Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

phân tích chất lượng cuộc sống của các hộ gia đình có người di cư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.78 KB, 72 trang )

MỤC LỤC
2.1.1 Di cư lao động giữa các vùng trong cả nước 26
2.1.2 Di cư lao động từ nông thôn ra thành thị 28
2.2.1. Thu nhập bình quân đầu người 32
2.2.2. Chi tiêu về y tế và chăm sóc sức khỏe 38
2.2.3. Chi tiêu về giáo dục và đào tạo 40
2.2.4. Chi tiêu cho điện , nước sinh hoạt và nhà ở 42
2.2.5. Chi tiêu bình quân đầu người 47
Với sự tăng giảm thu nhập ở các nhóm hộ gia đình là cơ sở để tăng chi tiêu của các hộ
gia đình và xu hướng tăng chi tiêu là có thể đoán trước được. Chứng minh trong kết
quả số liệu điều tra như sau: chi tiêu bình quân đầu người một tháng của các hộ không
có người di cư (787.76 nghìn đồng) cao hơn chi tiêu bình quân đầu người của hộ gia
đình có người di cư (737.81 nghìn đồng) (bảng 2.12) 47
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VHLSS: Điều tra mức sống dân cư Việt Nam
TCTK: Tổng cục thống kê
TP HCM Thành phố Hồ Chí Minh
ĐBSCL: Đồng bằng Sông Cửu Long
ĐBSH: Đồng bằng Sông Hồng
CP: Chính phủ
KTM: Kinh tế mới
PTNT: Phát triển nông thôn
CLCS: Chất lượng cuộc sống
NQ/TW: Nghị quyết Trung ương
CNH: Công nghiệp hóa
UNDP: Chương trình phát triển Liên hợp quốc
TS: Tiến sĩ
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
DANH MỤC BẢNG BIỂU


Bảng 2. 1. Số lao động di cư theo nơi cư trú và nơi đến 28
Bảng 2.2. Số lao động di cư theo giới tính 30
Bảng 2.3 . Thu nhập bình quân của hộ gia đình chia theo vùng 32
(nghìn đồng/ người/tháng) 32
Bảng 2.4. Thu nhập bình quân hộ gia đình trước và sau khi có người di cư 33
Bảng 2.5. Số tiền trung bình gửi về trong 12 tháng 35
Bảng 2.6. Chi tiêu về y tế và chăm sóc sức khỏe trung bình theo vùng 38
Bảng 2.7. Chi tiêu về y tế và chăm sóc sức khỏe trung bình của các hộ trước và sau khi có
người di cư 39
Bảng 2.8. Chi giáo dục trung bình theo vùng 41
Bảng 2.9. CTGD trung bình hộ gia đình trước và sau di cư 41
Bảng 2.10. Tỉ lệ (%) dùng nguồn điện của hộ gia đình trước và sau khi có người di
cư 45
Bảng 2.11. Chi nhà, điện, nước của các hộ gia đình 46
Bảng 2.12. Chi tiêu bình quân của hộ gia đình có và không có người di cư (nghìn
đồng/người/tháng) 47
Bảng 2.13. Chi tiêu bình quân của hộ gia đình trước và sau khi có người di cư (nghìn
đồng/người/tháng) 48
Bảng 3.1 Cách tính thu nhập bình quân đầu người một tháng của hộ gia đình 51
Bảng 3.2 Cách tính chi tiêu bình quân đầu người một tháng của hộ gia đình 52
Bảng 3.3. Các biến sử dụng trong mô hình 56
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu lao động di cư của cả nước phân theo vùng 26
Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ lao động di cư theo giới tính và khu vực 29
Biểu đồ 2.3. Di cư theo nhóm tuổi 30
Biểu đồ 2.4. Tỉ lệ di cư theo nhóm tuổi và giới tính 31
Biểu đồ 2.5. Thu nhập bình quân hộ gia đình trước và sau có người di cư 33
Biểu đồ 2.6 . Tiền gửi về theo nhóm tuổi 35
Biểu đồ 2.7. Trung bình tiền gửi về cho hộ gia đình theo nhóm nghề nghiệp 36
Biểu đồ 2.8. Số tiền gửi về phân theo mức tiền gửi 37

Biểu đồ 2.9. Tỉ lệ (%) loại nhà đang ở của hộ gia đình có người di cư và không có người di
cư 42
Biểu đồ 2.10. Tỉ lệ (%) các loại nhà trước và sau khi có người di cư 43
Biểu đồ 2.11. Tỉ lệ dùng nguồn điện của hộ gia đình có người di cư và không có người di
cư 44
Biểu đồ 2.12. Tỉ lệ (%) dùng nguồn điện của hộ gia đình trước và sau khi có người di cư.45
Biểu đồ 2.13. Tỉ lệ (%) dùng nguồn nước của hộ gia đình trước và sau di cư 46

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Con người sinh ra có nhu cầu tồn tại và phát triển. Để phục vụ nhu cầu thiết
yếu bản thân mình, từ ngày xa xưa, con người đã phải di chuyển từ địa điểm này
đến địa điểm khác tìm những nơi thích hợp cho sự sinh tồn. Khi xã hội ngày càng
phát triển, con người di cư theo nhu cầu tăng lên không ngừng. Như vậy di cư là
hiện tượng mang tính quy luật. Trong từng nước, di cư thể hiện sự tồn tại của mỗi
quốc gia trước thách thức của cuộc sống và có ý nghĩa quan trọng trong việc phân
công lao động lãnh thổ.
Công cuộc đổi mới của đất nước đã mang lại cho bộ mặt kinh tế - văn hóa -
xã hội những khởi sắc to lớn. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã dẫn tới
những biến đổi mạnh mẽ làm thay đổi bộ mặt của nông thôn và đô thị Việt Nam.
Tuy nhiên ở một bộ phận dân cư còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế
nhất là ở vùng xa, vùng sâu. Sự phát triển kinh tế ở cả nông thôn và thành thị trong
những năm gần đây không những đã thúc đẩy sự phát triển ở nông thôn Việt Nam
mà còn đặt ra nhiều vấn đề và thách thức. Năng suất nông nghiệp tăng cao trong
thời gian qua, một mặt đã giúp đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước, mặt khác
tạo ra sự dôi dư lao động ở nông thôn. Trong điều kiện khan hiếm đất ở nông thôn,
đặc biệt là đất nông nghiệp, và mức tăng dân số cao so với khu vực thành thị, dư
thừa lao động đang là vấn đề nổi cộm ở nông thôn và ngày càng trở nên nghiêm
trọng. Thất nghiệp và bán thất nghiệp đã và đang trở thành vấn đề lớn vì khả năng
tạo ra việc làm cho lao động nông thôn còn rất hạn chế. Tất cả các nhân tố này cùng

với khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông thôn đã sinh ra các dòng di cư
từ nông thôn ra thành thị. Cùng với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đang
tiếp diễn ở Việt Nam, khu vực thành thị sẽ tiếp tục được mở rộng, trong khi nông
thôn ngày càng bị thu hẹp. Việc xuất hiện các dòng di cư lao động lớn từ nông thôn
ra thành thị là điều không tránh khỏi.
Ở thập niên 90 (thế kỷ XX), nước ta đã chứng kiến các dòng di dân, đặc biệt
là di dân nông thôn - đô thị diễn ra hết sức mạnh mẽ và phức tạp. Sự chuyển đổi cơ
1
cấu kinh tế cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như sức ép về
dân số, việc làm, đất đai, nghề nghiệp làm cho di dân nông thôn - đô thị có chiều
hướng ngày càng gia tăng, đặc biệt là tập trung vào các đô thị lớn như Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh. Thực tiễn này đặt ra những bức xúc cần được giải đáp về
di cư. Thực tế, di cư nông thôn - đô thị nhân tố tích cực trong việc giải quyết việc
làm, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế hộ gia
đình và góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo ở nông thôn. Ngoài lợi ích
kinh tế, di cư nông thôn - đô thị còn mang về những tri thức mới, kinh nghiệm mới
trong đó có năng lực tư duy, sự năng động, ý thức làm giàu và những yếu tố giá trị
mới, tiến bộ. Bên cạnh những khía cạnh tích cực do di cư di cư nông thôn - đô thị
đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực lâu dài và quan trọng đến gia đình và xã hội.
Đó là việc tổ chức cuộc sống gia đình bị đảo lộn, vai trò tham gia công việc lao
động sản xuất, mối quan hệ trong gia đình lỏng lẻo ảnh hưởng đến cuộc sống ổn
định và hạnh phúc gia đình, nhiều trẻ em không được chăm sóc đầy đủ, học hành sa
sút, bị buông lỏng giáo dục. Cuộc sống của những người trong hộ gia đình cũng trở
nên bất ổn. Để kiểm nghiệm và đánh giá được một cách khách quan những tác động
tích cực và tiêu cực trên, cần có những nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu. Đó cũng là lý
do tôi chọn đề tài "Phân tích chất lượng cuộc sống của các hộ gia đình có người
di cư"
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Trình bày một cách tổng quan về di cư trong nước ở Việt Nam đặc biệt là
di cư từ nông thôn ra thành thị

- Dựa trên bộ số liệu Khảo sát mức sống dân cư năm 2006 và 2008 phân tích
tình trạng di cư từ nông thôn ra thành thị ở Việt Nam trong giai đoạn 2006 - 2008
- Xây dựng mô hình kinh tế lượng để phân tích, đánh giá tác động của một số
yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập bình quân của hộ gia đình có người di cư để từ đó
đưa ra những đề xuất thích hợp
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
2
- Các hộ gia đình và các thành viên trong hộ gia đình có người di cư
- Các hộ gia đình không có người di cư
Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu được tiến hành dựa trên bộ số liệu Khảo sát mức sống dân cư
năm 2006 và 2008 trên phạm vi toàn quốc .
- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vào vấn đề di cư tự do trong nước vì
mục đích kinh tế: di cư từ nông thôn ra các đô thị (nông thôn - đô thị).
- Luận văn chỉ đánh giá tác động của di cư đối với hộ gia đình, không đánh
giá tác động của di cư đối với toàn xã hội
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập thông tin: Thu thập thông tin từ các cuộc điều tra
chính thức, báo cáo tổng kết, các chính sách và các báo cáo nghiên cứu có liên quan
đến đối tượng nghiên cứu. Thu thập thông tin từ các kênh khác nhau ( cơ quan
Chính phủ, các tổ chức chính trị xã hội, các viện nghiên cứu, mạng thông tin báo
chí, báo cáo khoa hoc, internet…)
- Sử dụng các phương pháp thống kê và kinh tế lượng để phân tích dựa trên
bộ số liệu khảo sát mức sống dân cư năm 2006 và 2008.
- Luận văn sử dụng phần mềm phân tích thống kê Eview, Stata, Excel trong
quá trình xử lí số liệu và quá trình tính toán.
5. Đóng góp của đề tài:
Ý nghĩa khoa học: Bằng các công cụ toán học( các phương pháp toán kinh tế)
giúp chúng ta thấy rõ hơn bức tranh về vấn đề di cư từ nông thôn ra thành thị ở Việt

Nam và các tác động của nó tới đời sống của hộ gia đình.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Tìm hiểu được tình trạng di cư từ nông thôn ra thành thị ở Việt Nam trong
giai đoạn 2006 – 2008.
- So sánh chất lượng cuộc sống của hộ có người di cư và hộ không có người
di cư; chất lượng cuộc sống của hộ trước khi có người di cư và sau khi có người di
cư. Từ đó đưa ra các kết luận và khuyến nghị .
3
- Xây dựng mô hình đánh giá tác động của một số yếu tố thu nhập bình quân
của hộ gia đình có người di cư
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần “Lời mở đầu” và “Kết luận và kiến nghị” luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về di cư
Chương 2: Tình hình di cư từ nông thôn ra thành thị ở Việt Nam
Chương 3: Mô hình hồi quy đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của
hộ gia đình có người di cư
4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DI CƯ
1.1. Cơ sở lý luận về di cư
1.1.1. Quan niệm về di cư
1.1.1.1. Khái niệm về di cư
Di cư là một thuật ngữ mô tả quá trình di chuyển dân số hoặc là quá trình con
người rời bỏ hoặc hội nhập vào một đơn vị hành chính - địa lý nhất định.
Nói chung khái niệm di cư thường được các nhà nghiên cứu định nghĩa không
giống nhau. Theo tác giả Lee (1966) thì di cư là: “sự thay đổi cố định nơi cư trú”.
Còn theo Mangalam và Morgan (1968) cho rằng di cư là “sự di chuyển vĩnh viễn
tương đối của người di cư ra khỏi tập đoàn đang sống từ một đơn vị địa lý khác”.
Mặt khác, theo tác giả Paul Shaw thì “di cư là hiện tượng di chuyển khỏi tập thể
từ một địa điểm địa lý này đến một địa điểm địa lý khác, trên cơ sở quyết định của

người di cư, dựa vào một loạt các giá trị trong hệ thống các mối quan hệ qua lại của
người di cư”.
Theo TS Kinh tế học Lao động Harvey B.King " di cư thường được hiểu là
chuyển đến một nơi ở khác cách chỗ cũ một khoảng đủ lớn buộc người di cư phải
thay đổi " hộ khẩu thường trú": chuyển đến một thành phố khác, một tỉnh khác"
Đối với Việt Nam, “di cư được định nghĩa là sự di chuyển của con người từ nơi
này đến nơi khác đó là chuyển đến một huyện khác, thành phố khác, một tỉnh khác
hay một nước khác trong một khoảng thời gian nhất định”. Trong cuộc tổng điều tra
di cư năm 2004, người di cư cũng được định nghĩa là người di chuyển từ quận/
huyện này sang quận/huyện khác: " Người di cư là người từ 15 - 59 tuổi di chuyển
quận/ huyện này sang quận/huyện khác trong vòng 5 năm trước thời điểm điều tra
và đã cư trú trên địa bàn điều tra trong vòng từ 3 tháng trở lên
Thực tế nhiều nghiên cứu cả trong nước và ngoài nước đã chỉ ra rằng không
có định nghĩa duy nhất về người di cư. Tùy vào mục đích của người di cư để phân
chia thành nhiều hình thức khác nhau: có thể để định cư, di cư thời hạn dài, và di cư
thời hạn ngắn.
5
Để sử dụng với bộ số liệu VHLSS năm 2006 và 2008, trong nghiên cứu này
người di cư được hiểu là người từ 13 tuổi trở lên có thời gian đi ra khỏi địa phương
(tỉnh) từ 6 tháng trở lên. Lao động di cư có thể là di cư nông thôn ra thành thị, nông
thôn- các khu công nghiệp lớn, trọng điểm. Một thực tế không rõ ràng trong cách
phân loại hiện nay là lao động di cư ra các khu công nghiệp lớn ở ngoại ô (ví dụ lao
động di cư từ nông thôn ở Thái Bình ra làm việc tại các khu công nghiệp ở Gia lâm
Hà nội) mặc dù là ngoại ô nhưng lại có đặc thù như những vùng đô thị nếu xem xét
trên góc độ điều kiện sinh họat, chi tiêu, dịch vụ đời sống…. Trong nghiên cứu này
những lao động di cư như thế đuợc xếp vào di cư nông thôn thành thị. Như vậy lao
động địa phương sẽ là những người còn lại, không di chuyển ra khỏi địa phương
hoặc có thời gian di chuyển ít hơn 6 tháng hoặc di chuyển nhưng trong nội tỉnh.
Hạn chế của cách định nghĩa này là không phân loại được một số loại hình di
cư như di cư tạm thời, di cư theo mùa vụ và hồi cư do các nhóm này ẩn trong các

nhóm dân số không di cư hoặc di cư theo định nghĩa trên.
1.1.1.2. Các khái niệm liên quan đến di cư
a. Người di cư
Là người đã thay đổi nơi thường trú của mình từ một khu vực này đến một khu
vực khác, ít nhất là một lần trong khoảng thời gian nhất định. Di cư có thể liên quan
đến một hay nhiều cá nhân di chuyển, một gia đình hay thậm chí là cả một cộng
đồng.
b. Sự nhập cư và sự xuất cư.
Đây là khái nịêm được sử dụng trong các quá trình di cư bên trong, hay nội bộ
của một quốc gia, một vùng:
- Sự nhập cư hay di dân vào là: quá trình di cư từ nơi nào khác đến nơi dự định
sinh sống. Đây là sự chuyển đến.
- Sự xuất cư hay di dân ra là: quá trình di cư từ nơi đang sống sang vùng khác.
Đây là sự chuyển đi.
c. Nơi xuất cư và nơi đến:
6
Nơi xuất cư là: nơi mà từ đó người di cư chuyển đi. Ngược lại, nơi đến là nơi mà
người di cư từ nơi nào khác chuyển đến sống.
1.1.2. Loại hình di cư
Di cư diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau gồm: di cư trong nước và di cư
quốc tế. Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là tập trung phân tích luồng di cư nông
thôn ra thành thị hay di cư trong nước. Do vậy, di cư được chia thành các loại hình
theo căn cứ sau:
a. Theo pháp lý
Bao gồm: di cư có tổ chức hay di cư tự do hợp pháp và di cư không hợp pháp.
- Di cư có tổ chức: diễn ra trong khuôn khổ chương trình của nhà nước, trong
trường hợp này những người di cư thường nhận một khoản trợ cấp hỗ trợ và thường
di chuyển nơi ở thường trú của gia đình.
- Di cư tự do hợp pháp: là việc chuyển đến nơi sinh sống mới do bản thân người
di cư tự quyết định bao gồm cả việc lựa chọn địa bàn nhập cư, tổ chức di chuyển,

cũng như trang trải mọi phí tổn và tìm việc làm…
- Di cư bất hợp pháp: là việc chuyển đến nơi ở mới giống như di cư tự do hợp
pháp, tuy nhiên người di cư lờ đi các quy định và cố gắng tránh liên lạc với các cấp
chính quyền.
b. Theo nơi đi và nơi đến
Dựa theo nơi đi và nơi đến có 4 loại hình: nông thôn – nông thôn, nông thôn –
thành thị, thành thị - thành thị và thành thị - nông thôn.
c. Theo thời gian
Theo thời gian, di cư có thể chia thành: di cư lâu dài, di cư tạm thời và di cư
theo mùa vụ.
- Di cư lâu dài: Là nhóm những người di cư đến một khoảng thời gian tương đối
dài và có ý định ở lại nơi đến.
- Di cư tạm thời: những người tới một địa bàn trong một thời gian nhất định (để
học tập, làm việc) trước khi có quyết định liệu có sống ở đó hay không.
7
- Di cư theo mùa vụ: Là trường hợp đặc biệt của di dân tạm thời. Thuật ngữ
“mùa vụ” không nhất thiết mang nghĩa mùa vụ thu hoạch, mặc dù nó có thể là như
vậy đối với người di dân. Thuật ngữ này còn hàm ý những hoạt động mùa khác như
mùa xây dựng hoặc mùa du lịch bao gồm cả loại hình đi làm ăn xa ở nông thôn. Có
thể nói, di cư theo mùa vụ là những người ra thành phố trong những lúc nông nhàn
để tìm kiếm việc làm, không có ý định cư trú lâu dài và sẽ quay về khi có nhu cầu
lao động và công việc gia đình ở quê hương.
1.1.3. Mối quan hệ giữa di cư và phát triển
Di cư và phát triển có mối quan hệ chặt vì những lí do sau:
Thứ nhất xem xét động lực di chuyển của người di cư. Trong tất cả các cuộc
khảo sát về di cư ở Việt Nam và thế giới đều nhận xét động lực di cư phổ biến là
kinh tế. Người di cư chuyển đến nơi khác là vì muốn kiếm được việc làm và tiền
công nhiều hơn nơi cũ và muốn sống ở nơi có hạ tầng cơ sở tốt hơn. Vì lý do trên,
người di cư đã góp phần vào sự phát triển kinh tế-xã hội vùng nhập cư
Thứ hai sự phát triển bao giờ cũng tạo ra các cơ hội việc làm. Nguyên nhân

tình trạng di cư vào đô thị là dòng di cư chủ yếu hiện nay do trước hết hạ tầng đô thị
tốt các nhà đầu tư dồn tiền vốn vào đô thị và nhiều nhà máy, khu công nghiệp mọc
lên. Sự phát triển các khu công nghiệp, các dịch vụ ở khu đô thị đòi hỏi phải có
nhân lực. Và vì thế tạo ra sức hút lao động từ các nơi khác đến làm việc ở đô thị và
các khu công nghiêp và tạo ra dòng di cư nông thôn-đô thị diễn ra mạnh mẽ. Các đô
thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng và gần đây là các khu công
nghiệp hàng năm cuốn hút hàng nghìn lao động đến làm việc.
Dòng di cư nông thôn đến nông thôn di chuyển cũng chủ yếu vì lí do kinh tế.
Người nông dân di cư đến vùng có nhiều đất hoang hóa hoặc ôvùng có giá trị đất rẻ
có thể trồng trọt những cây sinh lợi nhiều. Đây là nguyên nhân trong những năm
qua diễn ra dòng di cư mạnh vào các tỉnh Tây Nguyên, Bình Thuận, Đông Nam Bộ
và ĐBSCL bao gồm cả di cư tự do và di cư có tổ chức. Như vậy,về vĩ mô mà xét di
cư ( tự nguyện và tự do) đã giúp cho việc phân bố lực lượng lao động tốt hơn và
giúp đỡ cho sự phát triển của đất nước. Vì vậy, về mặt chính sách quốc gia chúng ta
8
tạo điều kiện cho di cư chứ không ngăn cấm di cư. Việc ngăn cấm di cư sẽ làm
chậm sự phát triển
Thứ ba, bất cứ một chính sách liên quan đến phát triển cũng có quan hệ đến
di cư. Thí dụ chính sách phát triển đô thị, chính sách phát triển nông thôn, chính
sách phát triển khu công nghiệp, chính sách phát triển các nguồn năng lượng, thủy
lợi, chính sách phát triển xóa đói giảm nghèo và giảm nhẹ thiên tai đều có quan hệ
đến di cư.
Thứ tư, đô thị hóa một biểu tượng của sự phát triển của một quốc gia. Như
chúng ta đã biết, vào đầu thế kỷ 20 chỉ khoảng 10% dân số thế giới sống ở khu đô
thị. Vào năm 1950 con số này tăng lên 30% và hiện nay dân số thế giới có khoảng
47% sống ở khu đô thị. Việt Nam có khoảng 25% dân số sống ở khu đô thị và dự
báo vào năm 2020 sẽ tăng lên 40% sống ở khu đô thị. Nguồn di cư đến đô thị là từ
nông thôn. Lực hút là do nền kinh tế đô thị tạo ra nhiều việc làm và có giá trị tiền
công cao hơn làm nông nghiệp ở khu vực nông thôn. Theo kết quả điều tra biến
động dân số của Tổng cục thống kê năm 2008 có 803 nghìn người di cư nội tỉnh và

631 nghìn người di cư ngoại tỉnh. Vùng có tỉ suất nhập cư cao nhất trong cả nước là
Đông Nam Bộ (23,89 phần nghìn). Các khu công nghiệp mới như Bình Dương, TP
Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc là nơi thu hút lao động từ các vùng nông thôn ở cả nước
đến làm việc
Việc người nông thôn di cư ra đô thị cũng gây tác động tiêu cực ở nông thôn.
Do người lao động trẻ di chuyển từ nông thôn đến đô thị cũng làm cho nông thôn bị
tổn thương trong quá trình đô thị hóa. Nhiều khu vực ven đô ở nước ta cũng thấy
nông thôn đàn già hóa. Nhiều người trẻ tuổi có học vấn không thích sống ở nông
thôn đã ra thành phố để tìm kiếm cơ hội việc làm hơn ở lại tiếp tục làm việc cùng
cha mẹ
Thứ năm, dòng di dân nông thôn - nông thôn cũng đóng góp tích cực vào
phát triển nông nghiệp và nông thôn. Di cư nông thôn-nông thôn trong những thập
kỷ qua đóng góp to lớn vào phát triển nông nghiệp và nông thôn. Chúng ta biết
trước năm 1986 nước ta thiếu lương thực, thực phẩm trầm trọng. Sau khi bước vào
9
thời kì đổi mới, người dân được tự do di chuyển để di cư đến những vùng đất hoang
hóa. Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người đi khai hoang lập
nghiệp. Quyết định 95/CP(1980) của Chính Phủ đã mở đầu cuộc vận động cuộc di
dân xây dựng vùng kinh tế mới (KTM). Nhờ phong trào vận động di dân xây dựng
vùng KTM nhiều vùng đất hoang Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, ĐBSCL được khai
thác trở thành vùng sản xuất lương thực và cung cấp hàng hóa xuất khẩu. Việt Nam
đã trở thành một trong những nước xuất khẩu lớn nhất về lúa gạo, cà phê, hồ tiêu,
cao su, điều trên thể giới
Vì vậy, Tiến sĩ Ronald Skeldon một chuyên gia nghiên cứu lâu năm về di cư
của tổ chức quốc tế ESCAP đã trình bày trong hội thảo về chính sách di dân do Bộ
Nông nghiệp và PTNT tổ chức vào năm 1998: " Mối quan hệ giữa di cư và phát
triển là hai biến số phụ thuộc lẫn nhau. Di cư được hiểu đúng là bộ phận hợp thành
của sự phát triển. Di cư và phát triển cả hai đều tạo ra sự thay đổi đặc trưng của nền
kinh tế, xã hội và dân cư". Vì vậy có thể nói di cư là phát triển và là hiện tượng tất
yếu của phát triển.

1.2. Tổng quan về di cư trong nước ở Việt Nam.
1.2.1. Lịch sử di cư trong nước ở Việt Nam
Cho đến nay di cư đã trở thành một phần quan trọng trong lịch sử Việt Nam.
Di cư trong nước không phải là một hiện tượng mới trong xã hội Việt Nam mà đây
là một phần của lịch sử. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975 đã có một sự di
chuyển dân số lớn từ thành phố về các khu vực nông'' thôn. Xu thế di cư này một
phần là do chương trình tái định cư theo kế hoạch của Nhà nước đưa cư dân thành
phố về các khu vực kinh tế mới và một phần lý do khác là người dân trở về nơi cư
trú cũ của mình sau chiến tranh. Kể từ những năm 1970 trở đi, các chương trình di
chuyển có sự hỗ trợ của Nhà nước đưa người vào các khu kinh tế mới vẫn tiếp tục
và tạo thành một loại hình di cư chính trong nước ở Việt Nam. Những năm 1990
chứng kiến sự thay đổi trong các chính sách di cư có tổ chức của Chính phủ. Các
chương trình di cư không còn tập trung vào các vùng kinh tế mới nữa mà chuyển
10
sang các chương trình tái định cư lồng ghép với chương trình phủ xanh đất trống
đồi trọc và các chương trình phục hồi ven biển. Tuy nhiên bên cạnh các chương
trình di cư theo kế hoạch của Chính phủ, trong giai đoạn này hiện tượng di cư tự do
trong nước cũng bắt đầu phát triển. Những sự di chuyển này nằm ngoài kế hoạch
của Nhà nước và liên quan tới tác động của chính sách Đổi Mới trong những năm
1980 và là điểm khởi đầu cho quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền
kinh tế theo định hướng thị trường. Những cải cách này làm giảm nhẹ một số điều
kiện mà trước đây vẫn hạn chế sự di chuyển, cụ thể là xóa bỏ hệ thống bao cấp liên
quan chặt chẽ với việc đăng ký hộ khẩu của hộ gia đình và bắt đầu áp dụng cơ chế
khoán cho hộ gia đình. Chính điều này khiến người nông dân không còn bị bó buộc
với ruộng đồng nữa và đồng thời bắt đầu tạo nên thị trường đất đai, từ đó cho phép
người dân linh hoạt hơn khi di chuyển sau khi chuyển nhượng hoặc cho thuê lại đất
đai của mình. Chính sách Đổi Mới cũng thúc đẩy sự phát triển kinh tế nhanh chóng
và góp phần giúp Việt Nam xóa đói giảm nghèo. Đây là thành tựu mà Việt Nam đã
được cộng đồng quốc tế công nhận. Khu vực ngoài quốc doanh bắt đầu tăng nhanh
với sự xuất hiện của đầu tư trực tiếp nước ngoài, thu hút lao động và khuyến khích

người dân di cư tới những khu vực có nhiều công ăn việc làm. Song song với xu
hướng di chuyển này là xu hướng ngày càng ít người dân sống dựa vào các sản
phẩm truyền thống hoặc sản xuất nông nghiệp vì thế người ta thường chọn giải pháp
di cư đi khỏi khu vực của mình. Khi quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế
tiếp diễn với sự gia tăng các hoạt động kinh tế trong lĩnh vực sản xuất và trong các
khu công nghiệp đóng tại hoặc gần các thành phố lớn, sự khác biệt giữa nông thôn
và thành thị ngày càng lớn. Chẳng hạn tiền công cho các công việc ở các khu công
nghiệp và trong lĩnh vực sản xuất tại các khu đô thị thường cao gấp 5-7 lần các công
việc nông nghiệp vì thế đẩy người dân di cư đi tìm các công việc có mức tiền công
cao hơn. Tác động của cải cách thị trường và sự phát triển kinh tế mạnh mẽ đã tạo
nên động lực cho quá trình di cư trong nước. Tuy nhiên các động lực này không
đồng nhất và một trong những sự khác biệt rõ ràng nhất là di cư giữa nam và nữ. Ví
dụ sự phát triển của khu vực dệt may xuất khẩu đã thu hút chủ yếu là lao động nữ
11
và sự xuất hiện của “hộ gia đình có cả cha và mẹ cùng làm việc” đã tạo ra nhu cầu
cần sử dụng người giúp việc, một loại hình công việc mà chủ yếu do người di cư nữ
làm. Sự thay đổi vai trò của phụ nữ trong nông nghiệp cũng liên quan tới xu hướng
di cư mặc dù người ta vẫn đang tranh luận về mối quan hệ đặc thù này. Một số
người cho rằng với sự suy giảm của khu vực nông nghiệp, di cư tới thành thị là một
trong những cách duy nhất mà phụ nữ có thể tìm được việc làm phi nông nghiệp vì
“việc đồng áng vốn đã ít, lại thường chỉ giành cho nam giới”. Tuy nhiên một số
khác lại đề cập đến hiện tượng “nữ hóa nông nghiệp”, khi nam giới di cư đi tìm các
cơ hội việc làm phi nông nghiệp, phụ nữ ở lại phải cáng đáng các công việc đồng
áng. Ở Việt Nam, lao động và di cư trong nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
đây là một điểm rất rõ ràng trong giai đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-2009.
Đánh giá nhanh cho thấy lao động, đặc biệt là lao động nữ và những lao động trong
khu vực phi chính thức phải gánh chịu sự giảm thu nhập, bị mất hoặc thiếu việc
làm. Các đánh giá này cũng cho thấy lao động di cư là nhóm bị tác động rõ rệt nhất
vì họ thường tập trung làm việc tại các doanh nghiệp xuất khẩu và trong khu vực
phi chính thức. Cuộc khủng hoảng kinh tế cũng cho thấy có sự phân nhánh xã hội

sâu sắc chứ không chỉ là tác động tới các dòng di cư. Khi lao động di cư không có
việc và không gửi tiền về gia đình, thu nhập của cộng đồng nơi đi cũng giảm đi
đáng kể. Trong một số trường hợp, khó khăn khiến người di cư phải quay trở về
nhà, tạo áp lực cho lực lượng lao động nông nghiệp nông thôn hoặc khiến họ phải di
chuyển vào khu vực phi chính thức mà ở đó họ không được tiếp cận với gói hỗ trợ
của chính phủ. Mặc dù những đánh giá ở đây chỉ mới là đánh giá sơ bộ ban đầu, có
thể thấy rõ ràng rằng khủng hoảng tài chính toàn cầu có những tác động đáng kể tới
các xu thế di cư và tới các quyền bảo trợ xã hội cho những người bị ảnh hưởng. Có
thể thấy rằng quỹ đạo kinh tế trong tương lai sẽ có những tác động tương tự đến mô
hình di cư trong nước. Cũng cần phải lưu ý tới vai trò của các xu hướng nhân khẩu
học hình thành nên các dòng di cư trong tương lai. Khi Việt Nam bước vào “thời kỳ
dân số vàng” trong đó dân số trong độ tuổi lao động sẽ vượt xa dân số phụ thuộc.
Trong khoảng 30 năm tới, ước tính hàng năm có khoảng 1 triệu thanh niên sẽ tham
12
gia vào thị trường lao động. Lực lượng lao động dồi dào sẽ tạo ra nhiều cơ hội to
lớn cho phát triển kinh tế ở Việt Nam, mặt khác sẽ có thể làm tăng tỷ suất di cư vì
thanh niên sẽ di chuyển tới các khu vực có tập trung nhiều công ăn việc làm.
1.2.2. Di cư từ nông thôn ra thành thị
1.2.2.1. Khái niệm di cư từ nông thôn ra thành thị
Di cư từ nông thôn ra thành thị là sự di chuyển của con người từ nông thôn ra
thành thị trong một khoảng thời gian nhất định (xét theo yếu tố nơi đi và nơi đến
của loại hình di cư).
Các nhà kinh tế học cho rằng: di cư từ nông thôn ra thành thị là một quá trình
di chuyển của lao động từ khu vực kém phát triển hơn đến khu vực phát triển hơn.
Trong đó:
Nông thôn: là chỉ vùng đất mà người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp.
Thành thị:
- Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ như: vùng liên tỉnh,
vùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc vùng trong tỉnh, trong thành phố

trực thuộc Trung ương; vùng huyện hoặc tiểu vùng trong huyện.
- Đối với khu vực nội thành phố, nội thị xã, thị trấn tỷ lệ lao động phi nông
nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động; cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động
của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế quy hoạch xây
dựng quy định cho từng loại đô thị, quy mô dân số ít nhất là 4000 người và mật độ
dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km².
1.2.2.2. Những nhân tố quyết định đến di cư từ nông thôn ra thành thị
Di cư vừa là nguyên nhân và là hệ quả của quá trình phát triển. Di cư đã và đang
trở thành sự lựa chọn của người dân nhằm cải thiện kế sinh nhai và tạo cơ hội làm
ăn cho mình. Di cư đã trở thành một cấu thành không thể thiếu được của quá trình
phát triển đặc trưng cho mối quan hệ qua lại giữa vùng miền và lãnh thổ.
a. Các nguyên nhân dẫn đến di cư nông thôn ra thành thị
13
Di cư nói chung và di cư nông thôn ra thành thị nói riêng là quá trình làm cân
bằng các nguồn lực kinh tế để tạo lập một bước tiến mới trong sự phát triển kinh tế.
Có nhiều nguyên nhân theo các nhà nghiên cứu dẫn đến di cư từ nông thôn ra thành
thị, quá trình di cư nông thôn ra thành thị ở Việt Nam có thể chia làm các nguyên
nhân sau đây:
Một là, nguyên nhân về áp lực dân số và việc làm: Những năm gần đây, dân số
Việt Nam tăng trưởng trong sự kiểm soát khá chặt chẽ với tốc độ tăng dân số
khoảng 1.5% / năm. Nhưng những thập kỉ trước đó, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng
dân số rất cao đặc biệt trong những năm 1970 đến đầu những năm 1990 là năm mà
dân số bùng nổ với tốc độ tăng trưởng 2% / năm. Tốc độ tăng trưởng dân số cao
như vậy đặt áp lực rất lớn lên nền kinh tế về việc tạo ra đủ công ăn việc làm và áp
lực này càng tăng lên khi những năm gần đây phần trăm những người đến tuổi lao
động tìm việc tăng lên. Điều này có nghĩa là số người tham gia vào lực lượng lao
động hàng năm có xu huớng ngày càng lớn.
Sự bùng nổ dân số làm mất cân bằng các nguồn lực kinh tế. Trong vòng một thế
kỉ, nền kinh tế đặc biệt là kinh tế nông thôn khá ổn định trong sự cân bằng giữa
nguồn lực con người và đất đai, nhưng sự bùng nổ dân số đã làm cho nguồn lực đất

đai càng trở nên khan hiếm cùng với trình độ công nghệ không được cải thiện thích
đáng để giải quyết sự không cân bằng này và kết quả là một bộ phận sẽ trở thành
thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp. Sự bùng nổ dân số cùng với mật độ dân số dầy
đặc ở một số vùng đã làm cho tình trạng trên trở nên tồi tệ hơn, cư dân ở các vùng
đó rơi vào tình trạng thiếu đất, họ không thể đủ sống chỉ dựa vào sản xuất nông
nghiệp. Những người này vừa là nông dân và cũng không phải là nông dân, họ tìm
mọi phương thức sinh kế để kiếm sống. Trong hoàn cảnh này thì vịêc di cư từ nông
thôn ra thành thị là không thể tránh khỏi.
Hai là, cuộc cải cách kinh tế hay “Đổi mới” và sự thay đổi về chính sách liên
quan đến người di dân đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tình hình di cư.
Thứ nhất, về sản xuất nông nghiệp đã giải thể sản xuất tập thể và cho ra đời cơ chế
khoán. Do đó, người nông dân không còn bị ràng buộc với đất đai của mình. Hơn
14
nữa, xu hướng thương mại hoá sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng và việc thay
thế sức lao động thủ công bằng vốn đầu vào đã có tác động rất đáng kể trong việc
phân bố lại lực lượng lao động nông thôn và hối thúc họ rời quê hương đi làm ăn
xa. Thứ hai, trong lĩnh vực sản xuất công nghệ và đầu tư công nghệ mới, sự hội
nhập của Việt Nam vào nền kinh tế chung của toàn cầu đã thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài; lao động di cư được thu hút đến khu vực đầu tư nước ngoài và những
trung tâm công nghiệp. Ở đô thị, các quy định về đăng kí hộ khẩu, hộ tịch cho dù
còn tồn tại cũng không còn hạn chế nhu cầu về nhu yếu phẩm hay tìm việc làm
ngoài thị trường lao động như trước đây. Thứ ba, song song với quá trình này, mạng
lưới xã hội dựa trên cơ sở cộng đồng ngày càng mở rộng và thúc đẩy việc di chuyển
của người dân (Đặng Nguyên Anh, 1998). Sự phát triển của mạng lưới giao thông
vận tải với chất lượng tốt hơn, dễ dàng hơn và mạng lưới viễn thông liên lạc, các
phương tiện thông tin đại chúng giữa các vùng khác nhau đã tạo điều kiện thuận lợi
cho việc di chuyển về không gian và tăng cường sự giao thoa và các quan hệ xã hội
giữa nông thôn và thành thị.
Ba là, Quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hoá phát triển nhanh chóng tại Việt
Nam trong những năm gần đây đã tác động đáng kể tới dòng di cư từ nông thôn ra

thành thị. Tỉ lệ của ngành công nghiệp và dịch vụ đóng góp trong GDP có xu hướng
tăng và tỉ lệ ngành nông nghiệp có xu hướng giảm. Quá trình công nghiệp hóa chủ
yếu diễn ra ở các khu vực thành thị do có lợi thế so sánh nhưng sau đó sự khan
hiếm về đất đai và cơ sở hạ tầng đã hình thành nên các khu công nghiệp gần các
thành phố lớn – các khu công nghiệp này thu hút một lượng khổng lồ vốn đầu tư
nước ngoài cũng như một lượng lớn công nhân và công nhân không trực tiếp (làm
việc trong các khu vực mà sản xuất có liên quan đến khu công nghiệp). Sự phát
triển của công nghiệp hóa và các thành phố lớn thúc đẩy quá trình đô thị hoá ở Việt
Nam, đô thị hóa là kết quả của quá trình phát triển kinh tế và quá trình này phát
triển rất nhanh trong thời kì công nghiệp hóa. Tốc độ tăng dân số ở đô thị lớn hơn
so với tốc độ tăng dân số của cả nước và điều này có nghĩa rằng quá trình di cư
15
nông thôn ra thành thị đã tạo nên một sự thay đổi không thể phủ nhận trong cấu trúc
dân số của Việt Nam.
Bước chuyển mình theo hướng kinh tế thị trường đã thay đổi bộ mặt của nền
kinh tế, cải thiện mức sống của người dân nói chung và những người nghèo nói
riêng. Nhưng việc giảm nghèo không có nghĩa là giảm khoảng cách chênh lệch giữa
người giàu và người nghèo. Sự bất bình đẳng không chỉ là hiện tượng giữa người
giàu và người nghèo mà còn thấy được giữa nông thôn và thành thị. Sự phát triển
mất cân đối giữa các vùng lãnh thổ trong nền kinh tế thị trường và sự khơi rộng
khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền cũng như giữa các tỉnh thành trong
tăng trưởng kinh tế thời mở cửa chính là sự khác biệt căn bản được xem là nguyên
nhân chính đối với di cư nông thôn ra thành thị.
b. Quy luật của quá trình di cư từ nông thôn ra thành thị
Di cư từ nông thôn ra thành thị nói riêng và di cư nói chung là một hiện tượng tự
nhiên của quá trình phát triển kinh tế bởi nó xảy ra để thích nghi những cơ hội về
kinh tế cũng như phi kinh tế. Việc phân bố lại dân cư sẽ tiếp diễn cho đến khi những
cơ hội này đồng đều giữa các vùng, miền. Trong quá trình này, di cư từ nông thôn
ra thành thị là phổ biến nhất đặc biệt khi các nước bước vào quá trình công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đi kèm với nó là quá trình đô thị hóa không thể tránh khỏi, với

đại bộ phận dân số sống ở nông thôn và kế sinh nhai của họ là làm nghề nông, khi
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa bắt đầu thì chuyển dịch cơ cấu kinh tế
cũng diễn ra mạnh mẽ hơn. Tỉ trọng lao động trong ngành nông nghiệp có xu hướng
ngày càng giảm trong khi đó tỉ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch
vụ, thương mại ngày càng tăng. Di cư từ nông thôn ra thành thị góp phần mang lại
sự cân bằng về lao động, cân bằng giữa cung và cầu lao động ở cả nông thôn và
thành thị. Do đó, quá trình di cư là tất yếu trong giai đoạn đầu của quá trình công
nghiệp hoá.
Quá trình di cư luôn chịu tác động của yếu tố “nhân tố đẩy” và “nhân tố kéo”
hay quá trình di dân xảy ra khi có sự khác biệt về đặc trưng giữa hai vùng: vùng đi
và vùng đến. Nhân tố đẩy là những yếu tố, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, chính
16
trị, văn hóa…ở vùng xuất phát đang gây khó khăn cho người dân ở đó như là: do
điều kiện sống khó khăn, ít công ăn việc, thiếu đất đai làm nên người ta phải di cư
rời bỏ quê hương tìm đến một nơi khác để cư trú và làm việc kiếm sống, trong đó
khu vực thành thị với nhiều lợi thế là những nhân tố kéo người nông dân rời bỏ
nông thôn và đến đó lập nghiệp – đây là “nhân tố đẩy; thứ hai, do các nhân tố hút ở
nơi đến như những điều kiện, yếu tố thuận lời về tự nhiên, kinh tế, xã hội, chính trị,
văn hóa…cùng với sự hấp dẫn về việc làm, cơ hội thu nhập cao và mức sống ở nơi
đến, đây là “nhân tố kéo”.
Quá trình di cư từ nông thôn ra thành thị vẫn tiếp diễn trong khi thất nghiệp ở
thành thị là khá cao (có thể làm việc ở các khu vực không chính thức); với số lượng
việc làm được đưa ra ở thành thị thì số người di cư từ nông thôn ra đô thị có thể lớn
hơn bởi vì họ không nhất thiết đòi hỏi phải làm việc trong những khu vực chính
thức mà có thể làm ở những khu vực không chính thức: bán hàng rong, thợ thủ
công, thợ đánh giầy, người sửa chữa, quét rác, giúp việc trong gia đình với hi vọng
qua thời gian sẽ tìm được một công việc ở thành thị với mức lương cao hơn ở khu
vực nông thôn – đây là cách mà họ có thể dần bước chân vào nền kinh tế thành thị.
Trường hợp này cũng phù hợp với những người di dân mùa vụ - những người
không hẳn là thất nghiệp mà tìm cách làm việc trong thành thị với thời gian ngắn

trong lúc nông nhàn, mùa vụ xây dựng hay du lịch…để có thêm thu nhập.
c. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định di cư
Đối với quá trình di cư trên thế giới nói chung đều phải tính toán đến một số
nhân tố có ý nghĩa quan trọng, kể đến như là: khoảng cách di chuyển, cơ hội tìm
kiếm việc làm tốt hơn ở nơi đến, khả năng thu nhập, các thông tin cần thiết về nơi
đến…Nhìn chung, các nghiên cứu về di cư đều đi đến thống nhất là quyết định di cư
phụ thuộc vào một số nhân tố ảnh hưởng xét về phía cá nhân của người di cư như:
* Nạn thất nghiệp cũng như không hài lòng về công việc đóng vai trò là nhân tố
“đẩy” đối với sự di cư. Những người mới di cư đến một vùng và sau đó không tìm
được việc làm ở nơi đó thì họ có thể lại di chuyển tiếp sang vùng khác hoặc những
người bị thất nghiệp thường trở thành những người di cư.
17
* Những người thất nghiệp, những người đang tìm kiếm việc làm thường dễ
phản ứng với các vấn đề kinh tế có liên quan như khả năng thu nhập, mức lương, và
nói chung họ thường muốn khả năng kiếm sống tăng cao hơn nữa. Điều này trái
ngược với những người đang thoả mãn với công việc của mình đang có.
* Những gia đình đã nhiều lần di cư thường có khuynh hướng di chuyển nhiều
hơn so với các gia đình chỉ di cư một lần hoặc chưa có lần nào di cư trong thời gian
gần đây. Có thể xem họ là những người di cư mãn tính hay kinh niên.
Trong những cuộc di cư của các hộ gia đình thì vai trò của người vợ có ý nghĩa
quan trọng trong việc quyết định di cư, họ không phải là những người thụ động.
* Tuổi tác và học vấn không giữ vai trò quyết định trong việc ảnh hưởng đến
quyết định di cư của các cặp vợ chồng.
Ngoài ra, nhân tố quan trọng hay cũng coi là nguyên nhân quan trọng tác động
tới vịêc ra quyết định của người di cư như: điều kiện việc làm, thu nhập, các điều
kiện về kinh tế xã hội, văn hóa giáo dục ở khu vực thành thị luôn tốt hơn so với ở
nông thôn. Hơn nữa, sự thay đổi nhận thức trong chính sách của chính phủ với
người di cư từ việc hạn chế, nới lỏng cho đến công nhận và tạo điều kiện hỗ trợ
nhiều hơn cho cuộc sống người di cư là những nhân tố kéo người di cư ra khỏi làng
quê của mình để tìm cuộc sống tốt đẹp hơn. Một nhân tố nữa do ông Đặng Nguyên

Anh đưa ra đó là: “mạng lưới xã hội” được hình thành từ quá trình di dân gọi là:
“mạng lưới di dân”, những người di cư lâu năm và đã có cơ ngơi ổn định tại thành
thị thường mời và “hỗ trợ” người thân ở quê khi họ muốn di cư. Những mối quan hệ
này thường liên quan đến đến việc người dân mới đến thuê trọ, tạm ứng tiền bạc
hoặc vay nợ người quen để bắt đầu tìm kiếm việc làm, tự tìm việc hoặc được người
quen giúp chọn công việc có thu nhập thường xuyên. Do vậy, người di cư có đầy đủ
thông tin về nơi đến qua họ hàng, điều này sẽ góp phần giảm những rủi ro do thiếu
thông tin và tăng cơ hội thành công của quá trình di dân. Do đó, “mạng lưới di cư”
là nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy quá trình chuyển cư.
1.2.2.3. Tác động kinh - tế xã hội của dòng di cư từ nông thôn ra thành thị
18
a. Tác động tích cực của dòng di cư nông thôn – thành thị tới đời sống kinh tế -
xã hội:
Càng ngày, việc dịch chuyển dân cư và sự điều chỉnh lực lượng lao động đóng
góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam. Dân di cư đóng
góp vào sự phát triển kinh tế thông qua:
Một là, dòng lao động di cư đã bổ sung lực lượng lao động đáng kể trong các
lĩnh vực kinh tế ở thành thị, giúp các nhà tuyển dụng tiếp cận nguồn lao động một
cách có hiệu quả, nhưng giá thấp bởi vì sự cung cấp lao động cần phải duy trì mức
lương cạnh tranh cho các nhà tuyển dụng.
Hai là, những người di cư chấp nhận những công việc khác nhau kể cả những
công việc mang tính chất tạm thời (như: gom phế liệu, nguyên liệu tái chế, bốc vác,
giúp việc gia đình…) ở những mức lương thấp mà người thành thị không làm nếu
không được bảm đảm các phúc lợi xã hội như bảo hiểm y tế và xã hội tốn kém. Do
vậy, di cư đã tạo ra một thị trường năng động mà trước đây chưa có.
Ba là, sự di cư trong nước hay từ nông thôn ra thành thị giúp giảm nghèo đói cụ
thể là: tăng khả năng kiếm tiền đáng kể so với thu nhập của người không di cư tại
nông thôn; có ảnh hưởng tích cực với kinh tế địa phương tại những nơi đến vì các
khoản chi tiêu của người di cư; gửi tiền về quê hương để đầu tư cho các hoạt động
tăng thu nhập, đầu tư kinh doanh, trả nợ, chi trả tiền chữa bệnh, tiền tiêu dùng của

gia đình, tiếp cận các kĩ năng làm việc và hiểu biết thông tin về thị trường, nắm bắt
kĩ năng kỹ thuật về áp dụng tại quê hương.
Bốn là, dòng di cư này cũng giúp giảm gánh nặng ngân sách nhà nước dành cho
các dịch vụ tại những nơi họ rời đi, trong khi đến nơi sinh sống họ lại không được
chính quyền hỗ trợ và đồng thời giúp chính quyền nơi đến giảm bớt các chi phí
quản lý các dịch vụ ở thành thị thông qua việc thu nhặt, vận chuyển phế liệu và như
vậy những người di cư tham gia vào dây chuyền sản xuất tái chế.
b. Tác động tiêu cực của dòng di cư nông thôn – thành thị đến kinh tế - xã hội
- Lao động di cư - đối tượng ít được bảo vệ nhất trong thị trường làm việc mới
gia nhập. Họ thường không có bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm nghề
19
nghiệp hay tai nạn lao động do bản chất công việc của họ là tạm thời và không được
đăng kí hộ khẩu thường trú, người lao động di cư không thể tự bảo vệ mình khỏi
những rủi ro về sức khoẻ, họ không tự tổ chức được những cuộc thương lượng tập
thể để đòi hỏi một đồng lương xứng đáng và yêu cầu được bồi thường trong trường
hợp bị thương tật hoặc đau ốm.
- Những người di cư cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế và
xã hội. Họ không phải là đối tượng được quan tâm nhiều đến việc nâng cao khả
năng tiếp cận các dịch vụ y tế, nhà ở, xã hội cho người nhập cư, họ có lương thấp
nhưng nhu cầu tiết kiệm lại cao do vậy lao động di cư thường sống chui rúc trong
các khu nhà trọ đông đúc, thiếu thốn các tiện nghi cơ bản và an toàn. Bên cạnh đó,
tình trạng dễ tổn thương đói với nhóm phụ nữ di cư thường do bị xâm hại tình dục
và bạo lực, thậm chí gây nên các rủi ro lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường
tình dục và HIV/AIDS. Những vấn đề này ảnh hưởng rõ nét đến an ninh xã hội
cũng như vấn đề về môi trường ở các đô thị đông đúc người di cư.
- Cơ sở hạ tầng ở thành thị được cung cấp tốt hơn so với các vùng nông thôn
nhưng chỉ đảm bảo cho một khối lượng người cụ thể mà thôi. Khi có dòng di cư quá
lớn từ các vùng miền khác ra thành thị, cùng với điều này là khối lượng phương tiện
giao thông sử dụng cũng tăng lên đáng kể sẽ tác động tới yếu tố hạ tầng như: đường
xã, đất đai, nhà ở đều trở nên quá tải ở thành thị.

1.3. Một số chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng cuộc sống của hộ gia đình
1.3.1. Quan niệm về chất lượng cuộc sống.
Chất lượng cuộc sống là một khái niệm rộng, đã từng được hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau và được đo bằng nhiều tiêu chí khác nhau. Trong các tác phẩm của
C.Mác hay của các nhà kinh tế chính trị cổ điển khác như A.Smith, D.Ricardo,
R.Malthus, J.S.Mill đã có tư tưởng mở rộng và đề cao các giá trị về CLCS của
con người. CLCS như là mục đích trong việc tạo điều kiện thuận lợi giúp con người
có một cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú.
Theo R.C.Sharma thì CLCS là một khái niệm phức tạp, nó đòi hỏi sự thỏa
mãn cộng đồng chung xã hội, cũng như những khả năng đáp ứng được nhu cầu cơ
20
bản của chính bản thân xã hội. Trong tác phẩm nổi tiếng “Dân số, tài nguyên, môi
trường và chất lượng cuộc sống”, ông đã định nghĩa: “Chất lượng cuộc sống là sự
cảm giác được hài lòng (hạnh phúc hoặc thỏa mãn) với những nhân tố của cuộc
sống, mà những nhân tố đó được coi là quan trọng nhất đối với bản thân một con
người. Thêm vào đó, chất lượng là sự cảm giác được hài lòng với những gì mà con
người có được. Nó như là cảm giác của sự đầy đủ hay là sự trọn vẹn của cuộc
sống”. Theo R.C.Sharma thì mức sống của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng xã
hội được coi là yếu tố quan trọng để tạo ra CLCS.Trong xã hội hiện đại, khái niệm
chất lượng cuộc sống thường được đồng nhất với khái niệm thoải mái tối ưu. Trong
đó, mối quan tâm chính của việc nâng cao chất lượng cuộc sống là tạo ra một trạng
thái thoải mái về vật chất và tinh thần, là tăng cường thời gian nghỉ ngơi. Sự tối ưu
hóa mức độ thoải mái được thể hiện trong sự đa dạng hóa các sản phẩm tiêu dùng
mà mỗi cộng đồng xã hội, mỗi gia đình hay mỗi cá nhân có được.
Nội dung khái niệm CLCS đã được Wiliam Bell mở rộng toàn diện hơn.
Theo ông, CLCS thể hiện ở 12 đặc trưng:
(1) An toàn thể chất cá nhân
(2) Sung túc về kinh tế
(3) Công bằng trong khuôn khổ pháp luật
(4) An ninh quốc gia được đảm bảo

(5) Bảo hiểm lúc già yếu và ốm đau
(6) Hạnh phúc về mặt tinh thần
(7) Sự tham gia của mỗi cá nhân vào đời sống xã hội
(8) Bình đẳng về giáo dục, y tế
(9) Chất lượng đời sống văn hóa
(10) Quyền tự do công dân
(11) Chất lượng môi trường kỹ thuật
(12) Chất lượng môi trường sống và khả năng chống ô nhiễm
21

×