Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

KINH NGHIỆM Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.27 KB, 16 trang )

Kinh nghiệm
"Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5"
Phần I: Đặt vấn đề:
I. Cơ sở lý luận
Trong quá trình học tập môn Tiếng Việt của học sinh ở trờng tiểu học,
bài tập làm văn là nơi để các em thể hiện vốn sống, vốn văn học, khả năng
cảm thụ văn học, các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt một cách tổng hợp. Tập làm
văn có vai trò quan trọng là trau dồi vốn sống, cảm thụ văn bản, cảm nhận,
diễn tả và luyện cho các em cách thể hiện suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của
mình bằng ngôn ngữ nói và viết.
Trong phân môn Tập làm văn, thể loại văn miêu tả là thể loại văn dùng lời
có hình ảnh và cảm xúc làm cho ngời đọc, ngời nghe hình dung một cách rõ
nét, cụ thể về đối tợng miêu tả nh nó vốn có trong đời sống. Văn miêu tả có
đặc điểm là giàu cảm xúc, giàu trí tởng tợng và sự đánh giá của ngời viết đối
với đối tợng đợc miêu tả. Tuỳ từng đề bài mà các em nhấn mạnh mặt nào hơn.
Ví dụ: Khi tả ngời chú ý đến cả hình dáng hoạt động, tính tình. Ba mặt này th-
ờng thống nhất với nhau làm rõ hình thái tính cách của ngời đợc tả. Còn tả
cảnh sinh hoạt phải dùng lời nói để vẽ lên bức tranh giàu hình ảnh, màu sắc,
đờng nét, âm thanhvề hoạt động của nhiều ngời trong cùng một thời gian và
địa điểm thì lúc này phong cảnh chỉ là nét phụ.
Năm học 2008-2009 tôi đã tích cực tìm tòi, nghiên cứu sách vở, tài liệu và
học hỏi đồng nghiệp, tích luỹ đợc một số kinh nghiệm "Rèn kĩ năng viết văn
miêu tả cho học sinh lớp 5".
Thể loại văn miêu tả trong chơng trình tập làm văn lớp 5 gồm 43 tiết, trong
đó có 10 tiết ôn tập về tả đồ vật, cây cối, con vật và 33 tiết học bài mới (tả
cảnh: 18 tiết, tả ngời: 15 tiết) .Về thời lợng chiếm
2
1
phân môn của môn Tập
làm văn. Mặt khác ,đối với học sinh tiểu học, việc viết đợc bài văn miêu tả đã
khó, viết đợc bài văn hay lại càng khó. Chính vì vậy, tôi nghiên cứu và sáng


kiến kinh nghiệm này để nâng cao kĩ năng tập làm văn cho học sinh lớp 5 (khi
hoàn thành chơng trình tiểu học)
Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chơng trình Tiếng
Việt ở tiểu học. Để làm một bài văn hay, có hình ảnh, cảm xúc đòi hỏi học
sinh phải biết vận dụng các kiến thức ở các phân môn Tập đọc, Luyện từ và
câu, Kể chuyệnvà rộng hơn nữa là các môn Khoa học xã hội, Khoa học tự
nhiên.Vì các kiến thức ở các bộ môn này sẽ giúp học sinh có đợc t liệu để viết
bài văn và biết cách trình bày suy nghĩ của mình một cách mạch lạc, rõ ràng,
sáng sủa và hấp dẫn. Thế nhng chỉ có kiến thức nói trên thôi thì cha đủ bởi vì
1
Tập làm văn là một phân môn độc lập, nó có hệ thống lý thuyết riêng nhằm
xây dựng các thể loại ( loại bài ) văn chơng nh miêu tả , tự sự (kể chuyện),
viết th, đơn từ,và ở từng thể loại bài lại đòi hỏi phải rèn luyện để có đợc
những kĩ năng cần thiết .
II. Cơ sở thực tiễn :
Những năm gần đây , sách tham khảo viết về phân môn Tập làm văn lớp 5 để
phục vụ việc dạy và học đợc đề xuất, luận bàn khá nhiều. Những cuốn sách
đó thờng phân hoá theo hai hớng: Một là thiên về lí thuyết, hai là cung cấp
những dàn bài hoặc bài văn mẫu của học sinh. Kết hợp với đọc sách, tài liệu
với phơng pháp giảng dạy (đợc học tập qua các lớp bồi dỡng thờng xuyên),
đội ngũ giáo viên tiểu học đã giúp học sinh có đợc những bài văn tốt, những
câu văn hay với những chi tiết độc đáo. Song số học sinh viết đợc những bài
văn có bố cục rõ ràng, biết lựa chọn những chi tiết hợp lí, hình ảnh chính xác
còn rất hiếm. Kết quả đó một phần do cách dạy của giáo viên cha chú trọng
tới việc hớng dẫn học sinh cách làm bài, còn yêu cầu học sinh đọc nhiều văn
mẫu để nhớ nên những bài văn này thờng khô khan, tình cảm thiếu chân thực
và đôi chỗ lời văn, ý văn còn y nguyên hoặc na ná một bài tập đọc hay một
bài văn mẫu. Ví dụ: Khi làm một bài văn tả cảnh sông nớc, có nhiều học sinh
đã sao chép một số câu văn. Cá biệt có những em sao gần nh toàn bộ bài tập
đọc "Hoàng hôn trên sông Hơng"(Sách Tiếng Việt lớp 5 tập 1).

Ngoài việc "sao chép" văn mẫu, trong thực tế còn có tình trạng học sinh
còn lẫn lộn các kiểu bài mặc dù yêu cầu khác nhau. Lỗi dùng từ, viết câu, liên
kết ý cũng rất phổ biến trong quá trình viết văn miêu tả của học sinh tiểu học.
III. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu sâu sắc hơn về yêu cầu, nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn lớp
5, thể loại văn miêu tả .
- Đề xuất một số kinh nghiệm hớng dẫn học sinh lớp 5 luyện tập các kĩ năng
viết văn miêu tả theo hớng đổi mới, phát huy đợc tính tích cực, chủ động và
sáng tạo của học sinh.
- Trao đổi trong tổ chuyên môn cùng áp dụng thực hiện góp phần khắc phục
những hạn chế trong việc hớng dẫn học sinh các kĩ năng viết văn miêu tả (đặc
biệt là kiểu bài tả ngời và tả cảnh)
IV. Phạm vi nghiên cứu
V. Phơng pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu kinh nghiệm "Rèn kĩ năng viết bài văn miêu tả
cho học sinh lớp 5" tôi đã sử dụng kết hợp nhiều phơng pháp. Đó là:
- Phơng pháp đọc sách, tài liệu.
- Phơng pháp điều tra.
- Phơng pháp thực nghiệm.
- Phơng pháp đối chứng.
- Phơng pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
Phần II: nội dung
2
III. Các bớc cơ bản khi làm một bài văn miêu tả :
Đối với bất cứ một bài văn nào , kể cả bài văn miêu tả ,khi viết , các em cũng
cần phải thực hiện 5 bớc sau đây:
1. Tìm hiểu đề.
2. Quan sát.
3. Tìm ý và lập dàn ý.
4Viết bài.

5. Hoàn chỉnh bài viết.
Với 5 bớc trên, học sinh cần có các kĩ năng tơng ứng vì vậy hớng dẫn học sinh
các kĩ năng tìm hiểu đề, quan sát, tìm ý, lập dàn ý, viết bài và hoàn chỉnh bài
là việc làm quan trọng.
IV. Hớng dẫn học sinh rèn các kĩ năng viết văn miêu tả:
1. Kĩ năng tìm hiểu đề:
Việc phân tích tìm hiểu đề giúp các em xác định đợc yêu cầu , giới hạn của đề
bài.Với mỗi đề bài cụ thể , khi phân tích tìm hiểu đề cần hớng dẫn cho học
sinh trả lời các câu hỏi : Viết để làm gì? Viết về cái gì? Viết cho ai? Thái độ
cần bộc lộ trong bài là thái độ nh thế nào? Đích của bài viết không phải lúc
nào cũng nhận thấy.
Ví dụ: Với đề bài "Em hãy viết một bài văn tả một ngời thân yêu nhất đối
với em." Nhng thực ra mục đích thực sự của bài viết này là thông qua việc
miêu tả ngoại hình và tính nết, các em cần thể hiện đợc tình cảm thân thơng
đối với đối tợng miêu tả .
Trong khi tìm hiểu đề, có những học sinh vì không xác định đợc rõ thái
độ cần có khi tả nên khi tả ngời hoặc tả cảnh mình yêu mến lại có những chi
tiết phản ánh một thái độ không a thích hay không bộc lộ đợc tình cảm đối
với đối tợng miêu tả. Đó cũng chính là lí do khiến mỗi giáo viên chúng ta khi
dạy học sinh làm một bài văn miêu tả không thể bỏ qua việc rèn cho học sinh
bộc lộ rõ thái độ, tình cảm của mình khi viết. Vì vậy cần xen vào bài làm
những câu văn nêu nhận xét suy nghĩ của mình. Nhng tình cảm, thái độ không
phải lúc nào cũng thể hiện ở những câu nói trực tiếp nh: em rất yêu , em rất
thích, em rất quý, mà có thể thểhiện qua cách miêu tả . Ví dụ : Có thể đa
ra hai câu văn tả để học sinh so sánh:
1. Chúng em đã đến thăm quảng trờng Ba Đình .
2. Thế là chúng em đã đợc đến thăm quảng trờng Ba Đình .
Khi so sánh, học sinh có thể đa ra nhận xét rằng: Câu 1 chỉ có sự kiện,
còn câu 2, ngoài việc nêu sự kiện, tác giả của câu văn đó còn thể hiện đợc tình
cảm: Việc đến thăm quảng trờng Ba Đình là điều mong mỏi và tự hào.

2. Kĩ năng quan sát:
3
Điều quyết định sự thành công của một bài văn miêu tả là nội dung bài
văn nên các em phải "có cái gì để viết" mới có thể tả đợc. Một trong những
cách để "có cái gì để viết" là quan sát. Muốn quan sát có hiệu quả, giáo viên
cần phải dạy học sinh xác định mục đích quan sát, hơn thế nữa, các em phải
có tấm lòng, biết yêu, biết ghét, phải có cách nghĩ, cách cảm riêng của mình.
Quan sát sao cho khi làm văn phản ánh đợc đối tợng vừa cụ thể, chi tiết, vừa
có tính khái quát. Chi tiết phải làm cho ngời đọc thấy đợc bản chất của sự vật.
Vì vậy, cần dạy học sinh khi quan sát phải lựa chọn . Bài văn cần có các chi
tiết cụ thể nhng đó không phải là chi tiết rời rạc, hay mang tính liệt kê mà đó
là những chi tiết lột tả đợc cái riêng của ngời và vật.Ví dụ tả ngoại hình của
ngời, không nhất thiết phải tả hết cả mắt, mũi, tai, miệng, da, tóc, mà phải
tập trung vào những nét nổi bật, gây ấn tợng của ngời đó. Thậm chí đối với
những học sinh giỏi, có năng khiếu viết văn, có thể hớng dẫn học sinh cách
đặc tả (quan sát và miêu tả một đặc điểm nổi bật của đối tợng mà vẫn làm nổi
bật đợc hình ảnh của đối tợng). Tôi xin đa ra một ví dụ minh hoạ về đặc tả :
Bố tôi
"Những ngón chân khum khum, lúc nào cũng nh bám vào đất để
khỏi trơn ngã. Ngời ta nói:'' Đây là bàn chân vất vả". Gan bàn chân bao
giờ cũng xám xịt và lỗ rỗ, bao giờ cũng khuyết một miếng, không đầy đặn
nh bàn chân ngời khác. Mu bàn chân mốc trắng bong da từng mảng, lại có
nốt lấm tấm. Đêm nào bố cũng ngâm nớc nóng hoà muối, gãi lấy gãi để rồi
xỏ chân vào đôi guốc mộc. Khi đi ngủ, bố rên, rên vì đau mình nhng cũng
rên vì nhức chân. Rợu tê thấp không tài nào xoa bóp khỏi.
Bố đi chân đất, bố đi ngang dọc đông tây đâu con không hiểu. Con
chỉ thấy ngày nào bố cũng ngâm chân xuống nớc bùn để câu quăng . Bố
tất bật đi từ khi sơng còn đẫm ngọn cây, ngọn cỏ. Khi bố về cũng là lúc cây
cỏ đẫm sơng đêm. Cái thúng câu bao lần chà đi xát lại bằng sắn thuyền.
Cái ống câu nhẵn mòn, cái cần câu bóng do dấu tay cầm. Con chỉ biết cái

hòm đồ nghề cắt tóc sực mùi dầu máy tra tông - đơ, cái ghế xếp bao lần
thay vải, nó theo bố đi xa lắm.
Bố ơi! Bố chữa làm sao lành đợc đôi bàn chân ấy, đôi bàn chân dầm
sơng dãi nắng đã thành bệnh.
Bố bảo: Bàn chân con phải giữ gìn để mà đi cho thật khoẻ, thật xa"
(Trích "Tuổi thơ im lặng"-Duy Khán)
Đọc ví dụ trên ta thấy rõ ràng chỉ với việc tả đôi bàn chân, tác giả đã
khắc hoạ thật rõ nét và xúc động về hình ảnh một ngời bố lam lũ, vất vả mà
đáng kính biết nhờng nào!
3. Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý:
4
Quan sát phải luôn gắn với việc tìm ý và tìm các từ ngữ. Cách diễn đạt để
tả. Sau khi học sinh đã quan sát và có đợc các ý cần hớng dẫn các em luyện
cách lập dàn ý, sắp xếp ý bằng một loạt các câu hỏi gợi ý.
Ví dụ: Với đề văn "Tả một bạn nhỏ ngoan ngoãn, chăm học chăm làm
dợc nhiều ngời quý mến", giáo viên có thể đặt những câu hỏi để học sinh trả
lời và tìm ý nh sau:
-Bạn nhỏ tên là gì? Học lớp mấy? ở đâu? Vì sao bạn đợc mọi ngời yêu
mến?
- Vóc dáng, khuôn mặt, mái tóccách ăn mặc của bạn có gì nổi bật
gây đợc cảm tình của mọi ngời?
- Bạn nhỏ có những biểu hiện gì thể hiện sự ngoan ngoãn? Bạn có lễ độ
không ?
- Bạn nhỏ chăm học, chăm làm nh thế nào?
- Bạn nhỏ đã có việclàm gì để giúp đỡ gia đình, bạn bè , những ngời
xung quanh?
- Em có cảm nghĩ gì về bạn nhỏ định tả trong bài? Những ngời xung
quanh có tình cảm nh thế nào đối với bạn đó?
Việc đặt câu hỏi gợi ý sẽ giúp các em trình bày nội dung bài viết một
cách đầy đủ, mạch lạc, giúp các em diễn đạt các ý sinh động và chặt chẽ. Và

khi lập dàn ý, các em phải biết đâu là ý chính của bài. Ví dụ:Tả cảnh gặt lúa
trên cánh đồng thì ý bao trùm ý chính phải là cảnh làm việc nhộn nhịp trên
cánh đồng. Còn tả quang cảnh làng em lúc bắt đầu một ngày mới thì hoạt
động của mọi ngời trong làng bắt đầu một ngày là quan trọng nhất, lúc này
phong cảnh làng xóm chỉ làm nền.
Bên cạnh việc xác định ý chính của bài, học sinh cần cần biết sắp xếp
các ý theo một trình tự thời gian, trình tự tâm líViệc thực hiện bố cục ba
phần của bài văn cần đợc thực hiện một cách tự nhiên, không gò bó, khuôn
sáo. Để hớng dẫn luyện tập cách lập dàn ý nên hớng dẫn học sinh một số bài
tập lập dàn ý nh: từ một bài văn hoàn chỉnh, hãy lập dàn ý của nó hoặc cho
sẵn những dàn ý cha phù hợp yêu cầu học sinh chữa lại cho đúng. Ví dụ: Dựa
vào bài văn sau đây của nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú, em hãy lập dàn ý cho
bài văn :
Ngày mùa
Các xã viên thức dậy từ lúc trời còn tối. Khói bếp chập chờn. Tiếng
gọi nhau í ới. Tiếng quang liềm va chạm Tiếng kẻng nổi lên, chuyền đều
vào các xóm. Vừa sáng, đã thấy ngời đi từng dãy dài, ồn ào ríu rít một lúc
rồi trong làng vắng ngay. Những tiếng động, tiếng ngời lùi xa tít ngoài
cánh đồng
5
Nắng lên, nắng chan mỡ gà lên những cánh đồng lúa chín. Rất đều ,
rất gọn nhẹ, các xã viên cúi lng xuống, một tay nắm khóm lúa, một tay cắt
gặt. Một nắm, hai nắm xoèn xoẹt xoèn xoẹtlúa chất lại, dồn thành
từng đống. Tiếng xe cút kít nặng nề chở lúa về làng. máy tuốt lúa to lù lù
đứng giữa sân kho, kêu bành bạch. Ngời ta nhét những ôm lúa vào miệng
nó. Nó nhằn nhằn một thoáng rồi phì rơm ra. Bụi mù mịt. Thóc rào rào rơi
xuống gầm máy.
Mệt mỏi, hối hả, lng áo suốt ngày đẫm mồ hôi nhng các xã viên
không giấu niềm vui ánh lên gơng mặy trớc mùa bội thu.
4.Kĩ năng viết bài và hoàn chỉnh bài:

Khi đã có cái để viết, có dàn ý, các em chuyển sang các bớc luyện viết
các đoạn và viết bài. Đây là một khâu rất quan trọng. Từ dàn ý đã có, giáo
viên cần hớng dẫn học sinh viết từng đoạn (mở bài, thân bài, kết bài) rồi viết
cả bài.
4.1 . Hớng dẫn học sinh luyện viết đoạn mở bài:
Mục đích của phần mở bài là nhằm giới thiệu đối tợng sẽ miêu tả
trong phần thân bài đồng thời khêu gợi, lôi cuốn sự chú ý của ngời đọc đối với
đối tợng đợc miêu tả. Khi làm bài, đa số học sinh mất khá nhiều thời gian mà
vẫn không có đợc mở bài hay. Vì vậy cần hớng dẫn các em thực hành nhiều
cách mở bài.
a .Mở bài trực tiếp:
Theo cách này, chúng ta có thể hớng dẫn học sinh giới thiệu trực tiếp
đối tợng đợc miêu tả.
Ví dụ 1: Tả hình dáng, tính nết ngây thơ của em bé đang tập nói, tập đi:
+ " Bé Mai Anh nhà em vừa tròn một tuổi, đang tập nói, tập đi nên
trông bé đáng yêu lắm!".
Ví dụ 2: Với đề tả quang cảnh buổi lễ khai giảng ở trờng em :
+ " Buổi lễ khai giảng ở trờng em trôi qua đã hai tháng nay nhng nó đã
để lại trong em nhiều ấn tợng thật đẹp đẽ" .
Hớng dẫn học sinh mở bài bằng cách giới thiệu trực tiếp có tác dụng
củng cố lí thuyết dàn bài chung, viết mở bài trực tiếp, học sinh ít mất thời gian
suy nghĩ song lại thiếu sức lôi cuốn,gây hứng thú cho ngời đọc.
b. .Mở bài gián tiếp:
*. Mở bài bằng cách nêu lí do:
6
Với cách này, giáo viên cần hớng dẫn học sinh nêu rõ đợc nguyên nhân,
hoặc dịp nào đó các em gặp đối tợng miêu tả.
Ví dụ 1: Tả hình dáng, tính nết ngây thơ của em bé đang tuổi tập nói,
tập đi:
"Mỗi khi tiếng trống tan trờng vang lên, tôi chỉ muốn chạy ào về nhà để

đợc nghe tiếng chào ngọng nghịu của bé Hà, đứa em gái bé bỏng mà tôi yêu
quý".
Ví dụ 2: Tả một cảnh đẹp mà em đã có dịp quan sát:
"Nhân dịp nghỉ hè, em đợc mẹ cho đi nghỉ mát cùng các cô chú trong
cơ quan. Sau khi xuất phát một ngày đờng xe dừng bánh. Chà! Cảnh biển
Nha Trang hiện ra trớc mắt em mới đẹp làm sao !".
Đối với cách mở bài này, đòi hỏi học sinh phải có vốn sống và óc tởng
tợng phong phú nếu không sẽ dễ lan man, lạc đề, không giới thiệu đợc đối t-
ợng cần miêu tả. Vì vậy cần nhắc nhở học sinh viết ngắn gọn.
*. Mở bài bằng cách nêu tình huống:
Với cách này, chúng ta có thể hớng dẫn học sinh sử dụng một từ ngữ
hoặc một câu của một nhân vật để có thể nêu tình huống dẫn tới việc xuất
hiện đối tợng miêu tả .
Ví dụ 1: Tả hình dáng và tính nết của một bạn trong lớp em đợc nhiều
ngời yêu mến.
"- Hà ơi! Đi học thôi!"
Đúng tiếng cái Lan rồi, cô bạn gái hiền lành học giỏi đợc bao nhiêu
ngời quý mến của lớp tôi".
Ví dụ 2: Tả một cô giáo mới về trờng:
"A! Các cậu ơi! Cô giáo mới kìa!"
Nghe tiếng reo của cái Mi, tất cả chúng em không ai bảo ai cùng hớng
mắt về phía tay chỉ của nó".
Ví dụ 3: Tả cảnh học sinh tập thể dục giữa giờ:
"Tùng ! Tùng ! Tùng !
Tiếng trống đã điểm báo hiệu giờ tập thể dục bắt đầu".
Với cách mở bài này, cần hớng dẫn học sinh vận dụng vào các đề yêu
cầu tả những đối tợng ít gặp hoặc bất ngờ gặp.
7
c. Mở bài bằng một đoạn văn miêu tả hoặc kể chuyện:
Ví dụ 1: Hãy tả một bác nông dân đang chăm sóc lúa:

"Một buổi chiều thu, tôi thong thả bớc đi trên con đờng làng quen
thuộc. Từng cơn gió heo may nh đang xào xạc theo những chiếc lá khô. Tôi lơ
đễnh đa mắt ngắm nhìn cánh đồng lúa xanh non đang thì con gái, bất chợt,
tôi gặp một bác nông dân đang mải miết vơ cỏ, sục bùn cho lúa".
Ví dụ 2: Tả ngời cha kính yêu của em:
"Có lẽ ít ngời cha trên đời này thơng yêu con nh cha tôi. Mẹ tôi mất từ
lúc tôi lên hai tuổi. Cha ở vậy nuôi tôi từ nhỏ. Ngời dùng chiếc xích lô kiếm
sống, cũng là chiếc nôi chở tôi đi khắp các nẻo đờng thành phố. Tôi lớn lên
trong sự nhọc nhằn, thức khuya dậy sớm, nai lng đạp xích lô của cha".
Với 4 cách mở bài (một cách trực tiếp và ba cách gián tiếp) đã nêu trên,
học sinh có thể lựa chọn, để áp dụng cho từng bài tập làm văn .
Để giúp học sinh luyện tập cách mở bài, ngoài những vấn đề trong ch-
ơng trình Tiếng Việt 5, giáo viên có thể tự biên soạn thêm một số đề bài sao
cho phù hợp với học sinh. Có thể ra các đề tả ngời thân nh ông bà, cha mẹ,
anh chị em, ngời hàng xóm, thầy cô giáo, bạn bè hoặc tả cảnh vui chơi, đêm
trăng, cảnh sinh hoạt văn nghệ, thể thao,để học sinh có nhiều điều kiện rèn
kĩ năng viết phần mở bài.
4.2 Hớng dẫn học sinh viết phần thân bài:
Sau khi đã có mở bài tốt rồi thì vấn đề quan trọng là biết diễn đạt nội
dung hay. Nhiều khi chúng ta bắt gặp ở bài làm của học sinh mở bài rât hấp
dẫn song phần thân bài lại lủng củng. Để giúp học sinh tránh đợc điều đó,
giáo viên có thể sử dụng các cách sau:
a .Hớng dẫn học sinh sử dụng đại từ, liên từ và giới từ:
Trong một bài văn miêu tả, bài viết bao giờ cũng thể hiện thái độ tình
cảm của ngời viết đối với đối tợng miêu tả. Qua bài văn, ngời đọc có thể nhận
thấy đợc thái độ kính mến, thơng yêu hay giận hờn, căm ghét đối với đối tợng
đợc miêu tả. Điều ấy đợc thể hiện qua việc lựa chọn từ ngữ. Từ xng hô trong
tiếng Việt rất giàu màu sắc biểu cảm và hết sức phong phú. Trong bài văn
miêu tả của học sinh, đại từ "em", "con" đợc sử dụng nhiều hơn cả, các đại từ
đó bộc lộ thái độ lễ phép, trân trọng đối với ngời đọc song nếu cần bộc lộ tình

cảm thân mật, gần gũi, có thể sử dụng đại từ "tôi" hoặc mình để xng hô.
Không chỉ ở cách xng hô, các từ ngữ nối nh : vâng, đúng vậy, chà, này nhé, ôi
chao, quả thật, gớm, ấy vậy mà,cũng góp phần tạo nên ấn tợng nh học sinh
đang nhận xét và đối thoại trực tiếp với ngời đọc khiến đoạn văn trở nên tự
nhiên hơn
Ví dụ: Tả một bạn trong lớp đợc mọi ngời yêu quý.
8
" Nói tới một bạn trong lớp tôi đợc nhiều ngời quý mến không ai không
nghĩ tới bạn Vũ Việt Nam. nhng tôi dám cam đoan rằng nếu bạn gặp Nam lần
đầu mà không đợc ai giới thiệu, bạn sẽ không thể ngờ đợc đó lại là ngời đã
đem lại vinh dự giải nhì kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh cho lớp tôi. Bề ngoài,
Nam rất bình thờng, chẳng có gì biểu hiện tinh anh, thông minh tuấn tú nh
ngời ta thờng nói về một học sinh giỏi. Này nhé: trán chẳng cao, mắt không
sâu, nét mặt chẳng có gì là thanh tú, lanh lẹ. Chỉ đợc cái hiền, rất hiền! Có ai
nói gì cũng chỉ cời lỏn lẻn nh con gái. Các bạn có tán gẫu thì cũng chỉ biết im
lặng nghe chứ chẳng bao giờ tham gia đợc một câu. ấy thế nhng có ai bàn
đến bài vở thì Nam lại có thể thao thao cả ngày không dứt".
Để hớng dẫn học sinh luyện tập cách lựa chọn các đại từ, liên từ và giới
từ giáo viên có thể hớng dẫn học sinh làm bài tập sau:
Bài tập 1: Đọc từng đoạn văn sau:
*. "Ông nội em đã già yếu lắm rồi! Chân lẩy bẩy, đi đứng không vững
nữa, tay lóng ngóng, cầm chén, chén rơi; cầm gậy thì gậy đổ. Răng ông đã
rụng gần hết, mỗi bữa ông chỉ ăn nửa bát cơm thôi mà lâu đến hàng tiếng
đồng hồ. Lúc ăn, tay cầm thìa của ông cứ rung lên bần bật. Đấy! Cơm lại vãi
cả ra xung quanh , ông chả dám bng bát lên vì sợ rơi vỡ. Tội nghiệp! Nhìn
ông ăn cơm mà sao mắt em lại cay xè, cổ họng cứ nghẹn lại."
*. " Bé Giang nhà tôi vừa tròn một tuổi, trông bé mới đáng yêu làm sao.
Hãy chạm thử vào làn da bé! Nó mịn màng lại trắng hồng nữa chứ! Nhìn kìa!
Trên khuôn mặt bụ sữa của bé, đôi mắt trong veo đang mở to ngơ ngác nhìn
mọi ngời. Kia nữa, mái tóc hoe vàng của bé chỉ lơ thơ vài sợi rủ xuống vầng

trán rộng. ấy thế mà bé thích chải đầu lắm đấy. Mỗi lần cầm chiếc lợc, bé lại
phô mấy chiếc răng nghé ra cời ngộ nghĩnh ".
Hãy gạch chân những đại từ xng hô và cho biết những từ ngữ nào khiến
đoạn văn có giọng tự nhiên nh thể ngời viết đang thủ thỉ, trò truyện với ngời
đọc vậy.
Bài tập 2: Theo em, bằng cách nào đoạn văn dới đây trở nên tự nhiên
trong cách diễn đạt và giàu cảm xúc:
"Gớm ghiếc! Nóng đâu mà lại nóng đến thế! Suốt ngày ngời ta chỉ thấy
nắng là nắng. Nắng rọi xuống đất trắng xoá lẽ kẽ, lá cây gục lả đi vì khát n-
ớc. Khiếp quá, thỉnh thoảng trận gió tây lại nổi lên hắt lửa vào mặt . Ban
ngày đã vậy, tởng về đêm sẽ mát. Ai ngờ cái gió chạy đâu không biết nữa . Im
thin thít, khí nóng cứ lẩn quất mọi nơi cơ chứ . Ngời ta quạt phành phạch đến
rã cả cánh tay cũng chỉ đổi hơi bức từ chỗ này lấy hơi bức chỗ khác mà thôi.
Nhng không quạt cũng chết. Ôi chao ! Trời bức làm cho ngời ta mệt nhọc,
chán nản làm sao!"
Thực ra dùng đại từ xng hô trong văn miêu tả, học sinh đã có thói quen.
Song tạo đợc giọng văn tự nhiên, lôi cuốn và có sắc thái biểu cảm thì ít có đ-
ợc. Cũng không vì thế mà dành quá nhiều thời gian ở khâu này bởi chúng ta
có thể nhắc nhở học sinh trong lúc viết văn.
9
b . Hớng dẫn học sinh viết từ độc đáo:
Một bài văn miêu tả là một bài văn mà ở đó học sinh biết cách dùng từ
độc đáo. Trong việc làm một bài văn miêu tả nếu học sinh biết dùng từ đúng
lúc đúng chỗ sẽ vẽ lên đợc một chân dung có hồn khiến ngời đọc nh có thể
nhìn thấy, sờ thấy đợc. Đối với học sinh lớp 5, giáo viên có thể hớng dẫn học
sinh đạt đợc mục đích trên bằng cách hớng dẫn học sinh sử dụng linh hoạt các
từ láy, từ ghép, từ tợng thanh, từ tợng hình, từ nhiều nghĩa
Có thể cho học sinh phân tích những đoạn văn ngắn có sử dụng nhiều
từ láy, từ tợng hình, từ tợng thanh, từ đa nghĩa để phát hiện (có thể nêu tác
dụng ). Hoặc có thể chọn đoạn văn ngắn có nhiều chỗ trống yêu cầu học sinh

tự tìm từ thích hợp ( từ láy, từ tợng thanh, từ tợng hình từ gần nghĩa ) điền
vào chỗ trống. Hoặc có thể cho đoạn văn có gạch chân các từ đơn yêu cầu
học sinh tìm từ láy, từ tợng thanh , từ tợng hình để thay thế.
Ví dụ1 :Thay các từ gạch chân dới đây bằng các từ tợng thanh, tợng
hình thích hợp.
*. Vầng trăng tròn quá, ánh trăng trong xanh toả khắp khu rừng.
*. Gió bắt đầu thổi mạnh, lá cây rơi nhiều , từng đàn cò bay nhanh theo
mây.
Ví dụ 2: Viết một đoạn văn ngắn nói về trận ma rào, trong đoạn có sử
dụng từ tợng thanh, từ tợng hình.
L u ý cần nhấn mạnh cho học sinh hiểu từ mang tính hai mặt, sử dụng
đúng lúc, đúng chỗ sẽ làm cho câu văn, đoạn văn hay, ngợc lại sẽ rơi vào tình
trạng "sáo rỗng" và khoe chữ. Đó là cha kể học sinh không hiểu từ mà vẫn
dùng bừa, dùng ẩu.
Mặt khác, từ ngữ vốn rất phong phú, vì thế cần nhắc nhở các em trong
quá trình học tập nên có sổ tay văn học và hớng dẫn học sinh cách ghi sổ. Các
em có thể ghi chép các từ ngữ, câu văn, đoạn văn hay để làm vốn từ ngữ, vốn
văn học. Việc làm này sẽ giúp các em thuận lợi hơn trong việc lựa chọn từ
ngữ để viết văn.
c. Hớng dẫn học sinh viết câu văn có hình ảnh:
Văn miêu tả (đặc biệt là kiểu bài tả ngời và kiểu bài tả cảnh sinh hoạt)
là loại văn ghi lại những nét tiêu biểu về hình dáng hay hoạt động của cảnh
vật hay con ngời. Khi viết học sinh dễ sa vào kể lể một cách khô khan không
có cảm giác thích thú cho ngời đọc.
Có thể đa ra các đoạn văn có những hình ảnh sinh động, yêu cầu học
sinh phát hiện hoặc yêu cầu học sinh dùng biện pháp so sánh, nhân hoá đẻ
viết đoạn văn.
10
Ví dụ 1: chỉ ra các biện pháp nghệ thuật đặc sắc dùng trong các đoạn
văn sau:

* "Thảo quả chín dần. Dới tầng đáy rừng, tựa nh đột ngột, bỗng rực
lên những chùm thảo quả đỏ chon chót, bóng bẩy nh chứa lửa chứa nắng.
Rừng ngập hơng thơm. Rừng sáng nh có lửa hắt lên từ dới đáy rừng.
Rừng say ngây và ấm nóng. Thảo quả nh những đốm lửa hồng, ngày
qua ngày lại thắp thêm nhiều ngọn mới, nhấp nháy vui mắt."
* " Bác thợ rèn cao lớn, cao lớn nhất vùng, vai cuộn khúc, cánh tay ám
đen khói lửa lò và bụi búa sắt. Bác có đôi mắt lọt trong khuôn mặt vuông vức,
dới rừng tóc rậm dày, đôi mắt trẻ to, xanh, trong ngời nh thép. Quai hàm
bạnh của bác rung lên với những tràng cời. Những tiếng thở rền vang nh
ngáy, giống nh nhịp thở phì phò của ống bễ."
(Ngời thợ rèn-Ê-min -dô-la)
Ví dụ 2: Viết một đoạn văn ngắn(6-8 câu) miêu tả một đêm trăng trong
đó có sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá.
Ví dụ 3: Viết một đoạn văn ngắn(6-8 câu) tả trận ma rào, trong đoạn
văn có sử dụng các từ tợng thanh, tợng hình.
Khi chấm và sửa lỗi cho học sinh, giáo viên cần phân tích cho học sinh
thấy sử dụng biện pháp tu từ nh vậy đã chọn lọc chính xác cha.Cũng cần lu ý
với học sinh dùng các biện pháp tu từ không đợc khoa trơng mới gây sự bất
ngờ thú vị.
Trong quá trình dạy học sinh viết câu văn, giáo viên cần hớng dẫn học
sinh sử dụng linh hoạt các kiểu câu chia theo cấu tạo và mục đích nói khác
nhau để có thể bộc lộ đợc nhiều nhất thái độ, tình cảm, suy nghĩ của mình.
d . Hớng dẫn học sinh viết đoạn văn:
Có đợc những câu văn đúng ngữ pháp, có hình ảnh cha đủ, học sinh còn
cần biết liên kết các câu, các ý thành đoạn văn.Có thể có các đoạn văn nh sau:
Mô hình 1: Câu mở đoạn -> Câu diễn tả - > Câu kết đoạn.
Mô hình 2: Câu mở đoạn -> Câu diễn tả.
Mô hình 3: Các câu diễn tả - > Câu kết đoạn.
Khi hớng dẫn học sinh , giáo viên có thể hớng dẫn học sinh tập viết
theo một trong 3 cấu trúc trên, hoặc da ra các câu văn rời rạc yêu cầu học sinh

sắp xếp lại thành một đoạn văn thích hợp.
11
Ví dụ 1: Sắp xếp các câu văn sau đây thành một đoạn văn thích hợp .
*. Không lúc nào nó thèm bay bổng, thèm ca hát nh lúc này.
*. Bọ ve rạo rực cả ngời .
*. Từ tít trên cao kia, mùi hoa lí toả xuống thơm ngát và tiếng những
bạn ve inh ỏi.
Ví dụ 2: Sắp xếp các câu văn trong đoạn văn sau cho thích hợp:
"Hằng xuống xe, rẽ vào phố Bà Triệu, chiều thu, gió dìu dịu , hoa sữa
thơm nồng. Chiếc ô tô buýt chạy chậm dần rồi đỗ lại bên bờ Hồ Gơm. Chiều
nào về đến phố nhà mình, Hằng cũng đều đợc hít thở ngay mùi thơm quen
thuộc ấy!"
Một bài văn bao giờ cũng là một thể thống nhất hoàn chỉnh đợc tạo bởi
các đoạn .Vì vậy cần hớng dẫn học sinh biết cách chuyển câu, chuyển đoạn.
Có thể dùng các từ nối: tuy thế, ấy vậy mà, chả là, thế này, này nhé, chính vì
vậy, thực ra, thảo nào,có thể dùng câu hỏi hoặc tạo ra các thế tơng ứng giữa
hai đoạn: nếu nh thì
Ví dụ: Hãy chọn các từ quan hệ và từ nối thích hợp điền vào chỗ trống
để cho các câu các đoạn đợc chuyển tiếp một cách tự nhiên, mạch lạc:
*. Khắp vờn, cha cây nào ra hoamận đã ra hoa. Bông hoa trắng xinh,
giản dị, hiền lành mà ngời sáng cả bầu trời đông giá rét.
*. Có ngời bảo cây đa, cây đề là cây tiêu biểu của nớc tatôi thấy cây
bàng là đặc biệt nhất: Cành lá đã xum xuê, đứng xa trông về lại đẹpcả cái
cây, từ lá cho đến rễ, từ búp cho đến cành đều dùng đợc việc không có một
cái gì bỏ phí.
*. Tối về thầy bảo:
- Ngày xa, có tục hễ đẻ con giai thì ngời bố lấy cành dâu làm cung lấy
cỏ bông làm tên , chạy ra giữa sân bắn về bốn phơng để sau này lớn lên ngời
con giai sẽ có chí tung hoành . Bây giờ bỏ tục ấy. Bố nghĩ ra cách chôn rau
của các con ở xa, giữa đờng chính để lớn lên mà có chí làm trai.

, hai anh tôi mới tí tuổi đầu đã đi xa lắmtôi và em giai sau này chả
biết lớn lên có đi xa hơn hai anh giai không.
4.3. Hớng dẫn học sinh viết phần kết luận :
Phần kết luận trong bài văn rất quan trọng. Nó sẽ để lại ấn tợng đẹp
trong lòng ngời đọc nếu đợc viết ngắn gọn, tinh chắc. Có thể hớng dẫn học
sinh viết phần kết luận bằng nhiều cách:
12
- Cách 1: Nêu cảm tởng, suy nghĩ thực của bản thân đối với đối tợng đ-
ợc miêu tả .
Ví dụ 1: Tả ngời bố:
Đối với em, bố là tất cả. Lúc nào em cũng kính yêu bố. Để làm bố vui
lòng, em sẽ chăm ngoan học giỏi.
Ví dụ 2: Tả em bé đang tập nói, tập đi:
Tôi yêu bé Giang lắm! Từ khi có bé, nhà tôi vui hẳn lên và tôi cũng có
ngời để thơng yêu, nhờng nhịn.
Cách 2: Kết luận bằng cách nêu lời của đối tợng miêu tả hoặc nhân vật
khác:
Ví dụ 1: Tả một ngời bạn gơng mẫu trong lớp em.
Sáng nay, Mi lại ghé qua nhà em rủ em đi học. Mẹ khen em: " Con biết
chọn bạn mà chơi đấy. Mẹ mừng lắm! Chịu khó mà học hỏi bạn ấy nghe
con!"
Ví dụ 2: Tả cảnh vui chơi ở trờng em:
Chúng em khẩn trơng vào lớp. Giang vỗ tay nhẹ vào vai em bảo: "
Mình đã hết buồn ngủ, sảng khoái và dề chịu quá! Tiết học tới chắc sẽ tốt
đây"
Cách 3: Có thể dùng cử chỉ, một hoạt động của đối tợng miêu tả để kết
luận:
Ví dụ: Tả cô giáo trong một tiết học:
Tiếng trống báo giờ ra chơi lại " tùng" "tùng" vang lên. Tiết học đã
trôi qua. Cô vui vẻ cho chúng em ra chơi. Lúc này cô mới dùng khăn thấm

nhẹ những giọt mồ hôi lấm tấm trên vầng trán mịn màng.
4.4. Hớng dẫn học sinh hoàn chỉnh bài:
Để hoàn chỉnh đợc bài viết, sau khi viết nháp, học sinh phải biết đọc lại
bài làm và tự sửa chữa. Giáo viên có thể dùng cho từng cặp học sinh tự
chấm bài của nhau để tìm ra khuyết điểm của bạn. Lúc ấy, giáo viên đóng vai
trò trọng tài, giám sát chặt chẽ việc kiểm tra đánh giá của học sinh, giải đáp
các thắc mắc của học sinh cả về cách chọn ý, dùng từ diễn đạt trên cơ sở tôn
trọng những ý tởng sáng tạo của học sinh.
V. Kết quả :
13
Trong quá trình áp dụng kinh nghiệm rèn cho học sinh viết văn miêu tả,
tôi đã theo dõi kết quả một số bài làm của học sinh lớp 5a để làm nổi bật kết
quả khi áp dụng SKKN này trong giảng dạy.
Bài làm 1: Đề yêu cầu: Tả một buổi trong ngày (Thực hiện đầu năm
học)
Bài làm 2: Đề yêu cầu: Tả hình dáng và tính nết thơ ngây của một em
bé đang tuổi tập nói, tập đi(Thực hiện giữa kì I)
Bài làm 3: Đề yêu cầu:
Tả cô giáo, thầy giáo cũ ( hực hiện cuối kì I)
Kết quả cụ thể nh sau:
Sĩ số Điểm bài lần 1 Điểm bài lần 2 Điểm bài lần 3

26
G K TB
2 5 19
7,7% 19,2% 73,1%
G K TB
4 6 16
15,3% 22,9% 61,8%
G K TB

7 8 11
26,8%30,5 42,7%

Nhìn vào kết quả trên, ta thấy rõ chất lợng của các bài văn miêu tả của
học sinh giữa kì I và cuối kì I cao hơn so với đầu năm học. Số bài đạt điểm
giỏi của lớp 5a từ chỗ có hai bài (ở đầu năm học) tăng lên 7 bài (ở cuối kì I).
Các em không còn lúng túng trớc một đề tập làm văn miêu tả mà biết phân
tích đề, lập dàn ý và viết bài văn với bố cục chặt chẽ, câu văn ngắn gọn, có
hình ảnh, đặc biệt bộc lộ rõ những cảm xúc của mìnn đối với đối tợng miêu tả
.
Tôi xin trích dẫn một bài làm của một học sinh lớp với đề bài " tả hình
dáng và tính nết ngây thơ của một em bé đang tuổi tập nói, tập đi" nh sau:
" Tiếng trống tan trờng vang lên, sắp xếp vở xong, tôi chạy ào về nhà
để đợc nghe tiếng chào ngọng nghịu của bé Huyền Trang, đứa em gái bé bỏng
mà tôi yêu quý.
Hôm nay là sinh nhật của bé Huyền Trang đấy! Chẳng thế mà bé đợc
mẹ diện cho một chiếc váy hồng thật đáng yêu. Và hình nh cũng biết hôm nay
mình đã tròn một tuổi nên bé vui vẻ và tất bật lắm. Xúng xính trong bộ váy
mới trông bé mới đáng yêu làm sao! Hãy chạm thử vào làn da bé, nó mịn
màng, lại trắng hồng nữa chứ. Nhìn kìa, trên khuôn mặt bụ sữa của bé, đôi
mắt trong veo đang mở to ngơ ngác nhìn mọi ngời. Kia nữa, mái tóc hoe vàng
của bé chỉ lơ thơ vài sợi rủ xuống vầng trán rộng. ấy vậy mà bé thích chải
đầu lắm đấy. Mỗi lần cầm chiếc lợc, bé cứ khanh khách cời để rồi phô ra mấy
chiếc răng nghé ngộ nghĩnh. Rõ là đồ trẻ con!
14
Là một bé gái nhng bé Huyền Trang thật hiếu động. Bé rất thích tập đi.
Đôi chân ngắn cũn cứ lẫm chẫm dò từng bớc một, có lúc chỉ chực ngã. Đi đợc
vài bớc bé lại nhào vào lòng mẹ toe toét cời. Đợc mọi ngời vỗ tay hởng ứng,
bé thích chí gọi"mạmạ" rồi chỉ vào chiếcc bánh ga tô "măm măm". Nghe
bé nói vậy tôi không thể không thởng cho bé một miếng bánh ngon lành.

Tôi yêu bé Trang lắm! Từ khi có bé, cả nhà tôi vui hẳn lên và tôi cũng
có ngời để yêu thơng , nhờng nhịn."
VI. Bài học kinh nghiệm:
Qua thực tế áp dụng SKKN vào giảng dạy, tôi đã rút ra bài học kinh
nghiệm : Để học sinh lớp 5 có thể viết tốt một bài văn miêu tả ( đặc biệt là
kiểu bài tả ngời, tả cảnh sinh hoạt) mỗi giáo viên cần :
1. Hớng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ các kĩ năng :
- Phân tích, tìm hiểu đề : Tránh lan man lạc đề.
- Quan sát : Yêu cầu học sinh huy động các giác quan (mắt, mũi, tai, óc
tởng tợng) để quan sát. Đặc biệt rèn học sinh khả năng tởng tợng về đối tợng
miêu tả .
- Tìm ý, lập dàn ý: Chọn ý tiêu biểu, sắp xếp ý hợp lí .
- Viết bài và hoàn chỉnh bài : Lu ý với học sinh cách viết câu văn bộc lộ
đợc cảm xúc với đối tợng đợc miêu tả .
2. Khi lên lớp, giáo viên cần biết sử dụng phối hợp các phơng pháp dạy
học thích hợp để phát huy tính tích cực chủ động trong học tập của học sinh.
3. Trong các giờ Tập làm văn kể cả giờ tìm ý, lập dàn ý, làm văn miệng,
làm văn viết và giờ trả bài, giáo viên cần biết tổ chức điều khiển lớp học, khéo
léo gây bầu không khí vui tơi thoải mái, kích thích hứng thú học tập, trí tởng
tợng sáng tạo của học sinh.
4. Hớng dẫn các em biết tự đánh giá rút kinh nghiệm sau mỗi bài viết.
Việc làm này sẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo thành công cho các bài viết
sau.
Phần III: Kết luận
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về việc rèn kĩ năng viết văn
miêu tả cho học sinh lớp 5 . Tôi đã áp dụng vào thực tế giảng dạy và đem lại
hiệu quả tốt. Thông qua việc rèn các kĩ năng đó, học sinh không còn lúng
15
túng và tránh đợc tình trạng "sao chép" trớc mỗi vấn đề tập làm văn. Các em
học sinh cũng cảm thấy yêu thích và ham mê việc học môn tập làm văn.

Tuy nhiên thời gian và phạm vi nghiên cứu có hạn nên đây cũng chỉ là
những đúc rút kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy của bản thân và trao đổi
trong tổ chuyên môn. Do đó không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Tôi rất
mong nhận đợc sự quan tâm góp ý của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng
nghiệp để tôi tiếp tục nghiên cứu, bổ sung sáng kiến kinh nghiệm nhằm
không ngừng nâng cao chất lợng dạy học phân môn Tập làm văn nói riêng và
các môn văn hoá nói chung trong nhà trờng các năm học tiếp theo.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
16

×