Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên điện cơ thống nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (987.02 KB, 86 trang )

MỤC LỤC
81
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
NXB: Nhà xuất bản
UBND: Ủy ban nhân dân
QĐ: Quyết định
UB: Ủy ban
CBCNV: Cán bộ công nhân viên
OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(Organization for Economic Cooperation and Development)
WEF: Diễn đàn kinh tế thế giới (World economic forum)
TQM: Quản lý chất lượng toàn diện (Total quality management)
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
BẢNG
Bảng 2.1 Kết quả kinh doanh của công ty năm 2008, 2009 và 2010.Error: Reference
source not found
Bảng 2.2 Kết quả tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm 2010 Error:
Reference source not found
Bảng 2.3: Giá quạt điện một số hãng quạt điện trên thị trường Hà Nội Error:
Reference source not found
HÌNH
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
81
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trên đà phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Việc
chọn một hướng đi đúng đắn là điều kiện quyết định thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước. Chúng ta cần tận dụng những cơ hội, đón nhận những
thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy những lợi thế và tiềm lực vốn có
của quốc gia để xây dựng nền kinh tế phát triển toàn diện, theo kịp với các quốc gia


trong khu vực và thế giới.
Các chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt
của nền kinh tế. Các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp trong lĩnh vực
điện lạnh, điện gia dụng nói riêng luôn tìm kiếm cho mình những cơ hội kinh doanh
mới nhằm thu được lợi nhuận và tích lũy kinh nghiệm nhằm mở rộng và phát triển
sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên quá trình đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hóa, tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa buộc các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh hết sức gay gắt. Điều
này gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) nhà nước một thành viên điện cơ
Thống Nhất không nằm ngoài sự thay đổi đó. Là một doanh nghiệp nhà nước với
hơn 40 năm phát triển nhưng kể từ sau khi mở cửa thị trường, công ty TNHH nhà
nước một thành viên điện cơ Thống Nhất đang đối mặt với nhiều khó khắn về tài
chính, khoa học công nghệ, trình độ tổ chức quản lý, chiến lược .v.v. trong một thị
trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Sức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng bị hạn chế do phải đối
mặt với các đối thủ cạnh tranh trong nước đang được đầu tư kỹ lưỡng và các đối thủ
đến từ nước ngoài. Do vậy, để phát triển bền vững trong tình hình hiện nay, doanh
nghiệp buộc phải nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó điều quan trọng là tập trung
nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm.
1
Từ nhận thức trên, tôi đã chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm
của Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên điện cơ Thống Nhất”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá vấn đề cơ bản về nâng cao năng lực cạnh tranh sản
phẩm của các doanh nghiệp.
- Phân tích đánh giá thực trạng về nâng cao năng lực cạnh tranh sản
phẩm quạt điện của công ty TNHH nhà nước một thành viên điện cơ Thống Nhất.
- Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh sản
phẩm quạt điện của công ty TNHH nhà nước một thành viên điện cơ Thống Nhất.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề cơ bản về nâng cao năng lực cạnh tranh
sản phẩm điện cơ và phạm vi nghiên cứu của đề tài là năng lực cạnh tranh sản phẩm
quạt điện của công ty TNHH nhà nước một thành viên điện cơ Thống Nhất trên thị
trường nội địa. Thời gian: từ năm 2008 đến 2010, định hướng 2010 đến 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác – Lênin và kết hợp với các phương pháp cụ thể như phương pháp
phân tích thống kê, đánh giá tổng hợp, khảo sát, so sánh … để luận giải, khái quát
và phân tích theo mục đích của đề tài.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu của đề tài chia làm 3 chương:
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH SẢN PHẨM ĐIỆN CƠ
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN
PHẨM QUẠT ĐIỆN CỦA CÔNG TY TNHH NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH VIÊN ĐIỆN
CƠ THỐNG NHẤT.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN
PHẨM QUẠT ĐIỆN CỦA CÔNG TY TNHH NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH VIÊN ĐIỆN
CƠ THỐNG NHẤT
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH SẢN PHẨM ĐIỆN CƠ
1.1. Tổng quan về năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Trên thực tế, có nhiều khái niệm về năng lực cạnh tranh, mỗi khái niệm đều
xuất phát từ các quan điểm khác nhau. Theo Đại từ điển tiếng Việt do tác giả
Nguyễn Như Ý chủ biên (NXB Văn hoá- Thông tin, tr.258): “Cạnh tranh là ganh
đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, nhằm giành phần hơn,

phần thắng về mình.”
Cạnh tranh, theo Từ điển Thuật ngữ Kinh tế học (NXB Từ điển Bách khoa,
Hà nội- 2001, tr.42), là “sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc
gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không
phải ai cũng có thể giành được”. Trong Đại từ điển Kinh tế thị trường (Viện
Nghiên cứu và Phổ biến Tri thức Bách khoa, Hà Nội- 1998, tr. 247) cũng đưa ra
định nghĩa: “Cạnh tranh hữu hiệu là một phương thức thích ứng với thị trường của
xí nghiệp mà mục đích giành được hiệu quả hoạt động thị trường làm cho người ta
tương đối thoả mãn nhằm đạt được lợi nhuận bình quan vừa đủ để có lợi cho việc
kinh doanh bình thường và thù lao cho những rủi ro trong việc đầu tư, đồng thời
hoạt động của đơn vị sản xuất cũng đạt được hiệu suất cao, không có hiện tượng
quá dư thừa về khả năng sản xuất trong một thời gian dài, tính chất sản phẩm đạt
trình độ hợp lý…”
Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), năng lực cạnh tranh là
khả năng của doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và
thu nhập cao hơn trong điều kiện quốc tế. Đây là cách tiếp cận ở cấp độ vĩ mô.
Còn ở tầm vi mô thì một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh
khi có thể đứng vững trên thị trường, có thể đưa ra các sản phẩm thay thế hoặc các
sản phẩm tương tự cùng loại với mức giá thấp hơn, chất lượng cao hơn so với đối
3
thủ cạnh tranh. Nói cách khác thì năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị
phần lớn, doanh thu lớn trước đối thủ cạnh tranh trong cùng một dòng sản phẩm.
Khi nói đến năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, thông thường
chúng ta thường tiếp cận năng lực cạnh tranh đứng trên ba giác độ: năng lực cạnh
tranh của từng mặt hàng và loại hình dịch vụ (năng lực cạnh tranh cấp sản phẩm),
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
(năng lực cạnh tranh cấp quốc gia)
Trong đó, năng lực cạnh tranh sản phẩm là khả năng mà sản phẩm đó có thể
duy trì được vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh. Năng lực cạnh
tranh một loại sản phẩm của một doanh nghiệp thể hiện ở rất nhiều mặt: có thể sản

phẩm đó được sản xuất với chi phí thấp hơn và từ đó giá thành, giá bán sản phẩm
thấp hơn so với các sản phẩm cùng loại khác; hoặc sản phẩm này được sản xuất
trong điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ chế biến hiện đại hơn
để nâng cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng tốt hơn những tiêu chuẩn của thị
trường; hoặc sản phẩm này được tổ chức tiêu thụ với mạng lưới bán hàng tốt và sản
phẩm được tung ra thị trường đúng thời điểm…Như vậy, năng lực cạnh tranh của
từng mặt hàng được cấu thành bởi nhiều yếu tố, nhưng có yếu tố chính như: yếu tố
về kiểu dáng mẫu mã, yếu tố về chất lượng của sản phẩm, yếu tố về giá cả sản phẩm
thường gắn liền với chủ thể sản xuất, cung ứng ra nó so với sản phẩm của các chủ
thế sản xuất và cung ứng khác có thể thỏa mãn cao hơn yêu cầu, thị hiếu của người
tiêu dùng, được người tiêu dùng chấp nhận lựa chọn tiêu thụ, đồng thời đem lại lợi
nhuận có thể chấp nhận được cho nhà sản xuất, cung ứng; yếu tố nhãn hiệu sản
phẩm; ngoài các yếu tố chính trên còn nhiều yếu tố khác như phương thức tiêu thụ,
quảng cáo, bán hàng…
1.1.2 Các cấp độ năng lực cạnh tranh
1.1.2.1 Năng lực cạnh tranh ở cấp độ quốc gia
Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 1997 đưa ra khái niệm: “Năng lực
cạnh tranh của một quốc gia là năng lực kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì
4
mức tăng trưởng cao trên các cơ sở chính sách, thể chế bền vững tương đối và các
đặc trưng kinh tế khác”.
Michael Porter là nhà khoa học về quản trị nổi tiếng ở Mỹ, là giáo sư trường
kinh doanh Harvard kiêm cố vấn tư vấn của nhiều công ty lớn và tổ chức nhà nước
trên thế giới. Ông đã được nhận giải thưởng MC. Kinsey năm 1979 trong cuộc thi
''Bài báo hay nhất của Trường Kinh doanh Harvard'' ông còn phụ trách một chuyên
mục cho các tạp chí phố Wall. Từ năm 1983, M.Porter làm việc cho Uỷ ban về cạnh
tranh ngành của phủ Tổng thống. Ông là người đã đưa ra môn học về chiến lược cạnh
tranh và mô hình phân tích cấu trúc ngành. Về lý luận cạnh tranh, ông đã xuất bản ba
cuốn sách nổi tiếng thế giới và được sử dụng trong hầu hết các chương trình đào tạo
MBA của các nước. Đó là cuốn ''Chiến lược cạnh tranh'' xuất bản năm 1980, cuốn

''Lợi thế cạnh tranh'' năm 1985 và cuốn ''Lợi thế cạnh tranh quốc gia vào năm 1990.
Trong tác phẩm lợi thế cạnh tranh quốc gia, Porter vận dụng những cơ sở lý
luận cạnh tranh trong nước của mình vào lĩnh vực cạnh tranh quốc tế và đưa ra lý
thuyết nổi tiếng là mô hình “Viên kim cương”. Các yếu tố quyết định của mô hình
là các điều kiện về các yếu tố sản xuất, điều kiện về cầu, các ngành hỗ trợ và bối
cảnh cạnh tranh, chiến lược và cơ cấu doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có hai biến số bổ
sung là vai trò của nhà nước và yếu tố thời cơ, cơ hội kinh doanh.
Hình 1.1: Các điều kiện quyết định lợi thế cạnh tranh
5
Chiến lược, cơ cấu và cạnh tranh
của xí nghiệp ( Firm strategy,
structure, and rivalry)
Các điều kiện về mức cầu
(Demand condition )
Các đóng góp của yếu tố sản
xuất ( Factor endowments)
Các ngành hỗ trợ và liên hệ
(Relate and supporting industries)
Nhà nước
Cơ hội
Nguồn: Theo M.Porter “Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia”, Tạp chí
“Harvard Business”, tháng 3-4/1990, trang 77
1.1.2.2 Năng lực cạnh tranh ở cấp độ ngành
Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành là khả năng của một ngành tồn tại và
phát triển bền vững các đặc trưng kinh tế, khi các quá trình kinh tế nội sinh thay
đổi hoặc thay thế lẫn nhau.
Xét năng lực cạnh tranh ở cấp độ ngành, thì lý thuyết về chiến lược tạo lợi
thế cạnh tranh trong các lý thuyết cạnh tranh của Micheal Porter được chấp nhận
nhiều hơn cả. Trong đó, ông mô hình hóa các ngành kinh doanh và cho rằng ngành
kinh doanh nào cũng phải chịu tác động của năm áp lực cạnh tranh, bao gồm: năng

lực thương lượng của người cung ứng, nguy cơ bị thay thế, nguy cơ từ đối thủ mới,
năng lực thương lượng của khách hàng và cường độ cạnh tranh trong ngành.
Hình 1.2: Mô hình năm áp lực cạnh tranh của Michael Porter
6
Lý luận của Porter về lợi thế cạnh tranh quốc gia giải thích các hiện tượng
thương mại quốc tế trên góc độ các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế và
vai trò của nhà nước trong việc hỗ trợ cho các ngành có điều kiện thuận lợi để giành
lợi thế cạnh tranh quốc gia chứ không phải cho một vài doanh nghiệp cụ thể. Sự
thành công của các quốc gia ở ngành kinh doanh nào đó phụ thuộc vào 3 vấn đề cơ
bản: lợi thế cạnh tranh quốc gia, năng suất lao động bền vững và sự liên kết hợp tác
có hiệu quả trong cụm ngành.
• Năng lực thương lượng của nhà cung cấp thể hiện ở các đặc điểm như là:
Mức độ tập trung của các nhà cung cấp, Tầm quan trọng của số lượng sản phẩm đối
với nhà cung cấp, Sự khác biệt của các nhà cung cấp, Ảnh hưởng của các yếu tố đầu
vào đối với chi phí hoặc sự khác biệt hóa sản phẩm, Chi phí chuyển đổi của các
doanh nghiệp trong ngành, Sự tồn tại của các nhà cung cấp thay thế, Nguy cơ tăng
cường sự hợp nhất của các nhà cung cấp, Chi phí cung ứng so với tổng lợi tức của
ngành.
• Nguy cơ thay thế thể hiện ở: Các chi phí chuyển đổi trong sử dụng sản phẩm,
Xu hướng sử dụng hàng thay thế của khách hàng, Tương quan giữa giá cả và chất
lượng của các mặt hàng thay thế.
• Nguy cơ đến từ những người gia nhập mới thể hiện ở các yếu tố: Các lợi thế
chi phí tuyệt đối, Sự hiểu biết về chu kỳ dao động thị trường, Khả năng tiếp cận các
yếu tố đầu vào, Chính sách của chính phủ, Tính kinh tế theo quy mô, Các yêu cầu
về vốn, Tính đặc trưng của nhãn hiệu hàng hóa, Các chi phí chuyển đổi ngành kinh
doanh, Khả năng tiếp cận với kênh phân phối, Khả năng bị trả đũa, Các sản phẩm
độc quyền.
• Năng lực thương lượng của khách hàng thể hiện ở: Vị thế mặc cả, Số lượng
người mua, Thông tin mà người mua có được, Tính đặc trưng của nhãn hiệu hàng
hóa, Tính nhạy cảm đối với giá, Sự khác biệt hóa sản phẩm, Mức độ tập trung của

khách hàng trong ngành, Mức độ sẵn có của hàng hóa thay thế, Động cơ của khách
hàng.
7
• Cường độ cạnh tranh thể hiện ở: Mức độ tập trung của ngành; Sự khó khăn
khi rút ra khỏi ngành; Chi phí cố định/giá trị gia tăng; Tình trạng tăng trưởng của
ngành; Tình trạng dư thừa công suất; Khác biệt giữa các sản phẩm; Các chi phí
chuyển đổi; Tính đặc trưng của thương hiệu hàng hóa; Tính đa dạng của các đối thủ
cạnh tranh; Tình trạng sàng lọc trong ngành.
1.1.2.3 Năng lực cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp
* Năng lực cạnh tranh sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là “sức mạnh” hoặc “tính vượt trội” của
hàng hóa đó trên thị trường, nó có thể thay thế hàng hóa cùng loại do doanh
nghiệp khác cung cấp để chiếm lấy vị trí thống lĩnh thị trường tại cùng một thời
điểm. Đồng thời nó thỏa mãn yêu cầu của khách hàng về giá cả, chất lượng, số
lượng, tính tiện dụng, độc đáo hay kiểu dáng, bao bì, thương hiệu, các dịch vụ chăm
sóc khách hàng trước và sau bán hàng nhờ đó thị phần mà nó chiếm lĩnh cao hơn
so với thị phần của hàng hóa cùng loại trên cùng một thị trường.
* Năng lực cạnh tranh hoạt động
- Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp cũng được định nghĩa là khả
năng bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần của sản phẩm
hoặc dịch vụ của doanh nghiệp đó trên thị trường.
Xét năng lực cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp, Michael Porter đã xác định
ba chiến lược chung có thể áp dụng ở cấp đơn vị kinh doanh nhằm tạo ra lợi thế
cạnh tranh. Chiến lược chung phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp phát huy tối đa các
điểm mạnh của mình, đồng thời tự bảo vệ để chống lại các ảnh hưởng nhằm ngăn
chặn của năm lực lượng thị trường nói trên.
Nếu yếu tố quyết định đầu tiên đối với khả năng sinh lợi của doanh nghiệp là
sức hấp dẫn của lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động, thì yếu tố quan trọng
thứ hai là vị thế của doanh nghiệp trong lĩnh vực đó. Ngay cả khi hoạt động trong
một ngành có khả năng sinh lợi thấp hơn mức trung bình, nhưng các doanh nghiệp

có vị thế tối ưu thì vẫn có thể tạo ra mức lợi nhuận rất cao.
Mỗi công ty tự xác định vị trí cho mình trong lĩnh vực đang hoạt động bằng
8
cách tận dụng các ưu thế sẵn có của mình. Michael Porter cho rằng các ưu thế của
một doanh nghiệp bất kỳ sẽ luôn nằm ở một trong hai khía cạnh: lợi thế chi phí và
sự khác biệt hóa sản phẩm. Bằng cách áp dụng những ưu thế này, các công ty sẽ
theo đuổi ba chiến lược chung: dẫn đầu về chi phí, khác biệt hóa sản phẩm và tập
trung.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm được thể hiện thông qua hệ thống chỉ số
Marketing – Mix : sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến hỗn hợp, ngoài ra còn có
nghiên cứu và phát triển.
1.2 Năng lực cạnh tranh sản phẩm điện cơ của doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm và phân loại sản phẩm điện cơ
Sản phẩm điện cơ bao gồm các sản phẩm như: quạt điện, chấn lưu, ổ cắm
điện và các đồ điện gia dụng khác của ngành điện: điện tử, điện lạnh, điện dân
dụng, sản phẩm cơ, kim khí, dụng cụ gia đình, trang trí nội thất và các mặt hàng tiêu
dùng
1.2.2 Đặc điểm cạnh tranh sản phẩm điện cơ
Việc sản xuất và kinh doanh các sản phẩm điện cơ phụ thuộc vào nguyên
liệu đầu vào, công nghệ sản xuất cũng như trình độ quản lý. Đây là những loại sản
phẩm có tính năng rõ ràng, có yêu cầu về quy cách, kiểu dáng, về độ bền. Ngoài ra,
đây là sản phẩm tiêu dùng điện năng, do vậy người tiêu dùng cũng đòi hỏi ở sản
phẩm về độ tiết kiệm điện hay chi phí khi sử dụng sản phẩm. Vì vậy, đặc điểm cạnh
tranh sản phẩm điện cơ bao gồm cạnh tranh về mục đích sử dụng, cạnh tranh về quy
cách chủng loại, kiểu dáng, cạnh tranh về chi phí sử dụng và độ bền. Bên cạnh đó,
cạnh tranh giữa các sản phẩm trong nước hay giữa sản phẩm trong nước với sản
phẩm nhập khẩu cũng được xem xét đến khi phân tích đặc điểm cạnh tranh sản
phẩm điện cơ.
- Cạnh tranh về mục đích sử dụng: mục đích sử dụng chung chủ yếu của
quạt điện là làm mát từ quá trình chuyển hóa điện năng thành cơ năng lên cánh quạt

và tạo nên gió làm mát cho người sử dụng. Tuy nhiên hiện nay không chỉ đơn thuần
là việc tạo gió, các loại quạt điện còn được phát triển thêm các tính năng như phun
9
sương, tạo độ ẩm. Tùy vào mục đích sử dụng của người tiêu dùng, các loại sản
phẩm điện cơ được thiết kế những tính năng phụ kèm theo để thỏa mãn mọi nhu cầu
của người tiêu dùng.
- Cạnh tranh về quy cách chủng loại và kiểu dáng: các sản phẩm điện cơ
ngày càng phong phú và đa dạng về kiểu dáng, mẫu mã cũng như quy cách chủng
loại. Nếu như trước đây, quạt điện chỉ có một vài loại cơ bản như quạt trần, quạt
bàn, quạt cây thì giờ đây, các công ty cho ra đời rất nhiều chủng loại quạt khác như:
quạt treo tường, quạt hộp, quạt tháp v.v. để nhằm thỏa mãn mọi nhu cầu của người
tiêu dùng. Không những vậy, mẫu mã cũng như thiết kế sản phẩm ngày càng tinh tế.
Đây cũng là một yếu tố tạo nên tính cạnh tranh giữa các sản phẩm với nhau.
- Cạnh tranh về chi phí sử dụng và độ bền: Các sản phẩm điện cơ là các sản
phẩm vận hành bằng điện năng, do vậy chi phí tiêu dùng điện năng là yếu tố rất
quan trọng quyết định sự lựa chọn của người tiêu dùng đối với sản phẩm điện cơ.
Một sản phẩm quạt điện có chi phí vận hành và sử dụng điện ít sẽ cạnh tranh hơn
những sản phẩm tiêu hao nhiều điện năng. Do vậy tính năng tiết kiệm điện ngày
càng được chú trọng khi lựa chọn và đưa ra quyết định tiêu dùng những sản phẩm
điện cơ.
- Cạnh tranh giữa các sản phẩm trong nước và giữa các sản phẩm trong nước
với sản phẩm nhập khẩu: ngày nay khi kinh tế hội nhập, môi trường kinh doanh mở
cửa, các doanh nghiệp trong nước không những phải cạnh tranh với nhau mà còn
cạnh tranh với những doanh nghiệp nước ngoài. Khi trên thế giới những doanh
nghiệp sản xuất các mặt hàng cùng loại không ngừng gia tăng về số lượng và chất
lượng, ngoài ra, các doanh nghiệp nước ngoài có nhiều điều kiện áp dụng khoa học
kỹ thuật hơn chúng ta, thì việc cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài là một khó
khăn lớn đối với doanh nghiệp trong nước.
1.3 Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điện cơ Việt Nam
Việt Nam xóa bỏ chế độ bao cấp, các doanh nghiệp sản xuất ngày càng đông

và lớn mạnh, bên cạnh đó, việc hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm gia tăng sự cạnh
tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài. Do vậy môi trường kinh doanh hiện nay rất
10
cần các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh, cụ thể là năng lực cạnh
tranh sản phẩm.
Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao năng suất, giảm chi chí, cái
tiến quy trình hạch toàn, ứng dụng kỹ thuật mới vào sản xuất. Bên cạnh đó cạnh
tranh ngày càng phức tạp, tinh vi, do vậy doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
được thì không có cách nào khác là phải nâng cao năng lực.
Khoa học kỹ thuật phát triển cho ra đời nhiều thành tựu về công nghệ sản
xuất, trong đó có công nghệ sản xuất sản phẩm điện cơ, do vậy việc áp dụng khoa
học kỹ thuật vào sản xuất là một điều kiện tất yếu, và điều đó dẫn đến sự gia tăng
tính cạnh tranh trong các sản phẩm của các doanh nghiệp thông qua mức độ ứng
dụng công nghệ trong sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
1.4 Nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm
Để có năng lực cạnh tranh sản phẩm thì doanh nghiệp sản xuất cần phải xác
định được danh mục hàng hóa mà doanh nghiệp kinh doanh đáp ứng nhu cầu mặt
khác đó phải là mặt hàng mà doanh nghiệp có lợi thế khi cung ứng. Lợi thế đó được
thể hiện trên sản phẩm thông qua: kiểu dáng mẫu mã, chất lượng, giá cả, cách thức
phân phối và nhãn hiệu/thương hiệu sản phẩm.
1.4.1 Kiểu dáng mẫu mã
Đối với một sản phẩm của doanh nghiệp thì kiểu dáng mẫu mã là một trong
những yếu tố quan trọng, nó đóng vai trò là chức năng giới thiệu sản phẩm, đặc
trưng cho sản phẩm, đôi khi tạo nên thương hiệu sản phẩm, đồng thời nó cũng góp
phần thúc đẩy khả năng tiêu thụ của sản phẩm. Một sản phẩm với kiểu dáng mẫu
mã nổi bật, dễ nhớ nhưng lại đặc sắc sẽ để lại ấn tượng tốt cho khách hàng. Ngoài
ra, kiểu dáng mẫu mã sản phẩm gắn liền với tiện ích sử dụng sản phẩm. Kiểu dáng
càng tiện dụng, khách hàng càng ưa thích lựa chọn. Do vậy các doanh nghiệp luôn
không ngừng thay đổi, cải tiến kiểu dáng mẫu mã sản phẩm của mình nhằm mục
đích tạo sự mới lạ cho khách hàng đồng thời cũng mang lại những sản phẩm có tính

tiện dụng ngày càng cao, thích hợp với nhu cầu sử dụng phong phú của khách hàng.
Có như vậy mới tăng được doanh thu tiêu thụ sản phẩm, đồng thời nâng cao được
năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
11
1.4.2 Chất lượng
Chất lượng là một trong các yếu tố quan trọng quyết định đến sức cạnh tranh
của sản phẩm. Theo quan điểm hiện nay, chất lượng là tập hợp các đặc tính của sản
phẩm nhằm làm thỏa mãn nhu cầu/yêu cầu của khách hàng. Các đặc tính đó có thể
bảo gồm: đặc tính công dụng, tính thẩm mỹ, các chỉ tiêu kinh tế, tính an toàn, các
đặc trưng của hệ thống phân phối, dịch vụ sau bán hàng v.v.
Doanh nghiệp nếu tập trung vào phát triển chất lượng sản phẩm thì sẽ tạo ra
những sản phẩm an toàn, thu hút ngày càng đông khách hàng. Do vậy có thể nói,
phát triển sản phẩm theo chất lượng ngày càng trở thành xu hướng, chiến lược mà
các doanh nghiệp hướng tới nhằm đạt được sự phát triển bền vững và lâu dài.
1.4.3 Giá cả
Giá cả là một trong những yếu tố căn bản quyết định đến sức cạnh tranh của
hàng hóa. Hàng hóa càng rẻ càng có lợi thế cạnh tranh. Nói cách khác giá cả của
một loại hàng hóa nào đó thấp hơn giá của mặt hàng cùng loại thì càng có tính cạnh
tranh cao (nếu chất lượng của hai loại tương đương nhau.)
Giá cả là một công cụ quan trọng trong cạnh tranh. Giá cả được sử dụng như
một công cụ cạnh tranh thông qua chính sách định giá bán mà doanh nghiệp áp
dụng đối với từng loại thị trường và có sự kết hợp của một số điều kiện khác. Với
một mức giá ngang giá thị trường giúp cho doanh nghiệp giữ được khách hàng, nếu
doanh nghiệp tìm được các biện pháp hạ giá thành thì lợi nhuận thu được sẽ tăng
lên, hiệu quả kinh doanh sẽ cao. Ngược lại, với một mức giá thấp hơn giá thị
trường sẽ thu hút được nhiều khách hàng và tăng sản lượng tiêu thụ. Doanh nghiệp
sẽ có cơ hội thâm nhập thị trường và chiếm lĩnh thị trường mới. Mức giá doanh
nghiệp áp đặt cao hơn giá thị trường chỉ sử dụng được đối với các doanh nghiệp có
tính độc quyền, điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp thu được rất nhiều lợi nhuận (lợi
nhuận siêu ngạch).

1.4.4 Phân phối sản phẩm
Công tác phân phối sản phẩm tác động mạnh mẽ đến khả năng tiêu thụ sản
12
phẩm. Tổ chức tốt kênh phân phối và dịch vụ sau bán sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ
sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp. Kênh phân phối bao gồm mạng lưới bán
buôn, bán lẻ, đại lý được tổ chức một cách hợp lý khoa học sẽ chiếm lĩnh được
không gian thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng và kích thích hơn
nữa nhu cầu của họ. Thiết lập mạng lưới kênh tiêu thụ cần căn cứ vào chiến lược
tiêu thụ mà doanh nghiệp đang theo đuổi, vào nguồn lực của doanh nghiệp, vào đặc
tính của khách hàng, thói quen tiêu dùng và các kênh của đối thủ cạnh tranh. Để
làm tốt việc phân phối doanh nghiệp cần đảm bảo văn minh lịch sự, đúng hẹn trong
giao dịch, tạo mọi điều kiện có lợi nhất cho khách hàng tới mua hàng, hơn nữa phải
linh hoạt mềm dẻo trong phương thức thanh toán, giao nhận hàng hóa đảm bảo hai
bên cùng có lợi tránh tình trạng gây khó khăn cho khách hàng. Ngoài ra những dịch
vụ sau bán hàng cũng góp phần đảm bảo cho khách hàng khi mua sắm hàng hóa,
làm cho khách hàng có niềm tin và yên tâm hơn khi quyết định tiêu dùng sản phẩm
của doanh nghiệp và do vậy hàng hóa bán sẽ ổn định và nhiều hơn làm tăng việc
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Công tác tổ chức hoạt động tiêu thụ tốt tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp, cụ thể là:
+ Tổ chức hoạt động tiêu thụ tốt giúp doanh nghiệp tăng sản lượng tiêu thụ,
tăng doanh thu, lợi nhuận, thu hồi vốn nhanh.
+ Tổ chức tốt hoạt động tiêu thụ sẽ tạo ra uy tín của sản phẩm trên thị trường
làm cho khách hàng biết đến và hiểu rõ tính năng công dụng của sản phẩm.
+ Tổ chức tốt hoạt động tiêu thụ giúp cho doanh nghiệp tìm được nhiều bạn
hàng mới, khai thác được nhiều thị trường.
+ Tổ chức tốt hoạt động tiêu thụ sẽ kích thích sản xuất kinh doanh phát triển
Như vậy, công tác phân phối sản phẩm tốt tác động mạnh mẽ đến khả năng tiêu
thụ sản phẩm của doanh nghiệp, qua đó giúp doanh nghiệp nâng cao sản lượng tiêu thụ
sản phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận, đồng thời sản phẩm của doanh nghiệp được biết

đến rộng rãi trên thị trường, uy tín doanh nghiệp ngày càng được khẳng định.
13
1.4.5 Nhãn hiệu/Thương hiệu
Nhãn hiệu hàng hóa được hiểu là những dấu hiệu dùng phân biệt sản phẩm
cùng loại của các doanh nghiệp khác nhau. Nhãn hiệu có thể là từ ngữ, hình ảnh
hoặc sự kết hợp các yếu tố được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Nhãn hiệu
được coi là một loại tài sản vô hình của doanh nghiệp và trong từng trường hợp nó
còn là tài sản vô giá của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tốn rất nhiều chi phí để
có được một nhãn hiệu sản phẩm ứng ý và khoảng thời gian còn dài hơn để nhãn
hiệu đó được công chúng biết đến và nhớ đến.
Thương hiệu là khái niệm trong người tiêu dùng về sản phẩm với dấu hiệu của
nhà sản xuất gắn lên mặt, lên bao bì hàng hoá nhằm khẳng định chất lượng và xuất
xứ sản phẩm. Thương hiệu thường gắn liền với quyền sở hữu của nhà sản xuất và
thường được uỷ quyền cho người đại diện thương mại chính thức.
14
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
SẢN PHẨM QUẠT ĐIỆN CỦA CÔNG TY TNHH NHÀ NƯỚC
MỘT THÀNH VIÊN ĐIỆN CƠ THỐNG NHẤT
2.1 Cơ sơ để đảm bảo nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm quạt điện
tại công ty TNHH nhà nước một thành viên điện cơ Thống Nhất
2.1.1 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của công ty TNHH nhà
nước một thành viên điện cơ Thống Nhất
2.1.1.1 Quá trình hình thành phát triển
Công ty điện cơ Thống Nhất, tên viết tắt là VINAWIND là một doanh
nghiệp nhà nước, hiện nay trực thuộc UBND thành phố Hà Nội.
Tên giao dịch: Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên Điện cơ Thống Nhất.
Địa chỉ: Số 164 phố Nguyễn Đức Cảnh, quận Hoàng Mai, Hà Nội.
Điện thoại: 84-04-36622400 Fax: 84-04-36622473
Email:

Website: www.diencothongnhat.com.vn ; www.vinawind.com.vn
Công ty Điện cơ Thống Nhất, tiền thân là Xí nghiệp điện khí Thống Nhất là
xí nghiệp nhà nước, được thành lập ngày 17/3/1965 với nhiệm vụ: sản xuất các loại
quạt điện phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Trong buổi đầu mới hình thành, xí nghiệp điện khí Thống Nhất được tiếp
quản mặt bằng trên 8000 m
2
với gần 600 m
2
nhà xưởng, 114 máy móc thiết bị các
loại với tổng số cán bộ công nhân viên là 464 người. Sau một năm đi vào hoạt động,
theo sự chỉ đạo của Thành phố Hà Nội, xí nghiệp chuyển sang sản xuất phục vụ
quốc phòng. Nhiệm vụ chủ yếu lúc này là chế tạo các loại động điện cơ, téc xăng
để cung cấp cho quân đội chống lại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Năm 1970, theo quyết định số 142/UB-CN ngày 17/03/1970 của UBND
Thành phố Hà Nội, xí nghiệp điện khí Thống Nhất được sáp nhập với một bộ phận
15
của xí nghiệp điện cơ Tam Quang và đổi tên thành xí nghiệp điện cơ Thống Nhất,
trực thuộc Sở công nghiệp Hà Nội. Nhiệm vụ khi đó là sản xuất mặt hàng quạt điện
phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân sau chiến tranh.
Năm 1980, xí nghiệp đạt một thành công lớn khi đã chế tạo thành công và
đưa vào sản xuất quạt trần 1,4m kiểu khởi động bằng tụ điện, thay thế loại quạt trần
khởi động bằng vòng chập. Đây là sản phẩm lần đầu tiên được chế tạo ở nước ta.
Sang giai đoạn 1981 – 1990 các sản phẩm của xí nghiệp luôn được cải tiến
và đổi mới. Ngày 11 tháng 4 năm 1981 đã đi vào lịch sử truyền thống của xí nghiệp
khi lô hàng đầu tiên gồm 1001 chiếc quạt trần 1,4m được xuất khẩu sang đất nước
Cuba. Thập kỷ 80 cũng đánh dấu những thành tích nổi bật của xí nghiệp khi 7 loại
sản phẩm trong 10 năm liền được nhà nước cấp dấu chất lượng cấp cao và cấp I.
Giá trị sản xuất công nghiệp của xí nghiệp đạt từ 2,7 tỷ đồng năm 1980 lên 7,5 tỷ
đồng năm 1990.

Từ năm 1989 đến năm 1998, khi nước ta chuyển từ cơ chế quản lý tập trung
bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN,
xí nghiệp đã mạnh dạn triển khai nhiều biện pháp tích cực trong sản xuất và quản
lý. Để tăng tính cạnh tranh, xí nghiệp đã tập trung đầu tư chiều sâu trên cơ sở sắp
xếp tổ chức lại sản xuất, tận dụng và khai thác triệt để các thiết bị hiện có, từng
bước đầu tư những máy móc mới hiện đại. Giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn
1989 – 1998 đạt tốc độ tăng bình quân hàng năm trên 18%. Doanh thu từ 12,7 tỷ
đồng năm 1990 tăng lên 51 tỷ đồng năm 1998.
Nhưng từ năm 1998 đến năm 2000, tình hình sản xuất kinh doanh của xí
nghiệp đi xuống thậm chí thua lỗ bởi nhiều lý do khác nhau, song phải kể đến: quạt
điện Trung Quốc tràn vào Việt Nam với giá bán rất rẻ, trong khi đó xí nghiệp lại
chậm đổi mới, tìm hiểu thị trường chưa được quan tâm đúng mức. Nhưng bằng
quyết tâm vượt khó của lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên toàn xí nghiệp,
cùng sự chỉ đạo kịp thời của UBND thành phố Hà Nội, Sở công nghiệp cùn như cơ
quan ban ngành khác, cơn suy thoái đã được chặn đứng. Cũng trong giai đoạn này,
theo quyết định của UBND thành phố Hà Nội, tháng 10/2000 xí nghiệp đổi tên
thành công ty điện cơ Thống Nhất, thuộc Sở công nghiệp Hà Nội.
16
Thực hiện nghị quyết lần thứ III ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX về
tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà
nước, ngày 28 tháng 6 năm 2005, UBND thành phố đã có quyết định số
94/2005/QĐ-UB cho phép công ty điện cơ Thống Nhất chuyển đổi thành công ty
TNHH nhà nước một thành viên điện cơ Thống Nhất. Với tư cách pháp nhân mới
này, công ty sẽ trực thuộc UBND thành phố thay vì nằm dưới sự quản lý của Sở
công nghiệp Hà Nội trước kia.
Qua 44 năm xây dựng và phát triển, với sự cố gắng nỗ lực của tập thể cán bộ
công nhân viên qua nhiều thế hệ đã vượt qua những thăng trầm trong từng giai đoạn
lịch sử. Ban lãnh đạo công ty với tinh thần đoàn kết tập thể cao luôn tìm ra hướng đi
đúng đắn, tổ chức sắp xếp sản xuất phù hợp với từng giai đoạn của cơ chế kinh tế,
tăng cường quản lý kinh doanh: đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư máy móc

thiết bị và khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến đa dạng hóa và nâng cao chất
lượng sản phẩm, tăng cường đổi mới tư duy quản lý cho phù hợp với sự phát triển
và hội nhập kinh tế của đất nước trong nền kinh tế toàn cầu. Công ty được Đảng và
Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu, phần thưởng cao quý:
- Huân chương độc lập hạng ba năm 2004
- Huân chương lao động hạng nhất (1984, 1986, 1995)
- Huân chương lao động hạng nhì năm 1982
- Huân chương lao động hạng ba vào năm 1967, 1975, 1980, 1981.
- Đơn vị anh hùng lao động năm 1985.
Công ty liên tục đạt danh hiệu thi đua xuất sắc của toàn thánh phố. Nhiều
năm liền công ty là đơn vị lá cờ đầu của ngành công nghiệp Hà Nội.
Các sản phẩm của công ty luôn đạt huy chương vàng, bạc tại các hội chợ
quốc tế hàng công nghiệp Việt Nam, hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao.
Đây là những động lực làm nền tảng thúc đẩy sức cạnh tranh của công ty và
việc mở rộng thị trường. Hiện nay thương hiệu Vinawind đã được khẳng định và là
sự lựa chọn của người tiêu dùng trong nước và ngoài nước.
17
2.1.1.2 Cơ cấu bộ máy quản lý
Trong mỗi doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý hết sức quan trọng,
nó là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Bởi vì các quyết định quản lý có tác động trực tiếp đến mọi hoạt
động của quá trình sản xuất kinh doanh.
Trước tình hình và đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị mình, qua kinh
nghiệm thực tiễn, công ty điện cơ Thống Nhất đã tổ chức bộ máy quản lý theo mô
hình như sau:
Ghi chú: Mũi tên Chỉ đạo trực tiếp
Mũi tên Chỉ đạo gián tiếp
Bộ phận áp dụng hệ thống quản lý
Bộ phận không áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
Hình 2.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy tại công ty

18
TỔNG GIÁM ĐỐC
Phó TGĐ sản xuất
Phòng
kế
hoạch
vật tư
Phòng
tổ chức
hành
chính
Phòng
tiêu
thụ
TT
dịch vụ
khách
hàng
Phòng
tài vụ
PX
cơ khí
PX
cơ khí
PX
cơ khí
PX
cơ khí
Phòng
KCS

Phòng
kỹ
thuật
PX
cơ khí
Phó TGĐ kỹ thuật
Phòng
bảo vệ
Qua sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động hiện nay của công ty ta thầy cơ
cấu tổ chức quản lý của công ty được bố trí theo kiểu trực tuyến chức năng. Giám
đốc ra lệnh điều hành trực tiếp trong doanh nghiệp thống qua các phó giám đốc và
các trưởng phòng ban. Ngược lại, các phó giám đốc, các trưởng phòng ban có trách
nhiệm tham mưu cho giám đốc theo chức năng nhiệm vụ được giao. Cơ cấu tổ chức
bộ máy doanh nghiệp như vật là rất hợp lý trong tình hình sản xuất hiện nay của
công ty. Các phòng ban được bố trí tương đối gọn nhẹ, không chồng chéo và có
quan hệ mật thiết với nhau về mặt nghiệp vụ. Điều này giúp cho công ty có thể dễ
dàng kiểm tra việc thực hiện mệnh lệnh của giám đốc và giúp giám đốc có những
chỉ đạo nhanh chóng, kịp thời trong hoạt động của công ty.
Chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận :
Ban giám đốc : gồm giám đốc và 2 phó giám đốc :
Giám đốc : Chịu trách nhiệm chỉ đạo chung.Trực tiếp chỉ đạo và quản lý:
Phòng tổ chức- hành chính, bảo vệ, kế hoạch- vật tư, tiêu thụ sản phẩm,
tài vụ.
- Phó giám đốc kỹ thuật : Giúp việc cho giám đốc chỉ đạo về măt kỹ thuật
đồng thời trực tiếp chỉ đạo kiểm tra chất lượng sản phẩm. Chỉ đạo, theo dõi, điều
chỉnh và ban hành thực hiện các định mức lao động kỹ thuật
- Phó giám đốc sản xuất : Giúp việc cho giám đốc, trực tiếp điều hành, chỉ
đạo, xây dựng tiến độ sản xuất, giao kế hoạch sản xuất hàng tháng cho các phân
xưởng. Tổ chức kiểm kê hạch toán nội bộ, chỉ đạo các phòng chức năng về định
mức tiêu hao vật tư.

Chức năng các phòng ban nghiệp vụ :
- Phòng kế hoạch-vật tư : Tham mưu cho giám đốc trong công tác xây dựng
và chỉ đạo thực hiện kế hoạch sản xuất, cân đối vật tư, bán thành phẩm, hạch toán
vật tư bán thành phẩm với các phân xưởng sản xuất hàng tháng, quí, năm.
- Phòng tiêu thụ sản phẩm : Giúp giám đốc trong công tác tìm hiểu thị
trường, xây dựng và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, hoạch định chính sách
phân phối sản phẩm.
19
- Phòng tài vụ : Giúp giám đốc trong lĩnh vực hạch toán kế toán và sử dụng
vốn. Giám sát việc thực hiện các chính sách kinh tế, chế độ tài chính trong công ty,
hoạch định các chính sách về giá cả như : Xác định giá bán, giá gia công theo đơn
đặt hàng của khách hàng.
- Phòng tố chức hành chính : Giúp giám đốc trong việc sắp xếp chương
trình làm việc hàng ngày, tuần, tiếp khách, đối nội, đối ngoại. Tổ chức đội ngũ
thống kê phân xưởng để quản lý lao động, xác định kết quả lao động của toàn công
ty. Xây dựng định mức lao động, đơn giá tiền lương cho toàn bộ qui trình công
nghệ chế tạo sản phẩm tại công ty, hàng tháng xác định tiền lương, tiền thưởng cho
CBCNV toàn công ty.
- Phòng KCS : Giúp giám đốc theo dõi việc thực hiện hệ thống quản lý chất
lượng tại công ty, bố trí nhân viên tại các phân xưởng sản xuất để kiểm tra, đánh giá
chất lượng sản phẩm.
- Phòng kỹ thuật : Có nhiệm vụ quản lý, xây dựng, tạo mẫu sản phẩm theo
nhu cầu thị trường hoặc theo đơn đặt hàng, định mức nguyên vật liệu, xây dựng
định mức về thời gian công nghệ cho toàn bộ sản phẩm của công ty, chỉ đạo trực
tiếp các phân xưởng sản xuất về mặt kỹ thuật.
- Phòng bảo vệ : Giúp giám đốc trong việc bảo đảm an ninh trật tự trong
công ty, bảo vệ, quản lý tài sản và phòng chống cháy nổ, bão lụt thiên tai,hỏa hoạn.
2.1.2 Tình hình hoạt động sản xuất – kinh doanh của công ty
2.1.2.1 Chức năng, nhiệm vụ của công ty:
Chức năng nhiệm vụ của công ty được quy định rõ ngay từ khi mới thành

lập, đó là: chuyên sản xuất các loại quạt điện và động điện cơ phục vụ nhu cầu tiêu
dùng trong nước.
Qua quá trình phát triển, cùng với sự đổi mới cơ cấu kinh tế, để phù hợp với xu
hướng phát triển chung, chức năng nhiệm vụ của công ty được xác định lại như sau:
- Sản xuất và kinh doanh các sản phẩm: quạt điện và các loại đồ điện
gia dụng.
20
- Xuất khẩu các sản phẩm của công ty và sản phẩm liên doanh, hợp tác,
nhập khẩu thiết bị, vật tư, nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng của ngành
điện và điện tử gia dụng phục vụ cho nhu cầu sản xuất của công ty và
thị trường.
- Liên doanh hợp tác với các đơn vị kinh tế trong nước và nước ngoài,
làm đại lý, đại diện mở cửa hàng giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm của
công ty và sản phẩm liên doanh.
Ngoài nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, là một doanh nghiệp nhà nước, công ty
điện cơ Thống Nhất còn có nhiệm vụ rất quan trọng là phải bảo toàn và phát triển
vốn do nhà nước cấp và thực hiện đầy đủ chính sách về kinh tế và pháp luật mà nhà
nước đã quy định nhằm không ngừng xây dựng và phát triển.
2.1.2.2 Đặc điểm hoạt động sản xuất – kinh doanh của công ty
Công ty điện cơ Thống Nhất hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực quạt điện. Sản
phẩm chính của công ty là các loại quạt điện gồm: quạt bàn, quạt đứng từ 225mm
đến 400mm, quạt trần, quạt treo tường, quạt thông gió Ngoài ra còn có các loại
động điện cơ, máy bơm nước và các sản phẩm phụ khác.
Để sản xuất ra các sản phẩm này, công ty sử dụng đa dạng các loại nguyên
vật liệu đầu vào, trong đó mỗi loại nguyên vật liệu lại có quy cách khác nhau.
Nguyên vật liệu chính gồm có: thép, nhựa, kim loại màu (đồng, nhôm, chì, thiếc ).
Vật liệu phụ: ống sứ, mika, bakelit, sơn và hóa chất, inox Ngoài ra còn có các phụ
tùng thay thế, các vật liệu đặc chủng Mặt khác, để có những chi tiết phù hợp với
sản phẩm, công ty phải đặt hàng các đơn vị khác gia công chế biến trước rồi mua lại
và đưa vào chế tạo sản phẩm.

Do hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất nên tài sản cố định chủ yếu
của công ty điện cơ Thống Nhất là các máy móc, thiêt bị phục vụ cho chế tạo quạt
điện như máy đúc, máy phay, máy hàn, máy dập, máy cắt tôn Bên cạnh đó, tài sản
cố định của công ty còn có nhà xưởng, kho chứa, xe chở hàng, các thiết bị quản
lý nhằm phụ vụ cho công tác dự trữ, bảo quản và vận chuyển hàng tồn kho.
21
Lĩnh vực hoạt động chủ yếu của công ty là sản xuất quạt điện. Sản phẩm này
có tính thời vụ cao nên tiêu thụ mạnh vào mùa nóng. Vì vậy trong những tháng mùa
hè, kế hoạch sản xuất được bám sát, công nhân sản xuất phải làm thêm giờ, điều độ
sản lượng sản xuất, sản lượng nhập kho hàng ngày và hàng tháng song song với
mức độ tiêu thụ từng chủng loại sản phẩm, bổ sung thêm số lượng lao động hợp
đồng ngắn hạn vào các khâu trọng yếu nhằm đảm bảo khả năng tăng nhanh về sản
lượng, kịp thời đáp ứng nhu cầu tăng đột biến của thị trường. Các mùa khác, công
ty vẫn bán được sản phẩm nhưng với số lượng ít, chủ yếu là bán cho các đại lý mua
để dự trữ. Vào giai đoạn này, công ty chỉ sản xuất vừa phải, tập trung sản xuất các
chi tiết bán thành phẩm và hoàn thiện các sản phẩm dở dang. Song vào thời điểm
nào cũng có thể bắt gặp không khí lao động khẩn trương, hăng say của tập thể cán
bộ công nhân viên công ty.
Đã có mặt trên thị trường được 44 năm, các sản phẩm quạt điện mang nhãn
hiệu VINAWIND luôn có được uy tín cao về chất lượng cũng như mẫu mã, đặc biệt
trên thị trường miền bắc và bắc trung bộ. Tuy nhiên, sản phẩm của công ty còn chưa
thâm nhập sâu vào miền trung, miền nam và nước ngoài. Bởi vậy đây cùng là
những thị trường mục tiêu của công ty trong thời gian tới.
Hiện nay, thị trường quạt điện Việt Nam rất phong phú và đa dạng với sự
xuất hiện của nhiều nhãn hiệu mới trong nước đặc biệt là các sản phẩm ngoại nhập
từ Trung Quốc, Đài Loan Điều đó khiến tính cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Bởi
vậy công ty luôn tìm cách tiết kiệm chi phí, sử dụng hiệu quả năng lực hiện có, hạ
giá thành, nghiên cứu cải tiến sản phẩm, làm tốt công tác phát triển thị trường để
tạo thế mạnh cho mình.
2.1.2.3 Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty

Quạt điện là sản phẩm có cấu tạo tương đối phức tạp, đòi hỏi độ chính xác về
mặt kỹ thuật, đẹp về mỹ thuật và kiểu dáng, bao gồm hai phần chính:
- Phần cơ gồm roto, stato, nắp trước, nắp sau và cánh quạt Các bộ phận
này phải trải qua công đoạn: đột, dập, đúc, tiện, bào, phay, khoan
22

×