mang chỉ
dẫn địa lý. Có lẽ Nhà nước phải có cơ chế, chính sách quy định cụ thể hơn về
xuất khẩu mặt hàng nông – lâm sản đó được bảo hộ và mang chỉ dẫn địa lý.
Hồi Lạng Sơn rất có nhiều triển vọng mở ra nhiều thị trường mới, từ khi
các nhà khoa học nghiên cứu và triết xuất thành công Axit shikimic từ quả Hồi.
Đây là nguồn nguyên liệu quý để sản xuất thuốc Tamiflu là loại thuốc đặc trị
bệnh cúm. Các hãng Dược phẩm lớn trên thế giới đó đến Lạng Sơn, Bộ y tế
cũng đó làm việc với UBND tỉnh Lạng Sơn về vấn đề này. Do vậy thị trường
Mỹ, Thụy Sỹ và các nước Châu Phi là những thị trường tiềm năng lớn cho các
sản phẩm Hồi của Lạng Sơn.
Từ khi Pháp ngừng tiêu thụ vào năm 1979, Trung Quốc là thị trường tiêu thụ
chủ yếu sản phẩm hoa và tinh dầu Hồi Việt Nam. Hoa Hồi được người Trung
Quốc chế biến thành các sản phẩm là tinh dầu Hồi, các gia vị trong công nghiệp
thực phẩm, trong dược liệu và kể cả tái xuất sang các nước khác. Hiện nay,
Trung Quốc là nước đó đăng ký được tiêu chuẩn chất lượng (thương hiệu) cho
sản phẩm hoa Hồi. Nhờ đó, Trung Quốc nhập khẩu sản phẩm hoa Hồi từ Việt
Nam rồi xuất khẩu sang các nước khác.
Mặc dù sản phẩm hoa Hồi được tiêu thụ trong nước với số lượng nhỏ nhưng
thị trường quả Hồi và tinh dầu hồi trên thế giới đang ngày càng rộng mở. Thị
trường Bắc Mỹ hàng năm tiêu thụ hết 20-40 ngàn tấn gia vị. Trong đó có 10-
15% bột Hồi khô, tương đương với 3-6 ngàn tấn quả Hồi khô. Dự báo hàng năm
thị trường thế giới sẽ có nhu cầu không dưới 20 ngàn tấn quả Hồi khô, giá bán
hiện nay trên thị trường thế giới từ 4000-4.500 USD/tấn tuỳ theo chất lượng sản
phẩm. Để xuất khẩu sản phẩm từ hoa Hồi trực tiếp sang các nước khác, chúng ta
cần phải đăng ký tiêu chuẩn chất lượng. Đó là cơ hội cho sản phẩm đến trực tiếp
được các nước khác mà không cần qua một nước trung gian.
Việt Nam chủ yếu xuất khẩu Hồi sang các nước trong khu vực như Ấn Độ
(52,6%, Malaysia (6,2%,) Thái Lan (5,7%), Singapore (4,3%), xuất khẩu sang
các nước phương tây còn khá hạn chế Một phần hoa hồi Việt Nam xuất thô và
tái xuất khẩu sang các nước khác.
10
Điều chỉnh trực tiếp các kênh hàng xuất khẩu sang các nước chiếm tỷ trong lớn
sản phẩm Hồi của Lạng Sơn:
Hộ trồng Hồi→Hộ thu mua→Doanh nghiệp xuất khẩu→Thị trường Ấn Độ.
Hộ trông Hồi→Hộ thu mua→Doanh nghiệp xuất khẩu→T. trường Thái Lan
Hộ trồng Hồi→Hộ thu mua→Doanh nghiệp xuất khẩu→T.trường Singapore
Ngoài ra còn một lượng lượng lớn Hoa hồi và tinh dầu Hồi xuất khẩu tiểu
ngạch sang thị trương Trung Quốc các cơ quan chức năng chưa thống kê
được,cần điều chỉnh cơ chế chinh sách thu hút người dân buôn bán các sản phẩm
Hồi qua biên giới theo thông lệ Quốc tế.
Do nhận thức được vai trò của sản phẩm từ cây Hồi các cơ quan chuyên
môn đó có các đề tài nghiên cứu từ những năm 1960 – 1970 các tác giả Lê Đức
Biên, Nguyễn Huy Bật, Cung Đình Lượng, Nguyễn Thụ (ĐH tổng hợp hà
Nội).Các công trình nghiên cứu đó đề cập đến: Nhu cầu ánh sáng, dinh dưỡng
khoáng, quy trình bón phân nhằm phục tráng cây Hồi. Vậy cần nghiên cứu sâu
theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và nhu cầu tiêu thụ các thị
trường trong và ngoài nước.
Nhằm đảm bảo chất lượng Hồi (đặc biệt là Hồi xuất khẩu) năm 2006 Sở
Nông nghiệp & PTNT tiếp tục ban hành quy trình kỹ thuật canh tác, bảo quản
Hồi Lạng Sơn. Ban hành hướng dẫn dưới dạng tờ rơi cấp cho các hộ tham gia
trồng hồi. Được sự quan tâm của Bộ Khoa học và Công nghệ hai nước Việt Nam
và Trung Quốc, Dự án hợp tác quốc tế: “Hợp tác nghiên cứu cải tạo rừng Hồi
năng suất thấp và ứng dụng kỹ thuật chế biến sản phẩm Hồi” đó được đưa vào
Nghị định thư phiên họp lần thứ VII Uỷ ban hỗn hợp hợp tác Khoa học và Công
nghệ giữa Việt Nam và Trung Quốc vào tháng 12/2008 tại Bắc Kinh. Dự án
triển khai thành công sẽ là cơ sở mở rộng mô hình cải tạo 10.000 ha rừng Hồi
hiện có và đang đòi hỏi được cải tạo của Lạng Sơn
[26]
.
Những nghiên cứu phát triển cây Hồi ở Việt Nam: Do Hồi là cây đặc
hữu chỉ có ở một số nước trên thế giới nên các công trình nghiên cứu về cây Hồi
cũng rất hạn chế. Tuy nhiên, cũng có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu
có liên quan mà chủ yếu là ở trong nước gồm các lĩnh vực sau đây. Năm 1976
cùng với chương trình nghiên cứu tổng hợp về cây Hồi, Trại nghiên cứu thực
nghiệm cây Hồi trực thuộc Viện Lâm nghiệp (nay là Viện khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam) đã được thành lập. Một số nhà khoa học của Viện đã tham gia vào
chương trình nghiên cứu này. Tác giả Bùi Ngạnh - Trần Quang Việt nghiên cứu
11
về kỹ thuật gieo ươm cây Hồi. Tác giả Nguyễn Ngọc Tân - Đặng Thuận Thành
nghiên cứu về sinh lý cây Hồi. Tác giả Nguyễn Ngọc Bình - Lê văn Hán nghiên
cứu về đất trồng Hồi. Nhóm tác giả Hoàng Chương - Đoàn Thị Bích nghiên cứu
về nhân giống vô tính cây Hồi. Tác giả Phí Quang Điện - Lê Văn Hán nghiên
cứu kỹ thuật phục tráng rừng Hồi. Tác giả Hoàng Xuân Phàn nghiên cứu về kỹ
thuật trồng Hồi. Tuy thời gian nghiên cứu không dài lại bị giãn đoạn do chiến
tranh nhưng một số công trình cũng đó được đánh giá
[4]
.
Chương 2: MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1 Mục tiêu nghiên cứu
* Mục tiêu chung: Thông qua nghiên cứu về thực trạng trồng và thị
trường tiêu thụ để đề xuất giải pháp phát triển tiền năng kinh tế của cây Hồi tại
địa phương.
* Mục tiêu cụ thể: chuyên đề nghiên cứu khoa học thực hiện những mục
tiêu nghiên cứu sau đây.
Thứ nhất: nghiên cứu làm rõ tình hình gây trồng Hồi trên địa bàn;
Thứ hai: phân tích hình tiêu thụ các sản phẩm Hồi tại huyện Văn Lãng,
Lạng Sơn;
Thứ ba: đề xuất các biện pháp cụ thể cho việc phát triển vùng trồng Hồi
tại huyện Văn Lãng – tỉnh Lạng Sơn.
2.2 Đối tượng, thời gian nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là cây Hồi
và sản phẩm cây Hồi.
* Phạm vi nghiên cứu:
- về địa điểm: Phạm vi nghiên cứu của đề tài huyện Văn Lãng tỉnh Lạng
Sơn.
- Về thời gian: chuyên đề nghiên cứu được giới hạn từ năm 2005 trở về.
2.3 Nội dung của chuyên đề nghiên cứu bao gồm:
- Đặc điểm về điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội tại huyện Văn Lãng,
tỉnh Lạng Sơn.
- Thực trạng gây trồng Hồi trên địa bàn huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn.
12
- Thực trạng tiêu thụ các sản phẩm Hồi trên địa bàn huyện Văn Lãng, tỉnh
Lạng Sơn.
- Giải pháp đề xuất để phát triển vùng trồng Hồi ở huyện Văn Lãng, tỉnh
Lạng Sơn.
2.4 Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp kế thừa tài liệu thứ cấp:
Tiến hành thu thập các tài liệu về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của
huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn tại UBND huyện và các ngành có liên quan:
- Tình hình sử dụng đất đai của địa phương.
- Tình hình dân sinh: dân số, lao động, trình độ dân trí, y tế, giáo dục.
- Tình hình sản xuất kinh tế: nông nghiệp, lâm nghiệp ( trồng và bảo vệ
rừng).
- Cơ sở hạ tầng: giao thông, thủy lợi.
- Các chính sách, dự án hỗi trợ trồng và chăm sóc cây Hồi cho người
dân.
- Sản lượng tiêu thụ và xuất khẩu Hồi trên địa bàn.
Tìm đọc các đề tài nghiên cứu về cây Hồi. Tìm hiểu về cây Hồi qua các
sách báo, tạp chí và internet.
b. Phương pháp điều tra thực địa:
* Phỏng vấn:
Phỏng vấn cán bộ địa phương, tiểu thương thu mua Hồi và nông hộ
trồng Hồi bằng bảng hỏi soạn sẵn ( phần phụ lục). Mẫu điều tra nông hộ
được chọn ngẫu nhiên phân bố trong vùng trồng Hồi tại khu vực nghiên cứu.
Việc chọn nhóm nông hộ tại xã Nam La, được chọn ngẫu nhiên tại 4
thôn, tổng số mẫu điều tra là 40 hộ:
STT Thôn, xã Số mẫu
1 Thôn Hòa Lạc, xã Nam La 10
2 Thôn Bản Van, xã Nam La 10
3 Thôn Bình Độ, xã Nam La 10
4 Thôn Đồng Tâm, xã Nam La 10
Tổng 40
Thông qua phỏng vấn lấy cơ sở để phân tích thực trạng trồng, chăm sóc
cũng như lợi nhuận kinh tế mà cây Hồi đem lại cho người dân.
Khảo sát thị trường tiêu thụ: tiến hành phỏng vấn tiểu thương và các đại
lý thu mua Hồi tại chợ phiên xã Hội Hoan và Na Sầm, huyện Văn Lãng, tỉnh
Lạng Sơn. Từ đó xác định các kênh tiêu thụ sản phẩm từ Hồi, cũng như giá
cả và chất lượng của sản phẩm Hồi của địa phương.
13
* Khảo sát tại các rừng trồng Hồi
Tiến hành lấy mẫu lá, quả, tinh dầu Hồi để tìm hiểu rõ hơn về thực trạng
trồng, chất lượng, sản lượng Hồi. Làm bộ ảnh tài liệu.
c. Xử lý và phân tích số liệu
Các số liệu sau khi thu thập được sẽ được phân tích và tổng hợp số liệu bằng
phần mềm excel.
14
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ - XÃ HỘI
TẠI HUYỆN VĂN LÃNG TỈNH LẠNG SƠN
3.1 Đặc điểm tự nhiên.
Văn Lãng là một huyện vùng cao, biên giới của tỉnh Lạng Sơn, tiếp giáp
với huyện Văn Quan, Cao Lộc,Tràng Định, Bình Gia, Bằng Tường (Trung
Quốc). Diện tích tự nhiên là 56.330,46 hécta. Huyện có 19 xã (Tân Việt, Trùng
Quán, Trùng Khánh, Thuỵ Hùng, Thanh Long, Nam La, Hội Hoan, Gia Miễn,
Bắc La, Tân Tác, Tân Lang, An Hùng, Thành Hoà, Hoàng Việt, Tân Thanh, Tân
Mỹ, Hoàng Văn Thụ, Hồng Thái, Nhạc kỳ) và 1 thị trấn Na Sầm. Có tổng số 50
trường học, 6 cụm chợ chính là chợ Na Sầm, chợ Tân Thanh, chợ Nà Hình, chợ
Hoàng Văn Thụ, và chợ Hội Hoan. Huyện có chợ biên giới với Trung Quốc, nổi
tiếng nhất là chợ cửa khẩu Tân Thanh. Huyện có ngọn núi cao là Khâu Khú
thuộc xã Thanh Long, với độ cao khoảng 800m so với mặt nước biển. Nơi đây là
quê hương của đồng chí Hoàng Văn Thụ, một nhà cách mạng Việt Nam
[14]
.
3.1.1 Vị trí địa lý:
Văn Lãng là một Huyện miền núi, biên giới nằm ở phía Đông Bắc tỉnh
Lạng Sơn, cách trung tâm Tỉnh Lỵ 30 km, có đường quốc lộ 4A đi qua dài
32km. Có đường biên giới Quốc gia giáp với nước cộng hoà nhân dân Trung
Hoa dài 36 km. Huyện có 20 đơn vị hành chính (19 xã và 1 thị trấn).
Địa giới hành chính như sau:
- Phía Bắc giáp huyện Tràng Định.
- Phía Nam giáp huyện Cao Lộc và huyện Văn Quan.
- Phía Đông giáp nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
- Phía Tây giáp huyện Bình Gia.
Với vị trí địa lý như trên, rất thuận lợi cho huyện Văn Lãng phát triển, giao lưu
kinh tế, văn hoá - xã hội, từng bước hoà nhập với nền kinh tế của Tỉnh và khu
vực. Đặc biệt là phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ tại cửa khẩu và các cặp
chợ đường biên giữa huyện Văn Lãng với Thị Xã Bằng Tường, tỉnh Quảng Tây
- Trung Quốc.
15
3.1.2 Địa hình:
Địa hình chia cắt mạnh, có nhiều núi cao, xen kẽ là các cánh đồng thung lũng
hẹp ven sông, suối và núi đá vôi.
Dạng hình núi đất là chủ yếu, có độ dốc trên 250 chiếm 88% diện tích tự nhiên,
thích hợp cho trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên, một số vị trí thấp
có thể phát triển trồng cây ăn quả, trồng hồi…
Dạng địa hình núi đá, chủ yếu ở xã Tân Thanh, Tân Mỹ, Tân Lang, Hoàng Việt,
Hoàng Văn Thụ, Trùng Quán, An Hùng với diện tích khoảng 2.800 ha chiếm
4,99% diện tích đất tự nhiên.
Các dải thung lũng hẹp, vùng cánh đồng phục vụ phát triển sản xuất nông
nghiệp, có diện tích 3.505 ha chiếm 6,25% diện tích tự nhiên.
Các dải đồi có độ dốc thấp (8-250) không nhiều, diện tích khoảng 950 ha rất
thuận lợi cho trồng cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày như chè, hồi…
3.1.3 Khí hậu:
Huyện Văn Lãng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Hàng năm được thể
hiện 4 mùa rõ rệt (Xuân, Hạ, Thu, Đông). Mùa Hạ nóng ẩm, mưa nhiều; mùa
đông lạnh, khô hanh và ít mưa. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 240C.
Lượng mưa bình quân hàng năm: 1.540 mm số ngày có mưa 134 ngày. Do sự
phân bố lượng mưa không đồng đều nên gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp
và giao thông đi lại. Hạn hán kéo dài vào mùa khô.
Độ ẩm không khí bình quân từ 82% trở lên.
Hướng gió thịnh hành là Đông Bắc và Tây Nam. Đây là vùng không bị ảnh
hưởng của gió bão, nên thích hợp cho trồng các loại cây dài ngày, đặc biệt là cây
ăn quả.
3.1.4 Các nguồn tài nguyên thiên nhiên:
* Tài nguyên đất: Đất đai của Huyện gồm 8 loại chính sau:
- Đất đỏ vàng trên đá sét (Fs): 26.200 ha chiếm 46,71% đất tự nhiên.
- Đất vàng nhạt trên đá cát ( Fq): 3.500 ha chiếm 6,24% diện tích đất tự nhiên.
- Đất vàng đỏ trên đá macma axít (Fa): 20.450 ha chiếm 36,46% diện tích tự
nhiên.
- Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa (Fl): 850 ha chiếm 1,52% diện tích tự nhiên.
16
- Đất màu vàng trên phù xa cổ (F/P): 40 ha chiếm 0,07% diện tích tự nhiên.
- Đất phù xa ngòi suối (Py): 100 ha chiếm 0,18% diện tích tự nhiên.
- Đất phù xa (P): 509,42 ha chiếm 0,91% diện tích tự nhiên.
- Đất dốc tụ (D): 1050 ha chiếm 1,87 % diện tích tự nhiên.
+ Sông suối: 592,58 ha chiếm 1,06% diện tích tự nhiên.
+ Núi đá: 2.800 ha chiếm 4,99% diện tích tự nhiên.
Tổng diện tích đất tự nhiên của Huyện là: 56.092,2 ha.
Tiềm năng đất đai của Huyện còn khá lớn với 26.090,3 ha đất đồi núi chưa sử
dụng, là nguồn lực để khai đưa vào phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp.
* Tài nguyên rừng: theo tài liệu thống kê năm 2005, đất có rừng của Huyện khá
lớn 17.132,95 ha chiếm 30,54% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó:
- Diện tích rừng tự nhiên:14.248,49 ha chiếm 83% diện tích đất có rừng.
- Diện tích rừng trồng: 2.884,46 ha chiếm 17% diện tích đất có rừng.
* Tài nguyên nước:
Huyện Văn Lãng có nguồn nước ngầm và nước mặt khá lớn, rất thuận lợi cho
phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân. Huyện có 2 sông lớn chảy qua đó
là: Sông Kỳ Cùng và sông Văn Mịch. Có hệ thống suối dày đặc, có 4 suối lớn là
suối Tân Mỹ, Khuổi Slin, Khuổi Rào, Thanh Long và hệ thống mạng lưới các
khe suối có khả năng cung cấp nước cho sinh hoạt và phục vụ sản xuất. Ngoài
các hệ thống sông suối ra, trên địa bàn Huyện còn có các hồ, đập lớn, nhỏ như:
Nà Pàn (Hoàng Văn Thụ); Kéo Páng (Nhạc Kỳ); Nà Piya (Tân Việt)…có khả
năng phục vụ nước tưới cho sản xuất nông nghiệp.
* Tài nguyên khoáng sản: Tài nguyên khoáng sản trên địa bàn huyện Văn Lãng
nghèo nàn, trữ lượng nhỏ như: Quặng sắt ở xã An Hùng, Tân Thanh… ngoài ra
còn có núi đã vôi, cát, sỏi… có thể khai thác để sản xuất vật liệu xây dựng.
* Tài nguyên nhân văn du lịch:
Huyện Văn Lãng có 4 dân tộc chính (Tày, Nùng, Kinh, Hoa) cùng sinh sống,
các di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc trong huyện được gìn giữ, bảo
tồn thông qua các nét sinh hoạt văn hóa lễ hội, hội diễn nghệ thuật; các trang
phục, tập quán, các làn điệu dân ca (hát Then – đàn tính, hát Sli, hát Lượn,hát
Cỏ lẩu, Múa Trầu, múa Xiên tâng), những loại hình văn hóa, tiếng nói,… của
các dân tộc Tày – Nùng được các nghệ nhân khai thác dàn dựng.
Trên địa bàn huyện hiện nay có trên 10 di tích lịch sử và tín ngưỡng được
phân bố ở 7 đơn vị (6 xã và 1 thị trấn). Trong đó đã có 01 di tích được công
17
nhận xếp hạng cấp Quốc gia, 8 di tích xếp hạng cấp tỉnh. Có 2 cửa khẩu tiểu
ngạch là cửa khẩu Tân Thanh và cửa khẩu Cốc Nam (xã Tân Mỹ) và 01 cặp chợ
biên giới Nà Hình (Thụy Hùng) là điều kiện để thu hút khách du lịch tham quan,
mua sắm, phát triển dịch vụ du lịch và thương mại của huyện.
Huyện có nhiều lễ hội truyền thống được tổ chức vào dịp đầu xuân, hàng
năm mỗi xã tổ chức từ 01 đến 03 lễ hội, đều là các lễ hội dân gian, gắn liền với
đời sống sinh hoạt tín ngưỡng của người dân về “Cầu mùa, cầu mưa”, Lễ hội
“Lồng tồng”… Các lễ hội chủ yếu tổ chức vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ,
thể thao và các trò chơi dân gian lành mạnh … thu hút sự tham gia đông đảo của
bà con nhân dân các dân tộc.
3.2 Điều kiện kinh tế - xã hội:
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế
của huyện Văn Lãng luôn được ổn định và phát triển. Tăng trưởng GDP trong
năm (2000-2005) tăng 12%. Thu nhập bình quân đầu người từ 3,5 triệu đồng
năm 2000 lên 5 triệu đồng năm 2005. Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm từ 18,2% năm
2000 xuống còn 7,8% năm 2005. Thu ngân sách năm 2000 đạt 5,8 tỷ đồng, năm
2005 đạt 17,8 tỷ đồng. Bình quân lương thực đạt 430 kg/người/năm. Thực hiện
Nghị quyết đại hội Đảng, đại hội Đảng bộ tỉnh. Những năm qua, Đảng bộ, chính
quyền, quân và dân huyện Văn Lãng đã tích cực thi đua phát triển kinh tế, chính
trị, xã hội. Tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về mọi mặt. Tổng sản phẩm nội
huyện năm 2012 theo giá thực tế đạt 616 tỷ đồng và GDP bình quân đầu người/
năm đạt 12,11 triệu đồng (mục tiêu 11,7 triệu đồng).
Nhìn chung nền kinh tế của Huyện có sự chuyển dịch đúng hướng giảm
dần tỷ trọng ngành nông - lâm nghiệp, tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp -
xây dựng, thương mại và dịch vụ. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng nền kinh tế còn
chậm, chưa vững chắc; sản xuất công nghiệp - thủ công nghiệp còn nhỏ bé; sản
xuất nông- lâm nghiệp vẫn là chủ yếu…
3.2.1 Thực trạng phát triển các ngành kinh tế:
* Ngành nông - lâm nghiệp: Huyện Văn Lãng xác định phát triển nông nghiệp là
ngành sản xuất chính, đây chính là nguồn thu chính của người dân trong huyện.
Trong mấy năm gần đây nhờ có sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp
dụng các loại giống mới có năng xuất cao, tích cực chuyển giao kịp thời các tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cho nên mặt trận nông nghiệp đã thu được
18
những kết quả tốt, diện tích năng xuất, sản lượng các cây trồng đều tăng năm sau
cao hơn năm trước.
Thực hiện chính sách giao đất, giao rừng cho hộ gia đình, cộng với việc
thực hiện các chương trình dự án đến nay công tác trồng rừng, khoanh nuôi bảo
vệ rừng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Toàn Huyện có trên 21.000 ha rừng
sản xuất gần 2.000 ha rừng phòng hộ đầu nguồn… góp phần đưa độ che phủ của
rừng đạt 48%. Kinh tế trang trại nhỏ, vừa từng bước được phát triển.
Sản xuất nông lâm nghiệp tiếp tục phát triển, nhiều tiến bộ khoa học kỹ
thuật được áp dụng vào sản xuất. Tổng diện tích gieo trồng năm 2012 là
6.380ha, sản lượng lương thực có hạt đạt 21.304 tấn. Vùng cây ăn quả tiếp tục
được mở rộng, tổng diện tích cây ăn quả đến năm 2012 trên 1.600ha. Trong đó
đặc biệt là cây Hồng vành khuyên với diện tích trồng tập trung 600 ha có giá trị
hàng hóa tương đối lớn. Những dự án trồng rừng Việt – Đức, dự án trồng rừng
661 mang lại cho địa phương diện mạo mới với rất nhiều những hy vọng về sự
phát triển đột phá từ kinh tế rừng. Các chương trình trồng rừng ấy đã nâng tổng
số diện tích có rừng của địa phương lên con số gần 30.000ha, độ che phủ rừng
đạt 52,3%
* Công nghiệp - thủ công nghiệp (CN-TCN):
Để hình thành và phát triển một số cơ sở sản xuất nhỏ như: Xay xát, chế
biến lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng (gạch, ngói)… toàn Huyện có hơn 70
cơ sở và 28 hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp, thu hút gần 1000 lao động. Giá
trị sản xuất CN-TCN đạt 20,594 tỷ đồng.
Tổng giá trị sản xuất công nghiệp (giá thực tế) năm 2012 ước đạt 82.000
triệu đồng , gồm các sản phẩm chủ yếu là : Quặng bô xít 13.700 tấn, hạt mài
5.500 tấn, đá các loại 45.000
m
3
, phân phối điện 16.000 nghìn Kw; phân phối
nước 220.000 m
3
; gạch bê tong 5.800 nghìn viên; cát xây dựng 15.500 m
3
các
sản phẩm gia dụng khác…
* Thương mại - dịch vụ:
Hoạt động thương mại dịch vụ có tốc độ phát triển tăng trưởng khá. Hệ thống
chợ trung tâm cụm xã, chợ trung tâm huyện và các cặp chợ cửa khẩu phát triển
cơ bản đáp ứng được nhu cầu lưu thông hàng hoá, phục vụ thiết thực cho sản
xuất và đời sống của nhân dân địa phương, thương nghiệp Quốc doanh bảo đảm
tốt việc cung ứng các mặt hàng thiết yếu cho đồng bào vùng sâu, Khu kinh tế
cửa khẩu Tân Thanh, các dịch vụ bốc xếp hàng hoá, sửa chữa, vận tải, bưu chính
19
viễn thông phát triển. Hiện nay toàn huyện có trên 300 cơ sở kinh doanh, thương
mại, dịch vụ, khách sạn, nhà hàng. Tiếp tục kêu gọi các nhà đầu tư vào các cặp
chợ cửa khẩu đặc biệt vào Khu kinh tế cửa khẩu Tân Thanh…Hiện nay, hoạt
động thương mại, dịch vụ, du lịch tiếp tục phát triển tập trung ở các chợ cửa
khẩu, chợ trung tâm huyện và các chợ cụm xã. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa
nội huyện năm 2012 đạt khoảng 362 tỷ đồng. Tổng số người xuất nhập cảnh qua
biên giới đạt khoảng 310.000 lượt người; tổng kim ngạch XNK qua địa bàn 268
triệu USD, trong đó nhập khẩu đạt 141 triệu USD, xuất khẩu đạt 127 triệu USD .
3.2.2 Thực trạng cơ sở hạ tầng:
* Về giao thông: Mạng lưới giao thông luôn được huyện quan tâm phát triển.
Bằng nguồn vốn của địa phương, của Tỉnh, của Trung ương, nhất là chương
trình 120, 135 của Chính phủ. Đến nay đường giao thông đến trung tâm các xã
đạt 100% trong đó có 90% đi lại được 4 mùa. Đường Quốc lộ 4A, đường Tỉnh
lộ được Nhà nước quan tâm đầu tư nâng cấp…đã góp phần lưu thông, vận
chuyển hàng hoá thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, bảo đảm Quốc phòng - An
ninh.
* Thuỷ lợi: Tập trung xây dựng và nâng cấp các công trình thuỷ lợi hiện có
như: các hồ đập, kênh mương nội đồng được kiên cố hoá. Toàn Huyện có 12
công trình thuỷ lợi kiên cố, 96 công trình thuỷ lợi nhỏ…đã đáp ứng phần lớn
diện tích sản xuất nông nghiệp.
c) Giáo dục - đào tạo, y tế văn hoá xã hội:
* Giáo dục: Toàn huyện có 50 đơn vị trường trong đó Mầm non là 15; Tiểu học
20; Trung học cơ sở 13; Trung học phổ thông 01; Giáo dục thường xuyên 01.
Toàn Huyện đã phổ cập song giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Xây dựng
được 4 trường đạt chuẩn Quốc gia. Chất lượng dạy và học của nhà trường ngày
càng được nâng lên, cơ sở vật chất trường lớp được đầu tư xây dựng cơ bản
được đáp ứng…
* Y tế: Mạng lưới y tế của Huyện phát triển đến tận thôn bản. Toàn Huyện có 1
bệnh viện trung tâm, 2 phân viện đa khoa khu vực, 20/20 xã, thị trấn đều có trạm
xá. Đội ngũ cán bộ y tế cơ bản được đáp ứng, bảo đảm chăm sóc sức khoẻ cho
nhân dân. Tiêm chủng hàng năm đạt 97% trở lên.
* Văn hoá - xã hội: Cùng với sự phát triển kinh tế văn hoá - xã hội của Huyện
cũng được phát triển, phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao được tăng
20
cường; các tệ nạn xã hội được đấu tranh ngăn chặn và thu được kết quả tốt. Toàn
Huyện có 5 trạm tiếp sóng truyền hình, dần dần đáp ứng nhu cầu nghe nhìn của
nhân dân.
3.2.3 Dân số và lao động:
). Dân số huyện Văn Lãng năm 2013 có 53614 người, phân bố không
đồng đều trong đó đông nhất tập trung ở thị trấn Na Sầm (2.430 người/km
2
),
tiếp đến là các xã Hoàng Văn Thụ (179 người/km
2
), xã Tân Mỹ (178
người/km
2
), xã Tân Thanh (176 người/km
2
) các xã Hoàng Việt, xã Hồng Thái,
Xã Tân Lang có mật độ dân cư từ (110- 140 người/km
2
); các xã còn lại có mật
độ dân số dưới 100 người/km
2
. Xã có mật độ dân cư thấp nhất là xã Bắc La
(35,9 người/km
2
).
Gồm 4 dân tộc chính (Tày, Nùng, Kinh, Hoa) sinh sống trên 215 thôn
bản. Sự phân bố dân số không đều, chủ yếu là tập trung ở thị trấn, thị tứ, tại cửa
khẩu và ven đường giao thông chính.
Năm 2011 dân số trong độ tuổi lao động có 34.510 người chiếm 68,15%
(lực lượng lao động) dân số trung bình, trong đó số lao động tham gia hoạt động
kinh tế thường xuyên 28.467 người, chia ra thành thị 1.732 người, nông thôn
26.735 người. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp
chiếm 87,72%; còn lại là lao động trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ.
3.3 Thực trạng môi trường:
Với đặc thù là Huyện miềm núi, địa hình dốc bị chia cắt mạnh, nên hiện
tượng suy thoái đất bị xói mòn, bạc màu diễn ra nhanh chóng. Cùng với việc
phát triển mạnh sản xuất nông nghiệp, dùng nhiều phân bón hoá học, thuốc trừ
sâu trên đồng ruộng; việc thu gom và xử lý rác thải chưa tốt nên tác động đến
môi trường nước, không khí và ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất.
3.4 Đánh giá chung về thực trạng phát triển kinh tế - xã hội:
Trong những năm gần đây nền kinh tế xã hội của Huyện luôn ổn định và
có bước phát triển mới.Tốc độ tăng trưởng trung bình trong 5 năm là 12%. Cơ
cấu kinh tế có sự chuyển dịch đúng hướng, song tỷ trọng giữa các nhóm ngành
còn chênh lệch cao: Ngành nông - Lâm nghiệp 51%; Ngành công nghiệp - xây
dựng 20%; Ngành thương mại - dịch vụ 29%. Như vậy tỷ trọng trong ngành
nông - lâm nghiệp còn rất cao; trong khi đó tỷ trọng của 2 nhóm ngành còn lại
21
đạt được còn thấp. Nếu như đánh giá khách quan thì nền kinh tế phát triển với
tốc độ chậm, chưa bền vững.
Kết cấu hạ tầng cơ sở đã được quan tâm đầu tư cải tạo, sửa chữa, nâng cấp, đáp
ứng tương đối tốt sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của
Huyện nhà. Tuy nhiên so với nhu cầu vẫn chưa được đáp ứng đầy đủ. Khu vực
thương mại - dịch vụ có vị trí rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế, nên cũng đã
được Huyện quân tâm đầu tư xây dựng, nhất là tại Khu kinh tế cửa khẩu Tân
Thanh, các chợ trung tâm, các chợ trung tâm cụm xã. Các dịch vụ, thương mại
đang có chiều hướng phát triển mạnh.
Tài nguyên thiên nhiên tuy đã được đầu tư khai thác, song tiềm năng vẫn
còn khá lớn, nhất là tài nguyên về đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên nước.
Cùng với đó là nguồn nhân lực khá dồi dào chưa được khai thác hết
Văn hoá - xã hội đã có sự chuyển biến tích cực, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao rõ rệt. Số hộ nghèo có chiều
hướng giảm dần, các chính sách xã hội khác được quan tâm, các tệ nạn xã hội
tiếp tục được đẩy lùi.
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Thực trạng gây trồng Hồi trên địa bàn huyện Văn Lãng
4.1.1 Hiện trạng sử dụng đất đai của huyện
Theo thống kê của Hạt kiểm lâm huyện Văn Lãng, toàn huyện có 29416,7
ha rừng
[13]
, những năm gần đây huyện đã giao đất, giao rừng cho hộ dân đạt 90%
diện tích đất quy hoạch cho phát triển nông lâm nghiệp. Đời sống của người dân
được cải thiện rõ rệt nhờ vào sản phẩm chủa ngành nông – lâm nghiệp.
Bảng 1: Thực trạng sử dụng đất đai – tài nguyên rừng huyện Văn Lãng
năm 2013
STT Loại hình sử dụng đất
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%) Ghi chú (% diện tích đất)
Tổng diện tích đất tự
nhiên 56 318.29 100
I. Đất nông nghiệp 4 667.93 8.29 so với diện tích rừng tự nhiên
II. Đất khác 3 158.36 5.6 so với diện tích rừng tự nhiên
III. Đất lâm nghiệp 48 492 86.1 so với diện tích rừng tự nhiên
1.1. Đất rừng tự nhiên 18 996.62 39.17 so với diện tích đất lâm nghiệp
1.3 Đất chưa có rừng 19 076.21 39.34 so với diện tích đất lâm nghiệp
22
1.4. Đất rừng trồng 10 420.08 21.49 so với diện tích đất lâm nghiệp
1.3.
1 Đất rừng trồng thông 6525.53 62.62 so với diện tích đất rừng trồng
1.3.
2 Đất rừng trồng keo 1 697.4 16.29 so với diện tích đất rừng trồng
1.3.
3 Đất rừng trồng sa mộc 114.88 11.02 so với diện tích đất rừng trồng
1.3.
4 Đất rừng trồng hồi 978.28 9.39 so với diện tích đất rừng trồng
1.3.
5 Đất rừng trồng bạch đàn 930.76 8.93 so với diện tích đất rừng trồng
1.3.
6 Đất rừng trồng tre nứa 124.1 1.19 so với diện tích đất rừng trồng
1.3.
7 Đất rừng trồng trám 50.2 0.48 so với diện tích đất rừng trồng
Nguồn: số liệu do Hạt kiểm lâm huyện Văn Lãng cung cấp.
- Diện tích đất rừng trồng: 10420.08 ha, chiếm 21.49% diện tích đất rừng tự
nhiên toàn huyện, quỹ đất này chưa nhiều. Cần các cấp chính quyền cũng như
người dân trong huyện nỗ lực trồng và bảo vệ rừng đảm bảo đời sống người dân.
Những cây trồng chính ở huyện gồm: thông, keo,sa mộc,hồi. Trong đó:
+ Thông là cây trồng mũi nhọn của huyện: 6525.53 ha, chiếm 62.62% diện
tích đất rừng trồng.
+ Diện tích đất trồng Hồi chưa nhiều: 978.28 ha, chiếm 9.39% diện tích đất
rừng trồng. Hồi là cây có giá trị lợi nhuận dòng cao nhưng Hồi là cây có chu kỳ
kinh doanh rất dài ( trên 100 năm) cung cấp các sản phẩm tinh dầu và sản phẩm
gỗ có giá trị cho con người.
Mặc dù được xác định là thế mạnh với diện tích cực lớn, lại tồn tại lâu đời
trên địa bàn nhưng thế mạnh đó đang ngày càng yếu bởi chưa có đầu ra ổn định
cho các sản phẩm từ cây thông và cây hồi. Chính quyền địa phương và người
dân cần áp dụng khoa học mới vào việc trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản
hoa hồi.
- Diện tích đất chưa có rừng cũng còn khá lớn: 19076.21 ha, chiếm 39.34%
diện tích rừng tự nhiên. Chính quyền địa phương cần có kế hoạch, quy hoạch sử
dụng hợp lý quỹ đất này để tránh tình trạng đất bỏ hoang.
23
4.1.2 Hiện trạng vùng trồng Hồi
Đối với huyện miền núi Văn Lãng, đất rừng trồng Hồi thường do
hộ gia đình khai hoang từ lâu đời hay một phần dất khoán của nhà nước. Khu
vực này thuộc vùng rừng núi cao, biên giới với Trung Quốc, xa trung tâm, địa
hình, giao thông hiểm trở. Tại đây Hồi được trồng ở trên đồi với tổng diện tích
năm 2013 là 981,5 ha. Trong 3 năm gần đây trung bình mỗi năm người dân
trồng mới khoảng 100 ha và đây hoàn toàn là giống Hồi thấp, cho năng suất cao.
Bảng 2: Diện tích trồng Hồi huyện Văn Lãng giai đoạn 2010 – 2013. (đơn
vị: ha)
[18]
2010 2011 2012 2013
Xã
Diện
tích
Trồng
mới
Diện
tích
Trồng
mới
Diện
tích
Trồng
mới
Diện
tích
Trồng
mới
Toàn
huyện 569,5 110,5 678 39,5 714,5 63,5 777,5 204
Thanh
Long 34,5 3 37,5 1,5 39 4,5 43,5 2,5
Hội Hoan 33 4 37 2,5 39,5 2,5 42 2
Hoàng
Việt 9 0 9 1,5 10,5 0,5 11 0
Gia Miễn 32,5 0,5 33 2,5 35,5 0,5 36 4,5
Nam La 285,5 92,5 378 6,5 381,5 36,5 418 178
Tân Mỹ 33,5 0,5 34 3,5 37,5 4,5 42 1,5
Văn Thụ 47 5 52 1,5 53,5 4 57 3,5
Hồng
Thái 49,5 0,5 50 7 57 2,5 59,5 5
Nhạc Kỳ 33 2 35 7 42 5 47 2
Bắc La 5 0 5 2,5 7,5 0,5 8 0
Khác 7 2,5 7,5 3,5 11 2,5 13,5 5
Nguồn: Niên giám thống kê Phòng thống kê huyện Văn Lãng năm 2013
Diện tích trồng hồi của các xã trong huyện Văn Lãng năm 2013 đều tăng
so với số liệu năm 2010, số diện tích trồng mới trong 4 năm là 417,5 ha. Năm
2013 diện tích trồng mới của huyện là 204 ha, chiếm 49% diện tích trồng mới
trong 4 năm của cả huyện. Trong đó xã Nam La có diện tích trồng mới tăng
24
mạnh nhất chiếm 75,1% diện tích trồng mới của cả huyện trong 4 năm. Bởi vì xã
Nam La nằm trong khuôn khổ Chương trình 68 (Chương trình hỗ trợ phát triển
tài sản trí tuệ của doanh nghiệp), dự án trồng hồi thí điểm tại các thôn đã góp
phần tăng nhanh diện tích trồng Hồi của xã. Hộ trồng Hồi nằm trong dự án được
hỗi trợ về kinh phí trồng Hồi là 15 triệu/ha, ngoài ra hộ còn được tập huấn về kỹ
thuật trồng và chăm sóc Hồi
[19]
. Ngoài ra, cây Hồi cũng chính là cây trồng chủ
lực của xã, đem lại lợi nhuận kinh tế cao, giúp bà con xóa đói giảm nghèo.
4.1.3. Đặc điểm sinh thái và kỹ thuật trồng Hồi
Cây Hồi có tên là Đại Hồi, Hồi tám cánh Mạy Hồi (Illicium verum Hook).
Là loài cây thân gỗ nhỡ lá rộng, thường xanh, cây trưởng thành cao khoảng 10 –
15 m với đường kính ngang ngực từ 25 – 40 cm
17]
. Thân cây thẳng, tròn, vỏ cây
màu xám. Tán lá hình trụ hơi tròn, cành non có màu xanh lá cây.
Tất cả các bộ phận của cây đều có mùi thơm dịu của tinh dầu Hồi. Lá đơn
mọc thành cụm đầu cành. Dài 6 – 12 cm, rộng 2,5 – 5 cm. Lá hình bầu dục hay
trứng ngược, đầu lá hơi nhọn, cuống lá dài 3 – 5 cm. Gân lá có hình lưới không
rõ rệt. Tuổi thọ của lá vào khoảng 22 tháng hay 34 tháng. Lá Hồi rụng nhiều vào
mùa khô hanh từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau. Hoa mọc đơn ở nách lá, có từ 6
– 9 cánh màu phấn hồng. Quả Hồi thường có 6 – 8 cánh. Quả hóa gỗ và có màu
nâu khi chín.
Trong một năm cây Hồi có hai đợt đâm chồi và ra cành. Đợt một vào vụ
xuân (tháng 2, tháng 3) và tồn tại trong 20 – 22 tháng, đợt hai ra chồi vụ hè thu
(tháng 5 – 6 đến tháng 9 – 10). Mùa xuân chủ yếu là ra lá, có tới 90% lá ra vào
mùa này. Vụ hè thu ra ít chồi, chiếm khoảng 5% tổng số chồi ra trong năm.
Cây Hồi ra hoa đậu quả rất phức tạp. Vụ tháng 4 thường không đậu quả,
vụ tháng 7 – 8 cho thu hoạch vào tháng 4 và tháng 5 năm sau. Vụ hoa thứ ba
thường lẫn với vụ hoa thứ hai vào tháng 8 – 9 và thu hoạch vào tháng 9 – 10
năm sau. Vụ hoa tháng 7 – 8 thường kéo dài 3 đến 4 tuần. Đến tháng 11- 12 quả
Hồi đã đạt kích thước gần như tối đa. Qua mùa Đông, đến mùa Xuân quả Hồi
tăng rất ít về kích thước cũng như trọng lượng. Đến tháng 4 – 5 quả chín thường
được thu hoạch vào giữa tháng 4 gọi là Hồi tứ quý, quả vụ này thường có cánh
cong. Đợt ra hoa vào tháng 8 – 9 quả chín vào tháng 9 – 10 năm sau gọi là vụ
Hồi mùa, quả vụ này có cánh thẳng hơn. Trong một năm có hai đợt quả rụng
nhiều, đọt rụng quả trong mùa Đông đôi khi do ảnh hưởng của sương muối.
Thông thường người ta vẫn tận thu các quả rụng này.
25