Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

thực trạng ô nhiễm nước thải chăn nuôi tại thành phố thái nguyên và biện pháp xử lí bằng thực vật thủy sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (994.9 KB, 101 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG



Tên đề tài:
Thực trạng ô nhiễm nƣớc thải chăn nuôi tại thành phố
Thái Nguyên và biện pháp xử lí bằng thực vật thủy sinh


CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƢỜNG
MÃ SỐ: 60 85 02



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thế Hựng
TS. Vũ Thị Thanh Thuỷ






THÁI NGUYấN - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Lời cảm ơn

Trong quá trình học tập tại khoa Sau Đại học, Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên tôi đã được các thầy cô giáo truyền đạt những kiến thức cơ
bản nhất để có thể đem những kiến thức đã được học ở trường góp một phần
công sức của mình vào xây dựng đất nước.
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân, được sự nhất trí của Trường Đại
học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên, khoa Sau Đại học và dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Nguyễn Thế Hùng và TS. Vũ Thị Thanh Thuỷ đã cho phép, tạo
điều kiện, hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn thành bản khoá luận này.
Trước tiên, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nông
Lâm, Đại học Thái Nguyên, khoa Sau Đại học, PGS.TS. Nguyễn Thế Hùng và
TS. Vũ Thị Thanh Thuỷ đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, động viên khuyến khích
và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như hoàn thành bản khoá luận.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo các cơ quan phối hợp: Viện Khoa học
Sự Sống - Đại học Thái Nguyên, Chi cục môi trường - Sở TN&MT tỉnh Thái
Nguyên, Trung tâm Kkhí tượng thuỷ văn Thành phố Thái Nguyên, Sở Nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên, Tổng cục Thống kê tỉnh Thái
Nguyên đã phối hợp thực hiện, tạo điều kiện, giúp đỡ tôi thực hiện đề tài.
Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quí thầy cô và các
bạn học viên để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên ngày 08 tháng 9 năm 2011
Học viên


Nguyễn Thị Hồng Nhung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ, CÁC TỪ VIẾT TẮT

1
BOD
5

Nhu cầu ôxi sinh hoá
2
COD
Nhu cầu ôxi hoá học
3
ĐHNLTN
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
4
TN&MT
Tài nguyên và Môi trường
5
TVTS
Thực vật thủy sinh
6
TTTHTN
Trung tâm thực hành thực nghiệm
7
TT
Trang trại
8
TCCP

Tiêu chuẩn cho phép
9
TCVN
Tiêu chuẩn Việt Nam
10
TSS
Tổng chất rắn lơ lửng
11
BVMT
Bảo vệ môi trường
12
TPTN
Thành phố Thái Nguyên
13
UBND
Uỷ ban nhân dân
14
ÔNMT
Ô nhiễm môi trường
15
NN&PTNT
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
16
VSV
Vi sinh vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Các thông số đánh giá chất lượng nước thải 5

Bảng 2.2. Số trang trại phân theo địa phương 7
Bảng 2.3. Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá thực tế phân theo ngành hoạt động 8
Bảng 2.4. Số lượng gia súc, gia cầm của Việt Nam 9
Bảng 2.5. Qui mô chăn nuôi lợn nái của Việt Nam năm 2003 11
Bảng 2.6. Qui mô chăn nuôi lợn thịt của Việt Nam năm 2003 12
Bảng 2.7. Tổng số lượng lợn qua các năm 13
Bảng 2.8. Số trang trại phân theo huyện, thành phố, thị xã, tỉnh Thái Nguyên 14
Bảng 2.9. Số lượng thịt lợn hơi xuất chuồng phân theo huyện, thành phố, thị xã
tỉnh Thái Nguyên 18
Bảng 2.10. Một số thủy sinh thực vật tiêu biểu 20
Bảng 2.11. Nhiệm vụ của thuỷ sinh thực vật trong các hệ thống xử lí 20
Bảng 3.1. Các phương pháp bảo quản mẫu trước khi đem phân tích 46
Bảng 3.2. Phương pháp phân tích các chỉ tiêu hoá học trong nước thải 46
Bảng 4.1. Nhiệt độ và độ ẩm trung bình tháng trong năm 2010 tại thành phố
Thái Nguyên 50
Bảng 4.2. Số lượng lợn phân theo huyện, thành phố, thị xã tỉnh Thái Nguyên 59
Bảng 4.3. Số trang trại chăn nuôi phân theo đầu lợn tại thành phố Thái Nguyên 61
Bảng 4.4. Số trang trại và số lượng lợn phân theo phường/ xã tại thành phố
Thái Nguyên năm 2010 62
Bảng 4.5. Tình hình ứng dụng các phương pháp xử lí chất thải tại các trang trại
ở thành phố Thái Nguyên năm 2010 64
Bảng 4.6. Thực trạng môi trường và xử lí nước thải tại các trang trại chăn nuôi
tại thành phố Thái Nguyên năm 2011 66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Bảng 4.7. Qui mô một số trang trại chăn nuôi lợn tại thành phố Thái Nguyên
năm 2010 67
Bảng 4.8. Kết quả phân tích một số chỉ tiêu nước thải tại một số trang trại ở
thành phố Thái Nguyên năm 2010 70
Bảng 4.9. Sinh trưởng của thực vật thủy sinh trong thí nghiệm 72

Bảng 4.10. Một số chỉ tiêu của nước thải chăn nuôi sau 3 tuầ n xử lí bằng thực
vật thuỷ sinh 74
Bảng 4.11. Một số chỉ tiêu của nước thải chăn nuôi sau 6 tuầ n xử lí bằng thực
vật thuỷ sinh 77

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1. Sơ đồ tổng quát xử lý nước thải giàu chất hữu cơ sinh học 25
Hình 4.1. Biểu đồ tỉ lệ số đầu lợn qua các năm của thành phố Thái Nguyên so
với các huyện 60
Hình 4.2. Biểu đồ số trang trại chăn nuôi phân theo số đầu lợn tại thành phố
Thái Nguyên 61
Hình 4.3. Biểu đồ tỉ lệ số lượng trang trại lợn phân theo phường, xã tại thành
phố Thái Nguyên năm 2010 63
Hình 4.4. Biểu đồ tỷ lệ ứng dụng các phương pháp xử lí chất thải tại các trang
trại ở thành phố Thái Nguyên năm 2010 65
Hình 4.5. Hàm lượng P tổng số trong nước thải chăn nuôi sau 3 tuần xử lí bằng
thực vật thuỷ sinh 76
Hình 4.6. Hàm lượng N tổng số trong nước thải chăn nuôi sau 3 tuần xử lí
bằng thực vật thủy sinh 76
Hình 4.7. Hàm lượng N tổng số của nước thải chăn nuôi sau 6 tuần xử lí bằng
thực vật thủy sinh 79
Hình 4.8. Hàm lượng Coliform trong nước thải chăn nuôi sau 6 tuần xử lí bằng
thực vật thủy sinh 79
Hình 4.9. Mô hình đề xuất ứng dụng sử dụng thực vật thuỷ sinh vào xử lý nước
thải chăn nuôi lợn 81

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 3
1.3. Yêu cầu của đề tài 3
1.4. Ý nghĩa của đề tài 3
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Cơ sở khoa học về chăn nuôi trang trại 4
2.1.1. Khái niệm về ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi trang trại 4
2.1.2. Nguồn gốc phát sinh ô nhiễm môi trường nước trong hoạt động chăn nuôi 4
2.1.3. Thành phần, tính chất của nước thải chăn nuôi 5
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước 6
2.2.1. Tình hình ô nhiễm môi trường chất thải chăn nuôi tại Việt Nam 6
2.2.2. Tình hình ô nhiễm môi trường trong các trại chăn nuôi tỉnh Thái Nguyên 13
2.3. Các loài thực vật thuỷ sinh chính 19
2.3.1. Bèo tây 21
2.3.2. Bèo cái 21
2.3.3. Rau ngổ 22
2.3.4. Rau muống 23
2.4. Các nghiên cứu trên thế giới và trong nước về xử lý nước thải chăn nuôi 23
2.4.1. Các nước trên thế giới 24
2.4.2. Ở Việt Nam 25
2.4.3. Các phương pháp xử lý nước thải chăn nuôi lợn 26
2.5. Khả năng và cơ chế xử lý nước thải chăn nuôi bằng thực vật thủy sinh 33
2.6. Một số nghiên cứu sử dụng thực vật thủy sinh trong xử lí nước thải 36
2.7. Cơ sở pháp lý có liên quan 41
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 43
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 43

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 43
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 43
3.1.3. Địa điểm thực hiện của đề tài 43
3.1.4. Thời gian tiến hành 43
3.2. Nội dung 43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3.2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội thành phố Thái Nguyên 43
3.2.2. Đánh giá hiện trạng ô nhiễm trong nước thải của một số trang trại
chăn nuôi khu vực Thành phố Thái Nguyên 43
3.2.3. Nghiên cứu phương pháp xử lí ô nhiễm nước thải chăn nuôi bằng
thực vật thủy sinh 43
3.3. Phương pháp nghiên cứu 44
3.3.1. Đánh giá hiện trạng ô nhiễm trong nước thải của một số trang trại
chăn nuôi khu vực Thành phố Thái Nguyên 44
3.3.2. Nghiên cứu phương pháp xử lí ô nhiễm nước thải chăn nuôi bằng
thực vật thủy sinh 44
3.3.3. Phương pháp lấy mẫu và phân tích 45
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 47
4.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội thành phố Thái Nguyên 47
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 47
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 52
4.2. Thực trạng xử lí nước thải chăn nuôi lợn tập trung tại thành phố Thái Nguyên 59
4.2.1. Thực trạng chăn nuôi lợn tại thành phố Thái Nguyên 59
4.2.2. Thực trạng xử lí nước thải chăn nuôi lợn tại thành phố Thái Nguyên 63
4.2.3. Thực trạng ô nhiễm nước thải chăn nuôi lợn của một số trang trại tại
thành phố Thái Nguyên 65
4.3. Nghiên cứu khả năng xử lí nước thải chăn nuôi bằng thực vật thủy sinh 72
4.3.1. Khả năng sinh trưởng của thực vật thủy sinh trong nước thải chăn nuôi 72
4.3.2. Khả năng xử lí nước thải chăn nuôi bằng thực vật thủy sinh 73

4.3.3. Những thuận lợi và khó khăn khi xử lí nước thải chăn nuôi bằng thực
vật thủy sinh 80
4.3.4. Đề xuất giải pháp áp dụng vào thực tiễn 81
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 82
5.1. Kết luận 82
5.2. Kiến nghị 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
PHỤ LỤC



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Trong những năm trở lại đây, môi trường toàn cầu có những biến đổi theo
chiều hướng xấu đi đối với cuộc sống con người và các sinh vật trên trái đất. Do
đó vấn đề phát triển bền vững và bảo vệ môi trường đang được sự quan tâm đặc
biệt của phần lớn các quốc gia trên thế giới, cũng như của các tổ chức chính phủ
và phi chính phủ. Vì vậy mục tiêu phấn đấu của cả nhân loại là phát triển bền
vững nhằm đảm bảo cân bằng giữa phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
Hiện nay tại Việt Nam tình trạng ô nhiễm môi trường đang ngày càng trở
nên nghiêm trọng, khi người dân đô thị phải đối mặt với tình trạng tồn ứ rác thải
sinh hoạt, công nghiệp, ô nhiễm nước thải, ô nhiễm không khí do khói bụi,….thì
người dân ở khu vực nông thôn lại phải sống chung với tình trạng ô nhiễm môi
trường do thuốc trừ sâu, hoá chất bảo vệ thực vật, rác thải nông nghiệp…
Ngành Nông nghiệp, trong đó có ngành chăn nuôi, chủ yếu là gia súc,

gia cầm đã và đang thải ra môi trường một lượng lớn nước thải. Năm 2008 cả
nước có tổng 120.699 trang trại, đến năm 2009 đã tăng lên 135.437 trang trại.
Nguồn nước thải chăn nuôi là một nguồn nước thải có chứa nhiều hợp chất
hữu cơ, virus, vi trùng, trứng giun sán… Nguồn nước này có nguy cơ gây ô
nhiễm các tầng nước mặt, nước ngầm và trở thành nguyên nhân trực tiếp phát
sinh dịch bệnh cho đàn gia súc. Đồng thời nó có thể lây lan một số bệnh cho
con người và ảnh hưởng đến môi trường xung quanh vì nước thải chăn nuôi
còn chứa nhiều mầm bệnh như: Samonella, Leptospira, Clostridium tetani,…
nếu không xử lý kịp thời. Bên cạnh đó còn có nhiều loại khí được tạo ra bởi
hoạt động của vi sinh vật như NH
3
, CO
2
, CH
4
, H
2
S, . . . Các loại khí này có thể
gây nhiễm độc không khí. Chất ô nhiễm trong nước thải chủ yếu là nitrat (NO
3
-
)
và photphoris (PO
4
-
) các chất này trong nước thải chăn nuôi thường ở dạng hoà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2

tan nên rất khó tách chúng khỏi nước thải. Các chỉ số đại diện chất hữu cơ như
BOD, COD, các chỉ số Ecoli, Coliform trong nước thải chăn nuôi đa số đều
vượt quá tiêu chuẩn cho phép gấp nhiều lần làm ảnh hưởng đến đời sống con
người và hệ sinh thái. Chính vì vậy mà việc thiết kế hệ thống xử lý nước thải
cho các trại chăn nuôi lợn là một hoạt động hết sức cần thiết.
Tỉnh Thái Nguyên đã và đang có sự phát triển vượt bậc trong sản xuất,
giáo dục, kinh tế và văn hoá xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh quá trình phát triển
kinh tế, tỉnh Thái Nguyên cũng là nơi tập trung rất nhiều trang trại chăn nuôi có
qui mô lớn. Vì thế lượng nước thải thải ra cũng rất lớn gây ô nhiễm nguồn nước
mặt, nước ngầm, ô nhiễm đất….
Để hạn chế mức độ ô nhiễm môi trường từ nước thải chăn nuôi, một số
giải pháp được đưa ra như xây dựng hầm khí sinh học bioga….Tuy nhiên
phương pháp này khá tốn kém đối với những hộ gia đình chưa có điều kiện về
mặt kinh tế, đồng thời sẽ là nguy hiểm với những hộ gia đình chưa có những
hiểu biết đầy đủ về qui trình sử dụng hầm bioga.
Ở một số nước phát triển, các nhà khoa học đã nghiên cứu và ứng dụng
thành công các phương pháp hiếu khí, kị khí và sử dụng thực vật thủy sinh.
Ưu thế của việc xử lí nước thải bằng biện pháp sinh học là đơn giản, tiết kiệm,
tận dụng được nguồn sinh vật sẵn có trong môi trường và hạn chế đến mức tối
đa các ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường trong quá trình xử lí.
Đã từ lâu, thực vật thủy sinh đã rất quen thuộc với nhân dân ta vì chúng
được sử dụng phổ biến trong chăn nuôi cũng như làm phân bón. Từ những
năm 1970, điển hình là bèo tây và bèo cái đã được một số nước trên thế giới
nghiên cứu sử dụng cho quá trình xử lí nước thải sinh hoạt cũng như nước
thải công nghiệp và đã mang lại những kết quả khả quan. Trong hệ thống này,
vai trò của thực vật thủy sinh không chỉ tham gia làm giảm thiểu ô nhiễm hữu
cơ mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu nitơ và phôtpho trong
nước thải mà các phương pháp khác khó thực hiện được hoặc rất tốn kém.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
Để đánh giá vai trò của thực vật thủy sinh trong xử lí nước thải chăn
nuôi cũng như khả năng sử dụng các loài thực vật thủy sinh trong thực tiễn
như một giải pháp thân thiện với môi trường, được sự đồng ý của Ban giám
hiệu Nhà trường, Khoa Sau Đại học, Đại học Thái Nguyên, tôi tiến hành thực
hiện đề tài: “Thực trạng ô nhiễm nước thải chăn nuôi tại thành phố Thái
Nguyên và biện pháp xử lí bằng thực vật thủy sinh”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
- Điều tra, đánh giá thực trạng ô nhiễm từ nước thải chăn nuôi lợn ở một
số trang trại chăn nuôi tại thành phố Thái Nguyên.
- Nghiên cứu, xây dựng giải pháp giảm thiểu ô nhiễm nước thải chăn
nuôi bằng thực vật thuỷ sinh.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Nắm chắc quy chuẩn Việt Nam QCVN 24:2009/BTNMT- Quy chuẩn
kỹ thuật Quốc gia về nước thải công nghiệp.
- Nắm chắc QCVN 01 - 15:2010/BNNPTNT- Quy chuẩn kỹ thuật Quốc
gia điều kiện đảm bảo trại chăn nuôi gia cầm an toàn sinh học.
- Nắm chắc phương pháp điều tra, phỏng vấn, đánh giá, tổng hợp số liệu.
- Nắm chắc phương pháp lấy mẫu nước thải.
- Nắm chắc qui trình làm thí nghiệm với các loại thực vật thuỷ sinh.
- Đề xuất phương án giảm thiểu.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
Qua khảo sát, tìm hiểu thực tế giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thực trạng ô
nhiễm ở các trại chăn nuôi, những khó khăn, thách thức mà các trang trại chăn
nuôi đang gặp phải với những vấn đề xử lí nước thải cũng như xử lí ô nhiễm
môi trường. Từ đó có thể đánh giá được hiện trạng môi trường ở các trang
trại chăn nuôi tại thành phố Thái Nguyên và nghiên cứu biện pháp xử lí
bằng thực vật thuỷ sinh cho nước thải chăn nuôi nhằm tiết kiệm tối đa biện
pháp xử lí, đồng thời làm giảm thiểu mức độ ô nhiễm nước thải trong hoạt

động chăn nuôi. Nhằm mục tiêu đưa nghành chăn nuôi của nước ta phát
triển một cách bền vững.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học về chăn nuôi trang trại
2.1.1. Khái niệm về ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi trang trại
Ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi trang trại là sự thay đổi bất lợi môi
trường không khí, môi trường đất và môi trường nước hoàn toàn hay đại bộ
phận do hoạt động chăn nuôi, các hoạt động nuôi trồng thuỷ sản của con
người tạo nên. Những hoạt động này gây tác động trực tiếp hay gián tiếp đến
sự thay đổi về mặt năng lượng, mức độ bức xạ, về thành phần hoá học, tính
chất vật lí, Những thay đổi đó do tác động có hại đến con người và sinh vật
trên trái đất (Nguyễn Thiện, Trần Đình Miện, 2001) [21].
2.1.2. Nguồn gốc phát sinh ô nhiễm môi trường nước trong hoạt động chăn nuôi
- Nguồn gốc phát sinh ô nhiễm môi trường nước trong hoạt động chăn
nuôi chủ yếu được gây ra do nước thải trong khi rửa chuồng, nước tiểu lợn, ô
nhiễm chất thải rắn là do phân, thức ăn thừa của lợn vương vãi ra nền chuồng mà
không được thu gom kịp thời. Các chất này đều là những chất dễ phân huỷ sinh
học: Carbonhydrate, protein, chất béo dẫn đến các vi sinh vật phân huỷ làm phát
tán mùi hôi thối ra môi trường. Đây là các chất gây ô nhiễm nặng nhất và thường
thấy nhất trong các trại chăn nuôi tập trung (Phạm Thị Phương Lan, 2007) [10].
- Mức độ ô nhiễm nguồn nước từ hoạt động chăn nuôi là nặng hay nhẹ tuỳ
thuộc vào lượng thải ngoài môi trường là bao nhiêu và phụ thuộc vào việc xử lí
hay không xử lí lượng nước thải trước khi thải ra ngoài môi trường.
Hiện nay, cả nước có khoảng 135.437 trang trại chăn nuôi, tỷ trọng

chăn nuôi trang trại và công nghiệp chiếm 37%. Với lượng thải của một con
bò từ 10 - 15kg phân/ngày, một con lợn là 2,5 - 3,5 kg phân/ngày và gia cầm
là 90 gram phân/ ngày thì tổng số lượng chất thải chăn nuôi khoảng
73.090.133 tấn/năm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Theo số liệu thống kê có 12% số trang trại có hệ thống xử lý chất thải,
còn lại toàn bộ chất thải được thải trực tiếp ra môi trường, gây ô nhiễm môi
trường nước mặt, nước ngầm, đất nghiêm trọng.
Ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi chủ yếu từ các nguồn chất thải
rắn, bụi, tiếng ồn, xác gia súc, gia cầm chết chôn lấp không đúng kỹ thuật.
Kết quả kiểm tra mức độ nhiễm khuẩn trong chuồng nuôi gà tại Hà Nội cho
thấy, tổng số vi khuẩn trong không khí ở chuồng nuôi cao gấp 30 - 40 lần so
với không khí bên ngoài.
- Ta có bảng đưa ra các thông số đánh giá chất lượng nước thải:
Bảng 2.1. Các thông số đánh giá chất lƣợng nƣớc thải
STT
Thông số
Đơn vị
QCVN 24:2009B
1
pH

mg/l
5,5-9
2
BOD
5

mg/l
50
3
COD
mg/l
80
4
Coliform
MNP/100ml
5.000
5
Tổng P
mg/l
6
6
Tổng N
mg/l
30
7
TSS
mg/l
50
8
NH
4
+
mg/l
10

2.1.3. Thành phần, tính chất của nước thải chăn nuôi

Nước thải chăn nuôi là một trong những loại nước thải rất đặc trưng, có
khả năng gây ô nhiễm môi trường cao bằng hàm lượng chất hữu cơ, cặn lơ
lửng, N, P và sinh vật gây bệnh. Nó nhất thiết phải được xử lý trước khi thải
ra ngoài môi trường. Lựa chọn một quy trình xử lý nước thải cho một cơ sở
chăn nuôi phụ thuộc rất nhiều vào thành phần tính chất nước thải, bao gồm:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
a
a
.
.


C
C
á
á
c
c


c
c
h
h


t

t


h
h


u
u


c
c
ơ
ơ


v
v
à
à


v
v
ô
ô


c

c
ơ
ơ


Trong nước thải chăn nuôi, hợp chất hữu cơ chiếm 70–80% gồm cellulose,
protit, acid amin, chất béo, hidratcarbon và các dẫn xuất của chúng có trong
phân, thức ăn thừa. Hầu hết các chất hữu cơ dễ phân hủy. Các chất vô cơ chiếm
20–30% gồm cát, đất, muối, ure, ammonium, muối chlorua, SO
4
2-
,…
b
b
.
.


N
N
i
i
t
t
ơ
ơ


(
(

N
N
)
)


v
v
à
à


P
P
h
h
o
o
t
t
p
p
h
h
o
o


(
(

P
P
)
)


Khả năng hấp thụ N và P của các loài gia súc, gia cầm rất kém, nên khi ăn
thức ăn có chứa N và P thì chúng sẽ bài tiết ra ngoài theo phân và nước tiểu.
Trong nước thải chăn nuôi lợn thường chứa hàm lượng N và P rất cao.
Hàm lượng N-tổng số trong nước thải chăn nuôi 571 – 1026 mg/l, Photpho
tổng số từ 39 – 94 mg/l.
c
c
.
.


V
V
i
i


s
s
i
i
n
n
h

h


v
v


t
t


g
g
â
â
y
y


b
b


n
n
h
h


Nước thải chăn nuôi chứa nhiều loại vi trùng, virus và trứng ấu trùng

giun sán gây bệnh.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc
2.2.1. Tình hình ô nhiễm môi trường chất thải chăn nuôi tại Việt Nam
Hiện nay trên cả nước hiện có 135.437 trang trại chăn nuôi, tăng gấp 5 lần
so với năm 2001, trong đó miền Nam chiếm 64,4% và miền Bắc là 35,6%. Chăn
nuôi trang trại phát triển nhanh về cả số lượng, chủng loại và quy mô đã góp
phần nâng cao năng suất, chất lượng, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá đảm
bảo nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.
Chăn nuôi trang trại chủ yếu tập trung ở một số vùng trọng điểm như
Đồng bằng Sông Cửu Long: 57.483 trang trại (TT), Đồng bằng Sông Hồng:
17.318 TT, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung: 18.202 TT, Đông Nam
bộ: 13.792 TT. Các địa phương có số lượng TT nhiều là TP. Hồ Chí Minh:
2.631, Đồng Nai: 1.264, Bình Định: 834, Thanh Hóa: 815, Trà Vinh: 789, Gia
Lai: 787, Ninh Thuận: 690, Bình Thuận: 676, Hà Tây: 641,…Trong đó chủ
yếu các trang trại chăn nuôi lợn, gia cầm với các giống công nghiệp cao sản
và mang tính chất đầu tư thâm canh (Lê Viết Ly, 2009) [12].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Bảng 2.2. Số trang trại phân theo địa phƣơng
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
Cả nước
114.362
113.699

116.222
120.699
135.437
Đồng bằng Sông Hồng
10.960
15.222
16.085
17.318
20.581
Trung du và miền núi phía Bắc
4.545
3.850
3.835
4.423
4.680
Bắc Trung Bộ và Duyên hải
miền Trung
16.788
17.378
18.015
18.202
20.420
Tây Nguyên
9.623
8.730
9.240
9.481
8.835
Đông Nam Bộ
15.864

14.077
14.024
13.792
15.174
Đồng bằng Sông Cửu Long
56.582
54.442
55.023
57.483
65.747
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2009)[15]
Theo tổ chức FAO: Động vật nuôi thải ra 9% lượng khí CO
2
toàn cầu,
37% lượng khí Methane (CH
4
) – khí có khả năng giữ nhiệt cao gấp 23 lần khí
CO
2
. Điều này có nghĩa là chăn nuôi gia súc đã được khẳng định là một tác
nhân chính làm tăng hiệu ứng nhà kính. Chăn nuôi gia súc còn đóng góp tới
64% khí Amoniac (NH
3
) – thủ phạm của những trận mưa axit. Ngoài ra, nhu
cầu thức ăn, nước uống, tập tính bầy đàn, nhu cầu bãi chăn thả của gia súc
cũng đang được coi là một trong những tác nhân chính gây thoái hóa đất nông
nghiệp, ô nhiễm nguồn nước và mất cân bằng hệ sinh thái.
Nguyên nhân được FAO nhận định là do nhu cầu thịt và sữa của con
người đang ngày một tăng cao và đa dạng trong khi việc quy hoạch chăn nuôi
lại tùy tiện, việc xử lý chất thải chăn nuôi không đồng bộ và yếu kém. Tại

Việt Nam, hiện trạng ô nhiễm do chăn nuôi gây ra đang ngày một ở mức báo
động. Xã Trực Thái (Nam Định) có 91,13% hộ nuôi. Kết quả mà cơ quan
chức năng thu được là mức khi độc NH
3
, H
2
S cao hơn mức cho phép 4,7 lần,
mức nhiễm khuẩn không khí trong chuồng nuôi trung bình là 18.675 vi sinh
vật (cao hơn tiêu chuẩn của Nga 12 lần), nước thải nhiễm E.Coli và 25% số
mẫu nhiễm trứng giun với mật độ 4.025 trứng/500ml nước thải. Hàm lượng
COD là 3.916 mg/L trong khi TCVN quy định mức COD trong chất thải chỉ
được phép từ 100 – 400 mg/lít.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Bảng 2.3. Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá thực tế
phân theo ngành hoạt động
Năm
Tổng số
Ngành hoạt động
Trồng trọt
Chăn nuôi
Dịch vụ
Tỷ đồng
2007
236.935,0
175.007,0
578.030
4.125,0

2008
377.238,6
269.337,6
102.200,9
5.700,1
2009

292.996,8
110.311,6
6.829,6
Cơ cấu %
2007
100,0%
73,9%
24,4%
1,7%
2008
100,0%
71,4%
27,1%
1,5%
2009
100,0%
71,4%
26,9%
1,75
(Niên giám thống kê, 2009)[15]
Ô nhiễm do chăn nuôi và đặc biệt là chăn nuôi lợn thì không chỉ làm hôi
tanh không khí mà còn ảnh hưởng nặng nề tới nguồn nước và tài nguyên đất.
Dịch bệnh chưa khống chế, chăn thả tràn lan, chăn nuôi nhỏ lẻ và hầu như

không có công nghệ chế biến chất thải là các nguyên nhân làm chăn nuôi là
ngành gây ô nhiễm môi trường lớn ở nước ta.
Báo Nông nghiệp Việt Nam số 200, ngày 6/10/2006 đã có một bài phản
ánh nỗi niềm bức xúc của nông dân ở Hưng Nguyên – Nghệ An vì đàn bò và các
gia súc của họ lâu nay vẫn béo mượt thì nay rụng lông, toét mắt, ghẻ lở, bán rẻ
mấy cũng chẳng ai mua. Nguyên nhân là do nguồn nước thải của Công ty cổ
phần Giấy Sông Lam, ba cống thải ngày đêm hoạt động hết công suất đẩy dòng
nước thải độc hại ấy thẩm thấu hết vào làng.
Quy hoạch chăn nuôi còn lúng túng, việc xử lý hậu quả của các trang
trại trước đây trót nằm trong khu dân cư như thế nào, hướng dẫn chăn nuôi
nhỏ lẻ an toàn, xác định vùng nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, bãi
chăn thả, còn hết sức nan giải.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Bảng 2.4. Số lƣợng gia súc, gia cầm của Việt Nam
Năm
Trâu

Lợn
Ngựa
Dê, cừu
Gia cầm
Nghìn con
Triệu con
2000
2.897,2
4.127,9

20.193,8
126,5
543,9
196,1
2001
2.807,9
3.899,7
21.800,1
113,4
571,9
218,1
2002
2.814,5
4.062,9
23.169,5
110,9
621,9
233,3
2003
2.834,9
4.394,4
24.884,6
112,5
780,4
254,6
2004
2.869,8
4.907,7
26.143,7
110,8

1022,8
218,2
2005
2.922,2
5.540,7
27.435,0
110,5
1314,1
219,9
2006
2.921,1
6.510,8
26.855,3
87,3
1525,3
214,6
2007
2.996,4
6.724,7
26.560,7
103,5
1777,7
226,0
2008
2.897,7
6.337,7
26.701,6
121,2
1483,4
248,3

2009
2.886,6
6.103,3
27.627,7
102,2
1375,1
280,2
(Niên giám thống kê, 2009) [15]
- Tại Hà Nội, hiện nay phát triển chăn nuôi của thành phố chiếm trên
50% tỷ trọng trong nông nghiệp và đang trên đà tăng trưởng khá, góp phần
không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống của bà con
nông dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động chăn nuôi, giết mổ đã và đang
gây ra ô nhiễm, ảnh hưởng đến môid trường sống, sức khỏe của cộng đồng.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Hà Nội,
hiện tại trên địa bàn thành phố có 1.223 trang trại chăn nuôi, nhưng chủ yếu là
chăn nuôi tự phát, tận dụng, phân tán, nhỏ lẻ. Trong đó, đến 80% cơ sở chăn
nuôi xây dựng chuồng trại ngay trong khu dân cư, gây ô nhiễm môi trường,
tăng nguy cơ dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm và con người. Tuy nhiên,
hiện nay việc đáng lo ngại nhất là dù chăn nuôi ở quy mô nhỏ hay lớn các loại
chất thải trong chăn nuôi đa phần vẫn chưa được xử lý. Chất thải trong chăn
nuôi được phân ra làm 3 loại: chất thải rắn, chất thải lỏng, chất thải khí bao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
gồm CO
2
, NH
3
… đều là những loại khí chính gây hiệu ứng nhà kính; trong

khi đó ước tính ở Hà Nội có khoảng 1 triệu tấn/năm chất thải rắn được thải ra
môi trường. Chỉ một phần nhỏ của chất thải rắn được ủ để làm phân bón, một
phần được dùng trực tiếp tưới cho hoa màu và nuôi cá. Chất thải lỏng bao
gồm nước tiểu, nước tắm cho vật nuôi, nước rửa chuồng đa phần đều chảy
trực tiếp ra hệ thống cống thoát nước chung trong khu dân cư.
Bà Nguyễn Thị Kim Dung, Phó phòng NN&PTNT huyện Thanh Oai
cho biết, chăn nuôi ở Thanh Oai phát triển mạnh ở các xã Tân Ước, Thanh
Mai, Thanh Cao Tuy nhiên, hiện tượng chuồng gia súc, gia cầm nằm ngay
cạnh khuôn viên nhà ở, chen chúc trong khu dân cư không phải là điều hiếm
gặp ở đây vì chăn nuôi hộ gia đình là cách người dân tận dụng các sản phẩm
dư thừa hằng ngày. Tuy nhiên, chỉ cần một gia đình nuôi 5-10 con lợn không
vệ sinh chuồng trại, xử lý phân không hợp lý thì tất cả các hộ xung quanh phải
cùng chịu hậu quả: nguồn nước, không khí bị ô nhiễm và nguy hiểm hơn là
việc lây lan dịch bệnh rất nhanh. Không chỉ có chăn nuôi nhỏ lẻ mà chăn nuôi
quy mô lớn cũng không được cải thiện nhiều, tuy các trang trại này đã nằm
tách biệt với khu dân cư nhưng công nghệ xử lý chất thải phần lớn vẫn là chôn
lấp do thiếu kinh phí và công nghệ. Bên cạnh đó, nhận thức của người dân về
các quy định pháp luật bảo vệ môi trường trong chăn nuôi còn rất hạn chế.
- Tại Đồng Nai, theo ước tính của ngành môi trường, mỗi ngày có
khoảng 5 tấn phân lợn, phân gà và 12.000 m
3
nước thải chăn nuôi trên địa bàn
thành phố Biên Hoà được thải trực tiếp ra sông Đồng Nai. Các trại không có
hệ thống xử lí nước thải và tất cả đều được đổ ra dòng suối Săn Máu đã và
đang dần giết chết dòng sông này, những bao phân tươi được đặt ngay trên
đường đi, khiến cho môi trường không chỉ trong các khu chăn nuôi bị ô nhiễm
nặng nề, mà còn gây mùi hôi thối nồng nặc ảnh hưởng đến sức khoẻ người
dân vùng lân cận. Theo số liệu thống kê Biên Hoà hiện có khoảng 140.000
đầu lợn và 1 triệu con gia cầm được nuôi trong hơn 8000 hộ chăn nuôi qui mô
lớn ở Tân Hoà, Tân Biên, Tân Phong nhưng trong đó chỉ có khoảng 15% số


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
hộ sử dụng hầm Bioga để tận dụng chất thải làm nguồn năng lượng chất đốt,
còn lại đều thải vô tư ra môi trường xung quanh (Phương Liễu, 2008) [11].
- Tại thành phố Hồ Chí Minh theo Cục trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn), chất thải từ hệ thống chăn nuôi tập trung đang ảnh hưởng
lớn đến môi trường và sức khoẻ con người. Cụ thể, với chất thải rắn, tổng
lượng phân tươi lưu trữ là 26%, sử dụng làm hầm Bioga 21%, thải ra đất và
nguồn nước 19%, ủ 10% còn đối với chất thải lỏng, có tới 60% được thải trực
tiếp ra đất hoặc nguồn nước, 12% là chất trực tiếp vào ao cá, trong khi đó chất
thải chăn nuôi sử dụng làm phân bón cây trồng đang có chiều hướng giảm. Do
vậy, một nghiên cứu mới đây cho thấy, chất thải chăn nuôi có mức BOD cao
hơn tiêu chuẩn cho phép 500mg/l, có chứa số lượng vi khuẩn E.coli và trứng ký
sinh trùng ở mức cao không thể chấp nhận được. Lượng vi khuẩn tăng nhanh
trong nước ngầm , 100% mẫu rau xanh có sử dụng chất thải chăn nuôi làm
phân bón đều có E.coli. Kiểm tra thịt tại các chợ ở thành phố Hồ Chí Minh cho
thấy 2,2% mẫu bị nhiễm Salmonella và nhiễm E.coli (Lê Hằng, 2007) [6].
Quy mô chăn nuôi lợn nái và chăn nuôi lợn thịt được thể hiện trong
bảng sau:
Bảng 2.5. Qui mô chăn nuôi lợn nái của Việt Nam năm 2003
STT
Quy mô (con)
Số trang trại
Tỉ lệ (%)
1
20 – 50
2.131
71,3

2
50 – 100
508
17,0
3
100 – 150
181
6,1
4
150 – 250
85
2,8
5
250 – 500
54
1,8
6
> 500
31
1,0
(Nguồn: Phùng Đức Tiến và cs, 2009) [25].
Trong 3 năm gần đây, quy mô chăn nuôi lợn trong các trang trại có xu
hướng tăng nhanh do có tương quan giữa tỷ lệ lợi nhuận và số lượng đầu con
chăn nuôi. Số nái tăng dần từ 20 con/trại lên mức phổ biến là 40-50 con/trại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Vùng có quy mô chăn nuôi lợn nái lớn nhất là Đông Nam Bộ có 20 TT
với quy mô 250 - 500 con/TT và 16 TT với quy mô trên 500 con/TT; tiếp đến

là Đồng bằng sông Hồng có 10 TT với quy mô 250-500 con/TT và 11 TT với
quy mô trên 500 con/TT; Đồng bằng sông Cửu Long có 5 TT với quy mô
250-500 con/TT.
Bảng 2.6. Qui mô chăn nuôi lợn thịt của Việt Nam năm 2003
STT
Quy mô (con)
Số trang trại
Tỉ lệ (%)
1
100 – 200
3.388
75,5
2
200 – 300
606
13,5
3
300 – 500
241
5,4
4
500 - 1.000
149
3,3
5
1.000 - 1.500
63
1,4
6
1.500 - 2.500

24
0,5
7
> 2.500
140
0,3
(Nguồn: Phùng Đức Tiến và cs, 2009) [25].
Vùng có quy mô chăn nuôi lợn thịt lớn nhất là Đông Nam Bộ có 14 TT
với số đầu con từ 1.500 - 2.500 con/TT và 8 TT trên 2.500 con/TT; tiếp đó là
Đồng bằng sông Hồng có 3 TT quy mô từ 1.500 - 2.500 con/TT và 6 TT có
quy mô trên 2.500 con/TT.
Quy mô lợn thịt phổ biến từ 100-200 con/TT, chiếm 75,5% đã cho thấy
về cơ bản chăn nuôi lợn TT còn ở quy mô nhỏ, TT hộ gia đình là chính. Số
TT quy mô lớn hàng trăm nái hoặc hàng ngàn lợn thịt/TT còn rất ít. Vùng có
quy mô TT lớn nhất vẫn là Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng.
Với những số lượng trang trại như vậy nên hiện nay Việt Nam đang đứng
trước một thực trạng đó là ô nhiễm môi trường do hoạt động chăn nuôi từ các
trang trại tập trung gây ra. Chủ yếu là chất thải trong chăn nuôi lợn bao gồm
phân, nuớc tiểu, chất độn chuồng, thức ăn rơi vãi và nước làm vệ sinh chuồng
trại. Không giống như phân bò hay phân của gia cầm khác, việc quản lí chất thải
trong chăn nuôi lợn gặp rất nhiều khó khăn (Hồ Thị Kim Thoa và cs, 2002) [20].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
2.2.2. Tình hình ô nhiễm môi trường trong các trại chăn nuôi tỉnh Thái Nguyên
- Thái Nguyên hiện có 638 trang trại trên địa bàn tỉnh, tăng hơn 250
trang trại so với năm 2001, tập trung chủ yếu ở T.P Thái Nguyên, Đồng Hỷ,
Phổ Yên, Phú Bình Trong đó có 9 trang trại trồng cây hằng năm, 53 trang
trại trồng cây lâu năm, 234 trang trại chăn nuôi, 56 trang trại lâm nghiệp, 22

trang trại nuôi trồng thuỷ sản và 264 trang trại tổng hợp (Cục thống kê tỉnh
Thái Nguyên, 2009) [3].
- Tại nhiều địa phương, tình trạng ô nhiễm môi trường do các trang trại
chăn nuôi lợn đang phổ biến và đáng lo ngại. Thái Nguyên cũng là một điển
đình trong các tỉnh có nhiều trang trại chăn nuôi lớn tập trung. Tỉnh Thái
Nguyên có khoảng gần 400 trang trại, trong đó chủ yếu là chăn nuôi lợn với
qui mô chăn nuôi phổ biến từ 100 đến 400 con lợn thịt, 20 đến 120 con lợn
nái ngoại, bò, gia cầm với qui mô chủ yếu từ 500 đến 1000 con.
Bảng 2.7. Tổng số lƣợng lợn qua các năm
Năm
Số lƣợng
Tỉ lệ %
(so với cả nƣớc)
Tỉnh Thái Nguyên
(nghìn con)
Cả nƣớc
(triệu con)
2000
348,1
20.193,8
1,72
2001
430,4
21.800,1
1,97
2002
448,3
23.169,5
1,93
2003

465,9
24.884,6
1,87
2004
502,4
26.143,7
1,92
2005
519,3
27.435,0
1,89
2006
497,4
26.855,3
1,85
2007
509,4
26.560,7
1,92
2008
529,2
26.701,6
1,98
2009
560,0
27.627,7
2,03
(Niên giám thống kê, 2009) [15]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


14
- Huyện Phú Bình là một trong những địa phương của tỉnh Thái Nguyên
tập trung nhiều trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm với tổng số đàn lợn có
khi lên tới 35- 40 ngàn con. Với gần 50 trang trại chăn nuôi lợn đang hoạt
động này tuy có diện tích rộng nhưng chất thải từ chăn nuôi vẫn ảnh hưởng
đến sức khoẻ và môi trường xung quanh là khá lớn.
- Tại thị xã Sông Công, có thể kể đến một số trang trại như: TT của bà
Phạm Thị Xuyến (Cải Đạn), Chu Thị Duyên (Vinh Sơn), Dương Văn Khang
(Tân Quang), Trung tâm chăn nuôi Thắng Lợi thuộc hợp tác xã dịch vụ và
Sản xuất nông nghiệp Sông Công,….Các trang trại này chủ yếu cung cấp lợn
giống thương phẩm cho các tỉnh như: Bắc Giang, Hà Nội, Thái Nguyên và
một số tỉnh lân cận, đồng thời cung cấp lợn xuất khẩu.
- Tại Phổ Yên, số trang trại chăn nuôi lợn hiện nay là khá lớn, với tổng số
trang trại hiện có là 60 trang trại, số đầu lợn vào khoảng hơn 14.000 con. Tuy nhiên
các trang trại này chủ yếu là lợn sinh sản và lợn thịt, số đầu lợn không quá lớn,
khoảng duới 200 con/1 trại nên sự ô nhiễm chưa phải quá lớn và nghiêm trọng.
Bảng 2.8. Số trang trại phân theo huyện, thành phố,
thị xã, tỉnh Thái Nguyên
Đơn vị hành chính
cấp huyện
Số trang trại
Năm 2003
Năm 2006
Năm 2008
Năm 2010
TPTN
193
268
168

192
Thị xã Sông Công
24
20
24
28
Huyện Định Hoá
23
11
40
42
Huyện Võ Nhai
34
24
27
39
Huyện Phú Lương
31
27
29
38
Huyện Đồng Hỷ
102
89
100
102
Huyện Đại Từ
72
51
80

82
Huyện Phú Bình
98
49
88
96
Huyện Phổ Yên
82
50
64
83
Tổng
659
589
638
702
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên 2010) [16]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
- Tại Định Hoá, ban đầu cả huyện chỉ có 20 trang trại chăn nuôi. Các
trang trại này chủ yếu trồng rừng, nuôi trâu, bò, lợn với qui mô nhỏ, thu nhập
thấp. Từ sau năm 2000, khi Uỷ ban nhân dân (UBND) huyện có chủ trương
khuyến khích người dân phát triển kinh tế trang trại ở các hộ gia đình. Tuy
nhiên phát triển kinh tế trang trại ở các hộ gia đình cũng bắt đầu phát sinh
nhiều khó khăn như hầu hết là dịch bệnh, ÔNMT gây khó chịu cho nhiều hộ
gia đình xung quanh.
Từ khi huyện phát triển thêm hơn 10 trang trại với qui mô lớn hơn thì
môi trường ở đây đang ngày càng bị đe dọa và xuống cấp nghiêm trọng, mặc

dù trong các trang trại cũng đã bước đầu có những biện pháp giảm thiểu như
xây bể bioga để tận dụng chất thải rắn, nước thải rửa chuồng. Song do thiếu kĩ
thuật trong thiết kế, xây dựng thiếu kinh phí mà hầu hết các hầm xử lí đều
không còn sử dụng được hoặc có sử dụng được thì cũng không đủ đáp ứng
được với số đầu lợn của trại trong việc xử lí.
- Tại Thành phố Thái Nguyên (TPTN): Chăn nuôi lợn trên địa bàn thành
phố những năm qua đã có những phát triển mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê
đến hết năm 2008, tổng đầu lợn lên tới 53.450 con, sản lượng thịt đạt hơn 3
nghìn tấn, với 32 trang trại nuôi lợn nái và lợn thịt .Tuy nhiên vấn đề nước thải
của các trang trại chăn nuôi trên địa bàn thành phố đang rất đáng lo ngại, theo
điều tra cho thấy chỉ có 80% nước thải của các trang trại này được qua xử lý
bằng hầm ủ Biogar [30], nhưng chất lượng của các hầm ủ này kém, công suất
nhỏ nên nước thải ra môi trường có thể vẫn còn gây ô nhiễm.
Trong những năm gần đây, sản xuất chăn nuôi trên địa bàn T.P Thái
Nguyên đã có những phát triển rõ rệt. Tuy nhiên, do dịch bệnh xảy ra thường
xuyên cùng với biến động của thị trường, giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng
cao… nên ngành chăn nuôi của thành phố đã gặp không ít khó khăn…
Trong những năm qua, để đưa tỷ trọng ngành chăn nuôi trong cơ cấu
kinh tế nông nghiệp đạt 31,35% năm 2010, UBND T.P đã có nhiều chính sách
khuyến khích phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm như: Chương trình cải tạo,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
nâng cao tầm vóc, lai tạo đàn bò theo hướng chăn nuôi bò thịt; hỗ trợ đầu tư
xây dựng mới trang trại tập trung chăn nuôi lợn ngoại và gia cầm nhằm phát
triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, hiệu quả, an toàn dịch bệnh và phát
triển bền vững. Nhờ đó, giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng bình quân
7,06%/năm; chất lượng con giống tiếp tục được cải thiện mang lại giá trị kinh
tế cao, tăng thu nhập, tạo việc làm cho khoảng 1.200 lao động, với mức thu

nhập bình quân từ 1,5 đến 2 triệu đồng/người/tháng. Kinh tế trang trại phát
triển cả về số lượng và quy mô, từ 15 trang trại chăn nuôi năm 2005 tăng lên
59 trang trại năm 2010. Trong đó có 18 trang trại chăn nuôi lợn, quy mô từ
100 đến 2.000 con; 38 trang trại chăn nuôi gia cầm, quy mô từ 2.000 đến
16.000 con. Tính đến nay, tổng đàn gia súc, gia cầm có khoảng 780 nghìn
con, tăng 126 nghìn con so với năm 2005, trong đó lợn tăng 12.000 con; gia
cầm trên 154.000 con; riêng đàn trâu, bò giảm 1 nghìn con.
Mặc dù mang lại giá trị kinh tế cao, tạo việc làm cho nhiều lao động,
song việc phát triển chăn nuôi, đặc biệt là phát triển các mô hình trang trại
vẫn còn khá nhiều hạn chế. Bởi, hiện nay hầu hết các hộ dân chăn nuôi theo
hướng tự phát, phân tán, quy mô chăn nuôi nhỏ, hiệu quả và hệ số quay vòng
chăn nuôi thấp. Do việc triển khai thực hiện quy hoạch và chính sách khuyến
khích phát triển chăn nuôi tập trung xa khu dân cư còn nhiều khó khăn, do
vậy các trang trại hiện nay chủ yếu ở gần khu dân cư, gây ô nhiễm môi
trường. Mặt khác, khi có hiệu quả kinh tế thì nhiều thành phần kinh tế tập
trung đầu tư vào chăn nuôi dẫn đến dư thừa sản phẩm, cung vượt quá cầu.
Cùng với đó, con giống chưa được người chăn nuôi quan tâm đúng mức nên
phần nhiều được người dân chọn là những giống gia súc, gia cầm có năng
suất thấp, ngoại trừ một số trang trại tập trung… Thời gian qua, do ảnh hưởng
của dịch bệnh tai xanh, cúm gia cầm xảy ra cùng với biến động của thị trường
kéo theo giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng cao, trong khi đó giá bán sản
phẩm chăn nuôi trên thị trường lại lên xuống thất thường khiến cho ngành
chăn nuôi gặp không ít khó khăn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Tìm hiểu về những khó khăn trong chăn nuôi, chúng tôi đến trang trại
chăn nuôi lợn của gia đình chị Vũ Thị Hường, ở xóm Tung, xã Tích Lương
(T.P Thái Nguyên). Chị Hường cho biết: “Ngoài 50 con lợn nái sinh sản,

trong chuồng của gia đình tôi luôn nuôi dao động khoảng 400 đến 450 con lợn
thương phẩm. Chăn nuôi lợn, nhất là chăn nuôi theo hình thức trang trại lớn
như gia đình tôi, có thời điểm gặp rất nhiều khó khăn như khi lợn chuẩn bị
xuất chuồng thì giá lợn hơi trên thị trường lại đột ngột xuống thấp. Nhiều lần
phải chịu hòa vốn, thậm chí là thua lỗ khi giá cả xuống quá thấp. Trong khi
đó, tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm thời gian qua diễn biến khá
phức tạp như dịch bệnh tai xanh ở lợn, cúm gia cầm… ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển của đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn thành phố. Khi có dịch bệnh
xảy ra, các gia đình có gia súc, gia cầm chết thường ngừng hoạt động chăn
nuôi do không có vốn để tiếp tục đầu tư mua con giống. Nếu tiếp tục chăn
nuôi thì lượng gia súc, gia cầm cũng giảm đi nhiều. Hoặc có những hộ thường
xuyên chú trọng phòng, chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm nhưng vì
tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp nên vẫn gặp cảnh “dở khóc, dở cười”
khi lợn, gà lăn ra chết hoặc phải mang đi tiêu huỷ.
Không chỉ vậy, việc cắt điện luân phiên cũng khiến cho nhiều trang trại
chăn nuôi trên địa bàn rơi vào tình cảnh khó khăn. Theo bà Nguyễn Thị Thảo,
ở xóm Đức Hòa (Thịnh Đức) - hiện đang nhận nuôi lợn gia công cho Công ty
cổ phần Chăn nuôi Việt Nam thì: nuôi theo hình thức công nghiệp, lợn chịu
nóng kém, việc cắt điện luân phiên đã làm ảnh hưởng lớn đến hệ thống làm
mát, cung cấp nước uống cho lợn. Với quy mô nuôi 2.000 con/lứa, do đó mỗi
ngày mất điện Công ty phải bỏ ra 400 đến 500 nghìn đồng mua dầu chạy máy
phát điện. Vì chỉ ngưng các hệ thống trong nửa ngày là lợn không chịu được
nóng sẽ sinh bệnh và có thể chết hàng loạt.
Khi nói về giải pháp, định hướng để ngành chăn nuôi của thành phố phát
triển theo hướng bền vững, đồng chí Nguyễn Đức Thắng, Trưởng phòng Kinh
tế (T.P Thái Nguyên) cho biết: Thành phố cũng như ngành chức năng tập trung

×