Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

hoàn thiện hoạt động thanh tra do kho bạc nhà nước tỉnh nghệ an thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.86 KB, 82 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Là một hoạt động quan trọng được xác lập ngay từ ngày đầu thành lập
KBNN Tỉnh Nghệ An, hoạt động thanh tra hiện nay đã không ngừng được củng cố
về tổ chức hoạt động thanh tra; chất lượng cán bộ thanh tra; quy trình thanh tra
không ngừng được đổi mới và dần được hoàn thiện. Kết quả thanh tra đã phản ánh,
đánh giá tương đối đầy đủ tình hình triển khai hoạt động nghiệp vụ tại KBNN cấp
dưới đồng thời qua thanh tra, đã uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời các tồn tại, sai sót
trong hoạt động nghiệp vụ của các Kho bạc Nhà nước cấp dưới; cảnh báo được
những rủi ro có thể xảy ra. Vì vậy, hoạt động thanh tra thực sự đã khẳng định được
vai trò và vị trí của mình trong sự phát triển đi lên và ngày càng vững mạnh của
KBNN Nghệ An, là công cụ đắc lực, là bộ phận tham mưu không thể thiếu của
Lãnh đạo trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động KBNN Nghệ An.
Tuy nhiên, trong những năm vừa qua hoạt động thanh tra KBNN vẫn còn
một số tồn tại, hạn chế nhất định như kết quả thanh tra chưa phản ánh, đánh giá đầy
đủ tình hình triển khai hoạt động nghiệp vụ tại KBNN cấp dưới; trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, ý thức trách nhiệm chưa cao;
kinh nghiệm tích luỹ kiến thức còn nhiều hạn chế, chưa chịu khó nghiên cứu để
nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, chưa bao quát hết công việc được giao, nhiều cán
bộ tự thỏa mãn với bản thân; khung pháp lý cho hoạt động thanh tra kho bạc còn
thiếu; quy trình thanh tra chưa được hoàn thiện
Là một cán bộ làm công tác thanh tra tại KBNN Nghệ An, Tôi đã chọn đề tài
nghiên cứu: “Hoàn thiện hoạt động thanh tra do Kho bạc Nhà nước tỉnh Nghệ
An thực hiện” với mong muốn đưa ra những giải pháp có tính khoa học và thực
tiễn nhằm góp phần vào sự hoàn thiện hoạt động thanh tra.
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài:
Qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, hệ thống KBNN đã đạt được nhiều
kết quả, đóng góp tích cực, có hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng, đổi mới đất nước
thông qua việc tập trung kịp thời, đầy đủ nguồn thu cho NSNN, đáp ứng kịp thời
nhu cầu chi của Chính phủ, huy động một lượng vốn lớn cho ngân sách và cho đầu


tư phát triển kinh tế - xã hội; KBNN đã cung cấp thông tin kịp thời, chính xác tình
hình thu, chi ngân sách phục vụ sự chỉ đạo điều hành của các cơ quan trung ương và
chính quyền địa phương, góp phần đắc lực vào việc nâng cao chất lượng quản lý và
điều hành tài chính, quỹ NSNN.
Là một hoạt động quan trọng được xác lập ngay từ ngày đầu thành lập ngành
Kho bạc Nhà nước tỉnh Nghệ An, hoạt động thanh tra hiện nay đã không ngừng
được củng cố về chất lượng cán bộ thanh tra; quy trình thanh tra không ngừng được
đổi mới, và dần được hoàn thiện. Kết quả thanh tra đã phản ánh, đánh giá tình hình
triển khai hoạt động nghiệp vụ tại Kho bạc Nhà nước cấp dưới, uốn nắn, chấn chỉnh
kịp thời các tồn tại, sai sót trong hoạt động nghiệp vụ của các Kho bạc Nhà nước
cấp dưới; cảnh báo được những rủi ro có thể xảy ra. Vì vậy, hoạt động thanh tra
thực sự đã khẳng định được vai trò và vị trí của mình trong sự phát triển đi lên và
ngày càng vững mạnh của KBNN Nghệ An, là công cụ đắc lực, là bộ phận tham
mưu không thể thiếu của Lãnh đạo trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt
động KBNN.
1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Tác giả Nguyễn Hữu Sơn – KBNN Quảng Nam với công trình nghiên cứu
“Nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, kiểm tra tại KBNN cơ sở” được đăng
trên Số báo 110, tháng 8 năm 2011, Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia: công trình
nghiên cứu này đã đánh giá được vai trò của công tác thanh tra đối với công tác chỉ
đạo điều hành của lãnh đạo; đồng thời nêu một số những tồn tài, khiếm khuyết và
2
một số nội dung cơ bản để nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, kiểm tra tại
KBNN cơ sở tuy nhiên công trình nghiên cứu này nghiêm cứu chưa thật sâu; chưa
đánh giá được đầy đủ các tồn tại của hoạt động thanh tra KBNN.
Tác giả Nguyễn Tuấn Dũng-Học viện Tài chính với công trình nghiên cứu
“Đổi mới hoạt động thanh tra, kiểm tra Kho bạc Nhà nước đến năm 2020”: công
trình nghiên cứu này đã chỉ ra được một số tồn tại, hạn chế của hoạt động thanh tra
do Kho bạc Nhà nước Trung ương thực hiện đồng thời kiến nghị một số giải pháp
để hoàn thiện hoạt động thanh tra tuy nhiên công trình nghiên cứu này nghiêm cứu

chưa thật sâu; chưa đánh giá được đầy đủ các tồn tại của hoạt động thanh tra
KBNN; chưa tổng kết được nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan của
các tồn tại hạn chế đó; công trình này cũng chưa đề ra được các giải pháp phù hợp.
Ttác giả Lê Văn Hoàn – KBNN Bà Rìa Vũng Tàu với công trình nghiên cứu
“Những thuận lợi, khó khăn và phương pháp nâng cao chất lượng kiểm tra, kiểm
soát của KBNN tỉnh; thành phố” được đăng trên Số báo 53, tháng 11 năm 2006,
Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia: công trình nghiên cứu này đã đánh giá được
những thuận lợi; khó khăn của công tác kiểm tra, kiểm soát đồng thời đề ra một số
kiến nghị để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của công tác kiểm tra tại KBNN cơ sở
tuy nhiên công trình nghiên cứu này nghiên cứu chưa thật sâu; chưa đánh giá được
các tồn tại; nguyên nhân các tồn tại hạn chế của hoạt động thanh tra KBNN.
1.3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Hệ thống những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh tra do KBNN thực
hiện.
Đánh giá thực trạng hoạt động thanh tra do KBNN Tỉnh Nghệ An thực hiện
trong những năm vừa qua
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động thanh tra do KBNN Tỉnh
Nghệ An.
3
1.4. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu là: Phải có phướng hướng, giải pháp gì để hoàn thiện;
nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra do KBNN Tỉnh Nghệ An thực hiện.
1.5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu hoạt động thanh tra do thanh tra
KBNN thực hiện.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu hoạt động do KBNN Tỉnh Nghệ
An thực hiện.
1.6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nguồn dữ liệu thu thập được từ thông tin nội bộ: Tạp chí
Quản lý ngân quỹ quốc gia; KBNN Nghệ An các nguồn dữ liệu này được trích dẫn

trực tiếp trong luận văn và được ghi chú trong phần tài liệu tham khảo
1.7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Đề tài
Đề tài đã khái quát những lý luận chung về hoạt động thanh tra và nêu bật
vai trò của hoạt động thanh tra do KBNN thực hiện đối với quá trình hoạt động của
KBNN.
Bằng lý luận và thực tiễn đã làm rõ vai trò của hoạt động thanh tra KBNN,
phân tích thực trạng của thanh tra KBNN Tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay,
những tồn tại trong hoạt động thanh tra KBNN Tỉnh Nghệ An và những nguyên
nhân dẫn đến những tồn tại, vướng mắc đó.
Trên cơ sở những tồn tại, vướng mắc của hoạt động thanh tra KBNN Tỉnh
Nghệ An, đề tài đã đề xuất những giải pháp cơ bản để hoàn thiện hoạt động của
Thanh tra KBNN Tỉnh Nghệ An và những kiến nghị để hoạt động Thanh tra có hiệu
quả hơn.
1.8. Kết cấu của đề tài
4
Tên đề tài: “Hoàn thiện hoạt động thanh tra do Kho bạc Nhà nước Tỉnh
Nghệ An thực hiện”
Nội dung của đề tài gồm 4 chương:
Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Lý luận chung về hoạt động Thanh tra do Kho bạc Nhà nước thực hiện
Chương 3: Thực trạng hoạt động thanh tra do Kho bạc Nhà nước Nghệ An thực
hiện
Chương 4: Những giải pháp để hoàn thiện hoạt động thanh tra do Kho bạc Nhà
nước Nghệ An thực hiện
5
CHƯƠNG 2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA DO
KHO BẠC NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN
2.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TRA
2.1.1. Khái niệm thanh tra

Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, Nhà nước đã xuất hiện với tư
cách là cơ quan có quyền lực công cộng với sứ mạng lịch sử là duy trì trật tự xã hội.
Để thực hiện được sứ mạng lịch sử đó, Nhà nước thể hiện sự quản lý của Nhà nước
đối với các hoạt động của xã hội. Nhiệm vụ cơ bản trong quản lý kinh tế - xã hội
của Nhà nước là dự đoán, lập kế hoạch, tổ chức, động viên, điều hành, thanh tra,
kiểm tra. Như vậy, thanh tra, kiểm tra luôn gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước.
Hiện nay có một số quan niệm về thanh tra:
Theo Giáo trình Thanh tra tài chính – Học viện tài chính: “Thanh tra là hoạt
động kiểm tra của tổ chức thanh tra nhà nước đối với đối tượng thanh tra nhằm
phát hiện, chấn chỉnh những sai lầm, xử lý những vi phạm trong các hoạt động kinh
tế - xã hội giúp cho bộ máy quản lý vận hành tốt” (9,tr.5)
Theo Luật Thanh tra năm 2010: “Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét,
đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan, tổ chức, cá nhân” (Điều 3 Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 ngày
15/10/2010).
Từ những khái niệm trên có thể hiểu, thanh tra là hoạt động kiểm tra, xem
xét, đánh giá, xử lý của chủ thể quản lý với đối tượng quản lý nhằm phòng ngừa,
phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, chính sách chế độ của Nhà nước
và các quy định của cơ quan, tổ chức.
6
Thanh tra là hoạt động kiểm tra cho nên giữa thanh tra và kiểm tra có
những điểm giống nhau:
Thanh tra và kiểm tra đều có cùng mục đích là phát hiện, ngăn ngừa, xử lý những
vi phạm pháp luật, quy chế, chế độ quản lý góp phần thúc đẩy các tổ chức, cá nhân
hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thành cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thanh tra và kiểm tra đều phải xem xét hoạt động thực tế của đối tượng để
phát hiện, phân tích, đánh giá thực trạng tình hình một cách chính xác, khách quan,
trung thực, xử lý sai phạm. Do đó, giữa thanh tra và kiểm tra có thể có cùng nội

dung hoặc phương pháp tiến hành trong những phạm vi công việc nhất định.
Tuy nhiên, giữa thanh tra và kiểm tra có sự khác nhau:
Về chủ thể: Chủ thể của hoạt động thanh tra và kiểm tra là không giống
nhau. Chủ thể của thanh tra là các tổ chức thanh tra chuyên trách về kiểm tra của
Nhà nước. Đó là thanh tra nhà nước gồm các cơ quan thanh tra hành chính và thanh
tra chuyên ngành (thanh tra Ngân hàng, thanh tra Tài chính, Thanh tra Thuế, ).
Trong hoạt động thanh tra, các cơ quan thanh tra có thể sự dụng các cán bộ ngoài
ngành thanh tra tham gia nhưng điều quan trọng là những người tiến hành công tác
thanh tra phải có tư cách pháp lý do cơ quan có thẩm quyền quyết định để khi cần
thiết họ có thể sử dụng tối đa các quyền của mình đối với các đối tượng thanh tra.
Chủ thể kiểm tra rộng hơn: bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ
quan thanh tra, Thủ trưởng các đơn vị, các tổ chức quần chúng và người lao động
cũng có thể thanh tra trực tiếp kiểm tra.
Cơ quan thanh tra nhà nước thực hiện việc kiểm tra đối với doanh nghiệp, cơ
quan. Cơ quan thanh tra nhà nước không kiểm tra thường xuyên, mà kiểm tra theo
vụ việc được phát hiện. Cơ quan này vừa kiểm tra, vừa có quyền xử lý kết quả kiểm
tra đó. Như vậy có thể nói thanh tra là kiểm tra từ bên ngoài vào đối tượng; còn
kiểm tra có khi do bản thân đối tượng đó thực hiện (tự kiểm tra), không nhất thiết
do bên ngoài kiểm tra.
7
Về nội dung: Nội dung thanh tra thường là những vấn đề phức tạp, bao gồm
những hành vi thuộc về quá khứ. Hoạt động thanh tra là kiểm tra ở giai đoạn sau khi
các hoạt động giải quyết các “tồn đọng” trong quản lý; giải quyết các KNTC đối với
các đối tượng kiểm tra vi phạm pháp luật. Có thể khẳng định, nội dung thanh tra
thường là phức tạp, có những vấn đề bộc lộ ra bề nổi, song rất nhiều vấn đề bị che
đậy bởi những vẻ bề ngoài khác nhau và khó nhận biết được bản chất của sự việc.
Để có kết luận chính xác, những đánh giá đúng đắn về các vụ việc, đòi hỏi phải có
thời gian, có nghiệp vụ thanh tra để kiểm tra, thu thập các tài liệu chứng cứ cần
thiết.
Nội dung hoạt động kiểm tra thường là những vấn đề trong hiện tại, dễ nhận

biết thực chất của chúng hơn. Tất nhiên, nội dung kiểm tra bao gồm những nội dung
cụ thể của kiểm tra trước, kiểm tra trong và kiểm tra sau khi các hoạt động kinh tế -
xã hội phát sinh, cũng như việc kiểm tra thực hiện các chính sách, pháp luật, chế độ,
thể lệ quản lý của Nhà nước, nhưng chủ yếu là kiểm tra thường xuyên trong quá
trình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội. Vì vậy, khi tiến hành kiểm tra cũng dễ
nhận biết thực chất của vấn đề, không đòi hỏi phải có những biện pháp nghiệp vụ
phức tạp để xác minh tài liệu, chứng cứ mà vẫn có thể đánh giá đúng đắn và có kết
luận chính xác.
Về phạm vi: hoạt động kiểm tra diễn ra ở tất cả các hoạt động kinh tế - xã
hội, nó được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, ở mọi nơi với nhiều hình
thức và phương pháp kiểm tra thích hợp với các yêu cầu, đặc điểm, nội dung hoạt
động của những đối tượng kiểm tra.
Phạm vi của hoạt động thanh tra hẹp hơn. Hoạt động thanh tra là kiểm tra ở
giai đoạn sau khi các hoạt động kinh tế - xã hội đã phát sinh. Muốn xác minh hồ sơ,
tài liệu, thu thập chứng cứ đầy đủ để đánh giá đúng, kết luận chính xác, khách quan
những nội dung cần thanh tra cũng cần phải kiểm tra các giai đoạn trước và trong
khi thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội với các chính sách, pháp luật, chế độ
liên quan.
8
Kiểm tra của hoạt động thanh tra dựa vào các số liệu, sổ sách thống kê, kế
toán, các báo cáo quyết toán đã ghi chép, tính toán, phản ánh cả quá trình phát sinh
các nghiệp vụ kinh tế - tài chính theo thời gian và không gian của chúng. Nói khác
đi, tài liệu, số liệu thanh tra tác động tới là những tài liệu, số liệu của quá khứ, khi
các hoạt động kinh tế - xã hội đã kết thúc.
Về thời gian: Hoạt động thanh tra thời gian thường dài hơn.
Về hình thức tổ chức: Để tiến hành hoạt động thanh tra phải thành lập
Đoàn và Đoàn thanh tra thực hiện trình tự thanh tra theo quy định của pháp
luật.
Đối với kiểm tra có thể thành lập Đoàn hoặc không cần thành lập Đoàn, có
khi chỉ cần cấp dưới tự kiểm tra một hoặc một số nội dung và báo cáo kết quả bằng

văn bản cho cấp trên.
Công tác thanh tra và kiểm tra tuy có sự khác nhau, song đều là những hoạt
động không thể thiếu được trong công tác quản lý của Nhà nước. Việc phân định
giữa thanh tra và kiểm tra không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận, mà còn có ý nghĩa
về mặt thực tiễn trong việc tổ chức, chỉ đạo, để tránh tình trạng chồng chéo giữa
công tác thanh tra và kiểm tra, giảm bớt phiền hà cho các tổ chức và cá nhân là đối
tượng thanh tra, kiểm tra
2.1.2. Sự cần thiết của hoạt động thanh tra
Thanh tra luôn gắn với Nhà nước, là một hoạt động không thể tách rời của cơ
quan nhà nước, sự cần thiết khách quan của hoạt động thanh tra được bắt nguồn từ
các lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, Thanh tra là chức năng chủ yếu của quản lý nhà nước. Thanh tra,
kiểm tra là một khâu của quá trình quản lý, có vai trò quan trọng trong việc kiểm
định và đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, đề xuất biện pháp hoàn thiện
cơ chế chính sách.
9
Thứ hai, Thanh tra là phương thức đảm bảo trật tự kỷ cương trong quản lý,
góp phần tăng cường pháp chế XHCN. Hoạt động của thanh tra là phát hiện, phòng
ngừa và xử lý vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước, vi phạm các quy tắc,
quy trình của các cơ quan tổ chức; giải quyết khiếu nại tố cáo đảm bảo cho pháp
luật được thực thi đúng đắn.
Thứ ba, Thanh tra là một phương thức góp phần bảo đảm quyền dân chủ của
nhân dân. Ở nước ta quyền lực thuộc về nhân dân, Nhà nước có nghĩa vụ chăm lo
quyền và lợi ích hợp pháp cho nhân dân, nhân dân thực hiện quyền kiểm tra giám
sát thông qua nhiều con đường, trong đó có hoạt động các cơ quan nhà nước do
mình bầu ra, và thông qua quyền trực tiếp khiếu nại tố cáo, hoạt động của các cơ
quan thanh tra là một phương thức đảm bảo các quyền dân chủ này.
Vai trò của hoạt động thanh tra do KBNN thực hiện:
Một là, Bảo đảm an toàn hệ thống KBNN
Trong hệ thống tài chính quốc gia, KBNN giữ vai trò quan trọng và đảm

nhiệm chức năng quản lý các quỹ tài chính nhà nước, trong đó có quỹ NSNN, huy
động và tập trung nguồn ngân quỹ cho nhà nước và đầu tư phát triển.
Trong quá trình hình thành và phát triển hệ thống KBNN ở nước ta, phát
triển KBNN ổn định, an toàn và hiện đại đạt mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý
NSNN, đảm bảo tính công khai, minh bạch và khả năng kiểm tra, giám sát ngân
sách và các hoạt động khác của KBNN, đã đặt ra yêu cầu tăng cường tổ chức và
hoạt động thanh tra KBNN để giữ an toàn hệ thống. Trong những năm qua, một
trong những mục đích đầu tiên của hoạt động thanh tra KBNN là đảm bảo tính an
toàn hệ thống để các KBNN hoạt động đúng quy định của Ngành, của Bộ Tài chính
và đúng Luật.
Hai là, tăng cường kỷ cương pháp luật trong quản lý quỹ NSNN và hoạt
động KBNN.
10
Thanh tra luôn gắn với nhà nước, lịch sử đã chứng minh, có nhà nước là có
thanh tra, công cụ kiểm tra giám sát phục vụ yêu cầu quản lý của nhà nước, giúp
nhà nước quản lý kinh tế xã hội. Hoạt động thanh tra KBNN gắn bó hữu cơ với
thẩm quyền quản lý Nhà nước của KBNN, đây là vấn đề quan trọng có quan hệ đến
hiệu quả và hiệu lực thanh tra KBNN, do vậy phải phát huy hết vai trò của KBNN
các cấp trong hoạt động Thanh tra KB, thông qua hoạt động Thanh tra KBNN có
tác dụng giúp KBNN các cấp kiểm tra tính đúng đắn của các quyết định quản lý góp
phần hoàn thiện cơ chế, chính sách khắc phục sơ hở thiếu sót trong quản lý, giữ
vững kỷ cương pháp luật bảo vệ lợi ích của nhà nước và quyền lợi hợp pháp của các
tổ chức, cá nhân.
Bên cạnh đó, hoạt động Thanh tra KBNN còn phát hiện, ngăn ngừa và chấn
chỉnh, xử lý theo thẩm quyền, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm
pháp luật về quản lý quỹ NSNN và các hoạt động KB khác.
Kiến nghị các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về quản lý quỹ NSNN
và các hoạt động KBNN khác.
Xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định
của Luật KNTC các vụ việc thuộc thẩm quyền của KBNN có liên quan đến tổ chức

và hoạt động KBNN, tham mưu giúp Giám đốc KBNN chỉ đạo công tác phòng
ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong ngành Kho bạc.
Tiến hành các cuộc Thanh tra thường xuyên, đột xuất về chấp hành các quy
định của pháp luật, chế độ, chính sách của Bộ Tài chính và quy trình nghiệp vụ
KBNN về lĩnh vực quản lý quỹ NSNN và các hoạt động KBNN khác.
Ba là, góp phần ổn định và phát triển hệ thống KBNN
Thanh tra KBNN là một bộ phận quan trọng góp phần không nhỏ giữ vững
sự ổn định của hệ thống KBNN, vì vậy hoạt động của hệ thống KBNN không thể
tách rời hoạt động thanh tra KBNN.
11
Thanh tra KBNN hàng năm đã tiến hành các cuộc Thanh tra định kỳ hoặc
đột xuất… để kiểm tra tình hình hoạt động của các Phòng chuyên môn nghiệp vụ tại
KBNN Nghệ An; KBNN cơ sở, khi phát hiện sai phạm sẽ tiến hành chấn chỉnh, xử
lý theo quy định hiện hành.
Thẩm tra, xác minh, kết luận kiến nghị việc giải quyết KNTC theo quy định
của Luật KNTC liên quan đến tổ chức và hoạt động Kho bạc, tham mưu giúp Giám
đốc KBNN chỉ đạo công tác phong ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong
ngành Kho bạc.
Thanh tra KBNN thường xuyên tiếp nhận đơn thư KNTC và xác minh tính
chính xác và trung thực của thông tin từ đó có những biện pháp cụ thể xử lý những
sai phạm diễn ra trong hoạt động của các KBNN, quy trách nhiệm của những cá
nhân liên quan đến sai phạm đó.
Phát hiện ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền cho
phép, từ đó kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực quản lý quỹ NSNN và các hoạt động KBNN.
Kiến nghị Giám đốc KBNN và cơ quan có thẩm quyền thực hiện các biện
pháp chấn chỉnh, xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý quỹ NSNN và các hoạt động
KBNN. Yêu cầu các đơn vị chấp hành nghiêm các quy định về quản lý quỹ NSNN
và các hoạt động KBNN, từ đó, góp phần ổn định và phát triển hệ thống KBNN.
2.1.3. Mục đích và nguyên tắc hoạt động thanh tra

Hoạt động thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật, trong đó phòng ngừa là mục đích chủ yếu, trực tiếp của hoạt động
thanh tra.
Phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến
nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục là mục đích
quan trọng của hoạt động thanh tra.
12
Phát hiện nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt
động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đây là mục đích gián tiếp nhưng có tác động quan trọng
tới hiệu quả quản lý.
Để đạt được mục đích đề ra, trong hoạt động thanh tra cần quán triệt các
nguyên tắc cơ bản sau:
Hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật: Nhà nước Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền XHCN, pháp luật vừa là chuẩn mực trong hoạt động quản lý kinh
tế - xã hội, vừa tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động này. Nguyên tắc
này đòi hỏi mọi khâu của hoạt động thanh tra phải được thực hiện đúng theo thẩm
quyền, trình tự do pháp luật quy định, mọi đánh giá nhận xét đều phải dựa trên quy
định của pháp luật làm chuẩn mực và hệ thống pháp luật cũng cần phải được liên
tục hoàn thiện để phù hợp với thực tế khách quan.
Hoạt động thanh tra phải bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực:
Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động thanh tra phải tôn trọng sự thật, đánh giá đúng
như nó vốn có, không được áp đặt, suy diễn chủ quan, tùy tiện. Để thực hiện
được nguyên tắc này, cán bộ thanh tra cần có kiến thức vững vàng và đạo đức
trong sáng, phải quán triệt nhìn nhận đánh giá sự vật, hiện tượng theo quan điểm
duy vật biện chứng: toàn diện, lịch sử cụ thể, thực tiễn và phát triển.
Hoạt động thanh tra phải bảo đảm dân chủ, công khai và kịp thời: nguyên tắc
này đòi hỏi hoạt động thanh tra phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lắng nghe tôn
trọng ý kiến quần chúng nhân dân, không được cửa quyền hách dịch coi thường
hoặc ức hiếp quần chúng nhân dân; hoạt động thanh tra phải tuân theo quy trình rõ

ràng và minh bạch, có cơ chế giám sát việc thực hiện hoạt động thanh tra. Hoạt
động thanh tra cần tuân theo thời hạn nhất định và tiến hành đúng lúc. Công khai
dân chủ là một giải pháp phòng chống tham nhũng trong hoạt động thanh tra.
Hoạt động thanh tra không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan,
tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra: hoạt động thanh tra là một loại hoạt động
13
của bộ máy công quyền, vừa quản lý xã hội nhưng cũng phải phục vụ xã hội. Do
vậy nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động thanh tra cần có sự phối kết hợp tốt với đối
tượng thanh tra để tổ chức hoạt động thanh tra một cách phù hợp với điều kiện thực
tế, thời gian và hoàn cảnh của đơn vị, không làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất
kinh doanh hay tổ chức điều hành vốn có của cơ quan đơn vị được thanh tra.
2.2. THANH TRA KBNN
2.2.1. Đặc điểm hoạt động thanh tra KBNN
Thanh tra KBNN là hoạt động Thanh tra do KBNN cấp trên (KBNN Trung
Ương; KBNN các tỉnh) thực hiện đối với KBNN cấp dưới nhằm đánh giá tình hình
triển khai các hoạt động nghiệp vụ tại các KBNN cấp dưới, kịp thời phát hiện các
tồn tại; sai sót trong các hoạt động nghiệp vụ từ đó có các biện pháp uốn nắn; chấn
chỉnh; xử lý kịp thời.
Thanh tra KBNN có các đặc điểm sau:
Một là, hoạt động thanh tra KBNN là loại hoạt động tổng hợp và đa dạng
Hoạt động KBNN có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đơn vị và
công dân có quan hệ với NSNN, tài chính, tài sản của Nhà nước. Chính vì vậy hoạt
động thanh tra, kiểm tra KBNN có đặc điểm là loại hình hoạt động tổng hợp và đa
dạng.
Tính tổng hợp của thanh tra KBNN biểu hiện ở sự việc hay nội dung thanh
tra có liên quan đến nhiều lĩnh vực, mỗi lĩnh vực lại tổng hợp nhiều vấn đề có ảnh
hưởng lẫn nhau. Kết quả của thanh tra KBNN là những báo cáo, kết luận, giải quyết
xử lý không chỉ có giá trị đối với đơn vị được thanh tra mà còn có tác dụng chung
trong hệ thống quản lý tài chính, ngân sách nhà nước.
Tính đa dạng của thanh tra KBNN biểu hiện ở sự việc thanh tra, đối tượng

thanh tra, loại hình thanh tra, phương pháp thanh tra là khác nhau, như: thanh tra
công tác quản lý an toàn kho quỹ; thanh tra công tác kiểm soát chi NSNN; kiểm
soát thanh toán vốn đầu tư XDCB; vốn chương trình mục tiêu; thanh tra công tác
14
phát hành, thanh toán trái phiếu, tín phiếu, chi trả công trái; thanh tra công tác quản
lý tài chính nội bộ…
Quản lý NSNN và hoạt động KBNN là một hoạt động tổng hợp và đa dạng,
mỗi quyết định liên quan đến lĩnh vực quản lý NSNN và hoạt động KBNN là sản
phẩm của sự vận dụng tổng hợp các kiến thức kinh tế, xã hội và mục tiêu của các
quyết định quản lý không chỉ hướng tới và được do bằng giá trị cụ thể mà là hiệu
quả kinh tế, xã hội. Thanh tra là một hoạt động tổng hợp, đa dạng là vì thế.
Hai là, Thanh tra KBNN là hoạt động thường phải đấu tranh với những sai
trái, tiêu cực, vi phạm trong việc chấp hành các quyết định quản lý, chấp hành pháp
luật, chính sách, chế độ tài chính, ngân sách của các cơ quan, đơn vị và công dân
cũng như của chính cơ quan KBNN và công chức trong ngành kho bạc.
Thanh tra KBNN có đặc trưng là xem xét tại chỗ, chấn chỉnh, kiến nghị hoặc
làm rõ đúng sai đối với vụ việc và con người có quan hệ đến vi phạm quản lý tài
chính, ngân sách của Nhà nước. Kết quả tác động của thanh tra KBNN đối với đối
tượng thanh tra không phải là sự phản ánh đơn thuần mà là sự khẳng định việc làm
đúng hay sai, ảnh hưởng đến thực hiện quyết định quản lý tài chính, ngân sách. Vì
thế, hoạt động thanh tra KBNN trong hoàn cảnh nào, điều kiện nào, nội dung sự
việc ra sao, bao giờ cũng là sự đấu tranh của hai mặt đối lập đúng, sai, tích cực, tiêu
cực trong hoạt động quản lý kinh tế, tài chính, NSNN để tìm ra nguyên nhân, đề
xuất kiến nghị, biện pháp khắc phục, đấu tranh phòng ngừa, xử lý vi phạm, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Ba là, tổ chức, cá nhân được thanh tra KBNN vừa là đối tượng thanh tra vừa
là chủ thể quản lý
Khác với hệ thồng thanh tra khác, thanh tra KBNN thực chất là hoạt động
thanh tra nội bộ, thanh tra KBNN là một chức năng thiết yếu của KBNN và phạm vị
quản lý của KBNN mở rộng đến đâu thì phạm vi thanh tra KBNN cũng được mở

rộng đến đó. Tổ chức và cá nhân được thanh tra KBNN hiện nay chỉ là thanh là
15
KBNN các cấp, cá nhân thuộc hệ thống KBNN, họ có quyền hạn và trách nhiệm
nhất định trước pháp luật, họ vừa là đối tượng thanh tra, vừa là chủ thể quản lý.
Đối tượng thanh tra là KBNN các cấp, cá nhân được thanh tra có trách nhiệm
thực hiện các yêu cầu của đoàn Thanh tra KBNN, có trách nhiệm pháp lý đối với
những tài liệu, số liệu cung cấp theo yêu cầu của đoàn Thanh tra KBNN.
Chủ thể quản lý: họ có trách nhiệm về hoạt động của mình. Họ có quyền biết
mục tiêu, nội dung, kế hoạch thanh tra KBNN, được tham gia thảo luận những
nhận xét, kết luận cũng như những giải pháp xử lý của đoàn Thanh tra; được
quyền giải trình những điểm chưa nhất trí, đồng thời có trách nhiệm tổ chức
thực hiện những kết luận, kiến nghị, giải quyết xử lý đối với những sai phạm.
Xem xét các đặc điểm của hoạt động thanh tra KB cho thấy, mỗi sự việc, nội
dung thanh tra KB có liên quan đến nhiều yếu tố nên khi tiến hành Thanh tra phải
nghiên cứu, phân tích toàn diện, tìm ra những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự
việc, nội dung Thanh tra và trên cơ sở đó rút ra những kết luận có giá trị đích thực
không chỉ với đối tượng Thanh tra mà còn đối với hoạt động quản lý. Mặt khác,
trong quá trình Thanh tra KBNN, giữa đoàn thanh tra với đơn vị được thanh tra, cấp
quản lý đoàn thanh tra, cơ quan, đơn vị quản lý nghiệp vụ cấp trên đơn vị được
thanh tra phải cộng tác, phối hợp chỉ đạo chặt chẽ, khẩn trương xử lý vướng mắc
nảy sinh phải tuân thủ nguyên tắc thận trọng, bình đẳng và dân chủ.
Nội dung hoạt động của thanh tra KBNN như sau:
Thanh tra việc chấp hành các chính sách, pháp luật tài chính, ngân sách nhà
nước công tác quản lý quỹ NSNN, công tác an toàn kho quỹ, quản lý vốn tiền mặt,
tài sản; kiểm soát chi NSNN; kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB, chương trình
mục tiêu; phát hành, thanh toán trái phiếu, tín phiếu, chi trả công trái; quản lý tài
chính, tài sản nội bộ, công tác XDCB nội ngành.
Tiếp công dân, giải quyết đơn thư KNTC thuộc thẩm quyền giải quyết của
KBNN.
16

Đối tượng của thanh tra KBNN là các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền
quản lý trực tiếp của KBNN. Như vậy, hoạt động thanh tra của KBNN chủ yếu
nhằm vào bản thân bộ máy quản lý, xem xét, đánh giá việc chấp hành chính sách,
pháp luật, quy trình, nghiệp vụ của cán bộ, công chức trong hệ thống KBNN.
Điều đó thể hiện sự kiểm tra, giám sát của KBNN cấp trên đối với KBNN
cấp dưới trong hệ thống KBNN. Theo dõi, đánh giá, đôn đốc KBNN cấp dưới thực
hiện nhiệm vụ là một nội dung hết sức quan trọng của công tác thanh tra KBNN.
Nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra KBNN Trung ương:
Trình Tổng giám đốc KBNN quyết định: Kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng
năm đối với các đơn vị, tổ chức sử dụng NSNN trong việc chấp hành pháp luật
thuộc phạm vị quản lý của KBNN; Kế hoạch thanh tra việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ được giao của các tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý
của Tổng giám đốc KBNN; Các quy định, quy trình, biện pháp nghiệp vụ thanh tra,
kiểm tra, công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động
KBNN; Dự thảo các văn bản của KBNN hướng dẫn các đơn vị KBNN về việc thực
hiện công tác thanh tra, kiểm tra, công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố
cáo theo quy định của pháp luật.
Thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch được Tổng giám đốc KBNN phê
duyệt; thanh tra, kiểm tra đột xuất theo yêu cầu của Tổng giám đốc KBNN hoặc
cấp có thẩm quyền; phối hợp với thanh tra Tài chính và các cơ quan chức năng
tổ chức thanh tra theo phạm vi lĩnh vực quản lý nhà nước của KBNN.
Xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý đối với các
sai phạm trong lĩnh vực quản lý nhà nước của KBNN theo quy định của pháp luật.
Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận thanh tra và xử lý sau
thanh tra thuộc phạm vi quản lý của KBNN.
17
Kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành
hoặc hủy bỏ những quy định trái với văn bản quy phạm pháp luật được phát hiện
thông qua hoạt động thanh tra.
Giúp Tổng giám đốc KBNN trong việc tiếp dân, tiếp nhận xử lý đơn thư

khiếu nại, tố cáo; giải quyết đơn khiếu tố thuộc phạm vi của KBNN; Tổ chức công
tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí theo quy định của
pháp luật; Hướng dẫn, tổ chức triển khai, tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Luật
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật Phòng chống than nhũng trong hệ thống
KBNN.
Tổng hợp, phân tích tình hình và đánh giá kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm
toán nội bộ, công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của hệ thống KBNN;
đề xuất sửa đổi các quy định, quy trình nghiệp vụ KBNN; Tổng hợp báo cáo định
kỳ, đột xuất về tình hình thực hiện công tác thanh tra, kiểm toán nội bộ, công tác
tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của hệ thống KBNN.
Quản lý cán bộ, công chức, tài liệu và tài sản của đơn vị theo quy định.
2.2.2. Đặc điểm hoạt động thanh tra KBNN Tỉnh Nghệ An
Thanh tra KBNN Nghệ An là hoạt động Thanh tra do KBNN tỉnh thực hiện
đối với KBNN cấp dưới (KBNN các huyện; thành phố; thị xã) nhằm đánh giá tình
hình triển khai các hoạt động nghiệp vụ tại các KBNN cấp dưới, kịp thời phát hiện
các tồn tại; sai sót; sai phạm trong các hoạt động nghiệp vụ từ đó có các biện pháp
uốn nắn; chấn chỉnh; xử lý kịp thời các sai phạm, đảm bảo các hoạt động nghiệp vụ
tại các KBNN cấp dưới triển khai đúng chế độ quy định.
Hoạt động thanh tra KBNN Nghệ An là loại hoạt động tổng hợp và đa dạng
vì trong quá trình thanh tra tại các KBNN cấp dưới liên quan đến nhiều ngành;
nhiều cấp trên địa bàn tỉnh Nghệ An có quan hệ với NSNN, tài chính, tài sản của
Nhà nước
18
Phạm vi hoạt động thanh tra KBNN Nghệ An bao trùm hầu hết các hoạt
động nghiệp vụ và hoạt động quản lý nội bộ KBNN, bao gồm: Nghiệp vụ thu ngân
sách nhà nước; nghiệp vụ chi ngân sách nhà nước: kiểm soát chi thường xuyên,
kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản, chương trình mục tiêu; nghiệp vụ kế toán
ngân sách nhà nước và hoạt động nghiệp vụ KBNN; nghiệp vụ quản lý, điều hoà
vốn; nghiệp vụ huy động vốn; nghiệp vụ an toàn kho quỹ; công tác quản lý tài sản,
tài chính nội bộ, xây dựng cơ bản nội bộ; Tiếp công dân, giải quyết đơn thư KNTC

thuộc thẩm quyền giải quyết của KBNN cấp tỉnh.
Đối tượng của thanh tra KBNN Nghệ An hiện nay là các đơn vị KBNN cấp
huyện thuộc KBNN Nghệ An; qua thanh tra KBNN Nghệ An đánh giá tình hình
triển khai các hoạt động nghiệp vụ tại các KBNN các huyện, kịp thời phát hiện các
tồn tại; sai sót; sai phạm trong các hoạt động nghiệp vụ từ đó có các biện pháp chỉ
đạo điều hành; đảm bảo hoạt động KBNN các huyện triển khai đúng chế độ quy
định. Như vậy, hoạt động thanh tra của KBNN Nghệ An nhằm vào bản thân bộ máy
quản lý, xem xét, đánh giá việc chấp hành chính sách, pháp luật, quy trình, nghiệp
vụ của cán bộ, công chức trong phạm vi quản lý của KBNN tỉnh Nghệ An, điều đó
thể hiện sự kiểm tra, giám sát của KBNN Nghệ An đối với KBNN các huyện.
Như vậy đối tượng thanh tra của KBNN tỉnh Nghệ An hẹp hơn so với đối
tượng thanh tra KBNN Trung ương vì đối tượng thanh tra của KBNN Trung ương
là KBNN các Tỉnh; thành phố trực thuộc Trung ương; KBNN các huyện; thành phố;
thị xã.
Hoạt động thanh tra của KBNN Nghệ An được sự chỉ đạo; định hướng về
nội dung thanh tra; phương pháp thanh tra của KBNN Trung ương đồng thời có sự
chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo KBNN Nghệ An.
Nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra KBNN tỉnh Nghệ An:
Trình Giám đốc KBNN Nghệ An quyết định: Kế hoạch thanh tra, kiểm tra
hàng năm đối với các KBNN các huyện; các quy định, quy trình, biện pháp nghiệp
vụ thanh tra, kiểm tra, công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt
19
động KBNN; Dự thảo các văn bản của KBNN hướng dẫn các đơn vị KBNN về việc
thực hiện công tác thanh tra, công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo
theo quy định của pháp luật.
Thanh tra theo kế hoạch được Giám đốc KBNN Nghệ An phê duyệt;
thanh tra đột xuất theo yêu cầu của Giám đốc KBNN Nghệ An.
Xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý đối với các
sai phạm trong lĩnh vực quản lý nhà nước của KBNN theo quy định của pháp luật.
Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận thanh tra và xử lý sau

thanh tra thuộc phạm vi quản lý của KBNN Nghệ An.
2.2.3. Quy trình thanh tra KBNN
Quy trình thanh tra KBNN quy định chi tiết các bước để tiến hành cuộc
thanh tra KBNN; các đơn vị, cá nhân tham gia vào cuộc thanh tra phải tuân thủ các
quy định của quy trình; quy trình thanh tra KBNN gồm các bước sau:
Một là giai đoạn chuẩn bị thanh tra
Chuẩn bị thanh tra nhằm thiết lập những nội dung, kế hoạch để tiến hành
thanh tra tại các KBNN, bao gồm các công việc sau:
Bước 1: Thu thập thông tin: kế hoạch thanh tra tại KBNN huyện được xây
dựng trên cơ sở phân tích, đánh giá các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động nghiệp
vụ tại KBNN huyện, thông tín chính là để xác định rủi ro, lập báo cáo khảo sát tại
KBNN huyện để lập kế hoạch thanh tra.
Hệ thống thông tin tại KBNN được thanh tra bao gồm: thông tin về tình hình
hoạt động, kết quả hoạt động của KBNN huyện về mỗi nội dung thanh tra, thu thập
thông tin phải chính xác và được cập nhật thường xuyên
Ví dụ: Khi tiến hành thanh tra
từ việc khai thác dữ liệu liên quan đoàn thanh tra thu thập thông tin để nắm toàn
diện các thông tin có liên quan đến KBNN các huyện, cán bộ nghiệp vụ KBNN
20
huyện và các số liệu liên quan đến từng nội dung thanh tra như số liệu về số lượng
dự án KBNN huyện kiểm soát thanh toán; số món chi KBNN huyện từ chối thanh
toán
Nghiên cứu, phân tích các thông tin đã thu thập được, lập báo cáo khảo sát
tình hình hoạt động của KBNN cấp dưới; báo cáo khảo sát phải mô tả được tình
hình hoạt động của KBNN cấp dưới trên các hoạt động nghiệp vụ; các số liệu có
liên quan; nhận định, đánh giá những vấn đề nổi cộm khả năng và dấu hiệu sai
phạm về chính sách chế độ, về quản lý; những thuận lợi, khó khăn từ đó đề xuất
những nội dung cần thanh tra, trong đó nêu rõ nội dung trọng tâm, trọng điểm.
Lập kế hoạch thanh tra tại KBNN cấp dưới: Kế hoạch thanh tra gồm những
nội dung cơ bản sau: Mục đích, yêu cầu cuộc thanh tra; nội dung thanh tra, trong đó

có nội dung trọng tâm, trọng điểm; thời kỳ thanh tra, thời hạn thanh tra; lập kế
hoạch chi tiết cho từng nội dung thanh tra, trong đó nêu rõ: những công việc cần
làm, phương pháp tiến hành thời gian triển khai, kết thúc; nhân sự đoàn thanh tra,
phân công nhiệm vụ cho các thành viên đoàn thanh tra như: khi thanh tra việc chấp
hành chế độ quản lý kho quỹ thì phương pháp tiến hành là đối chiếu giữa số liệu
kiểm kê thực tế tiền mặt và số liệu trên sổ chi tiết, việc ghi chép trên sổ sách kho
quỹ, việc ra vào kho tiền, việc chấp hành chế độ uỷ quyền, uỷ nhiệm của ban quản
lý kho, việc kiểm kê kho tiền định kỳ hàng tháng theo quy định
Ra quyết định, phê duyệt kế hoạch thanh tra: trình Giám đốc KBNN Nghệ
An dự thảo quyết định thanh tra kèm theo kế hoạch thanh tra và báo cáo khảo sát;
Quyết định thanh tra phải thể hiện rõ tên KBNN huyện; nội dung nghiệp vụ KBNN
tiến hành thanh tra, thời kỳ và thời hạn thanh tra; thành lập đoàn thanh tra.
Chuẩn bị triển khai thanh tra: Khi quyết định thanh tra được lưu hành,
Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm: thông báo tới KBNN huyện về chương trình
buổi công bố quyết định thanh tra; đồng thời tổ chức họp đoàn thanh tra để quán
triệt kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt, nội quy chế đoàn thanh tra; bàn các biện
pháp cụ thể để tổ chức thực hiện kế hoạch; giao nhiệm vụ cụ thể cho từng thành
21
viên đoàn thanh tra; Chuẩn bị đầy đủ văn bản về chính sách, chế độ, tiêu chuẩn,
định mức liên quan đến nội dung thanh tra; Căn cứ nhiệm vụ được giao, từng thành
viên trong đoàn thanh tra xây dựng kế hoạch thực hiện chi tiết của mình, trình
trưởng đoàn phê duyệt trước khi triển khai thanh tra. Kế hoạch phải nêu rõ nội dung
công việc, phương pháp tiến hành, thời gian thực hiện.
Hai là giai đoạn thực hiện thanh tra
Công bố quyết định thanh tra: trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm công bố
quyết định thanh tra với KBNN huyện; công bố đầy đủ nội dung quyết định thanh
tra và nêu rõ mục đích, yêu cầu, cách thức làm việc, kế hoạch tiến hành thanh tra.
việc công bố quyết định thanh tra phải được lập thành biên bản.
Thực hiện thanh tra: là quá trình sử dụng các phương pháp thanh tra, phát
hiện, làm rõ các vấn đề, sự việc để kết luận chính xác, trung thực, khách quan.

Trình tự các công việc như sau:
Thu thập thông tin: Yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp tài liệu liên quan
đến nội dung thanh tra. Tài liệu gồm: Báo cáo quyết toán, các báo cáo thu, chi tài
chính, sổ, biểu mẫu, chứng từ kế toán và tài liệu liên quan; báo cáo tổng kết, phân
tích đánh giá, kết luận của các cơ quan; kết quả hoạt động của tổ chức kinh tế - xã
hội; các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức
Nghiên cứu, phân tích, xem xét, xử lý thông tin và số liệu để phát hiện những
vấn đề có mâu thuẫn; nhận định những việc làm đúng, những sai phạm, những sơ
hở, bất cập của cơ chế, chính sách, chế độ; làm rõ bản chất, nguyên nhân và trách
nhiệm.
Phân tích các báo cáo, tài liệu thu thập được để nhận diện vấn đề, sự việc.
Xem xét, đối chiếu các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức đã áp dụng
thanh toán so với quy định của người có thẩm quyền.
Xem xét việc vận dụng thực tế so với các quy định của chính sách, chế độ,
tiêu chuẩn, định mức quy định của người có thẩm quyền.
22
Ký bản xác nhận hoặc biên bản về tình hình, số liệu theo từng nội dung, sự
việc dự kiến kết luận với đối tượng thanh tra, để khẳng định tính trung thực của số
liệu, tài liệu.
Đối chiếu các thông tin, số liệu đã ký xác nhận, đã thu thập được với chính
sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức,… và diễn biến thực tế, đưa ra dự kiến kết luận
về sự việc được phát hiện.
Củng cố chứng cứ, cơ sở pháp lý để kết luận đúng, sai, nguyên nhân sai
phạm và trách nhiệm của tập thể, cá nhân đối với từng sai phạm.
Đối với những sự việc, tài liệu phản ánh chưa rõ, chưa đủ cơ sở kết luận,
Đoàn thanh tra chuẩn bị chi tiết nội dung yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình bằng
văn bản (có chữ ký của người giải trình).
Sau khi làm rõ nguyên nhân đúng, sai, tiến hành rà soát, hoàn thiện hồ sơ
chứng lý, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ và ký kết với đối tượng thanh tra các
biên bản làm việc hoặc bản xác nhận số liệu còn thiếu.

Ngay sau khi kết thúc công việc, người được giao nhiệm vụ có trách nhiệm:
Bàn giao các biên bản làm việc, bản xác nhận số liệu và toàn bộ chứng cứ thu thập
được cho trưởng đoàn thanh tra; tài liệu được lập thành danh mục, đánh số thứ tự;
Lập biên bản thanh tra: Trưởng đoàn thanh tra lập Biên bản thanh tra với
Giám đốc KBNN huyện. Biên bản thanh tra nêu rõ kết quả từng nội dung thanh tra;
nguyên nhân, chứng cứ để kết luận.
Gia hạn thanh tra: Trường hợp cần thiết phải tăng thêm thời hạn thanh tra,
trưởng đoàn thanh tra báo cáo người ra quyết định thanh tra quyết định gia hạn và
chỉ tiến hành khi có quyết định chính thức.
Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo trong quá trình thanh tra: Trong quá
trình thanh tra, các thành viên có trách nhiệm thường xuyên báo cáo trưởng đoàn về
tình hình, kết quả công việc được phân công và những vấn đề cần xin ý kiến chỉ
đạo.Trường hợp phát sinh những vấn đề khó khăn, vướng mắc vượt khả năng và
23
thẩm quyền của trưởng đoàn thì trưởng đoàn có trách nhiệm báo cáo kịp thời Lãnh
đạo KBNN xin ý kiến chỉ đạo.
Ba là giai đoạn kết quả thanh tra
Báo cáo kết quả thanh tra: ngay sau khi kết thúc thanh tra tại đơn vị, Trưởng
đoàn thanh tra phải có báo cáo kết quả thanh tra báo cáo Lãnh đạo KBNN.
Báo cáo kết quả thanh tra (do trưởng đoàn ký) báo cáo kết quả những nội
dung công việc đã thanh tra; những nội dung chưa tiến hành hoặc tiến hành ngoài
quyết định và kế hoạch thanh tra được duyệt, nguyên nhân; những ý kiến không
thống nhất của đối tượng thanh tra; những đề xuất về chính sách, chế độ và quản lý.
Mỗi nội dung kết luận phải nêu rõ sự việc, căn cứ đúng, sai, nguyên nhân, trách
nhiệm, hình thức xử lý, thời hạn chấp hành.
Sau khi kết thúc cuộc thanh tra vào báo cáo Lãnh đạo KBNN, Trưởng đoàn
có trách nhiệm bàn giao hồ sơ cuộc thanh tra cho những bộ phận, người được giao
nhiệm vụ theo dõi kết quả sau thanh tra; Việc bàn giao hồ sơ, tài liệu phải được lập
thành biên bản, lưu cùng hồ sơ cuộc thanh tra.
Trưởng đoàn có trách nhiệm triệu tập các thành viên trong đoàn họp rút kinh

nghiệm, đánh giá những ưu, nhược điểm trong quá trình điều hành, quá trình thanh
tra của từng người, rút ra những bài học kinh nghiệm, kiến nghị khen thưởng người
làm tốt và xử lý những cán bộ có sai phạm.
2.2.4. Phương pháp tổ chức hoạt động thanh tra KBNN
Phương pháp tổ chức thanh tra là cách thức tổ chức hoạt động cuộc thanh tra;
phương pháp nghiệp vụ thanh tra được thực hiện đảm bảo cuộc thanh tra tiến hành
đảm bảo đúng quy trình; đúng kế hoạch; đảm bảo chất lượng cuộc thanh tra.
Phương pháp tổ chức hoạt động thanh tra bao gồm các hoạt động sau: tổ
chức chuẩn bị các điều kiện về vật chất; con người trước khi thanh tra; hoạt động
điều hành đoàn thanh tra của trưởng đoàn thanh tra; hoạt động tác nghiệp của đoàn
24
viên thanh tra như sử dụng các phương pháp nghiệp vụ thanh tra để tiến hành thanh
tra; cụ thể như sau:
Căn cứ vào những khảo sát về đối tượng thanh tra; lập kế hoạch thanh tra
phù hợp với tình hình thực tế của đối tượng thanh tra; bố trí thành viên đoàn thanh
tra và trưởng đoàn thanh tra phù hợp cho cuộc thanh tra.
Hoạt động điều hành của trưởng đoàn thanh tra: vai trò trưởng đoàn thanh tra
KBNN là rất quan trọng; quyết định việc thành công hay không của cuộc thanh tra
như:
Trước khi thanh tra; trưởng đoàn thanh tra phải chuẩn bị đầy đủ các yếu tố
về vật chất; tinh thần cho cuộc thanh tra; quán triệt kế hoạch thanh tra đã được phê
duyệt, nội quy chế đoàn thanh tra; bàn các biện pháp cụ thể để tổ chức thực hiện kế
hoạch; giao nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên đoàn thanh tra; đào tạo, hướng dẫn
cho cán bộ đoàn thanh tra; chuẩn bị đầy đủ văn bản về chính sách, chế độ, tiêu
chuẩn, định mức liên quan đến nội dung thanh tra. Trong quá trình thanh tra làm
việc tại KBNN cấp dưới; trưởng đoàn thanh tra là người phát ngôn của đoàn thanh
tra; giải quyết những vướng mắc của KBNN cấp dưới và của thành viên đoàn thanh
tra. Trong quá trình kết thúc thanh tra, trưởng đoàn thanh tra phải tổng hợp được kết
quả làm việc của từng thành viên đoàn thanh tra từ đó lập báo cáo kết quả thanh tra
báo cáo người ra quyết định thanh tra.

Phương pháp nghiệp vụ trong thanh tra: trong quá trình triển khai thanh tra
tại KBNN cấp dưới; đoàn thanh tra vận dụng các phương pháp kỹ thuật nhằm thu
thập đầy đủ các bằng chứng có độ tin cậy cao và có giá trị để làm cơ sở cho lập báo
cáo kết quả thanh tra; trong thực tiễn, đoàn thanh tra, các thành viên đoàn thanh tra
sử dụng đồng thời các phương pháp chủ yếu sau: phương pháp khai thác tài liệu, số
liệu; phương pháp kiểm kê; phương pháp thanh tra chọn mẫu; phương pháp phân
tích; phương pháp so sánh đối chiếu, cụ thể như:
Nghiên cứu, phân tích, xem xét, xử lý thông tin và số liệu để phát hiện những
vấn đề có mâu thuẫn; nhận định những việc làm đúng, những sai phạm, những sơ
25

×