Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

MỘT số vấn đề về LUẬT HÌNH sự và tố TỰNG HÌNH sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.96 KB, 43 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LUẬT HÌNH SỰ VÀ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

PHẦN I. LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT VỀ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1. Khái niệm
Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội, trật tự xã hội, Nhà nước dùng nhiều
biện pháp khác nhau vừa có tính thuyết phục vừa có tính cưỡng chế để đấu tranh, ngăn
chặn những hành vi vi phạm pháp luật. Tùy theo tính chất, mức độ của các vi phạm pháp
luật mà nhà nước lựa chọn sử dụng các chế tài thích hợp như: Dân sự, hành chính, kinh tế,
hình sự mà trong đó chế tài hình sự là nghiêm khắc nhất nhằm xử lý bất kỳ người nào
có hành vi xâm phạm nghiêm trọng các lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của công dân.
Như vậy, Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước ta, bao
gồm hệ thống các quy định pháp luật do Nhà nước ban hành trong đó xác định rõ những
hành vi vi phạm nào là tội phạm, đồng thời, quy định hình phạt đối với từng tội phạm cụ
thể.
Trong hệ thống pháp luật của nước ta chỉ có Bộ luật hình sự do Quốc hội ban hành
mới quy định về tội phạm và về hình phạt. Ngoài Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất thì không có cơ quan nào khác có quyền quy định về tội phạm và về hình phạt.
Hệ thống các quy định của luật hình sự được chia làm hai phần:
- Phần chung: Bao gồm các quy định về nguyên tắc, nhiệm vụ của Luật hình sự, về
những vấn đề chung về tội phạm và hình phạt.
- Phần các tội phạm: Bao gồm các quy định xác định các dấu hiệu pháp lý của từng
tội phạm cụ thể, loại hình phạt và mức hình phạt áp dụng đối với từng tội phạm đó.
Phần chung và Phần các tội phạm của Luật hình sự có mối quan hệ mật thiết hữu cơ
với nhau tạo nên sự hoàn chỉnh của Luật hình sự. Để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
mỗi tội phạm được quy định ở Phần các tội phạm cần phải tuân thủ những quy định của
Phần chung. Mặt khác, Phần chung muốn phát huy tác dụng khi áp dụng vào thực tiễn của
công tác đấu tranh chống tội phạm phải dựa vào các quy định ở Phần các tội phạm.
2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ chung của Luật hình sự là bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội


chủ nghĩa (sau đây viết tắt là XHCN). Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ của Luật hình
sự là "bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình
đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi
phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm".
Như vậy, nhiệm vụ đầu tiên của Luật hình sự trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào
các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức,
bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Để bảo vệ các lợi ích này, Luật hình sự quy định
và mô tả hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, quy định loại và
mức hình phạt cụ thể đối với từng tội phạm để dựa vào đó các cơ quan tiến hành tố tụng
giải quyết vụ án được chính xác, công minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Nhiệm vụ tiếp theo của Luật hình sự là giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp
luật, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm được thể hiện ở chỗ các quy định
của Luật hình sự giúp cho mọi người biết được hành vi nào là tội phạm để tự điều chỉnh
hành vi của mình, tránh những hành vi bị cấm hoặc tự thực hiện hành vi mà pháp luật bắt
buộc phải làm Thực chất, nhiệm vụ giáo dục của Luật hình sự là nhiệm vụ phòng ngừa
tội phạm nói chung.
Từ nhiệm vụ "bảo vệ" và nhiệm vụ "giáo dục" của Luật hình sự chúng ta thấy nổi
lên nhiệm vụ chính của Luật hình sự là đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
3. Những nguyên tắc cơ bản
Các nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự là những tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá trình
xây dựng và áp dụng các quy định của Luật hình sự vào đấu tranh phòng chống tội phạm.
Những nguyên tắc này được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của pháp luật
XHCN. Những nguyên tắc đó là:
- Nguyên tắc pháp chế XHCN là một nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt toàn bộ hoạt
động xây dựng cũng như áp dụng Luật hình sự.
Đối với cơ quan lập pháp (Quốc hội), nguyên tắc pháp chế XHCN được thể hiện ở
chỗ: Những hành vi bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt phải được Luật hình sự quy

định; việc sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ tội phạm nhất định phải được tiến hành một cách
kịp thời và hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật.
Đối với các cơ quan hành pháp và tư pháp, nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi việc
áp dụng Luật hình sự cũng như việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm
và của bản thân người phạm tội phải chính xác và thống nhất. Nguyên tắc pháp chế
XHCN cũng đòi hỏi việc xét xử phải đúng người, đúng tội, không một hành vi phạm tội
và người phạm tội nào tránh khỏi việc bị xử lý theo luật hình sự, không được xử oan
người vô tội. Mọi sự tùy tiện trong điều tra, truy tố và xét xử đối với công dân đều bị coi
là vi phạm nghiêm trọng pháp chế XHCN.
- Nguyên tắc dân chủ XHCN thể hiện ở chỗ, Luật hình sự bảo vệ, tôn trọng và kiên
quyết xử lý mọi hành vi xâm phạm đến các quyền tự do dân chủ của công dân. Luật hình
sự không phân biệt đối xử vì địa vị xã hội hoặc tình trạng tài sản, mọi người phạm tội đều
bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành
phần, địa vị xã hội, đồng thời, bảo đảm cho nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào
việc xây dựng và áp dụng luật hình sự, đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Mặt chuyên chính của nguyên tắc dân chủ XHCN thể hiện ở chỗ xử lý nghiêm các
hành vi phạm tội, nhất là các trường hợp cố ý phạm tội, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước,
cho xã hội và công dân cũng như chuyên chính với kẻ phạm tội là người chủ mưu, cầm
đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính
chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng.
- Nguyên tắc nhân đạo XHCN luôn luôn được thể hiện rõ nét trong chính sách hình
sự của Nhà nước ta. Việc áp dụng hình phạt đối với kẻ phạm tội chủ yếu là nhằm giáo
dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội. Hình phạt trong luật hình sự không
nhằm gây đau đớn về thể xác và không hạ thấp phẩm giá của con người. Luật hình sự
khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công
chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra. Nguyên tắc
nhân đạo XHCN còn thể hiện ở chỗ trong Luật hình sự có nhiều loại hình phạt không
tước tự do; hình phạt chung thân và tử hình chỉ được phép áp dụng trong những trường
hợp thật đặc biệt và phạm vi áp dụng cũng có giới hạn nhất định và không được phép áp

dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử. Ngoài ra, Luật hình sự còn có các quy
định khác nhằm tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo tốt như các quy định về miễn
trách nhiệm hình sự; miễn hoặc giảm hình phạt; án treo
- Nguyên tắc kết hợp hài hòa chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản là sự
thể hiện chính sách đối ngoại của Luật hình sự nước ta. Luật hình sự trừng trị các hành vi
phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; ghi nhận và bảo đảm thực
hiện các cam kết quốc tế của Nhà nước trong cuộc đấu tranh chung của loài người chống
các hành vi gây chiến tranh, chống các tội ác diệt chủng, diệt môi sinh, môi trường cũng
như các tội phạm mang tính quốc tế khác.
Ngoài ra, còn có một số nguyên tắc khác có tính chất đặc thù riêng của Luật hình sự,
như các nguyên tắc: Trách nhiệm cá nhân, có lỗi, cá thể hoá hình phạt
4. Một số vấn đề về chính sách hình sự
4.1. Cơ sở trách nhiệm hình sự
Điều 2 Bộ luật hình sự 1999 quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật
hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, cơ sở của trách nhiệm
hình sự là việc một người đã thực hiện một tội được quy định trong Bộ luật hình sự. Để
xác định xem có một tội phạm quy định trong Bộ luật hình sự đã được thực hiện hay
không, hay nói cách khác, có cơ sở trách nhiệm hình sự hay không, trước hết, chúng ta
cần phải xem xét các yếu tố khách quan, chủ quan bắt buộc sau đây của tội phạm:
- Trên thực tế có xảy ra hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong cấu thành
các tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự hay không và hành vi đó có nguy hiểm cho xã hội
hay không. Đây là yếu tố bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm. Nếu xác định
được không có hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra hoặc hành vi đó không có dấu hiệu
của tội phạm hoặc thậm chí tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho
xã hội không đáng kể thì cũng không được thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Người thực hiện hành vi đó có lỗi hay không. Đây là yếu tố bắt buộc thuộc mặt
chủ quan của tội phạm. Nếu xác định được người thực hiện hành vi không có lỗi (cố ý
hoặc vô ý) thì dù hành vi có nguy hiểm cho xã hội đến mức nào người thực hiện hành vi
đó cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Người thực hiện hành vi gây hậu

quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể thấy trước
hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó.
- Người thực hiện hành vi đó đã đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa hoặc
người đó có năng lực trách nhiệm hình sự hay không. Đây là các yếu tố bắt buộc thuộc
chủ thể của tội phạm. Nếu xác định được người thực hiện hành vi chưa đến tuổi chịu trách
nhiệm hình sự hoặc không có năng lực trách nhiệm hình sự, thì dù hành vi có nguy hiểm
cho xã hội đến mức nào người thực hiện hành vi đó cũng không phải chịu trách nhiệm
hình sự. Ví dụ: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội chưa đủ 14 tuổi
hoặc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng không có năng lực
trách nhiệm hình sự, tức là trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Ngoài ra, còn có những yếu tố khách quan, chủ quan khác không bắt buộc của tội
phạm cũng cần được xác định như: hậu quả của hành vi; mục đích, động cơ thực hiện
hành vi; những đặc điểm về nhân thân của người thực hiện hành vi. Chỉ khi xác định được
chính xác, đầy đủ các yếu tố khách quan, chủ quan của tội phạm thì mới có thể quyết định
được đúng đắn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
4.2. Nguyên tắc xử lý hình sự
Nguyên tắc xử lý hình sự được quy định rõ tại Điều 3 Bộ luật hình sự 1999, theo đó,
mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh
theo đúng pháp luật; mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt
nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội.
Khi xử lý về hình sự phải kết hợp hài hòa giữa giáo dục với trừng trị. Nghiêm trị đối
với người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm
nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo
quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng, đồng thời
khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công
chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù và giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo
dục.

Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam nhưng
phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội và nếu họ có nhiều tiến bộ thì
xét để giảm việc chấp hành hình phạt. Còn khi người bị phạt tù đã chấp hành xong hình
phạt thì cần tạo điều kiện cho họ làm ăn, sinh sống lương thiện, hoà nhập với cộng đồng
và khi có đủ điều kiện do luật định thì họ được xóa án tích.
4.3. Miễn trách nhiệm hình sự; miễn, giảm hình phạt
- Theo quy định tại Điều 25 Bộ luật hình sự 1999 thì bị cáo có thể được Tòa án miễn
trách nhiệm hình sự, nếu có một trong những căn cứ sau đây:
+ Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành
vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
+ Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc,
góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức
thấp nhất hậu quả của tội phạm;
+ Khi có quyết định đại xá của Quốc hội.
- Theo quy định tại Điều 57 Bộ luật hình sự thì người bị kết án có thể được miễn
chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:
+ Khi người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn chưa chấp hành
hình phạt mà lại lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy
hiểm cho xã hội nữa.
+ Khi có quyết định đặc xá của Chủ tịch nước hoặc quyết định đại xá của Quốc hội .
+ Khi người bị kết án đang được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt theo
quy định của Bộ luật hình sự mà trong thời gian được hoãn hoặc tạm đình chỉ đã lập công.
+ Khi người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế đã chấp hành được một phần hai thời
hạn hình phạt và cải tạo tốt.
Một hình thức miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện là án treo.
- Các điều kiện để xét giảm hình phạt được quy định rõ tại các điều 58 và 59 Bộ
luật hình sự. Cụ thể:
+ Đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù phải có đủ 03 điều
kiện sau đây mới được xét giảm hình phạt:
* Đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định;

* Có nhiều tiến bộ, thể hiện trên các mặt như thành thật hối cải; tích cực lao động,
học tập chứng tỏ sự quyết tâm cải tạo;
* Có đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách
nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục (đối với người chấp hành hình phạt cải tạo không giam
giữ) hoặc cơ quan thi hành án phạt tù (đối với người chấp hành hình phạt tù).
+ Đối với người bị kết án phạt tiền phải có đủ điều kiện sau đây mới được xét giảm
hình phạt:
* Đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt;
* Bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai
nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại
hoặc lập công lớn;
* Có đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.
- Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn
đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù từ ba mươi năm trở xuống, mười
hai năm đối với tù chung thân. Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo
đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã tuyên. Người bị kết án tù chung
thân, lần đầu được giảm xuống ba mươi năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo
đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là hai mươi năm.
Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại phạm tội mới nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Toà án chỉ xét giảm lần đầu sau khi
người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc hai mươi năm nếu là
tù chung thân.
Đối với người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, đã
quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì Toà án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn
hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức quy định chung.
4.4. Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Do người chưa thành niên có những đặc điểm phát triển tâm - sinh lý khác biệt so
với người đã thành niên như: Chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tâm sinh lý,
trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ còn hạn chế cho nên Luật hình sự có
chính sách xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội khác hẳn so với người đã thành

niên phạm tội.
Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong
mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
Nếu người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại
không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám
sát, giáo dục thì có thể miễn trách nhiệm hình sự cho họ.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình
phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất
của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa
tội phạm.
Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội, thì Toà án áp dụng biện pháp tư pháp đối với họ. Trong trường hợp
cần phải xử phạt tù có thời hạn thì Toà án cho người chưa thành niên phạm tội được
hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Tuyệt đối, Tòa án không được xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa
thành niên phạm tội, không được áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành
niên phạm tội cũng như không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên
phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 69 BLHS).
Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có nhiều
tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Toà án xét giảm theo quy
định của pháp luật; nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và
có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Trường hợp người chưa thành niên bị
phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả
hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng
Viện Kiểm sát, Toà án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt
còn lại (Điều 76 BLHS).
Người chưa thành niên phạm tội được xoá án tích khi có đủ 1/2 thời hạn do luật định

đối với người đã thành niên. Điều đáng lưu ý là, nếu người chưa thành niên phạm tội
không bị áp dụng hình phạt mà được áp dụng biện pháp tư pháp thì không bị coi là có án
tích. Ngoài ra, án mà Tòa án có thẩm quyền đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm
tội khi chưa đủ 16 tuổi thì không được tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy
hiểm.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘI PHẠM
1. Khái quát về tội phạm
1.1. Khái niệm tội phạm
Điều 8 Bộ luật hình sự 1999 quy định rõ khái niệm tội phạm, theo đó tội phạm được
hiểu là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa.
Như vậy, nói một cách khái quát thì tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có
lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Pháp luật hình sự không trừng trị tư
tưởng của con người và những biểu hiện của nó ra bên ngoài mà không thông qua hành
vi. Tuy nhiên, hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi nó đồng thời thỏa mãn 4 yếu tố: Nguy
hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.
- Trước hết, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tức là gây ra hoặc đe dọa gây
ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ như: an ninh quốc
gia; tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người; quyền tự do dân chủ của
công dân; sở hữu; trật tự quản lý kinh tế; trật tự an toàn xã hội; trật tự quản lý hành
chính
- Tội phạm là hành vi có lỗi, tức là hành vi đó phải là kết quả của sự tự lựa chọn và
quyết định của chủ thể trong khi có đủ điều kiện lựa chọn và quyết định một xử sự khác
phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Luật hình sự của ta không phải trừng trị một hành vi
phạm tội mà chính là trừng trị người đã thực hiện hành vi phạm tội đó nhằm cải tạo, giáo

dục họ mà mục đích này chỉ có thể đạt được khi người đó có lỗi. Đối với người không có
lỗi thì hình phạt không thể phát huy tác dụng giáo dục, cải tạo được.
- Tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự, tức là hành vi đó phải được quy định
trong Bộ luật hình sự dưới dạng một tội danh cụ thể. Ví dụ: Tội giết người, tội buôn lậu,
tội gây ô nhiễm nguồn nước, tội hủy hoại rừng, tội gây rối trật tự công cộng.
- Tội phạm là hành vi phải chịu hình phạt, tức là bất cứ người phạm tội nào cũng đều
có thể phải chịu hình phạt được quy định ngay trong từng điều khoản cụ thể đối với từng
hành vi phạm tội cụ thể.
1.2. Phân loại tội phạm
Phân loại tội phạm là phân chia các tội phạm ra từng nhóm (từng loại) dựa trên
những căn cứ nhất định giúp cho cơ quan có thẩm quyền đề ra chính sách hình sự một
cách phù hợp đối với từng loại tội phạm cũng như đối với từng tội phạm cụ thể và giúp
cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án áp dụng những biện pháp cần thiết để truy
tố, xét xử đúng người, đúng tội.
Trước hết, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội thì tội phạm được chia thành 04 loại:
- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù;
- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù;
- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù;
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung
thân hoặc tử hình.
Ngoài ra, việc phân loại còn có thể dựa vào những căn cứ khác tuỳ thuộc vào yêu
cầu cần nghiên cứu. Ví dụ: Căn cứ vào hình thức lỗi thì tội phạm được chia thành 02
loại: Tội phạm được thực hiện do cố ý và tội phạm được thực hiện do vô ý; căn cứ vào
mức độ thực hiện hành vi phạm tội thì tội phạm được chia thành 03 loại: Tội phạm ở
giai đoạn chuẩn bị, tội phạm chưa đạt và tội phạm đã hoàn thành; căn cứ vào sự tham gia

trong hoạt động phạm tội thì tội phạm được chia thành 02: Tội phạm được thực hiện đơn
lẻ và tội phạm được thực hiện nhiều người (đồng phạm đơn giản, phạm tội có tổ chức);
căn cứ vào khách thể bị xâm hại thì tội phạm được chia thành 14 loại theo 14 chương
"Phần các tội phạm" của Bộ luật hình sự;
2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Luật hình sự quy định tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi có năng
lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Như vậy, người chưa đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
khi thực hiện hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự thì luôn được coi là không có
lỗi.
Theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật hình sự thì:
- Tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi (14 tuổi tròn) trở lên.
Điều đó có nghĩa là những người chưa đủ 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về
bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào của họ. Những người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng
chưa đủ 16 tuổi tuy có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng chưa đầy đủ (hạn chế), họ chỉ
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng. Như vậy, những người này không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng nhưng do
vô ý.
- Tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ là từ đủ 16 tuổi (tức 16 tuổi tròn) trở
lên. Điều đó có nghĩa là, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm.
3. Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
Thông thường một hành vi có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm thì được
coi là tội phạm và người thực hiện hành vi đó phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy vậy,
trong thực tế có không ít trường hợp hành vi của một người về mặt hình thức có các yếu
tố cấu thành tội phạm nhưng lại có những lý do nhất định làm mất tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi và do đó trách nhiệm hình sự bị loại trừ. Bộ luật hình sự quy định
02 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự. Đó là: Phòng vệ chính đáng (Điều 15) và tình
thế cấp thiết (Điều 16).
Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ

chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại
một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Ví dụ: hành vi
của một người chống trả lại tên cướp có vũ khí để bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản cho
hành khách trên xe ô tô; hành vi đánh bị thương kẻ đang thực hiện hành vi giết người
hoặc hành vi của nạn nhân chống trả gây thương tích cho kẻ đang thực hiện hành vi hiếp
dâm
Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe
doạ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người
khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn
ngừa. Ví dụ: Khi tàu gặp bão lớn, Thuyền trưởng quyết định vứt bỏ hết hàng hoá trên tàu
để bảo đảm an toàn cho tính mạng của những người trên tàu hoặc khi hoả hoạn xảy ra,
những người cứu hoả đã phá bỏ nhà bên cạnh để ngăn không cho đám cháy lây lan
Phòng vệ chính đáng và hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là
tội phạm, do vậy, người thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng và gây thiệt hại trong tình
thế cấp thiết không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nếu người đó vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng (tức là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù
hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại) hoặc gây ra thiệt
hại rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự
về hành vi vượt quá đó.
4. Các giai đoạn thực hiện tội phạm
Để xác định chính xác mức độ thực hiện ý định phạm tội làm cơ sở cho việc xác
định phạm vi, mức độ trách nhiệm hình sự và hình phạt, Bộ luật hình sự đã phân chia quá
trình thực hiện tội phạm cố ý thành ba giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị phạm tội, giai đoạn
phạm tội chưa đạt và giai đoạn phạm tội đã hoàn thành.
4.1. Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu trong quá trình thực hiện tội phạm cố ý.
Hành vi chuẩn bị phạm tội phần lớn được thực hiện bằng hành động tích cực như: Chuẩn
bị kế hoạch, phương án phạm tội; nghiên cứu, xem xét địa điểm, thời gian thực hiện tội
phạm; tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện phạm tội hoặc tạo ra những điều kiện
khác để thực hiện tội phạm, nhưng cũng có trường hợp được thực hiện bằng không hành
động.

Theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự thì chỉ người chuẩn bị phạm một tội rất
nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
định thực hiện. Như vậy, người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội ít nghiêm trọng và tội
nghiêm trọng không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện.
4.2. Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến
cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Trong giai đoạn phạm tội
chưa đạt, người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm nhưng chưa thực hiện được đến
cùng do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội như: Do bị chống trả
quyết liệt; do công cụ, phương tiện phạm tội không phù hợp; do có những trở ngại khách
quan ngăn cản hậu quả xảy ra
Có hai dạng phạm tội chưa đạt:
- Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp chưa đạt về hậu quả và chưa
hoàn thành về hành vi vì người phạm tội không có điều kiện để thực hiện được đầy đủ các
hành vi phạm tội.
- Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp chưa đạt về hậu quả nhưng đã
hoàn thành hành vi. Người phạm tội đã thực hiện tội phạm đến cùng nhưng không đạt
được mục đích mong muốn. Thông thường thì trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn
thành nguy hiểm hơn trường hợp phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, do vậy, cần phải
được xử phạt nặng hơn.
Theo quy định tại Điều 18 Bộ luật hình sự thì người phạm tội chưa đạt phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.
Trong trường hợp tội phạm không được thực hiện đến cùng nhưng không phải do
nguyên nhân khách quan mà do ý chí của người phạm tội tự mình không thực hiện tội
phạm đến cùng mặc dù không có gì ngăn cản thì đó không phải là phạm tội chưa đạt mà
là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ
yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
4.3. Phạm tội đã hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội thỏa mãn đầy đủ các
dấu hiệu trong cấu thành tội phạm. Cần phân biệt việc phạm tội đã hoàn thành với việc
phạm tội đã kết thúc. Khi nói đến việc phạm tội đã hoàn thành là nói đến khía cạnh

pháp lý của việc thực hiện tội phạm, tức là khi hành vi được thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Còn khi nói đến việc phạm tội đã kết thúc là muốn
nói đến thời điểm hành vi phạm tội thực tế được chấm dứt hẳn.
Thời điểm hoàn thành của các loại tội phạm là khác nhau. Đối với các tội phạm có
cấu thành vật chất thì thời điểm hoàn thành là khi hậu quả nguy hiểm cho xã hội được mô
tả trong điều luật quy định về tội đó xảy ra; đối với các tội phạm có cấu thành hình thức
thì thời điểm hoàn thành là khi người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô
tả trong điều luật quy định về tội đó.
5. Vấn đề đồng phạm
- Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
Như vậy, để khẳng định xem có đồng phạm hay không đòi hỏi phải xác định rõ các dấu
hiệu sau đây:
+ Có hai người trở lên tham gia thực hiện tội phạm và những người này phải có đủ
các điều kiện của chủ thể tội phạm (như: Độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự).
+ Những người này phải cùng cố ý thực hiện tội phạm. Trong đồng phạm, mỗi
người đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi của mình mà còn biết và mong muốn sự cố
ý của những người đồng phạm khác. Nếu chỉ có sự cố ý của mỗi người mà chưa có sự
cùng cố ý của người khác thì chưa thể có đồng phạm được. Đối với những tội mà mục
đích là dấu hiệu bắt buộc thì những người đồng phạm còn phải cùng mục đích.
+ Những người này phải cùng thực hiện một tội phạm, tức là mỗi người đều phải có
hành vi tham gia thực hiện tội phạm với vai trò tổ chức, xúi giục, giúp sức hoặc trực tiếp
thực hiện hành vi phạm tội. Nếu không có một trong những loại hành vi này thì không thể
coi là cùng thực hiện tội phạm và do vậy cũng không thể là người đồng phạm được.
Một hình thức cao của đồng phạm là phạm tội có tổ chức, tức là hình thức đồng
phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
- Những người cùng tham gia thực hiện tội phạm gọi là những người đồng phạm. Có
4 loại người đồng phạm:
+ Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
+ Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
+ Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội

phạm.
+ Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực
hiện tội phạm.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HÌNH PHẠT
1. Khái niệm, mục đích
1.1. Khái niệm
Theo quy định tại Điều 26 Bộ luật hình sự thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người
phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án quyết định.
Trước hết, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Tính
nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ nó có thể tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và
lợi ích thiết thân của người phạm tội như: Quyền tự do, quyền chính trị, quyền sở hữu,
thậm chí là cả quyền sống. Ngoài ra, hình phạt bao giờ cũng để lại cho người bị kết án
hậu quả pháp lý là án tích trong một thời gian nhất định do luật định.
Hình phạt được Bộ luật hình sự quy định cả ở phần chung lẫn phần các tội phạm.
Phần chung quy định về khái niệm, mục đích, hệ thống hình phạt, các nguyên tắc quyết
định hình phạt và miễn, giảm hình phạt. Phần các tội phạm quy định các loại hình phạt và
mức hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể.
Hình phạt phải do Tòa án quyết định nhân danh Nhà nước. Hình phạt được Tòa án
tuyên đối với người phạm tội thể hiện sự lên án của Nhà nước đối với họ và hành vi phạm
tội do họ gây ra.
Theo quy định của Bộ luật hình sự nước ta thì hình phạt chỉ có thể được áp dụng đối
với người phạm tội, tức là thể nhân. Luật hình sự nước ta hiện nay chưa quy định trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân với tư cách là một tổ chức, do vậy, cũng chưa có quy
định việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân.
1.2. Mục đích
Mục đích của hình phạt là kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt
được khi quy định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội. Theo quy định tại Điều 27 Bộ luật hình sự thì hình phạt không chỉ nhằm
trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức

tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội
mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm. Như vậy, mục đích của hình phạt thể hiện trước hết ở chỗ hình phạt
tác động trực tiếp đến người phạm tội, không chỉ trừng trị mà còn nhằm cải tạo, giáo dục,
ngăn ngừa họ phạm tội mới. Đây chính là mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt.
Trong phòng ngừa riêng, giữa trừng trị và cải tạo, giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa họ
phạm tội mới có quan hệ tương tác qua lại với nhau rất chặt chẽ. Không thể nói đến cải
tạo, giáo dục được người phạm tội nếu như hình phạt trừng trị họ không tương xứng với
tội phạm đã gây ra (quá nặng hoặc quá nhẹ). Trừng trị công minh là yếu tố tiên quyết
quan trọng để bảo đảm mục đích cải tạo, giáo dục.
Mục đích phòng ngừa chung của hình phạt thể hiện ở chỗ hình phạt còn nhằm giáo
dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Việc áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội trong từng trường hợp cụ thể bao giờ cũng tác
động đến những người khác. Tuỳ thuộc vào từng vụ án hình sự cụ thể, ý thức pháp luật,
sự chú ý riêng cũng như đặc điểm tâm lý của mỗi người mà mức độ tác động của hình
phạt đối với họ cũng khác nhau. Hình phạt răn đe mọi người tránh xa việc phạm tội. Để
đạt được mục đích phòng ngừa chung của hình phạt đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều
biện pháp về kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, pháp lý, văn hoá, giáo dục trong đó,
tuyên truyền giáo dục pháp luật nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật cho công dân có ý
nghĩa hết sức to lớn.
Phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung là hai mặt không thể tách rời nhau của hình
phạt, chúng ảnh hưởng qua lại lẫn nhau trong mục đích chung của hình phạt.
2. Hệ thống hình phạt
2.1. Hệ thống hình phạt chung
Điều 28 Bộ luật hình sự quy định 07 hình phạt chính và 07 hình phạt bổ sung, theo
đó, đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị
áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. Cụ thể như sau:
- Hình phạt chính bao gồm:
+ Cảnh cáo là loại hình phạt nhẹ nhất trong các hình phạt chính thể hiện sự khiển
trách công khai của Nhà nước đối với người bị kết án. Cảnh cáo được áp dụng đối với

người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn
hình phạt.
+ Phạt tiền là hình phạt mang tính kinh tế thể hiện ở việc tước của người bị kết án
một khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt
chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự
công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật hình sự quy
định.
Mức phạt tiền được quyết định tuỳ theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội
phạm được thực hiện, đồng thời, có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến
động giá cả, nhưng không được thấp hơn một triệu đồng.
+ Cải tạo không giam giữ là hình phạt không buộc người bị kết án phải cách ly
khỏi xã hội mà họ được giao cho cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục nhằm phát huy vai
trò của quần chúng nhân dân tham gia vào việc giáo dục, cải tạo người phạm tội. Cải tạo
không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với người phạm tội ít nghiêm
trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật hình sự quy định mà đang có nơi làm việc
ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người
phạm tội khỏi xã hội.
Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không
giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Trong
trường hợp đặc biệt, Toà án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý
do trong bản án. Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm
giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày
tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ. Tòa án giao người bị phạt cải tạo
không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương
nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm
phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục
người đó.
+ Trục xuất là hình phạt buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Tù có thời hạn là hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại

giam (tức là cách ly khỏi xã hội) trong một thời hạn nhất định.
Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là ba tháng, mức tối đa
là hai mươi năm. Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt
tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù.
+ Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Không áp dụng tù
chung thân đối với người chưa thành niên phạm tội.
+ Tử hình là hình phạt đặc biệt, nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt chỉ áp
dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với
phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét
xử. Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân. Trường hợp
người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân.
- Hình phạt bổ sung bao gồm:
+ Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được
áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm
công việc đó, thì có thể gây nguy hại cho xã hội.
Thời hạn cấm là từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù
hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải
tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.
+ Cấm cư trú là buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú và thường trú ở
một số địa phương nhất định.
Thời hạn cấm cư trú là từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình
phạt tù.
+ Quản chế là buộc người bị kết án phạt tù về các tội xâm phạm an ninh quốc gia,
người tái phạm nguy hiểm hoặc người bị kết án phạt tù về tội phạm khác trong những
trường hợp do Bộ luật hình sự quy định phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa
phương nhất định, có sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương
trong thời hạn từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Trong thời gian quản chế, người bị kết án không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước
một số quyền công dân theo Điều 39 của Bộ luật hình sự và bị cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định.
+ Tước một số quyền công dân là hình phạt bổ sung được áp dụng đối với công
dân Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm khác
trong những trường hợp do Bộ luật hình sự quy định.
Các quyền công dân mà người phạm tội có thể bị Tòa án tước là: Quyền ứng cử,
quyền bầu cử đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước; quyền làm việc trong các cơ quan
nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân
Thời hạn tước một số quyền công dân là từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp
hành xong hình phạt tù hoặc kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật trong trường hợp
người bị kết án được hưởng án treo.
+ Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị
kết án sung quỹ nhà nước.
Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội nghiêm trọng, tội rất
nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp do Bộ luật hình sự quy
định. Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện
sinh sống.
+ Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính được áp dụng đối với người phạm
các tội về tham nhũng, ma tuý hoặc những tội phạm khác do Bộ luật hình sự quy định.
+ Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
2.2. Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Theo quy định tại Điều 71 Bộ luật hình sự thì người chưa thành niên phạm tội chỉ bị
áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm:
- Cảnh cáo được áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn
hình phạt.
- Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng.
Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai mức

tiền phạt mà điều luật quy định.
- Cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật hình sự
quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy
không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.
Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá
một phần hai thời hạn mà điều luật quy định. Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam
giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó.
- Tù có thời hạn được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy
định sau đây:
+ Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp
dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
+ Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp
dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
3. Vấn đề quyết định hình phạt
3.1. Căn cứ quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn một hình phạt cụ thể do Bộ luật hình
sự quy định để áp dụng đối với người phạm tội.
Điều 45 Bộ luật hình sự quy định, khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy
định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình
sự. Như vậy, có thể thấy có 04 căn cứ mà Tòa án phải dựa vào đó để quyết định hình phạt
đối với người phạm tội:
- Quy định của Bộ luật hình sự, tức là các quy định có tính nguyên tắc về tội phạm
và hình phạt trong Phần chung của Bộ luật hình sự và các điều khoản quy định hình phạt
đối với tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự

- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tức là những đặc
tính về chất và về lượng của mỗi tội phạm cụ thể cho phép phân biệt tội phạm ở nhóm này
với tội phạm ở nhóm khác cũng như phân biệt mức độ nguy hiểm cho xã hội giữa tội
phạm này với tội phạm khác trong cùng một nhóm hoặc đối với cùng một tội danh nhưng
trong những trường hợp phạm tội khác nhau. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội thể hiện ở tính chất và tầm quan trọng của khách thể bị xâm hại;
hành vi đã thực hiện; hình thức thực hiện tội phạm; giai đoạn thực hiện tội phạm; thủ
đoạn, hoàn cảnh, địa điểm, thời gian phạm tội; hậu quả do tội phạm gây ra; hình thức,
mức độ lỗi; động cơ, mục đích phạm tội,
- Nhân thân người phạm tội, tức là tổng hợp những đặc điểm nói lên tính chất của
một con người. Những đặc điểm đó có ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội và khả
năng cải tạo, giáo dục người phạm tội. Xét đến nhân thân người phạm tội là xét đến
những mối quan hệ giữa người ấy với xã hội, tập thể, gia đình và với người khác cũng
như những đặc điểm của bản thân người đó. Đặc điểm nhân thân người phạm tội có rất
nhiều loại, như:
+ Những đặc điểm mang tính chất pháp lý (tức là đặc điểm có ảnh hưởng trực tiếp
đến tội phạm) được Bộ luật hình sự quy định là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ hình
phạt như: Phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, người chưa
thành niên, có thái độ tự thú, hối cải, lập công chuộc tội hay ngoan cố ;
+ Những đặc điểm có quan hệ đến ý thức chính trị, ý thức lao động, trình độ nhận
thức, hiểu biết của người phạm tội như: Thành phần, trình độ văn hoá, nghề nghiệp ;
+ Những đặc điểm có quan hệ đến các đối tượng của các chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước như: Người phạm tội thuộc dân tộc ít người, thuộc gia đình liệt sỹ, là nhân sĩ,
trí thức có tên tuổi, là người làm nghề tôn giáo ;
+ Những đặc điểm phản ánh hoàn cảnh thực tế của người phạm tội như: Bị lâm bệnh
hiểm nghèo, là người già yếu, là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ, có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn của bản thân hay của gia đình
- Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự gồm có:
+ Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
+ Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;

+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
+ Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của
người bị hại hoặc người khác gây ra;
+ Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
+ Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
+ Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
+ Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức;
+ Phạm tội do lạc hậu;
+ Người phạm tội là phụ nữ có thai;
+ Người phạm tội là người già;
+ Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi của mình;
+ Người phạm tội tự thú;
+ Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
+ Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội
phạm;
+ Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
+ Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập
hoặc công tác.
Theo quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự thì khi quyết định hình phạt, Toà án cần
lưu ý là các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc
định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ một lần nữa, đồng thời ngoài các tình
tiết nêu trên, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi
rõ trong bản án.
- Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bao gồm:
+ Phạm tội có tổ chức;
+ Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
+ Phạm tội có tính chất côn đồ;

+ Phạm tội vì động cơ đê hèn;
+ Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
+ Phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm;
+ Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không
thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc
các mặt khác;
+ Xâm phạm tài sản của Nhà nước;
+ Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc
những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc thủ đoạn, phương tiện có khả năng
gây nguy hại cho nhiều người;
+ Xúi giục người chưa thành niên phạm tội;
+ Có hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.
Theo quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự thì chỉ những tình tiết liệt kê ở trên mới
được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Những tình tiết đã là yếu tố định tội
hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng một lần nữa khi quyết
định hình phạt.
3.2. Quyết định hình phạt trong một số trường hợp
Các Điều từ 50 đến 53 của Bộ luật hình sự quy định việc quyết định hình phạt trong
các trường hợp: phạm nhiều tội; tổng hợp hình phạt của nhiều bản án; chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt và đồng phạm.
- Trường hợp phạm nhiều tội: Khi xét xử cùng một lần một người phạm nhiều tội,
Toà án quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó tổng hợp hình phạt theo quy định sau
đây:
+ Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời
hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không
được vượt quá ba năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, ba mươi năm đối với
hình phạt tù có thời hạn;
+ Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt

cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ ba ngày cải tạo
không giam giữ được chuyển đổi thành một ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung;
+ Trong số các hình phạt đã tuyên, nếu hình phạt nặng nhất là tù chung thân thì hình
phạt chung là tù chung thân; nếu hình phạt nặng nhất là tử hình thì hình phạt chung là tử
hình;
+ Nếu các hình phạt bổ sung đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết
định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại hình phạt đó; nếu các hình phạt
bổ sung đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã
tuyên.
+ Hình phạt trục xuất và phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các
khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;
- Trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều bản án: Trong trường hợp một người
đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về một tội phạm khác thì Tòa án quyết
định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy tắc
sau:
+ Nếu tội phạm đang bị xét xử được thực hiện trước khi có bản án mà người đó đang
chấp hành, thì Tòa án tổng hợp hình phạt đối với tội đang bị xét xử với toàn bộ hình phạt
của bản án đang chấp hành rồi quyết định hình phạt chung. Thời gian đã chấp hành hình
phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.
+ Nếu tội phạm đang bị xét xử được thực hiện sau khi có bản án mà người đó đang
chấp hành (phạm tội mới), thì Tòa án tổng hợp hình phạt đối với tội mới với phần hình
phạt chưa chấp hành của bản án đang chấp hành rồi quyết định hình phạt chung.
- Trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt: Đối với hành vi chuẩn bị phạm
tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật
hình sự về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm
không thực hiện được đến cùng theo quy tắc sau:
+ Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có quy định
hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng
là không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một

phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
+ Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định
hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này
trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không
quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.
- Trường hợp đồng phạm: Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm,
Toà án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của
từng người đồng phạm. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình
sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.
4. Vấn đề án treo, xoá án tích
4.1. Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Theo quy định
tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân
của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành
hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến
năm năm.
Trong thời gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ
chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để
giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ
chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Người được hưởng
án treo có thể phải chịu một số hình phạt bổ sung như: Phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định của Bộ luật hình sự.
Nếu người bị kết án đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều
tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục, Toà án
có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách. Trường hợp, người được hưởng án treo
phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình
phạt tù của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định của Bộ
luật hình sự.
4.2. Xoá án tích là một chế định mang tính nhân đạo của luật hình sự thể hiện ở chỗ
khi người bị kết án được xoá án tích thì họ được coi như chưa bị kết án (không có tiền án)
và nếu sau khi được xoá án tích người đó lại phạm tội mới thì cũng coi như phạm tội lần

đầu mà không được căn cứ vào án tích mà họ đã được xoá để xác định là tái phạm hoặc
tái phạm nguy hiểm.
- Theo quy định tại Điều 64 Bộ luật hình sự thì trong những trường hợp sau đây,
người bị kết án đương nhiên được xoá án tích:
+ Người được miễn hình phạt.
+ Người bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc được hưởng án treo
nhưng không phải về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống
loài người và tội phạm chiến tranh mà không phạm tội mới trong thời hạn một năm, kể từ
khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
+ Người bị phạt tù đến ba năm nhưng không phải về các tội xâm phạm an ninh quốc
gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh mà không phạm
tội mới trong thời hạn ba năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu
thi hành bản án.
+ Người bị phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm nhưng không phải về các tội
xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm
chiến tranh mà không phạm tội mới trong thời hạn năm năm, kể từ khi chấp hành xong
bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
+ Người bị phạt tù trên mười lăm năm nhưng không phải về các tội xâm phạm an
ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh mà
không phạm tội mới trong thời hạn bảy năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi
hết thời hiệu thi hành bản án.
- Theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự thì việc xoá án tích cho người bị kết án
về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội
phạm chiến tranh phải do Tòa án quyết định căn cứ vào tính chất của tội phạm đã được
thực hiện, nhân thân, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của người bị kết án
theo quy tắc sau đây:
+ Người bị phạt tù đến ba năm mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm, kể từ
khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
+ Người bị phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm mà không phạm tội mới trong
thời hạn bảy năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản

án;
+ Người bị phạt tù trên mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn mười
năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
Người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu phải chờ một năm sau mới được xin
xóa án tích; nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì phải sau hai năm mới được xin xóa án
tích.
Trong trường hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công,
được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó
thường trú đề nghị, thì có thể được Toà án xoá án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít
nhất một phần ba thời hạn quy định.
- Theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự thì thời hạn để xoá án tích được tính căn
cứ vào hình phạt chính đã tuyên. Nếu chưa được xoá án tích mà phạm tội mới, thì thời
hạn để xoá án tích cũ tính từ ngày chấp hành xong bản án mới.
Việc chấp hành xong bản án bao gồm việc chấp hành xong hình phạt chính, hình
phạt bổ sung (kể cả trường hợp người bị kết án được miễn chấp hành phần hình phạt còn
lại) và các quyết định khác của bản án.
PHẦN II. LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT VỀ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1. Khái niệm Luật tố tụng hình sự
Luật tố tụng hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật, bao gồm
tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt
động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nhằm giải quyết đúng đắn vụ
án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân.
Trong đấu tranh phòng chống tội phạm, Nhà nước sử dụng nhiều hình thức, biện
pháp khác nhau, trong đó có biện pháp của Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự. Sử dụng
biện pháp của Luật tố tụng hình sự, Nhà nước quy định trình tự giải quyết vụ án, quyền và
nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng toàn bộ các quy phạm này tồn tại trong sự hữu cơ, bổ sung cho nhau và tạo thành
ngành Luật tố tụng hình sự trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.

2. Nhiệm vụ của Luật tố tụng hình sự
Nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự được khái quát một cách cô đọng tại Điều 1 của
Bộ luật tố tụng hình sự. Đó là:
- Luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác,
nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội.
Để bảo đảm xử lý công minh mọi hành vi phạm tội thì trình tự, thủ tục tố tụng hình
sự (bao gồm: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án) phải được quy định thật đầy
đủ và chặt chẽ để hạn chế những vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, bảo đảm cho việc giải quyết
vụ án hình sự được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội và đặc biệt là
không làm oan người vô tội.
- Luật tố tụng hình sự quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những
người tiến hành tố tụng.
Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án là những cơ quan tiến hành tố tụng, trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với nhau để phát hiện,
ngăn chặn và xử lý tội phạm. Việc quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối
quan hệ giữa các cơ quan này cũng như quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của những
người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thư ký Tòa án) có ý nghĩa hết sức to lớn, góp phần vào việc xử lý tội phạm được nhanh
chóng, kịp thời và có hiệu quả.
- Luật tố tụng hình sự quy định quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố
tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân.
Quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", Luật tố tụng hình sự xác định quyền và nghĩa
vụ tham gia tố tụng hình sự của các cơ quan, tổ chức và công dân. Để việc tham gia tố
tụng hình sự có hiệu quả, góp phần xử lý tội phạm chính xác đồng thời bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng hình sự, Luật tố tụng hình sự quy định
rõ quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công

dân. Những quy định chính xác, hợp lý về quyền và nghĩa vụ của những người tham gia
tố tụng có tác dụng rất lớn đối với việc phát hiện nhanh chóng, xử lý công minh, kịp thời
mọi hành vi phạm tội.
- Cùng với Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức,
bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
II. KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án), của người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án), của những người tham gia tố tụng (Bị
can, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi liên quan đến vụ án hình sự, ) và của các cá nhân, tổ chức khác góp phần vào
việc giải quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự.
1. Khởi tố, điều tra
1.1. Cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
Theo quy định tại Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì những cơ quan sau
đây có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự:
- Cơ quan điều tra (khi xác định có dấu hiệu tội phạm);
- Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng
Cảnh sát biển (khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm
hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình);
- Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (trong trường hợp khi làm nhiệm vụ của
mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu phạm tội);
- Viện kiểm sát (trong trường hợp Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ
án của cơ quan điều tra, của Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan,
Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, của Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân
dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và
trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án);

- Hội đồng xét xử (trong trường hợp qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được
tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra).
1.2. Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra
- Theo quy định tại Điều 110 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các điều từ 9, 10,
13, 14 và 17 của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 thì cơ quan điều tra chuyên
trách gồm có:
+ Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân (Cơ quan Cảnh sát điều tra, Cơ quan An
ninh điều tra);
+ Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân (Cơ quan điều tra hình sự, Cơ quan An
ninh điều tra);
+ Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương).
- Theo quy định tại Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các điều từ điều
19 đến điều 25 của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 thì ngoài các cơ quan
điều tra chuyên trách nêu trên còn có các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra, bao gồm:
+ Bộ đội biên phòng;
+ Hải quan;
+ Kiểm lâm;
+ Lực lượng Cảnh sát biển;
+ Các cơ quan khác của Công an nhân dân (Cảnh sát giao thông đường bộ - đường
sắt, Cảnh sát giao thông đường thủy, Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, Cảnh sát quản lý
hành chính về trật tự xã hội, Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp, Trại tạm giam, Trại
giam, Cơ quan an ninh trực tiếp đấu tranh phòng, chống các tội phạm);
+ Các cơ quan khác của Quân đội nhân dân (Trại tạm giam, Trại giam trong quân
đội, Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương khi phát hiện những hành
vi phạm tội thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân,
xảy ra trong khu vực đóng quân của đơn vị).
1.3. Khái quát về thẩm quyền điều tra

Thẩm quyền điều tra vụ án hình sự được quy định tại Điều 110 của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003. Cụ thể:
- Xét theo tính chất của vụ việc, thẩm quyền điều tra vụ án hình sự được quy định
như sau:
+ Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những
tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ
quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
+ Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền
xét xử của Toà án quân sự.
+ Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra một số loại tội xâm
phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.
- Xét theo địa bàn nơi tội phạm xảy ra, thì Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra
những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trong trường hợp không
xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan
điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.
- Thẩm quyền điều tra vụ án hình sự cũng được xác định theo cấp của Cơ quan điều
tra, theo đó:
+ Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra những vụ
án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện,
Toà án quân sự khu vực.
+ Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu điều tra những
vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh,
Toà án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra cấp dưới nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
+ Cơ quan điều tra cấp trung ương điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp tỉnh,
Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Ngoài ra, Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định quyền hạn điều tra của Bộ
đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra, theo đó:
- Khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự
trong lĩnh vực quản lý của mình thì Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng
Cảnh sát biển có thẩm quyền:
+ Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và
lai lịch người phạm tội rõ ràng thì ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành
điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi ngày,
kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
+ Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội
phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành những
hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
- Các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện sự
việc có dấu hiệu phạm tội, thì có quyền khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra
ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể
từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
1.4. Một số nội dung cơ bản về thủ tục điều tra
Sau khi khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra theo
quy định của Luật tố tụng hình sự như: khởi tố bị can và hỏi cung bị can; lấy lời khai
người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án; tiến hành đối chất, nhận dạng; tiến hành các hoạt động
khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, giám định và kết thúc điều tra

×