Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

300 Hệ thống phương pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.24 KB, 38 trang )

Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
Lời nói đầu
Kiểm toán là một lĩnh vực khoa học còn nhiều mới mẻ đối với Việt Nam
chúng ta. Quá trình hình thành và phát triển trong hơn một thập kỷ qua quả thật
là cha đủ cơ sở thực tiễn để chúng ta có thể đúc kết ,hình thành nên những kỹ
thuật và phơng pháp kiểm toán khoa học hoàn chỉnh đợc chuẩn hoá thật đầy đủ
bằng những mô hình và chơng trình cụ thể. Điều này cũng nói lên rằng không
thể có một hệ thống phơng pháp kiểm toán mang tính chuẩn mực chung áp
dụng cho mọi đối tợng và mọi nội dung kiểm toán cụ thể, mà trong mỗi cuộc
kiểm toán cụ thể đòi hỏi kiểm toán viên phải hết sức linh động lựa chọn những
phơng pháp kiểm toán thích hợp trên tinh thần kế thừa kinh nghiệm và phát huy
năng lực sáng tạo thích ứng với từng hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên, về phơng
pháp luận, phơng pháp của mọi môn khoa học đều xuất phát từ cơ sở phơng
pháp luận chung (duy vật biện chứng), từ cơ sở phơng pháp kỹ thuật chung
(toán học) và từ đặc điểm đối tợng nghiên cứu của mình. Do đó, kiểm toán cũng
có một hệ thống phơng pháp riêng gồm: Kiểm toán cân đối, đối chiếu trực tiếp,
đối chiếu lôgic và các phơng pháp kiểm toán chứng từ bao gồm: Kiểm kê, thực
nghiệm, điều tra.
Kiểm toán tài chính là một hệ thống hoạt động đặc trng và nằm trong hệ
thống kiểm toán nói chung. Do đó, để thực hiện chức năng xác minh và bày tỏ ý
kiến của mình thì kiểm toán tài chính cũng phải sử dụng các phơng pháp kiểm
toán chứng từ và phơng pháp kiểm toán ngoài chứng từ. Tuy nhiên, do mỗi loại
kiểm toán có chức năng cụ thể khác nhau, đối tợng cụ thể khác nhau và quan hệ
chủ thể , khách thể khác nhau nên trong kiểm toán tài chính cách thức kết hợp
các phơng pháp cơ bản trên cũng có những đặc thù riêng.
Chính vì những lý do trên mà em quyết định nghiên cứu đề tài Hệ
thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính.
Đề tài gồm 3 phần :
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 1
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A
Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính


Phần I: Khái quát chung về hệ thống phơng pháp kiểm toán trong
kiểm toán.
Phần II: Phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính.
Phần III: Phơng pháp thu thập bằng chứng trong kiểm toán trong các
giai đoạn của kiểm toán tài chính.
Do hạn chế về mặt trình độ và thời gian nên em không tránh khỏi những
thiếu sót rất mong đợc sự thông cảm của thầy, cô.
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 2
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A
Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
Phần I: Khái quát chung về hệ thống phơng
pháp kiểm toán trong kiểm toán
I. Khái quát về hệ thống phơng pháp kiểm toán
1. Tính tất yếu của việc hình thành hệ thống phơng pháp kiểm toán
Hoạt động kinh tế-xã hội nói chung, trong đó có hoạt động tài chính chứa
đựng nhiều mối quan hệ kinh tế-xã hội khác nhau và diễn ra ở phạm vi khác
nhau. Các mối quan hệ này đa dạng về chủng loại, phong phú về hình thức biểu
hiện và thờng xuyên biến đổi. Hơn nữa, thực trạng của hoạt động này không
phải đợc biểu lộ rõ ràng, trực diện, cũng không luôn luôn biểu lộ đầu đủ và rõ
ràng. Do đó, xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng này, rõ ràng không phải là
công việc đơn giản và dễ dàng. Trong khi đó, những ngời quan tâm lại luôn
luôn gửi niềm tin, có khi cả những kỳ vọng và hoạt động kiểm toán. Thực tế
khách quan đó đã và đang đòi hỏi kiểm toán phải hình thành một hệ thống ph-
ơng pháp hoàn chỉnh và khoa học.
Phơng pháp nói chung đợc hiểu là các biện pháp, cách thức thủ pháp sử
dụng để theo đuổi và đạt tới mục tiêu đề ra. Liên hệ với một cuộc kiểm toán cụ
thể, phơng pháp kiểm toán- trong một trờng hợp vận dụng đặc biệt của phơng
pháp khoa học- là những biện pháp, cách thức đợc sử dụng trong công tác kiểm
toán nhằm thực hiện mục đích kiểm toán đã đặt ra. Nhng kiểm toán là một
ngành khoa học còn non trẻ nên việc hình thành những kỹ thuật đa dạng cũng

nh đầy đủ kinh nghiệm để cho việc đúc kết thành hệ thống khoa học hoàn chỉnh
và chuẩn hoá thật đầy đủ bằng mô hình những chơng trình cụ thể. Tuy nhiên,
cũng nh mọi ngành khoa học khác, kiểm toán có phơng pháp chung nh những
cơ sở phơng pháp luận và phơng pháp kỹ thuật để hình thành những phơng pháp
xác minh và bày tỏ ý kiến của mình phù hợp với đối tợng kiểm toán. Thêm vào
đó , thực tiễn dù cha nhiều nhng kinh nghiệm tích lũy đã đủ cho việc khẳng
định tính độc lập của hoạt động kiểm toán cả trong lý luận và thực tiễn.
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 3
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A
Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
2. Cơ sở phơng pháp luận để hình thành hệ thống phơng pháp kiểm toán
Về cơ sở phơng pháp luận, đối với kiểm toán đó là phép biện chứng duy
vật. Quan điểm biện chứng không những chỉ ra tính lôgíc của quá trình nhận
thức mà còn vạch ra các mối quan hệ và quy luật vận động của mọi sự vật và
hiện tợng. Trong quan hệ với quá trình nhận thức, tính biện chứng thể hiện ở
quan hệ lôgíc từ trực quan sinh động đến t duy trừu tợng , từ cảm tính đến lý
tính với những giai đoạn cụ thể là : quan sát, sao chụp, phán đoán và suy
lý....Mỗi bớc nhận thức này cần đợc cụ thể hoá thành những phơng pháp gắn với
những hình thức vật chất xác định sao cho nhận thứ đúng và rõ ràng trong quá
trình xác minh và bày tỏ ý kiến của kiểm toán.
Phơng pháp biện chứng duy vật vận dụng trong kiểm toán còn bao hàm
nguyên lý: Phải xem xét các hiện tợng kinh tế cụ thể trong hoàn cảnh, không
gian và thời gian cụ thể. Nguyên lý đó của chủ nghĩa duy vật biện chứng rất
đúng và cần thể hiện tính nhất quán trong nhận thức luận về phơng pháp kiểm
toán.
Trong quan hệ với hệ thống phơng pháp kiểm toán , phép biện chứng duy
vật đòi hỏi kiểm toán viên khi nghiên cứu xem xét và lựa chọn phơng pháp
kiểm toán thích hợp phải quán triệt đầy đủ các mối quan hệ và quy luật khách
quan sau đây:
- Mọi sự vật và hiện tợng cũng nh các mặt, các bộ phận của sự vật, hiện t-

ợng đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy muốn xác minh , phán xét về
một mặt, một khoản mục hay sự vật, hiện tợng nào đó phải đặt nó trong mối
quan hệ biện chứng với các mặt, sự vật, hiện tợng khác. Thí dụ, nh những tơng
quan giữa thu-chi, xuất-nhập-tồn, giữa nguồn hình thành và vốn , giữa giá thành
và giá bán...
- Mọi sự vật và hiện tợng luôn vận động, phát triển, vận động là tuyệt
đối, đứng im là tơng đối. Cho nên khi nghiên cứu và phán xét mọi sự vật, hiện t-
ợng tại thời điểm kiểm toán phải đặt chúng trong trạng thái vận động, có xét
đến tác động tơng tác của các sự vật , hiện tợng khác.
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 4
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A
Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
- Mỗi sự vật, hiện tợng đều là một thể thống nhất mâu thuẫn nội tại của
chúng, luôn có sự đấu tranh và thông nhất giữa các mặt đối lập. Thống nhất chỉ
là tơng đối, mâu thuẫn là tuyệt đối và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập luôn
theo khuynh hớng phá vỡ sự thống nhất tong đối để thiết lập một thể thống nhất
mới hơn và trên cơ sở cao hơn. Thí dụ , việc nhận vốn đồng nghĩa với việc tăng
nguồn, bảng tổng kết tài sản sẽ đợc lập lại và tổng tài sản Nợ, Có sẽ tăng lên mà
vẫn đảm bảo tính cân đối.
- Mỗi sự vật , hiện tợng đều có bản chất riêng và đợc biểu hiện dới những
hình thái cụ thể. Điều này đòi hỏi việc nghiên cứu và kết luận về bản chất sự vật
và hiện tợng phải thấy đợc tính phổ biến và sự đa dạng trong hình thức biểu
hiện của chúng. Theo tinh thần đó, các phơng pháp kiểm toán cũng không thể
tách rời những quy luật và mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng,
giữa cái phổ biến, cái đặc thù và cái đơn nhất, giữa sự vận động vô cùng vô tận
trong không gian và thời gian và tính không mất đi của vật chất trong quá trình
vận động. Điều minh chứng cho nguyên lý này rất nhiều , chỉ dẫn ra trờng hợp
khi ta tính khấu hao tài sản cố định, giá trị hao mòn đã chuyển nhập vào chi phí
sản xuất , và về phía nguồn vốn, một bộ phận vốn cố định đã chuyển hoá thành
nguồn vốn lu động.

Nh vậy xét về mặt phơng pháp luận kiểm toán đòi hỏi chúng ta phải đứng
trên quan điểm duy vật biện chứng khi phân tích, lý giải các đối tợng kiểm toán.
Điều này là cơ sở đảm bảo từ ban đầu tính độc lập và khách quan của hoạt động
kiểm toán, đảm bảo tính chuẩn xác của các xét đoán mà kiểm toán viên nêu ra.
3. Cơ sở phơng pháp kỹ thuật để hình thành hệ thống phớng pháp kiểm
toán
Trong quan hệ với phơng pháp kỹ thuật kiểm toán trớc hết phải kể đến ph-
ơng pháp toán học , trực tiếp là các phơng pháp chọn mẫu ớc lợng khả năng
sai sót cùng các mối quan hệ tơng quan trong việc xem xét, dự thảo các mối
liên hệ cụ thể. Mặt khác do đối tuợng kiểm toán có quan hệ chặt chẽ với đối t-
ợng của kiểm toán , của phân tích kinh doanh nên kỹ thuật kiểm toán không thể
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 5
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A
Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
tách rời các phơng pháp kỹ thuật của các khoa học này . Mối quan hệ này đ-
ợc xác lập bởỉ cơ sở phơng pháp luận chung, cơ sở phơng pháp kỹ thuật chung
và sự gần gũi trong đối tợng nghiên cứu của các khoa học , phân tích và kiểm
toán.
Trong quan hệ với đối tợng kiểm toán , cần đặc biệt quan tâm tới hai phần
riêng biệt: Một phần là thực trạng hoạt động tài chính đã đợc phản ánh trong tài
liệu kế toán và phần khác cha đợc phản ánh kể cả phản ánh cha trung thực ( kể
cả gian lận và sai sót) trong tài liệu này . Đối với phần thứ nhất, việc xác minh
và bày tỏ ý kiến đã có cơ sở chứng minh là các tài liệu kế toán( kể cả gian lận
và sai sót) trong tài liệu này . Do vậy, kiểm toán có thể kế thừa cơ sở phơng
pháp kế toán , phân tích để xây dựng phơng pháp riêng của mình nh: kiểm toán
cân đối kế toán, đối chiếu các chỉ tiêu theo quan hệ trực tiếp hoặc lôgíc. Đối
với phần thứ hai(ngoài chứng từ) kiểm toán cha có cơ sở dữ liệu và do đó cần
có những phơng pháp thích hợp để có bằng chứng kiểm toán: điều tra, kiểm kê
hay thực nghiệm . Loại phơng pháp thứ nhất gọi là phơng phơng pháp kiểm
toán chứng từ; Loại thứ hai gọi là phơng pháp kiểm toán ngoài chứng từ.

4. Sự kết hợp giữa phơng pháp luận và phơng pháp kỹ thuật vào việc
hình thành hệ thống phơng pháp kiểm toán
Qua sự phân tích về cơ sở phơng pháp luận cũng nh cơ sở phơng pháp kỹ
thuật để hình thành hệ thống phơng pháp kiểm toán ta có thể nhận thấy phơng
pháp kiểm toán là sự vận dụng phơng pháp duy vật biện chứng và các bộ môn
khoa học tự nhiên và kinh tế vào quá trình thu thập bằng chứng, xác minh, đánh
giá, nhận xét những nội dung kiểm toán đợc thể hiện qua các thông tin do đối
tợng kiểm toán cung cấp và những tài liệu có liên quan nhằm đảm bảo tính độc
lập, khách quan cho kết luận kiểm toán.
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 6
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A
Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
II. Hệ thống phơng pháp kiểm toán
1. Các phơng pháp kiểm toán chứng từ
1.1. Kiểm toán cân đối
Đứng trên quan điểm biện chứng thì giữa các sự vật, hiện tợng cũng nh
giữa các mặt, bộ phận nội tại của chúng luôn có mối liên hệ , ràng buộc mật
thiết hàm chứa sự thống nhất và mâu thuẫn của các mặt đối lập(giữa cái chung
và cái riêng, giữa sự vận động và tính ổn định....) và sự liên hệ này luôn đợc cụ
thể hoá thành các quan hệ cân đối cụ thể nh: lợng phát sinh thêm với lợng mất
đi, giữa nguồn lực bỏ ra với kết quả thu về...Đối với hoạt động kiểm toán, trong
một cuộc kiểm toán cụ thể kiểm toán viên phải tiến hành các thử nghiệm, thủ
tục kiểm soát và bày tỏ ý kiến về các hoạt động tài chính mà thực trạng hoạt
động tài chính cũng không tách rời tính phổ quát của những mối liên hệ và tính
cân đối này. Chính vì vậy việc nắm bắt đợc một cách chính xác và bản chất của
các quan hệ, cân đối tài chính kế toán có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc
thiết lập và sử dụng phơng pháp kiểm toán cân đối. Đó là phơng pháp dựa trên
các cân đối (phơng trình) kế toán và các cân đối khác để kiểm toán các mối
quan hệ nội tài của các yếu tố cấu thành quan hệ cân đối đó.
Theo tinh thần đó, trong kiểm toán trớc hết chúng ta phải xét đến các cân

đối tổng quát đợc coi là phổ biến cho mọi nghiệp vụ của hoạt động tài chính kế
toán.
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn kinh doanh.
Tổng tài sản = Nguồn vốn chủ sở hữu + Công nợ.
Hay Tổng phát sinh Nợ = Tổng phát sinh Có.
Theo nh chế độ quy định cũng nh những chuẩn mực kế toán đã đợc chấp
nhận, kiểm toán viên phải xem xét các cân đối tổng quát này có luôn đợc duy
trì một cách hợp lý hay không( nh việc xem xét sự tồn tại và sự chính xác về
mặt số học của các khoản mục cấu thành nên tổng tài sản và nguồn vốn trên
bảng cân đối kế toán...). Trong thực tế, có thể có những trờng hợp các mối quan
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 7
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A
Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
hệ này thờng xuyên không đợc duy trì. Khi đó kiểm toán viên cần tiến hành các
soát xét thử của mình để đa ra cách lý giải tốt nhất cho sự không cân bằng đó.
Trớc hết, cần xem xét lại bản chất riêng của từng mối liên hệ cụ thể để tìm
kiếm nguồn gốc phát sinh ra sự không cân đối đó. Thông thờng có ba nguyên
nhân sau đây:
Thứ nhất: Trong một số trờng hợp, do bản thân các quy định, chế độ về
kinh tế nói chung và của kế toán nói riêng làm cho các quan hệ đó không cân
bằng về lợng. Trờng hợp này thờng xuất hiện trong tổ chức quản lý có các đơn
vị kế toán cơ sở độc lập có liên hệ dọc theo các ngành kinh tế-kỹ thuật hoặc
ngành chuyên sâu qúa chặt chẽ về tài chính(các ga, trạm ....của vận tải đờng sắt,
hàng không, bu chính viễn thông), các đơn vị kế toán đợc phân cấp tài chính
không đầy đủ nh nông trờng, nhà máy, công ty trong một Tổng công ty hay một
công ty mẹ...
Đối với các đơn vị này nếu không có quy định cụ thể và chặt chẽ về phân
cấp hạch toán, về kỹ thuật kế toán tài chính thì thờng xuất hiện sự mất cân đối
trên bảng cân đối kế toán, thậm chí nhiều tài sản, nhiều hoạt động ở các đơn vị
cơ sở vô tình hay cố ý bị loại ra khỏi Bảng cân đối tổng hợp.

Thứ hai: Sự mất cân đối là do lỗi về xử lý tài chính. Trờng hợp này thờng
diễn ra trong khoảng thời gian dài và thờng gặp trong các đơn vị khó phân định
trong việc xử lý các mối liên hệ từ liên kết qua hợp đồng chuyển qua liên doanh
hoặc trong các đơn vị không xử lý triệt để về tài chính trong trờng hợp tài sản ,
vật t có thất thoát hoặc thừa ra trong kiểm kê, trong kinh doanh ...hoặc có thể
do sự cố ý không thực hiện quy tắc tài chính đều dẫn dắt đến tình trạng mất cân
đối về kế toán nh lập quyết toán giả để nhận vốn dẫn đến vốn không cân đối với
tài sản thực....
Thứ ba: Sự mất cân đối đơn giản là do lỗi của kế toán do việc làm tắt, tính
ẩu, do sự không phản ứng kịp trớc các quan hệ kinh tế tài chính mới lạ phát
sinh, do đó định khoản hạch toán sai với bản chất kinh tế của nghiệp vụ, hoặc
bỏ ra ngoài sổ sách mà không hạch toán.
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 8
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A
Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
Khi vào cuộc kiểm toán , các kiểm toán viên trớc hết phải xác định xem
các cân đối tổng quát có cân bằng không và nếu không cân bằng thì do nguyên
nhân nào. Kiểm toán viên phải luôn tâm niệm một điều rằng dù quan hệ cân đối
tổng quát có tồn tại hay không thì kiểm toán cân đối vẫn phải đợc tiến hành.
Nghĩa là các công việc nh: Đối chiếu giữa số phát sinh Nợ và Có, giữa số phát
sinh tăng giảm trong kỳ rồi tính ra và đối chiếu số d đầu kỳ và cuối ký....vẫn
phải luôn đợc tiến hành để đảm bảo cơ sở dẫn liệu cho việc kết luận về sự tồn
tài chính xác và đúng ý của các khoản mục trên báo cáo tài chính thể hiện kết
luận kiểm toán.
1.2. Đối chiếu trực tiếp
Nội dung của phơng pháp này là kiểm toán viên tiến hành so sánh, đối
chiếu về mặt lợng của cùng một chỉ tiêu trên các nguồn tài liệu khác nhau(các
chứng từ kiểm toán). Kiểm toán viên có thể dựa trên các đối chiếu cơ bản sau
đây:
- Đối chiếu số liệu kỳ này với kỳ trớc(giữa số cuối kỳ với số đầu năm hoặc

giữa các kỳ khác nhau trên bảng cân đối kế toán để nghiên cứu, xem xét bản
chất biến động của các mặt hoạt động tơng ứng với chỉ tiêu đó hoặc giữa các bộ
phận , mặt nội tại để xem xét cơ cấu, tỷ trọng của chúng trong toàn thể(Ví dụ:
Số tiền = Số lợng x đơn giá )
- So sánh trị số thực tế đạt đợc với các trị số kế hoạch , định mức trong
giấy phép đầu t, hợp đồng sản xuất kinh doanh , kế hoạch sản xuất kỹ thuật-tài
chính , dự toán chi phí...để xem xét, đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch các
chỉ tiêu đặt ra và nếu không hoàn thành thì do các nguyên nhân từ đâu.
- So sánh số liệu giữa các đơn vị trong cùng ngành, cùng loại hình kinh
doanh hay cùng lãnh thổ với quy mô tơng đơng. Hoặc so sánh giữa các chỉ tiêu
của từng đơn vị cá biệt với chỉ tiêu bình quân trong ngành. Điều này cho phép
đánh giá sự thống nhất về mặt số học của các chỉ tiêu nh chi phí, lợi nhuận....ở
trên các bản cân đối kế toán, các sổ tổng hợp hay sổ chi tiết liên quan cũng nh
giúp phát hiện sự chênh lệch nghi ngờ để kiểm toán viên có thể thiết lập những
thử nghiệm hay biện pháp rà soát cần thiết.
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 9
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A
Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
- Đối chiếu các con số của cùng một chứng từ song đợc bảo quản và lu trữ
tại các địa điểm khác nhau(nh đối chiếu phiếu thu của kế toán thanh toán với
liên phiếu thu tơng ứng do thủ quỹ giữ, giấy thanh toán tạm ứng do kế toán
thanh toán giữ với liên tơng ứng của cá nhân tham gia trực tiếp và nghiệp vụ
thanh toán tạm ứng đó....) Việc đối chiếu này sẽ đợc tiến hành đơn giản và sẽ
giúp cho việc phát hiện các sai sót số học hay gian lận trong việc ghi tăng thu ,
giảm chi.
- Đối chiếu giữa số nợ phải thu, phải trả và số xác nhận của con nợ , chủ
nợv..v
Sau khi tiến hành các đối chiếu cần thiết kiểm toán viên sẽ xác định những
tính chất hay những sai lệch không bình thờng trong bản cân đối kế toán hay
trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Chẳng hạn , đối chiếu chỉ tiêu lợi

nhuận còn lại của doanh nghiệp thấy thay đổi từ 10 tỷ đồng của năm trớc sang 5
tỷ đồng của năm nay thì đó quả là một sự thay đổi lớn mà các kiểm toán viên
phải lu tâm, sự thay đổi này có thể là khách quan (do lạm phát dẫn tới thay đổi
giá, do thay đổi loại hình kinh doanh hay do chính sách tài chính mới ban hành
liên quan tới việc tăng tỷ lệ lợi nhuận để lại doanh nghiệp...), cũng có thể do các
sai sót thông thờng về mặt tính toán số học và cũng không loại trừ gian lận của
các nhà quản lý và cán bộ nghiệp vụ trong doanh nghiệp với thủ đoạn ngày càng
tinh vi hơn,khó phát hiện hơn...
Trong thực tế , do tính chất đơn giản những hiệu quả, phơng pháp đối
chiếu trực tiếp đợc sử dụng rất rộng rãi(xuất hiện hầu nh trong toàn bộ các cuộc
kiểm toán). Song phơng pháp này chỉ thực sự phát huy tác dụng trong trờng hợp
các chỉ tiêu quan tâm đuợc hạch toán theo cùng một chuẩn mực(về nội dung, về
phuơng pháp và đơn vị hạch toán, về phạm vi biểu hiện) và phải trong cùng một
khoảng thời gian và điều kiện tơng tự nhau tức là các chỉ tiêu so sánh phải đồng
nhất và cùng một phơng pháp tính toán. Chính vì vậy trong nhiều trờng hợp để
tăng cờng tối đa độ tin cậy của kết luận kiểm toán, kiểm toán viên còn phải sử
dụng đến phơng pháp kiểm toán lôgíc.
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 10
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A
Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
1.3. Đối chiếu lôgíc
Đối chiếu lôgíc là việc nghiên cứu các mối liên hệ giữa các chỉ tiêu có
quan hệ với nhau thông qua việc xem xét mức biến động tơng ứng về trị số của
các chỉ tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp, song có thể có mức biện đọng khác
nhau và có thể theo các hớng khác nhau.
Yêu cầu của đối chiếu lôgíc là kiểm toán viên phải phát hiện đợc những
điểm không hợp lý của các mối quan hệ mang tính tất yếu, hiển nhiên để có các
thử nghiệm ,thủ tục kiểm toán kịp thời và cần thiết đối với các đối tợng cụ thể
nhằm lợng hoá cho những chênh lệch cùng nguyên nhân của chúng, phục vụ
cho việc tạo lập các bằng chứng kiểm toán. Chẳng hạn:

- Khi tài khoản tiền giảm đi đáng kể thì các khoản mục tơng ứng cũng phải
có biến động với mức độ phù hợp. Có thể xảy ra các trờng hợp sau:
+ Nếu công ty xuất tiền đề mua nguyên vật liệu(đối với đơn vị sản
xuất)hoặc mua hàng hoá (đối với đơn vị kinh doanh thơng mại) thì các tài
khoản vật t hàng hoá phải tăng lên.
+ Nếu số tiền mặt đợc xuất ra đợc dụng để chi trả các khoản phải trả (cho
ngời bán, cho công nhân viên, nộp lệ phí cấp trên...) thì các khoản phải trả sẽ
giảm đi.
+ Nếu tài khoản tiền gửi ngân hàng đợc chuyển khoản để mua sắm tài sản
cố định, đầu t xây dựng cơ bản ...thì các khoản giá trị tài sản cố định hoặc chi
phí đầu t xây dựng dở dang phải tăng lên.
- Tơng tự nh vậy khi thành phẩm hoặc hàng tồn kho giảm thì cũng có
nghĩa tiền mặt, tiền gửi hoặc các khoản phải thu phải tăng (do doanh thu tăng).
Kiểm toán viên phải lu ý rằng, hớng biến động của hàng tồn kho và các khoản
mục liên quan là ngời nhau, nghĩa là nếu khối lợng hàng tồn kho tăng(hoặc
giảm) thì các khoản mục liên quan nh tiền , chi phí sản xuất ...phải giảm (hoặc
tăng lên). Hơn nữa mức biến động cũng có thể không đồng nhất trên từng khoản
mục , bởi lẽ ở đây số lợng và đơn vị tính tham gia vào tính toán là khác nhau
song tất nhiên phải ở một xu hớng biến động có thể chấp nhận đợc.
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 11
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A
Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
- Một trờng hợp khác nữa là khi lợng tài sản cố định tăng lên thì sẽ dẫn
đến hoặc là lợng tiền vay dài hạn tăng lên ( do công ty dùng khoản tiền này đề
mua sằm tài sản cố định ) hoặc lợng chi phí xây dựng cơ bản dở dang giảm
xuống(trờng hợp này do tài sản cố định hoàn thành kết chuyển chi phí xây lắp
hoàn thành) hay do đơn vị nhận tài sản cố định do ngời góp vốn liên doanh bằng
tài sản cố định.
Nh vậy phơng pháp đối chiếu lôgíc sẽ rất hữu ích trong việc giúp kiểm
toán viên phát hiện một cách nhanh nhất các gian lận, sai sót khi tiến hành xem

xét khai quát các mối quan hệ kinh tế-tài chính thuộc đối tợng kiểm toán và trên
cơ sở đó sẽ định hớng cho việc kiểm toán từng khoản mục, nghiệp vụ cụ thể khi
phát hiện thấy những mâu thuẫn (chênh lệch quá lớn) hay xu hớng biến động
của các chỉ tiêu có liên quan trái với xu hớng bình thờng.
Nh vậy, khi sử dụng hai phơng pháp kiểm toán đối chiếu trực tiếp và đối
chiếu lôgíc, một công việc chung và mang tính bắt buộc mà kiểm toán viên phải
thực hiện là đối chiếu, soát xét tài liệu , tất nhiên là trên các phơng diện khác
nhau do đặc thù và đòi hỏi của từng phơng pháp . Chính vì vậy trong kiểm toán,
sự kết hợp của hai phơng pháp trên đây còn đợc gọi là Phơng pháp kiểm toán
rà soát tài liệu. Song cũng cần lu ý rằng khi việc rà soát tài liệu đợc thực hiện
xong thì phơng pháp đối chiếu này còn đợc sử dụng một cách rộng rãi hơn nh
những cách t duy , suy lý cho nhiều mối liên hệ. Và theo đó, kiểm toán tài chính
đã hình thành 3 loại trắc nghiệm là : Trắc nghiệm công việc, trắc nghiệp trực
tiếp các số d, trắc nghiệp phân tích.
Trong thực tế, kiểm toán viên thờng tiến hành kiểm toán thực trạng hoạt
động tài chính đã có cơ sở dẫn liệu là các sổ sách , báo cáo tài chính của đơn vị
(nghĩa là đã đợc phản ánh trong hệ thống thông tin kế toán) là chủ yếu và các
khoản mục , phần tiến hành kiểm toán quan trọng cũng thờng rơi vào trờng hợp
này. Do đó phơng pháp kiểm toán chứng từ(bao gồm: kiểm toán cân đối, đối
chiếu trực tiếp và đối chiếu lôgíc) đợc sử dụng rất phổ biến, đợc coi là phơng
pháp chủ đạo có ý nghĩa theo chốt quyết định tới chất lợng của kết luận kiểm
toán. Tuy nhiên để phơng pháp này thức sự phát huy tác dụng thì việc vận dụng
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 12
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A
Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
nó cần phải đợc thực hiện qua hai công đoạn cụ thể là phân tích tổng quát và
kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số d tài khoản:
- Phân tích tổng quát : Đây là kỹ thuật đợc áp dụng đầu tiên cho mọi cuộc
kiểm toán để có thể đa ra những nhận xét và bày tỏ những ý kiến khái quát nhất.
Muốn việc phân tích tổng quát đạt hiệu quả cao với thời gian ít, chi phí thấp thì

không có sự lựa chọn nào khác là phải có sự hiểu biết kỹ lỡng các hoạt động
của công ty (nếu cần kiểm toán viên phải trao đổi, phỏng vấn các nhân viên bán
hàng, nhân viên trong nhà máy, các kỹ s và nhân viên hành chính.) Trong trờng
hợp một bộ phận , một khoản mục có giá trị không đáng kể so với tổng thể các
thông tin tài chính và không có các dấu hiệu biến động bất thờng, đồng thời
mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát thấp thì đôi khi kiểm toán viên chỉ
cần áp dụng phơng pháp phân tích tổng quát là đã có thể rút ra những nhận xét
cần thiết mà không cần áp dụng thêm thủ tục kiểm toán nào khác.
- Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số d tài khoản : Ta biết rằng phơng
pháp kiểm toán ra đời sớm nhất là kiểm tra việc ghi chép từng loại hoạt động
sản xuất kinh doanh. Nó thích hợp với việc kiểm tra các doanh nghiệp có quy
mô nhỏ, các loại nghiệp cụ có tính chất không phức tạp, hoặc những bộ phận,
những khoản mục nhạy cảm trong kinh doanh (nh tiền mặt, chứng khoán, các
loại vật t, hàng hoá quý hiếm...). Khi phân tích tổng quát thờng cha đủ để đa ra
kết luận kiểm toán thì việc kiểm tra chi tiết đợc tiến hành . Tuy nhiên công việc
kiểm tra đó trở nên không thực tế khi quy mô hoạt động và khối lợng giao dịch
hàng ngày càng tăng lên. Bởi vậy kiểm toán hiện đại thờng không kiểm tra chi
tiết toàn bộ các nghiệp vụ, các số d tài khoản mà việc kiểm tra chi tiết chủ yếu
đợc dựa trên cơ sở kiểm tra mẫu một số nghiệp vụ cùng loại (phong pháp kiểm
tra chọn mẫu). Điều này sẽ đựoc trình bày rõ hơn ở phần sau.
2. Phơng pháp kiểm toán ngoài chứng từ
Việc áp dụng các phơng pháp kiểm toán là nhằm thu thập các bằng chứng
kiểm toán đầy đủ và thích hợp làm cơ sở cho các ý kiến nhận xét của kiểm toán
viên về báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Nếu nh phơng pháp kiểm toán
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 13
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A
Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
chứng từ đợc thực thi trong trờng hợp đối tợng kiểm toán là thực trạng hoạt
động tài chính đợc phản ánh trong hệ thống kế toán của đơn vị (khách thể kiểm
toán) thì phơng pháp kiểm toán ngoài chứng từ lại đặc biệt phát huy tác dụng

khi kiểm toán viên không thể hoặc lợng thông tin phục vụ các nội dung kiểm
toán là cha đủ, hoặc thông tin phục vụ các nội dung kiểm toán là cha đủ, hoặc
không đợc phản ánh trên hệ thống sổ sách, báo cáo tài chính của đơn vị. Phơng
pháp kiểm toán ngoài chứng từ bao gồm ba phơng pháp : kiểm kê, điều tra,và
thực nghiệm.
2.1. Phơng pháp kiểm kê
Kiểm kê là phơng pháp kiểm tra tại chỗ các loại tài sản. Đây là phơng
pháp kiểm toán đơn giản, phù hợp với chức năng xác minh của kiểm toán. Do
vậy, trong nhận thức phải luôn gắn chặt kiểm kê vào quy trình chung của kiểm
toán, đặc biệt là ngoại kiểm. Trên thực tế, đặc biệt khi quan hệ chủ thể - khách
thể kiểm toán cha đợc xác lập ổn định về pháp lý hoặc trong thực hành, nhiều
công ty kiểm toán chỉ đợc mời sau khi đơn vị đợc kiểm toán đã kiểm kê xong
các tài sản vật chất. Trong trờng hợp này rủi ro kiểm toán rất lớn và là một trong
những yếu tố tạo ra sự khác biệt về kỳ vọng giữa kiểm toán viên và những ngời
quan tâm. Tất nhiên, chức năng của kiểm toán đợc thực hiện với nhiều đối tợng
khác nhau, trong nhiều khách thể với những chủ thể kiểm kê cũng đợc thực hiện
thích ứng về thời điểm (định kỳ hay đột xuất hoặc thờng xuyên), về loại hình
(kiểm kê toàn diện hay kiểm kê điển hình hoặc chọn mẫu)
Trong mọi trờng hợp, để phát huy tác dụng và nâng cao hiệu quả kiểm kê,
cong tác kiểm kê cần đợc thực hiện theo qui trình chung từ khâu chuẩn bị đến
thực hành và kết thúc kiểm kê.
Chuẩn bị kiểm kê phải căn cứ vào mục tiêu, quy mô, thời hạn kiểm kê để
bố trí lực lợng và cơ cấu nhân viên, các thiết bị đo lợng phù hợp và chính xác.
Đây là yếu tố quyết định chất lợng của kiểm kê nói riêng và của kiểm toán nói
chung.
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 14
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A
Đề án môn học Hệ thống phơng pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
Thực hành kiểm kê phải theo đúng yêu cầu và ghi chép đầy đủ theo từng
mã cân hoặc lô hàng Phiếu (sổ) mã cân hay Phiếu kiểm kê trở thành chứng từ

kiểm toán.
Kết thúc kiểm kê cần có biên bản trong đó phải nêu rõ chênh lệch các
nguyên nhân và xử lý cụ thể. Biên bản cần đợc đính kèm phiếu kiểm kê (mã
cân) và bảng kê chênh lệch về kết quả kiểm kê.
2.2. Phơng pháp thực nghiệm
Thực nghiệm là phơng pháp diễn lại hoặc nghiên cứu, phân tích từng yếu
tố cấu thành của một tài sản, một quá trình đã có, đã diễn ra và cần xác minh
lại. Do vậy, thực nghiệm còn đợc gọi là phơng pháp "làm lại". Chẳng hạn, để
xác minh lại hao phí hoặc kết quả sản xuất có thể phải làm thử lại một mẻ hàng
để khẳng định rõ những điều nghi vấn. Ví dụ: Mức hao phí vật liệu hoặc lao
động hoặc sản lợng tơng ứng. Trong một số trờng hợp, kiểm toán phải sử dụng
nhiều cách thức trong hoá nghiệm, trong kỹ thuật hình sự, để khẳng định một
vụ việc trớc khi đa ra những kết luận kiểm toán.
2.3. Phơng pháp điều tra
Điều tra là phơng pháp kiểm toán mà theo đó bằng những cách thức khác
nhau kiểm toán viên tiếp cận đối tợng kiểm toán nhằm tìm hiểu, thu nhận những
thông tin cần thiết để đánh giá và xác định lại một tài liệu hoặc một thực trạng
rồi đi đến những đánh giá, nhận xét hay kết luận kiểm toán.
Tuỳ theo yêu cầu của từng cuộc kiẻm toán và đặc điểm của từng đối tợng
kiểm toán cụ thể, kiểm toán viên có thể sử dụng các phơng pháp điều tra khác
nhau:
- Phỏng vấn, điều tra trực tiếp: Kiểm toán viên gặp gỡ và trao đổi trực tiếp
với các đối tợng liên quan (chẳng hạn trong một cuộc kiểm toán lơng đó là kế
toán lơng, thủ quỹ, cán bộ công nhân viên trong đơn vị đợc lĩnh lơng, các đối t-
ợng nhận tiền, hàng hoá vật t ) Theo cách này những thông tin mà kiểm toán
viên thu thập đợc thờng rất chi tiết và khách quan với độ tin cậy cao song cái
khó là ở chỗ phải làm sao tạo đợc cảm giác thoải mái, trung thực của các đối t-
Sinh viên thực hiện: Phạm Mạnh Hùng 15
Trờng ĐHKTQD, Lớp: Kiểm toán 43A

×