Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

vai trò của từ láy trong một số tác phẩm văn chương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (880.48 KB, 137 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





















































ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM







NGUYỄN THỊ THANH HÒA



VAI TRÒ CỦA TỪ LÁY TRONG MỘT SỐ
TÁC PHẨM VĂN CHƢƠNG






LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC













Thái Nguyên, năm 2009

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






NGUYỄN THỊ THANH HÒA



VAI TRÒ CỦA TỪ LÁY TRONG MỘT SỐ
TÁC PHẨM VĂN CHƢƠNG






LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC














Thái Nguyên, năm 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



NGUYỄN THỊ THANH HÒA



VAI TRÒ CỦA TỪ LÁY TRONG MỘT SỐ
TÁC PHẨM VĂN CHƢƠNG


Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 602201


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Hoàng Cao Cƣơng










Thái Nguyên, năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được nhiều sự giúp đỡ to lớn và quý báu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Hoàng Cao Cương – Viện Ngôn
Ngữ học đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn, khoa Sau
đại học, trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu, cảm ơn bạn bè và các anh chị đồng
nghiệp đã nhiệt tình trao đổi, góp ý để tôi có thể hoàn thành luận văn.
Nguyễn Thị Thanh Hòa

















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, công trình nghiên cứu này là thực sự của cá nhân,
được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, kiến thức kinh điển, nghiên
cứu khảo sát các tác phẩm của các tác giả dưới sự hướng dẫn khoa học của
Tiến sĩ Hoàng Cao Cương.
Các số liệu và khẳng định trong luận văn là trung thực, do tôi tự nghiên
cứu, khảo sát và thực hiện.
Nguyễn Thị Thanh Hòa



















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
DANH MỤC CÁC BẢNG

STT Tên Bảng Trang
1 Bảng 2.1. Kết quả khảo sát từ láy 33
trong các tác phẩm thơ ca
2 Bảng 2.2. Đối ứng thanh điệu trong các 37
từ láy được khảo sát
3 Bảng 2.3. Đối ứng âm đầu trong các 38- 39
từ láy được khảo sát
4 Bảng 2.4. Đối ứng âm chính trong các 40
từ láy được khảo sát
5 Bảng 2.5. Đối ứng âm cuối trong các 41
từ láy được khảo sát













Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 8
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 9
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 10
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 11
5. Phương pháp nghiên cứu 11
6. Đóng góp của luận văn 11
7. Kết cấu luận văn 12
NỘI DUNG
Chƣơng 1. ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ LÁY
1.1. Dẫn nhập 13
1.2. Các phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt 13
1.2.1. Phương thức ghép 14
1.2.2. Phương thức láy 16
1.3. Đặc điểm của từ láy tiếng Việt 16
1.3.1. Đặc điểm hình thức 16
1.3.1.1. Từ láy đôi 17
1.3.1.2. Từ láy ba 19

1.3.1.3. Từ láy tư 20
1.3.2. Đặc điểm ngữ nghĩa 21
1.3.2.1. Từ láy đôi 21
1.3.2.2. Từ láy ba, tư 24
1.4. Láy và các biện pháp nghệ thuật trong văn chương 25
1.4.1. Tính nghệ thuật trong văn chương 25
1.4.2. Vai trò của từ láy trong thể hiện tính nghệ thuật văn chương 28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
1.5. Tiểu kết 31
Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ LÁY TRONG THƠ CA
2.1. Dẫn nhập 32
2.2. Mật độ từ láy trong thơ ca 32
2.3. Nhận xét về đặc điểm của từ láy trong thơ ca 34
2.3.1. Đặc điểm hình thức 34
2.3.1.1. Độ dài từ láy 34
2.3.1.2. Quy tắc Điệp – Đối trong từ láy 34
2.3.1.3. Các kiểu đối ứng ngữ âm 36
2.3.2. Đặc điểm ngữ nghĩa 41
2.4. Tiểu kết 45
Chƣơng 3. NHẬN XÉT VỀ VAI TRÒ CỦA TỪ LÁY TRONG THƠ CA
3.1 Dẫn nhập 47
3.2. Các vai trò của từ láy trong thơ ca 47
3.2.1. Trong vai trò thông báo 47
3.2.2. Trong vai trò biểu cảm 53
3.2.3. Trong vai trò tạo vần 57
3.2.4. Trong vai trò tạo nhịp 64
3.2.5. Trong vai trò tạo hình tượng 70
3.2.6. Từ láy và đặc thù cú pháp thơ 82

3.3. Tiểu kết 84
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÁC GIẢ, TÁC PHẨM 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
PHỤ LỤC 93


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Láy là một phương thức cấu tạo từ quan trọng của tiếng Việt, giúp
sản sinh ra khối lượng từ khá lớn bổ sung vào kho từ vựng tiếng Việt. Đây có
thể được coi là mảng từ vựng thể hiện rõ nhất đóng góp của hình thức ngữ âm
tiếng Việt trong việc biểu lộ tư tưởng tình cảm của người sử dụng ngôn ngữ.
Sự hoà phối âm thanh trong nội bộ cấu trúc từ đã tạo ra những hiệu quả ngữ
nghĩa bất ngờ cũng như tạo điểm nhấn cho sự diễn đạt mà chỉ khi đọc lên ta
mới cảm thụ hết được. Chính vì vậy, từ láy đã và đang là đề tài nghiên cứu
hấp dẫn với các học giả trong quá trình nghiên cứu về từ tiếng Việt. Bên cạnh
những kết quả đã đạt được, các nhà ngôn ngữ học cũng nhận thấy vẫn còn
nhiều vấn đề về từ láy chưa được giải quyết thoả đáng, cần có sự nghiên cứu
thêm.
1.2. Văn học là một ngành nghệ thuật đặc biệt, nghệ thuật ngôn từ.
Không một ngành nghệ thuật nào có thể tái hiện hoàn chỉnh bức tranh hiện
thực đời sống phong phú, đa dạng, nhiều màu vẻ như văn học. Điều đó có
được là nhờ chức năng thi ca của ngôn ngữ. Bản thân vỏ âm thanh của ngôn
ngữ khi được chọn lựa, đặt vào đúng chỗ sẽ góp phần khơi gợi xúc cảm nơi
người đọc người nghe. Đây chính là nơi để từ láy có cơ hội phát huy vai trò
của mình nhờ những đặc điểm hài âm, hài thanh khác biệt.

1.3. Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một bức thông điệp thẩm mỹ mà nhà
văn , nhà thơ muốn chia sẻ, gửi gắm tới người đọc. Nội dung của tác phẩm
không hiển hiện rõ ràng mà nó được người đọc nhận thức thông qua quá trình
tiếp nhận tác phẩm. Một nguyên tắc cơ bản khi tiếp nhận tác phẩm văn học là
phải xuất phát từ chính ngôn từ mà người sáng tác đã dày công chọn lựa.
Trong đó, những từ mang sức nặng nội dung, đặc điểm nổi bật về hình thức
luôn được chú ý hơn. Từ láy là một điểm nhấn như vậy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Từ những lí do này, chúng tôi lựa chọn đề tài : “ Vai trò của từ láy
trong một số tác phẩm văn chƣơng” với mong muốn tìm hiểu sâu thêm vốn
từ láy Việt cũng như sự vận dụng từ láy để chuyên tải thông điệp nghệ thuật
của các tác giả khi thai nghén đứa con tinh thần của mình.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
- Các công trình nghiên cứu về từ láy:
Có thể khẳng định, cho tới hiện nay, số lượng công trình nghiên cứu về
từ láy tiếng Việt của các học giả trong nước, ngoài nước là khá lớn. Hầu như
tất cả các đặc trưng của từ láy đều đã được đề cập đến ở các mức độ khác
nhau: cơ trình cấu tạo, đặc trưng ngữ nghĩa, giá trị biểu cảm,…Rất nhiều phát
hiện đã trở thành tri thức mang tính chất nền móng để tiếp tục nghiên cứu sâu
hơn về vấn đề này. Trong phạm vi những tài liệu đã có, khái niệm “từ láy” đã
có nhiều ý kiến khác nhau do các nhà nghiên cứu xuất phát từ hai quan điểm :
Quan điểm coi từ láy là ghép( Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Thiện Giáp,…)
Quan điểm coi từ láy là một loại của vốn từ vựng tiếng Việt( Đỗ Hữu
Châu, Hoàng Văn Hành, Hà Quang Năng,…)
Hiện nay các tác giả đều thống nhất coi từ láy là một tiểu loại tương
đương với từ ghép, được sản sinh ra từ phương thức láy. Cuốn “Từ láy trong
tiếng Việt” của tác giả Hoàng Văn Hành nhận được nhiều sự đồng tình, trở
thành xuất phát điểm cho nhiều công trình nghiên cứu sau đó. Từ việc xem

xét các cách nhìn khác nhau đối với hiện tượng láy, tác giả đã khẳng định
quan điểm coi láy là sự hoà phối ngữ âm có giá trị biểu trưng hoá. Ông đã
khái quát thành qui tắc điệp và đối trong hình thức ngữ âm của từ láy, chỉ ra
các kiểu láy, cơ cấu nghĩa của từ láy, cung cấp một số cứ liệu về quá trình
hình thành và phát triển của từ láy Tiếng Việt, giá trị sử dụng của từ láy trong
thực tế. Ngoài ra cũng không thể không nhắc tới các tác giả Phi Tuyết Hinh,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Nguyễn Thị Hai, Phan Văn Hoàn, Hoàng Cao Cương, Hà Quang Năng,… với
những công trình luận án, những bài nghiên cứu có giá trị về vốn từ láy tiếng Việt.
- Các công trình nghiên cứu về vai trò của từ láy trong văn chương:
Trong điều kiện những tư liệu có được, chúng tôi nhận thấy cũng đã có
nhiều tác giả chú ý tới vấn đề này. Nhìn chung họ đều chỉ ra giá trị gợi hình,
gợi cảm, tạo âm hưởng của từ láy song chủ yếu ở tầm khái quát. Ngay cả
trong cuốn “ Từ láy trong tiếng Việt” Hoàng Văn Hành, cuốn “Phong cách
học tiếng Việt” – Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà, cuốn “99 phương tiện
và biện pháp tu từ tiếng Việt” – Đinh Trọng Lạc, dung lượng dành cho giá trị
nghệ thuật của từ láy trong tác phẩm văn học cũng chưa tương xứng với biểu
hiện của thực tiễn. Hoặc các tác giả đi sâu nghiên cứu giá trị của từ láy trong
phạm vi sáng tác của một tác giả cụ thể ( Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị
Lan - Từ láy trong thơ Nguyễn Đình Chiểu, khoá luận tốt nghiệp của Trần Thị
Kim Loan – Tìm hiểu về từ láy trong một số truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư, …). Đáng kể nhất phải kể tới tác giả Nguyễn Thị Thanh Hà với luận án
tiến sĩ “ Giá trị nghệ thuật và phương thức sử dụng hiện tượng láy trong thơ
ca Việt Nam” . Tác giả đã đưa ra bảy tiêu chí để xác định từ láy trong tiếng
Việt, trên cơ sở đó nghiên cứu giá trị và cách thức từ láy được sử dụng để từ
láy phát huy tác dụng với thơ ca ở hai phương diện: tạo tính nhạc và tạo hình.
Luận án thực sự có nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu ngôn ngữ thơ Việt Nam.
Như vậy có thể thấy vấn đề đóng góp của từ láy trong văn chương chưa

phải đã được lấp đầy. Vẫn còn những mảng có thể đi sâu. Vì vậy, lựa chọn đề
tài này, chúng tôi hi vọng sẽ đưa ra được những ý kiến thiết thực, đóng góp
vào công tác nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm văn chương.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Thực hiện đề tài “Vai trò của từ láy trong một số tác phẩm văn
chƣơng” chúng tôi hướng tới một sự nghiên cứu cụ thể hơn về vai trò của từ
láy với ngôn ngữ văn học qua việc khảo sát các tác phẩm thơ ca.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn thực hiện các nhiệm vụ:
- Tìm hiểu cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu từ láy .
- Miêu tả đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa, sự phân bố của từ láy trong các
tác phẩm thơ được nghiên cứu.
- Đưa ra những nhận xét bước đầu về vai trò của từ láy trong thơ ca.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của từ láy trong các tác phẩm thơ ca.
Phạm vi nghiên cứu: từ láy trong các tác phẩm: Thơ Tố Hữu( NXB
Giáo dục, 1998), Tuyển tập Nguyễn Bính( NXB Văn học, 2001), Huy Cận –
Tác phẩm chọn lọc ( NXB Giáo dục, 2009), Nguyễn Đình Thi – Tuyển tác
phẩm văn học – Thơ ( NXB Văn học, 2001)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương phá p miêu tả : các thủ pháp đượ c á p dụ ng là các thủ pháp
luận giải bên trong và luận giải bên ngoài . Với các thủ pháp luận giải bên
trong chính là việc phân loạ i , hệ thố ng hó a cá c đơn vị ngôn ngữ thà nh cá c
nhóm, các loại, các tiểu hệ thố ng phân cấ p , các hệ thống con ; thủ pháp phân

tích; thủ pháp đối lập ; thủ pháp phân tích trường nghĩa Cùng với chúng là
các thủ pháp luận giải bên ngoài: văn hóa, tâm lí tộc người, thống kê
- Các phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học khác: quy nạp,
diễn dịch, mô hình hóa
6. Những đóng góp của luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn bước đầu chỉ vai trò, hiệu
quả nghệ thuật của việc sử dụng từ láy trong tác phẩm văn chương, trước hết
là thơ ca. Chúng tôi hi vọng đề tài này cũng sẽ giúp ích nhất định cho việc
giảng dạy các tác phẩm thơ của các tác giả trong nhà trường.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, nội dung chính của luận văn
được phân bố trong ba chương:
Chương 1. Đặc điểm của từ láy
Chương 2. Đặc điểm của từ láy trong thơ ca
Chương 3. Nhận xét về vai trò của từ láy trong thơ ca


















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
NỘI DUNG
Chƣơng 1. ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ LÁY
1.1. Dẫn nhập
Như những ngôn ngữ đơn lập khác, xét từ phương diện hình thái học,
tiếng Việt có hai đặc điểm quan trọng. Đó là: a.) Đơn vị hình thái nhỏ nhất
của từ (hình vị) đa phần có vỏ ngữ âm là một âm tiết và b.) Ranh giới giữa từ
và cấu trúc lớn hơn từ (từ tổ) thường không rõ ràng và hiển nhiên. Hai đặc
điểm này là nguyên nhân chính dẫn đến sự không trùng hợp nhau hoàn toàn
về danh sách từ ngữ giữa các nhà Việt ngữ học. Do nhiệm vụ của luận văn là
bước đầu khảo sát hoạt động của từ láy trong văn bản nghệ thuật nên chúng
tôi không thể đặt trọng tâm vào việc phân tích phê bình các đặc điểm vừa nêu
đối với nhận diện từ tiếng Việt. Các nhận thức sau đây về từ láy dựa trên sự
công nhận các tri thức truyền thống, mang tính phổ thông về kiểu cấu tạo loại
từ này. Trên cơ sở đó chúng tôi tiến hành nhận diện và lên danh sách các từ
láy đã xuất hiện trong văn bản được thu thập.
Nhận thức về cấu tạo từ tiếng Việt có liên quan với đề tài gồm:
1. Các phương thức cấu tạo từ tiếng Việt
2. Các đặc điểm của kiểu từ láy.
1.2. Phƣơng thức cấu tạo từ trong tiếng Việt
Phương thức cấu tạo từ là cách thức mà hệ thống ngôn ngữ tác động
vào các hình vị nhằm sản sinh ra các từ cụ thể cho các chức năng ở cấp độ
hình thái học của một ngôn ngữ. Nếu coi hình vị và từ là hai đơn vị quan

trọng trong cấp độ này thì việc phương thức cấu tạo từ chính là cách làm cho
các hình vị, những đơn vị hình thái không độc lập, được gia nhập vào một cấu
trúc hình thái mang tính độc lập cao hơn, thực hiện được các nhiệm vụ cụ thể
như định danh hoặc tham gia vào các cấu tạo của cấp độ cấu trúc cao hơn:
nhiệm vụ cú pháp ở phát ngôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Nếu không kể đến phương thức từ hóa hình vị để tạo nên từ (đơn) [10,
27], như kiểu: {bàn} (hình vị)  "bàn" (từ); {học} (hình vị)  "học" (từ);
{lá} (hình vị)  "lá" (từ), thì từ tiếng Việt có thể coi là kết quả tác động
vào hình vị và chuỗi hình vị theo 2 phương thức chính là ghép và láy.
1.2.1. Phƣơng thức ghép
Theo Đỗ Hữu Châu : “ Ghép là phương thức dùng hai hoặc hơn hai đơn
vị cấu tạo từ riêng rẽ ghép lại với nhau theo những qui tắc nhất định để được
một từ, gọi là từ ghép” [ 9, 34].
Như vậy phương thức ghép tác động vào những đơn vị cấu tạo từ có
sẵn, riêng rẽ với nhau trên cơ sở mối quan hệ về nghĩa giữa các đơn vị đó.
Nhìn chung, các đơn vị tạo thành một từ ghép đều mang ý nghĩa ( có thể hoạt
động độc lập hay không độc lập)
Ví dụ: Xe đạp, quốc gia, hải phận.
Trên thực tế cũng có một số từ ghép mà chỉ còn một thành tố là rõ
nghĩa, thành tố còn lại đã mờ nghĩa do quá trình biến động của lịch sử ( chợ
búa, tre pheo…)
Mối quan hệ về nghĩa giữa các đơn vị trong từ ghép được chia thành
hai loại: quan hệ chính phụ, và quan hệ đẳng lập. Theo cách phân chia đó,
chúng ta cũng có hai loại từ ghép tương ứng: từ ghép chính phụ, từ ghép đẳng lập.
Từ ghép chính phụ còn có tên gọi: từ ghép phân nghĩa, từ ghép phụ
nghĩa. Từ ghép chính phụ là những từ ghép được cấu tạo từ hai hình vị (hay
đơn vị) theo quan hệ chính phụ, trong đó có một hình vị chỉ loại lớn (sự vật,

hoạt động, tính chất) và một hình vị có tác dụng phân hóa loại lớn đó thành
những loại nhỏ hơn nhưng độc lập với nhau và độc lập với loại lớn. Các từ
ghép phân nghĩa lập thành những hệ thống gồm một số từ thống nhất với nhau
nhờ hình vị chỉ loại lớn. Do đó, ý nghĩa trong từ ghép phân nghĩa bao giờ
cũng nhỏ hơn ý nghĩa của từ đơn chỉ loại tương ứng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Ví dụ: Xe đạp < xe
Xe máy < xe
Từ ghép phân nghĩa lại bao gồm từ ghép phân nghĩa một chiều và từ
ghép phân nghĩa hai chiều.
Từ ghép phân nghĩa một chiều là những từ ghép chỉ có một hình vị chỉ
loại lớn có tác dụng sắc thái hóa ý nghĩa của các hình vị chỉ loại lớn:
Xe đạp < xe
Cá chép < cá
Xanh lá < xanh
Từ ghép phân nghĩa hai chiều là những từ ghép mà cả hai hình vị vừa
có tính chất chì loại lớn, vừa có tính chất hình vị phân nghĩa- hình vị này phân
nghĩa cho hình vị kia và ngược lại.
Ví dụ: Đảng viên, điện năng…
Từ ghép đẳng lập, còn có tên gọi từ ghép hợp nghĩa là những từ ghép
do hai hình vị tạo nên trong đó không có hình vị nào là hình vị chỉ loại lớn,
không có hình vị nào là hình vị phân nghĩa. Từ ghép loại này không biểu thị
những loại nhỏ hơn, trái lại chúng biểu thị loại rộng hơn, lớn hơn, bao trùm
hơn so với loại của từng hình vị tách riêng.
Hai hình vị trong từ ghép hợp nghĩa phải mang ý nghĩa bình đẳng với
nhau (cùng thuộc một phạm trù ngữ nghĩa, đồng nghĩa, gần nghĩa, hoặc trái
nghĩa,…). Từ ghép hợp nghĩa cũng được chia thành ba tiểu loại dựa vào vai
trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa và phạm vi biểu đạt của từ:

Từ ghép hợp nghĩa tổng hợp: là những từ thuộc mô hình ngữ nghĩa:
AB > A +B. Ví dụ: ếch nhái, quần áo…
Từ ghép hợp nghĩa chuyên chỉ loại: là những từ thuộc mô hình ngữ
nghĩa AB = A hoặc AB = B. Ví dụ: thuyền bè, chợ búa…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Từ ghép hợp nghĩa bao gộp: Là những từ thuộc mô hình ngữ nghĩa
AB > A + B. Ví dụ: điện nước, gang thép, chạy nhảy…
Ngoài ra, trong phương thức ghép còn có thể kể thêm loại từ ghép ngẫu
hợp: những từ chưa xác định được quan hệ giữa các hình vị tạo nên nó (cả về
ngữ âm lẫn ngữ nghĩa). Ví dụ: bởi vì, mặc dù, cho nên, cao su … Tuy nhiên
số lượng các từ ghép ngẫu hợp không nhiều trong danh sách các từ ghép của
tiếng Việt, chúng thường được tạo nên từ các hình vị hư.
1.2.2. Phƣơng thức láy
Trường hợp điển hình của phương thức cấu tạo từ này là sự tác động
của phương thức cấu tạo từ vào một hình vị gốc để tạo nên một hình vị thứ
hai, láy lại hình vị gốc. Hình vị láy có hình thức ngữ âm giống hoàn toàn hay
giống một bộ phận với hình vị gốc. Cấu trúc mới tạo ra bao gồm hình vị gốc
kết hợp với hình vị láy tạo nên từ láy.
Ví dụ: đèm đẹp, lâng lâng, lao xao…
Nếu như phương thức ghép tác động vào những đơn vị cấu tạo từ sẵn
có, riêng rẽ, đối lập với nhau thì phương thức láy chỉ tác động vào một đơn vị
cấu tạo từ làm nảy sinh đơn vị mới có quan hệ thứ sinh với đơn vị gốc, cũng
phải tuân theo những quy luật nhất định. Theo Hoàng Văn Hành đó là quy
tắc điệp - đối. Theo qui tắc này, các hình vị trong một từ láy vừa phải có sự
điệp lại (giống nhau) vừa phải có sự đối lập (khác nhau). Quy tắc này hiện
hữu trong tất cả các bộ phận cấu tạo nên một âm tiết: thanh điệu, âm đầu,
vần…Kết quả của sự điệp, đối này cho ta các loại từ láy: láy hoàn toàn, láy
âm, láy vần.

1. 3. Đặc điểm từ láy tiếng Việt
1. 3. 1. Đặc điểm hình thức
Đa số các nhà nghiên cứu đều tán đồng quan điểm: láy là phương thức
cấu tạo từ. Từ láy là kết quả của phương thức láy với đặc trưng hòa phối ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
âm. Như vậy, ngữ âm chính là đặc điểm nổi bật, được quan tâm hàng đầu khi
xem xét từ láy bởi nhắc đến từ láy, người bản ngữ sẽ có ấn tượng trước hết
đến hình thức đặc thù của nó. Điệp và đối là những quy tắc, hay là những hình
thái thể hiện sự hòa phối đó[ 24, 30]. Hoàng Văn Hành chỉ rõ “ điệp và đối ở
đây được hiểu theo nghĩa rộng. Điệp là sự lặp lại, sự đồng nhất về âm, về
nghĩa, còn đối là sự sai khác, sự dị biệt cũng về âm, về nghĩa. Đồng nhất và dị
biệt có quy tắc chứ không phải là tùy tiện, là ngẫu nhiên” [ 24, 88). Xuất phát
từ quan điểm trên, từ láy được phân loại về hình thức ngữ âm theo tiêu chí:
- Số lượng âm tiết( tiếng) trong từ láy.
- Sự đồng nhất hay khác biệt trong thành phần cấu tạo trong các thành
tố trong từ láy do cách phối hợp ngữ âm tạo nên.
1. 3.1.1. Từ láy đôi
Về mặt hình thức, từ láy đôi bao gồm hai âm tiết (tiếng) có quan hệ với
nhau về mặt ngữ âm, số lượng từ láy đôi là rất lớn, dành được nhiều sự quan
tâm. “Từ láy đôi chiếm vị trí hàng đầu không chỉ vì nó chiếm số lượng lớn
nhất trong tổng số các từ láy mà chính là vì ở từ láy đôi, tất cả các đặc trưng
cơ bản thể hiện các bản chất của hiện tượng láy cả ở bình diện thể hiện bằng
âm thanh lẫn ở bình diện ngữ nghĩa đều được biểu lộ đầy đủ” [37, 21].
Để tiện cho việc nghiên cứu, người ta tiếp tục dựa vào quy tắc “ điệp –
đối” về hình thức ngữ âm để phân loại từ láy đôi thành: từ láy đôi hoàn toàn,
từ láy đôi bộ phận.
* Từ láy hoàn toàn
Từ láy hoàn toàn “là những từ láy có sự đồng nhất, tương ứng hoàn

toàn giữa các thành phần cấu tạo của hai thành tố” [37, 21].
Có những ý kiến khác nhau về sự “láy hoàn toàn” này. Song các nhà
ngôn ngữ học đã thống nhất: láy hoàn toàn không phải là sự lặp lại đơn thuần
của âm thành một cách cơ giới mà “ là sự lặp lại âm thanh có biến đổi theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
quy tắc hòa phối ngữ âm chặt chẽ và có tác dụng tạo nghĩa”. Mức độ biến đổi
ngữ âm cụ thể:
Từ láy hoàn toàn giữa hai tiếng giống hệt nhau về thành phần cấu tạo,
chỉ khác nhau về trọng âm, thể hiện ở độ nhấn mạnh và kéo dài trong phát
âm: xanh xanh, ầm ầm, chằm chằm… trọng âm thường rơi vào tiếng thứ hai
của từ.
- Từ láy hoàn toàn có sự khác biệt về thanh điệu. Do hiện tượng phát
âm lướt nhẹ ở tiếng thứ nhất nên có thể xảy ra hiện tượng biến thanh này tạo
thế đối. Sự biến thanh này tuân theo quy luật:
+ Đối lập bằng trắc:
+ Đối lập âm vực cao- thấp theo quy luật cùng âm vực.
Thanh điệu trong từ láy phải tuân theo quy luật: cùng âm vực. Các
thanh ở hai tiếng đều phải có cùng âm vực (hoặc cùng cao: không, sắc, hỏi
hoặc cùng thấp: huyền, ngã, nặng) và nếu đã cùng âm vực thì sẽ đối lập bằng-
trắc. Sự biến thanh này nhằm tạo ra sự hài hòa, dễ đọc, dễ nghe.
Tuy nhiên, cũng có một số từ thanh điệu không tuân theo quy luật cùng
âm vực này: khít khịt, sát sạt…và cả hai tiếng đều có nghĩa. Chính vì vậy
Hoàng Cao Cương đã mở rộng đặc điểm thanh điệu trong từ láy đôi : “các
thanh chung nhau một nét ngữ âm nào đó đều có thể được kết hợp với nhau
trong các từ láy”[13, 6].
- Từ láy hoàn toàn giữa hai tiếng có sự khác nhau về âm cuối. Do hiện
tượng phát âm lướt nhẹ ở tiếng đầu tiên nên trong câu xảy ra hiện tượng biến
vần theo quy luật chặt chẽ: phụ âm tắc vô thanh chuyển thành phụ âm vang

mũi: -p => -m
-t => -n
-k => -ng
* Từ láy bộ phận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Từ láy bộ phận là từ láy trong đó có sự phối hợp ngữ âm của từng bộ
phận, âm tiết theo những nguyên tắc nhất định. Trong từ láy đôi, kiểu láy bộ
phận là kiểu láy chính, xét cả về số lượng từ, cả về tính đa dạng, phong phú
của quy tắc phối hợp âm thanh[ 37, 26].
Dựa vào bộ phận được láy lại, chúng ta có hai kiểu nhỏ: từ láy âm và từ
láy vần.
Từ láy âm: là những từ láy mà âm đầu được láy lại, phần vần khác
nhau, thanh điệu có thể giống hoặc khác nhau. Ví dụ: thập thò, bập bềnh…các
khuôn vần được kết hợp để tạo từ có các nguyên âm chính biến đổi theo quy
luật: có sự luân phiên giữa các nguyên âm khác dòng, cùng độ mở, các
nguyên âm trầm luân phiên với các nguyên âm bổng cùng một bậc âm lượng.
Ví dụ: /u-i/, /ê-a/, /u-ơ/,…
Một số khuôn vần trong từ láy âm có tính sản sinh cao:[a], [u], [âp],
[ăn], [ênh – ang],…
Từ láy vần: là từ láy trong đó phần vần được lặp lại ở hai âm tiết, phần
âm đầu khác biệt. Khi vần đồng nhất thì phần âm đầu phải khác biệt nhau
theo xu hướng: trong mỗi cặp hai phụ âm đầu phải khác nhau về phương thức
và bộ vị cấu âm.
1. 3.1.2.Từ láy ba
Từ láy ba là những đơn vị gồm ba tiếng có sự hòa phối ngữ âm với
nhau, chúng là kết quả của hai lần lặp lại tiếng gốc bằng cách biến đổi theo
những quy tắc nhất định.
Số lượng từ láy ba không nhiều, hầu hết là từ láy hoàn toàn. Quy tắc

điệp – đối được thể hiện trong cấu tạo của từ láy ba là
+ Dị hóa phụ âm đầu: mơ > tơ mơ > lơ tơ mơ
+ Chuyển đổi phụ âm cuối theo /m-p, n-t, ng-k/.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
+ Chuyển đổi thanh điệu: tiếng thứ nhất và tiếng thứ ba phải đối
lập nhau về bằng trắc hoặc đối lập về âm vực cao- thấp. Tiếng thứ hai của từ
láy ba phải mang thanh bằng.
1. 3.1.3.Từ láy tƣ
Có nhiều ý kiến khác nhau về việc xác định bản chất của từ láy tư. Có
người quan niệm từ láy tư là “ hình thức lặp lại trong phạm vi từ lắp láy” [35,
365]. Có quan niệm cho rằng từ láy tư : “là loại từ láy âm xây dựng trên cơ
sở từ láy đôi”. Quan niệm thứ ba lại cho rằng “láy tư là kết quả của phép nhân
đôi từ láy đôi dưới sự chi phối của quy tắc điệp và đối”. Quan niệm khác lại
cho rằng từ láy tư có một phần gốc là một từ ghép.
Theo Hà Quang Năng: từ láy tư là một cấu trúc gồm bốn tiếng trong đó
chỉ có nhiều nhất một tiếng hoặc một cặp đôi hai tiếng liền nhau có ý nghĩa từ
vựng chân thực, có khả năng hoạt động độc lập, nằm trong sự hòa phối âm
thanh với cả tổng thể hoặc cặp hai tiếng còn lại theo những quy luật nhất định
tạo nên ý nghĩa khái quát nào đó [37, 39].
Từ láy tư gồm có những kiểu nhỏ:
- Từ láy tư trong đó lặp lại 2 lần từ láy đôi cơ sở, đồng thời đổi vần của
yếu tố thứ 2 thành [a] hoặc [ơ] cho phù hợp với thanh điệu và âm vực của vần
bị thay thế.
Ví dụ: lập cà lập cập, hớt hơ hớt hải,
- Từ láy tư có sự tách ra giữa hai tiếng ở phần láy và hai tiếng ở phần
gốc. Mỗi tiếng của từ láy đôi cơ sở được ghép thêm một tiếng ở phần láy điệp
vần với nó để tạo nên một cặp láy vần.
Ví dụ: xăng xít => lăng xăng lít xít

Nhồm nhoàm => lồm nhồm loàm nhoàm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
- Từ láy tư được tạo bằng cách láy lại trực tiếp từng tiếng một trong từ
láy đôi cơ sở theo đúng thứ tự của các tiếng của từ láy đôi cơ sở ( AB ->
AABB)
Ví dụ: vội vội vàng vàng
- Từ láy đôi được cấu tạo từ 2 từ láy đôi bộ phận có ý nghĩa từ vựng
tương ứng, gần gũi nhau. Ví dụ: tẩn mẩn tần mần, lôi thôi lếch thếch.
Ngoài ra còn có những từ láy tư không phải cấu tạo trên cơ sở của từ
láy đôi bộ phận, đơn vị gốc là từ đơn hoặc từ ghép. Ví dụ: xa lắc xa lơ, trùng
trùng điệp điệp,…Hoặc có tác giả đặt ra vấn đề kiểu từ láy tư chỉ có trong
phương ngữ nam bộ.
Như vậy, trong phạm vi từ láy tư vẫn còn nhiều vấn đề chưa được
nghiên cứu thỏa đáng.
1.3.2. Đặc điểm ngữ nghĩa
1.3.2.1. Từ láy đôi
Tìm hiểu ngữ nghĩa của từ láy là một sự cần thiết song rất khó khăn, do
đó đã tồn tại nhiều kiểu phân loại khác nhau dựa trên tiêu chí ngữ nghĩa.
Dựa vào “ sự tương quan âm – nghĩa” trong từ láy, Hoàng Tuệ chia từ
láy thành 3 nhóm:
Nhóm 1: gồm những từ : gâu gâu, cu cu… - “ nói chung là những từ
mô tả tiếng vang” [45, 21]
Nhóm 2: làm lụng, lơ thơ… “ những từ bao gồm 1 âm tiết, hình vị” [45,22]
Nhòm 3: lác đác, bâng khuâng… là những từ không bao gồm 1 âm tiết,
hình vị “ nhưng lại là những từ có giá trị biểu cảm rất rõ”. [45,24]
Đỗ Hữu Châu cho rằng từ láy có 2 kiểu ngữ chính: sắc thái hóa và đột
biến so với ý nghĩa của hình vị gốc. Sắc thái hóa là thêm cho ý nghĩa của hình
vị cơ sở một số sắc thái nào đó chứ không thay đổi hẳn nó. Kết quả là thu hẹp

hoặc mở rộng nghĩa so với nghĩa của hình vị gốc. Đột biến là làm cho hình vị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
cơ sở có một sắc thái ý nghĩa mới – đây là trường hợp khó xác định được hình
vị cơ sở, kiểu phân loại này hoàn toàn căn cứ trên cơ sở ý nghĩa của từ láy.
Tuy nhiên, với quan điểm láy là sự hòa phối ngữ âm có giá trị biểu
trưng về nghĩa, chú trọng mối liên hệ âm – nghĩa, Hoàng Văn Hành đã chia từ
láy thành các tiểu loại:
Từ láy biểu trưng hóa ngữ âm đơn giản – từ tượng thanh, từ tiếng vang:
tí tách, lộp bộp…
Từ láy thuộc nhóm này vừa mô phỏng âm thanh tự nhiên theo cơ chế
láy. Nghĩa của chúng có tính chất đơn nhất, là sự bắt chước, mô phỏng âm
thanh tự nhiên. Do đó, mối liên hệ âm – nghĩa không võ đoán.
Từ láy biểu trưng hóa ngữ âm cách điệu: lênh đênh, bâng khuâng…
Những từ láy này đều không xác định được tiếng gốc. Cả từ láy là 1 chỉnh thể
thống nhất. Đây chính là từ láy điển hình về giá trị biểu trưng hóa ngữ âm, kết
quả của sự hòa phối âm nghĩa giữa 2 tiếng không có nghĩa đã tạo nên một
chỉnh thể ngữ nghĩa có giá trị biểu cảm rõ rệt.
Từ láy vừa biểu trưng hóa ngữ âm, vừa chuyên biệt hóa về nghĩa: đỏ
đắn, bồng bềnh, gọn ghẽ… đó là những từ có thể xác định được yếu tố gốc và
yếu tố láy. Ý nghĩa của từ được hình thành trên cơ sở ý nghĩa của yếu tố gốc,
còn yếu tố láy đem lại một sắc thái ý nghĩa nào đó cho từ, làm cho ý nghĩa
của cả từ khác với ý nghĩa của yếu tố gốc khi nó đứng riêng một mình.
Khi tiến hành khảo sát từ láy để làm cơ sơ cho việc thực hiện đề tài,
chúng tôi nhận thấy có một số mô hình ngữ nghĩa tương đối thuần nhất của
một số kiểu láy đã được công nhận:
Với từ láy toàn bộ:
Nếu thành tố gốc đứng sau là tính từ , thành tố láy đứng trước mang
thanh bằng thì ý nghĩa sẽ giảm nhẹ( nhè nhẹ, xanh xanh,…). Ngược lại, thành

tố láy mang thanh trắc thì ý nghĩa mức độ sẽ gia tăng (cỏn con, …).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
Nếu thành tố gốc là động từ thường diễn đạt các hành động lặp đi lặp
lại, cường độ của hành động giảm nhẹ đi( gật gật, rung rung, )
Nếu thành tố gốc là danh từ sẽ diễn tả sự lặp lại của sự kiện, hiện
tượng( ngày ngày, đêm đêm, )
Tuy nhiên việc xác định được yếu tố gốc trong từ láy nhiều trường hợp
không phải là công việc dễ dàng. Bên cạnh những từ có thể xác định được thì
số lượng từ không xác định được yếu tố gốc chiếm số lượng lớn( bâng
khuâng, lấm tấm, ) chúng lại thường rơi vào bộ phận đặc trưng của từ láy
tiếng Việt.
Do đó, khi xem xét đến bình diện ngữ nghĩa, các nhà nghiên cứu đã chú
ý đến việc xác định vai trò của khuôn vần trong việc xác định nghĩa của từ láy.
Khuôn vần là cấu trúc được cấu tạo bằng âm đệm, âm chính, âm cuối,
thanh điệu, giá trị biểu trưng của khuôn vần sẽ được xem xét theo các âm
chính trong sự phối hợp của nó với âm cuối trong từng khuôn vần cụ thể.
Khuôn vần có vai trò to lớn trong việc tạo nên ý nghĩa của từ láy. Dựa vào
khuôn vần, chúng ta cũng có thể tạo ra những từ láy mới theo mô hình sẵn có.
Nhiều tác giả đã nghiên cứu nghĩa của từ láy dựa vào khuôn vần. Phi
Tuyết Hinh đã chỉ ra khoảng 60 khuôn vần mà có thể giải thích được nghĩa
trong tương quan với âm… Nguyễn Đại Bằng tìm nghĩa của khuôn vần theo
những mô hình không gian, sinh vật… nhìn chung, những khuôn vần đã nhận
được sự đồng tình rộng rãi: [a], [i],[u], [âp], [ê – a ], [ung – inh], [ênh – ang ], [ăn]…
Khuôn vần [a] : nguyên âm / a/ có âm lượng lớn nhất, độ mở rộng nhất
. Nhờ đặc điểm cấu âm này nên khuôn vần [a] có khả năng gợi tả những gì có
tính chất mạnh mẽ, to, vang hoặc lớn rộng, kéo dài( ha hả, ngân nga, tất tả)
Khuôn vần [ i]: / i/ là nguyên âm dòng trước, không tròn môi, có độ mở
nhỏ nhất, từ đó khuôn vần [ i] gợi ấn tượng nhỏ bé, ( li ti, lí nhí, )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
Khuôn vần [ấp] : khuôn vần này là sự kết hợp giữa nguyên âm / â/ và
phụ âm môi tắc vô thanh / p/, động tác cấu âm khi kết thúc là sự khép chặt của
môi vì thế nó có khả năng gợi ra trạng thái khép lại, sập xuồng, gấp vào, chìm
xuống, …hoặc trạng thái bám chặt, áp sát( mấp mô, bấp bênh, ). “ Số lượng
các từ láy mang khuôn vần [ ấp] là lớn nhất trong các dạng láy. [37, 60]
Khuôn vần [ăn]: diễn tả tính chất hay trạng thái đạt tới chuẩn mực
Khuôn vần [ ê – a]: đặc trưng cấu âm có sự thay đổi theo hướng tăng cả
về độ mở và độ vang đã gợi ấn tượng không gọn gàng, dài rộng, to lớn( lê la,
khề khà)
1.3.2.2. Từ láy ba, láy tƣ
So với từ láy đôi, số lượng các từ láy ba, láy tư không nhiều, song về ý
nghĩa chúng đều mang đặc điểm chung: ý nghĩa của từ được gia tăng, nhấn
mạnh hơn so với từ cơ sở.
Ví dụ: khít < khít khìn khịt
Mơ < lơ tơ mơ
Lằng nhằng < lằng nhà lằng nhằng
Tóm lại, các từ láy có chung các đặc điểm về hình thức và ngữ nghĩa
như sau:
- Về hình thức: từ láy được sản sinh ra từ phương thức láy. Người ta
phân loại từ láy dựa theo số lượng âm tiết và sự đồng nhất hay khác biệt trong
cấu trúc cấu tạo giữa các âm tiết đó. Hình thức ngữ âm của từ láy chịu sự chi
phối của những quy luật nhất định( quy luật thanh điệu, quy luật biến đổi âm cuối)
- Về ngữ nghĩa: ý nghĩa của từ láy đã được tiếp cận từ nhiều góc độ(
đơn thuần dựa vào cấu trúc, hay ngữ nghĩa, dựa vào tương quan âm – nghĩa,
tính có lí do của từ láy). Chúng tôi nhận thấy nhìn chung ý nghĩa của các từ
láy bên cạnh giá trị biểu trưng do sự hòa phối ngữ âm mang lại đều đem lại sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


25
chi tiết cụ thể trong ấn tượng của người sử dụng. Đây chính là đặc điểm sẽ
tạo lợi thế cho từ láy khi đi và các sáng tác nghệ thuật
1.4. Láy và các biện pháp nghệ thuật trong văn chƣơng
1.4.1. Tính nghệ thuật của văn chƣơng
Văn chương nói riêng và các loại hình nghệ thuật nói chung là hình thái
ý thức xã hội đặc thù thể hiện sự phản ánh của con người về thiên nhiên, xã
hội trong mối quan hệ thẩm mỹ với con người. Đó không phải là sự phản ánh
bằng các khái niệm, công thức, con số mà là sự phản ánh một cách nghệ thuật.
Hiện thực cuộc sống đã được sàng lọc qua lăng kính chủ quan của người nghệ
sĩ. Họ nhận thức và phản ánh bằng hình tượng nghệ thuật. Do vậy, tính nghệ
thuật tất yếu luôn được đặt lên hàng đầu. Bàn về "tính nghệ thuật", "Từ điển
thuật ngữ văn học" chỉ rõ:
- Tính nghệ thuật “ theo nghĩa rộng là khái niệm chỉ đặc trưng loại biệt
của nghệ thuật, phân biệt với các hình thái ý thức xã hội khác. Với ý nghĩa
này, tính nghệ thuật thể hiện ở đặc trưng của đối tượng miêu tả, của nội dung
và hình thức chiếm lĩnh đời sống, của phương thức biểu hiện…mà tập trung
nhất là ở hình tượng nghệ thuật”. Khi đó tính nghệ thuật có sự gần gũi với
khái niệm tính hình tượng.
- Theo nghĩa hẹp, tính nghệ thuật thể hiện ở cấu trúc độc đáo, miêu tả
sinh động, kết cấu tài tình, ngôn ngữ gợi cảm, gây ấn tượng đặc biệt tạo thành
sức thuyết phục và lôi cuốn của tác phẩm. Tính nghệ thuật gắn với sự khái
quát chân lý đời sống, với lý tưởng cao đẹp và tính sáng tạo của nhà văn, nó
thể hiện ở sự thống nhất hoàn mỹ giữa nội dung và hình thức nghệ thuật của
một chỉnh thể là tác phẩm văn học. [ 22 ,354]
Tương tự, Phương Lựu khẳng định: tính nghệ thuật:
“ Đó là một phẩm chất tiêu biểu văn nghệ với tư cách là một hình thái ý
thức xã hội đặc thù. Không nên hiểu tính nghệ thuật một cách cứng nhắc như

×