Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật hoại tử ruột do tắc ruột sau mổ tại bệnh viện hữu nghị việt đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 95 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tắc ruột sau mổ là một cấp cứu bụng ngoại khoa hay gặp và là hình thái
tắc ruột chiếm tỷ lệ cao nhất của tắc ruột cơ học nói chung. [3], [24], [34] Tắc
ruột sau mổ là loại tắc ruột cơ học xảy ra sau mổ và trực tiếp do cuộc mổ gây
nên. Nguyên nhân của tắc ruột sau mổ có thể do dính ruột, xoắn ruột, dây
chằng, xơ hẹp ruột…….vv.
Bệnh có thể xuất hiện sớm ngay trong giai đoạn hậu phẫu hoặc sau đó
nhiều năm. Tỷ lệ tắc ruột sau mổ xảy ra trên 10% trong số những trường hợp
cấp cứu bụng ngoại khoa và có xu hướng giảm đi trong những năm gần đây
do sự phát triển vế kỹ thuật cũng như sự phát triển của phẫu thuật nội soi ổ
bụng nói chung [14].
Trước đây tỷ lệ tử vong do tắc ruột sau mổ là 3-10% [9]. Trong những
trường hợp tắc ruột do nghẹt tỷ lệ này có thể lên đến 20-30% mà nguyên
nhân chủ yếu là phẫu thuật muộn khi ruột đã hoại tử gây ra tình trạng nhiễm
trùng nhiễm độc.[9], [24], [34].
Cho đến nay mặc dù đã có nhiều phương pháp chẩn đoán cận lâm sàng
được áp dụng nhưng việc chẩn đoán tắc ruột sau mổ, xác định đoạn ruột bị
nghẹt và hoại tử vẫn là một khó khăn. Tỷ lệ hoại tử ruột do nghẹt ruột sau mổ
vẫn còn cao.
Do đó trong tắc ruột sau mổ việc phát hiện sớm các dấu hiệu nghẹt ruột,
việc đưa ra quyết định bảo tồn khi nào và điều trị phẫu thuật khi nào một cách
hợp lý nhằm giảm biến chứng và nguy cơ tử vong cho bệnh nhân là hết sức
quan trọng.
2
Đối với những bệnh nhân đến muộn các biểu hiện lâm sàng nặng nề, sốc,
truỵ mạch, nhiễm trùng nhiễm độc, mất nước điện giải nghiêm trọng, thiểu
niệu, vô niệu. Việc chẩn đoán và chỉ định phẫu thuật không khó nhưng tiên
lượng xấu, tỷ lệ tử vong cao. Do vậy một yêu cầu đặt ra với các thầy thuốc là
phải chẩn đoán và xử lý sớm được tắc ruột sau mổ.
Xuất phát từ lý do trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài” Đánh giá


kết quả điều trị phẫu thuật hoại tử ruột do tắc ruột sau mổ tại bệnh viện
hữu nghị Việt Đức” từ tháng 1 năm 2011 tới tháng 6 năm 2013 nhằm hai
mục tiêu:
1. Mô tả các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và nguyên nhân
của hoại tử ruột do tắc ruột sau mổ.
2. Đánh giá kết quả sau phẫu thuật.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Giai phẫu và sinh lý của phúc mạc và ruột non.[15]
1.1.1. Phúc mạc
Phúc mạc là một lớp thanh mạc liên tục, che phủ mặt trong tất cả các
thành bụng, và lộn vào trong để bọc lấy tất cả các tạng thuộc ống tiêu hoá và
một vài tạng khác ở trong ổ bụng. Như vậy phúc mạc đã tạo thành một màng
túi kín ở trong ổ bụng.
Đây là một khoang ảo vì tạng nọ áp sát vào tạng kia. Mọi can thiệp vào
các cơ quan trong ổ bụng có thể làm tổn thương phúc mạc và có thể gây ra tắc
ruột sau mổ.
Các thành phần của phúc mạc có liên quan đến sự dính của ruột
sau mổ:
Ổ phúc mạc có hai phần: một phần chính là “ ổ phúc mạc lớn” hay “túi
lớn” và một nghách phụ nằm trong ổ lớn gọi là “túi mạc nối” hay “túi nhỏ”.
Mạc nối lớn: Hai lá phúc mạc tách ra bao lấy dạ dày, chập lại với nhau tại
bờ cong lớn dạ dày rồi vòng thành một quai đi xuống, rồi đi lên bám vào suốt
chiều dài đại tràng ngang tạo thành mạc nối lớn.
Mạc treo đại tràng ngang: lớp phúc mạc bao lấy đại tràng ngang chạy lên
trên ra sau tới thành bụng để bám dọc theo mặt trước của tuỵ tạo thành mạc
treo đại tràng ngang.
Mạc treo ruột non: tại rễ mạc treo đại tràng ngang hai lá phúc mạc tách
xa nhau, lá trên chạy lên thành bụng sau để lật lên gan, lá dưới chạy xuống

dưới trên phần dưới thành bụng sau phủ lên các tạng chậu hông để tiếp nối
4
với phúc mạc của thành bụng trước, lá phúc mạc phủ phần dưới thành bụng
sau bị gián đoạn do gấp nếp lại dọc một đường chếch từ góc tá hổng tràng tới
góc hồi manh tràng tạo nên mạc treo ruột non.
Phúc mạc thành dễ bóc vì còn ngăn cách với mạc ngang của thành bụng
bởi một khoang ngoài phúc mạc chứa đầy mô liên kết lỏng lẻo gọi là mô liên
kết ngoài phúc mạc.
Mô liên kết ngoài phúc mạc ít nhiều thay đổi, tuỳ từng vùng, về lượng
mô xơ và mỡ chứa đựng bên trong. Mô dày đặc hơn ở dưới cơ hoành và ở sau
đường trắng giữa nên phúc mạc thành cũng dính chặt hơn ở các vùng đó.
Song mô lại đặc biệt lỏng lẻo ở những nơi cần thích nghi với sự thay đổi kích
thước của tạng ví dụ ở phần trước dưới thành bụng và phần trước chậu hông.
1.1.2. Sự dính của phúc mạc khi bị tổn thương.
Về mặt cấu tạo phúc mạc được cấu tạo từ hai lớp:
Lớp thanh mạc là một lớp tế bào biểu mô lát đơn luôn tiết ra một lớp
dịch mỏng làm thấm ướt phúc mạc giúp cho chúng trơn trượt lên nhau một
cách dễ dàng trong ổ bụng.
Lớp dưới thanh mạc là lớp mô sợi liên kết góp phần thúc đẩy quá trình
tạo sợi và dính trong bụng nhất là khi phúc mạc bị tổn thương.
Phúc mạc được cấp huyết bởi các mạch máu nhỏ, xuất phát từ những
nguồn khác nhau: phúc mạc thành được cấp máu bởi các mạch máu của thành
bụng còn phúc mạc tạng được cấp huyết bởi các mạch máu của các tạng.
Thần kinh của phúc mạc tương đối ít. Thần kinh cảm giác thường gặp
nhiều hơn ở phúc mạc thành, phúc mạc tạng không có cảm giác với đau đớn,
xúc giác, nóng lạnh.
5
Hình1.1. Thiết đồ đứng dọc giữa ổ bụng.
Nguồn: Frank H Nette, atlat giải phẫu người.NXB Y Học (2001), tr 356
6

1.1.3. Hỗng hồi tràng:
1.1.3.1. Giới hạn và vị trí:
Hỗng tràng, hồi tràng là hai đoạn liên tiếp của tiểu tràng, đi từ góc tá
hỗng tràng đến góc hồi manh tràng. Cả hai đoạn cùng uốn khúc thành những
quai ruột và cũng được treo vào thành bụng sau bởi một mạc treo chung: mạc
treo tiểu tràng.
Kích thước:
Chiều dài: hỗng - hồi tràng dài trung bình khoảng 6.5m. Hỗng tràng dài
khoảng 5.8m, hồi tràng khoảng 0.7m.
Chiều rộng: các khúc đầu của hỗng tràng rộng tới 3cm, các khúc cuối
của hồi tràng bé dần lại khoảng 2cm.
1.1.3.2. Hình thể ngoài:
Hỗng - hồi tràng được bọc trong phúc mạc, trừ chỗ bám của mạc treo
tiểu tràng, nên mỗi khúc ruột có thể phân biệt được hai bờ: bờ mạc treo và bờ
tự do.
Trong ổ phúc mạc hỗng - hồi tràng uốn cuộn thành độ 14 -16 quai ruột
hình chữ U, mỗi quai dài độ 20-25cm (đôi khi 30-40cm) xếp theo chiều
hướng khác nhau tuỳ vị trí.
Phần trên thì nằm ngang, khúc nọ chồng lên khúc kia ở giữa và ở bên trái
ổ bụng.
Phần dưới thì nằm dọc, khúc nọ ở cạnh khúc kia, ở phần trung tâm ổ
bụng trong chậu hông và hố chậu phải đến 10 – 15cm cuối cùng thì lại chạy
ngang để đổ thẳng góc vào manh tràng.
7
Đoạn cuối cùng của hồi tràng rất ít mạch nuôi dưỡng nên được gọi là
vùng vô mạch Trèves, nên khi cắt nối đoạn ruột thì nên cắt xa góc hồi manh
tràng ít nhất là 30 cm.
Hình 1.2. Niêm mạc và cơ ruột non
Nguồn: Frank H Nette, atlat giải phẫu người.NXB Y Học (2001), tr 285.
8

1.2. Nguyên nhân và cơ chế phát sinh tắc ruột sau mổ.
1.2.1. Cơ chế hình thành dính ruột:
Bất cứ can thiệp nào vào ổ phúc mạc cũng có thể gây tổn thương phúc
mạc ( chấn thương, nhiễm trùng, phản ứng viêm do dị vật… ) và gây ra dính,
dây chằng trong ổ bụng. Các tổn thương phúc mạc tiến triển theo hai hướng:
Hoặc tái tạo lại phúc mạc nhờ sự phát triển của các tế bào biểu mô che
phủ phần phúc mạc bị tổn thương. Nguồn gốc của các tế bào biểu mô này
đang được tranh luận, trước kia người ta cho rằng các tế bào này có nguồn
gốc từ những tế bào đa năng dưới biểu mô[35][40]. Nhưng những nghiên cứu
sau này đã chứng minh được vai trò quan trọng của các tế bào xung quanh nơi
tổn thương kể cả những tế bào có trong dịch phúc mạc[40].
Hoặc tiến triển theo hướng bệnh lý: các tế bào xơ và các mạch máu tân
tạo phát triển tạo nên các dây chằng và dính[32]. Quá trình này diễn ra trong
khoảng 6 -8 ngày nhưng khó có thể xác định chính xác thời gian hình thành
vĩnh viễn dính và dây chằng.
1.2.2. Các yếu tố nguy cơ
Tình trạng nhiễm trùng của ổ bụng: ổ bụng trong lần mổ trước càng bẩn
bao nhiêu thì khả năng tắc ruột sau mổ càng nhiều bấy nhiêu . Khi trong ổ
bụng có nhiều mủ , nhiều giả mạc mà lau rửa không hết thì nhiều nhả năng
gây tắc ruột , ví dụ mổ viêm ruột thừa sung huyết rất ít thấy tắc ruột , ngược
lại ruột thừa vỡ mủ khả năng tắc ruột tăng lên gấp bội .[52]
Tính chất của phẫu thuật lần trước : phẫu thuật hữu trùng nhiều nguy cơ
tắc ruột hơn phẫu thuật vô trùng như mổ ruột thừa tỉ lệ tắc ruột sau mổ nhiều
hơn mổ chửa ngoài tử cung vỡ …[22]
9
Phẫu thuật có mở đường tiêu hóa dễ gây tắc ruột hơn không mở đường
tiêu hóa vì dịch tiêu hóa chảy vào ổ bụng làm nhiễm khuẩn ổ bụng .
Phẫu thuật ở tầng trên mạc treo đại tràng ngang ít gây tắc ruột hơn
tầng dưới mạc treo đại tràng ngang vì ruột nằm ở tầng dưới mạc treo đại
tràng ngang.

Phẫu thuật gỡ dính trong lần mổ trước làm trầy rách thanh mạc dễ dính
ruột về sau . Mổ nhiều lần , dễ gây dính ruột , thành bụng nhiều vết mổ càng
dễ dính ruột . Động tác thô bạo, đụng chạm nhiều, lôi kéo nhiều gây tổn
thương thanh mạc ruột dễ gây dính tắc ruột. Để ruột ra khỏi ổ bụng làm thanh
mạc ruột khô mất trơn láng. Khâu lộn mép phúc mạc vào trong ổ bụng (ổ
phúc mạc ) gây dính ruột. Máu đọng lại trong ổ bụng tạo thành những cục
những sợi máu đông sẽ thành các dây dính sau này. Không lau rửa sạch ổ
bụng: mủ, giả mạc, dịch mật, dịch tiêu hóa ứ đọng dễ gây tắc ruột . Các dị vật
bỏ sót trong xoang phúc mạc : đầu sợi chỉ, gạc là nguyên nhân gây dính tắc
ruột [23].
1.2.3. Các nguyên nhân tắc ruột sau mổ :
1.2.3.1. Dính ruột.
Bình thường ruột non từ góc tá - hỗng tràng đến góc hồi - manh tràng di
động, trượt lên nhau dễ dàng. Khi thanh mạc mất trơn láng do bị tổn thương,
các quai ruột nằm sát cạnh nhau sẽ dính lại với nhau. Sự hình thành dính sau
mổ có thể gặp từ 50-95% trường hợp và gần như không thể tránh được[44].
Nhưng không phải hễ có dính là có tắc. Chỉ khi nào dính làm gập góc đột ngột
thì mới gây tắc. Ước chừng chỉ có 30% trường hợp dính gây tắc[10], [19]. Do
đó trong khi mổ tắc ruột phải nhận định đúng chỗ nào gây tắc, chỗ nào không
để xử lý đúng thương tổn. Dính có khi ở một diện hẹp, có thể ở một khúc
10
ruột, có khi gần toàn bộ hay toàn bộ ruột non bắt đầu từ góc tá - hỗng tràng
cho đến góc hồi - manh tràng.
Dính có thể mỏng yếu, có thể dầy chắc, có thể lỏng lẻo, gỡ dễ dàng, có
khi rất chắc như hàn lại với nhau rất khó gỡ và dễ bị thủng ruột. Dính ruột có
khi không gây tắc nhưng làm hẹp lòng ruột, lưu thông ruột khó khăn[22][23]
[10].
1.2.3.2. Dây chằng
Dây chằng bao giờ cũng tiếp theo sau sự hình thành các tổ chức dính.
Dây chằng được tạo nên do máu cục, do mủ, do giả mạc đi từ thành bụng tới

ruột hay tới mạc treo, đi từ quai ruột nọ tới quai ruột kia. Những dây chằng rất
chắc và ngắn có thể chèn một khúc ruột tạo nên tắc ruột do bít hay chẹn cả
mạc treo của nhiều quai ruột gây nên tắc ruột do thắt, xoắn.
Xử lý tắc ruột do dây chằng thường rất đơn giản nhưng nhiều khi cũng
rất phức tạp vì quai ruột sớm bị hoại tử do bị thắt, bị xoắn bởi dây chằng[22].
1.2.3.3. Xoắn ruột.
Yếu tố thuận lợi cho xoắn ruột là quai ruột nặng do bã thức ăn, do búi
giun. Xoắn thường xảy ra do dây chằng hoặc do dính hai đầu của một quai
ruột với nhau tạo nên điểm quay, khi gặp điều kiện thuận lợi, quai ruột sẽ bị
xoắn tại điểm đó nếu để muộn sẽ gây hoại tử ruột[20].
1.2.3.4. Thoát vị nghẹt trong ổ bụng.
Thoát vị nghẹt trong ổ bụng (thoát vị nội nghẹt) sau mổ rất ít gặp,
thường xảy ra do sai sót kỹ thuật của lần mổ trước như không đóng kín lỗ mạc
treo làm ruột chui vào và mắc kẹt tại đó.
1.2.3.5. Lồng ruột.
Đặc điểm của lồng ruột là một đoạn ruột cùng mạc treo chui vào trong
một đoạn ruột khác nằm phía dưới, đầu lồng tiến triển dần theo chiều nhu
11
động ruột. Hiện tượng thắt nghẽn xảy ra ở cổ khối lồng và khối lồng bị thiểu
dưỡng. Bệnh ít khi xảy ra ở người lớn và luôn luôn có nguyên nhân cơ học
như bướu, polip…. Các bất thường trong cấu trúc giải phẫu của ruột[19].
1.2.3.6. Tắc ruột sau viêm nhiễm.
Thường thấy sau khi mổ, một phần hoặc toàn bộ các quai ruột non bị
dính thành một khối do các dây dính rất hỗn độn. Các dây dính tạo chỗ gập
góc làm đình trệ sự lưu thông trong ruột. Bệnh cảnh lâm sàng của một trường
hợp tắc ruột non diễn biến trong vài giờ. Chỉ định mổ được xét đến khi cơn
tắc không hết hoặc có các dấu hiệu hoại tử ruột.
1.2.3.7. Tắc ruột trong thai kỳ.
Có thể do dính trong mổ lấy thai lần trước.
1.2.3.8. Nghẹt ruột sau mổ làm hậu môn nhân tạo.

Được xem là đơn giản nhưng cũng có báo cáo những biến chứng do ruột
chui vào khe giữa quai ruột được đưa lên làm hậu môn nhân tạo và thành
bụng gây nghẹt ruột hoại tử[25].
1.3. Sinh lý bệnh của tắc ruột sau mổ:[2]
Khi tắc ruột tuỳ thuộc nguyên nhân, thời gian diễn biến bệnh mà sẽ gây
ra các rối loạn toàn thân và tại chỗ.
1.3.1 Tại chỗ:
Tăng nhu động ruột: trong giai đoạn đầu của bệnh, nhu động của ruột
tăng cả về tầng số và cường độ, cố gắng đẩy các chất trong lòng ruột qua chỗ
tắc làm cho áp lực trong lòng ruột tăng, sau đó nhu động giảm xuống và dừng
lại, sau một thời gian yên lặng, nhu động ruột lại tăng trở lại. Hiện tượng nhu
động ruột tương ứng với những cơn đau bụng của bệnh nhân[45].
Trong giai đoạn muộn hơn khi quai ruột trên chỗ tắc giãn căng, nhu động
sẽ thưa dần sau đó mất, nhất là trong trường hợp tắc ruột do nghẹt ruột.[47].
12
Chướng ruột: bình thường trong lòng ruột có hơi, dịch và nhũ trấp. Hơi
có từ hai nguồn 80% là do nuốt vào và 20% là do hiện tượng lên men trong
lòng ruột. Trong tắc ruột hơi ứ đọng ở đoạn ruột trên chỗ tắc từ nuốt không
khí và một phần từ sự trung hoà Bicarbonat cộng thêm với sự lên men của vi
khuẩn trong lòng ruột. Vì khi Nitrogene không được hấp thu bởi niêm mạc
ruột nên hậu quả là ruột ứ đọng nhiều ở đoạn ruột trên chỗ tắc. [39],[25].
Vi khuẩn phát triển: trong tắc ruột các quai ruột ở trên chỗ bị tắc giãn do
ứ trệ dịch và hơi, vi khuẩn tại đó phát triển mạnh đồng thời ruột giãn làm cho
niêm mạc ruột bị tổn thương do ứ trệ tuần hoàn và thiếu máu, vi khuẩn và độc
tố vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào máu qua thành ruột vào ổ bụng gây ra tình
trạng nhiễm trùng nhiễm độc do vậy trong điều trị tắc ruột cần dùng kháng
sinh toàn thân sớm.
Rối loạn tuần hoàn ruột: áp lực ruột bình thường từ 2 – 4 mmHg. Khi
ruột bị tắc đoạn ruột phía trên giãn căng do ứ trệ hơi và dịch tiêu hoá làm cho
áp lực trong lòng ruột tăng cao, có khi tăng gấp 10 lần bình thường, tuy nhiên

người ta chỉ đo được áp lực từ 1 -14 mm Hg nhờ khả năng tự giảm áp lực
bằng cách trào ngược dịch và hơi lên dạ dày. Sự ứ đọng và ứ trệ tuần hoàn do
tăng áp lực trong lòng ruột phối hợp với hiện tượng co thắt tiểu động mạch
làm cho ruột thiếu máu phù nề dẫn đến hoại tử. Trong trường hợp tắc ruột do
nghẹt ruột, ruột và mạc treo bị nghẹt gây thiếu máu ruột dẫn đến hoại tử ruột
nhanh chóng.[41].
1.3.2. Toàn thân:
Các rối loạn toàn thân là hậu quả của rối loạn tại chỗ.
Mất nước, điện giải và rối loạn thăng bằng kiềm toan do:
Nôn do phản xạ: do trào ngược đẩy lượng dịch ứ đọng trên chỗ tắc ra
ngoài làm giảm áp lòng ruột.
13
Giảm hấp thu ruột và tăng tính thấm thành mạch làm mất nước từ lòng
mạch vào ruột.
Nhiễm trùng nhiễm độc: do độc tố của vi khuẩn, và các vi khuẩn xâm
nhập vào máu và ổ phúc mạc. Tình trạng này còn xuất hiện muộn nhất là khi
thiếu máu hoại tử.
Rối loạn toàn thân gây nên hàng loạt các biểu hiện trên lâm sàng như:
mất nước điện giải, máu cô đặc, Hematocrit tăng, hồng cầu, bạch cầu tăng,
sốt, suy thận, sốc nhiễm trùng nhiễm độc…vv.
1.4. Triệu chứng lâm sàng:
Chẩn đoán TRSM trong những trường hợp điển hình không khó nhất là
trên một bệnh nhân có tiền sử mổ bụng, có đau, nôn, bí trung đại tiện và
trướng bụng. Nhưng nếu chỉ dựa vào 4 triệu chứng đó một cách máy móc để
chẩn đoán tắc ruột thì sẽ không chính xác và sẽ để muộn vì mức độ thể hiện
của các triệu chứng trên rõ hay không, đầy đủ hay không là do bệnh nhân
đến sớm hay muộn, tắc ở vị trí cao hay thấp, tắc do bít hay tắc do thắt,[5], [6].
1.4.1. Tiền sử:
- Có tiền sử mổ vào phúc mạc một hoặc nhiều lần.
- Có sẹo mổ cũ ở vùng bụng liên quan đến ổ phúc mạc.

1.4.2. Bệnh sử.
Đau bụng:
Là triệu chứng luôn có và xuất hiện đầu tiên, đây là biểu hiện sự chịu
đựng của bệnh nhân một cách hoàn toàn chủ quan. Có người đau ít, có người
đau nhiều, có khi đau ít nhưng tổn thương ở ruột đã rất nặng nên không thể
lấy mức độ đau để chẩn đoán mức độ trầm trọng của bệnh.
Nôn:
Là triệu chứng xuất hiện khá sớm kèm với đau, nôn nhiều, nôn ít, không
nôn đều có thể gặp trong tắc ruột. Nôn nhiều, nôn ít sớm hay muộn còn phụ thuộc
14
vào vị trí tắc, tắc càng cao thì nôn càng nhiều lúc đầu nôn ra dịch tiêu hoá, giai đoạn
muộn bệnh nhân có thể nôn ra dịch ruột hoặc dịch bẩn như phân.
Bí trung đại tiện:
Là triệu chứng then chốt hay là triệu chứng chìa khoá để chẩn đoán tắc
ruột nhưng triệu chứng này ít có ý nghĩa trong chẩn đoán sớm vì phụ thuộc
vào chủ quan của người bệnh và phụ thuộc vào thời gian theo dõi. Nhiều khi
bệnh nhân có tắc ruột nhưng vẫn trung và đại tiện được.
Chướng bụng:
Xuất hiện muộn hơn và ở các mức độ khác nhau, tuỳ theo vị trí tắc, tắc
hoàn toàn hay không, dễ đánh giá ở bệnh nhân có thể trạng gầy, khó đánh giá
ở những bệnh nhân béo hay đang mang thai. Bụng không chướng ngay từ đầu
và cũng rất thay đổi. Lúc đầu chỉ chướng ở giữa bụng hoặc ở mạng sườn, sau
đó bụng chướng dần lên. Trong tắc hỗng tràng cao, sát góc Treitz, bụng không
chướng, thậm chí là bụng xẹp. Bụng chướng nhiều trong tắc ruột muộn,
chướng đều trong tắc ruột do bít tắc, chướng lệch trong xoắn ruột nghẹt.
Quai ruột nổi:
Nhìn có thể thấy khối phồng trên thành bụng, sờ nắn có cảm giác căng, bờ
rõ, gõ vang. Khi sờ thấy một quai ruột rất căng và đau, không di động (dấu hiệu
VolWahl) là dấu hiệu rất có giá trị để chẩn đoán là tắc do xoắn, nghẹt ruột.
Dấu hiệu rắn bò:

Trong cơn đau thấy quai ruột nổi gồ và di chuyển trên thành bụng. Đây
là dấu hiệu đặc trưng nhất của tắc ruột cơ học. Nhưng khi không có dấu hiệu
này cũng không loại trừ được tắc ruột.
Nếu có điểm đau, phản ứng thành bụng thường do nghẹt ruột. Các dấu
hiệu viêm phúc mạc thấy khi ruột đã bị hoại tử.
15
Đặc biệt trong tắc ruột sớm sau mổ là bệnh nhân rất khó chẩn đoán, khi
bệnh nhân chưa có trung tiện. Thầy thuốc thường bỏ qua hoặc nhầm với có
nhu động trở lại hoặc cho rằng còn liệt ruột sau mổ
- Triệu chứng toàn thân phụ thuộc vào giai đoạn tắc ruột sớm hay muộn
và do nghẹt hay do nghẽn
+ Giai đoạn đầu: không rõ mất nước.
+ Giai đoạn tiếp theo: mất nước.
+ Giai đoạn muộn: sốc do giảm khối lượng tuần hoàn và do nhiễm trùng
nhiễm độc.
Mức độ thể hiện của triệu chứng trên rõ rệt hay không; đầy đủ hay không
tùy thuộc bệnh nhân đến sớm hay đến muộn, vị trí tắc ruột cao hay thấp.[10],
[19], [25], [21].
Tắc ruột do xoắn ruột là hình thái điển hình nhất và hậu quả xảy ra nhanh
chóng và nặng nề nhất trong các loại tắc ruột cơ chế thắt nghẹt . Quai ruột
xoắn nghẹt giãn to hơi rất ít trừ xoắn đại tràng , ruột bị tổn thương làm cho
hàng rào bảo vệ bị phá hủy , nội độc tố vi khuẩn tái hấp thu , dẫn đến nhiễm
trùng nhiễm độc , phối hợp với sốc giảm khối lượng tuần hoàn , động mạch
mạc treo cũng bị tắc gây thiếu máu nuôi dưỡng cuối cùng ruột cũng bị hoại tử
1.5. Cận lâm sàng:
1.5.1 Hình ảnh X. quang trên phim chụp bụng không chuẩn bị:
Trên film chụp không chuẩn bị, không thấy được hỗng - hồi tràng, có
thấy đại tràng gián tiếp qua một vài hình hơi. Khi tắc ruột các chất dịch và hơi
bị đình trệ và ứ lại trên chỗ tắc tạo nên hình ảnh đặc hiệu của tắc ruột là hình
mức nước-hơi. Vị trí, hình thể và số lượng của các hình mức nước-hơi này là

những dấu hiệu quan trọng để chẩn đoán.[13] Các hình mức nước hơi có chân
rộng và tập trung ở giữa ổ bụng là tắc ruột non.
16
Khi tắc thấp ở đại tràng các hình mức nước hơi có chân hẹp và nằm dọc
khung đại tràng.
Trong tắc ruột, dấu hiệu X.quang có rất sớm, dấu hiệu ứ đọng hơi và
dịch trong ruột non xuất hiện ngay trong 2 giờ đầu, sau 3 - 7 giờ, sự ứ đọng
dịch và hơi đã có thể gây trướng bụng và hình mức nước-hơi trên film
X.quang đã lớn; cá biệt có trường hợp bụng xẹp hoàn toàn nhưng hình mức
nước-hơi trên film X.quang đã khá rõ. X.quang bụng không chuẩn bị giúp cho
chẩn đoán sớm tắc ruột, nhất là khi triệu chứng lâm sàng còn chưa rõ hay
còn đang nghi ngờ. Trong một số trường hợp X.quang có thể chẩn đoán
được vị trí tắc một cách tương đối (hỗng tràng, hồi tràng hay đại tràng) nhờ
dựa vào hình ảnh của các van tràng khi quai ruột giãn lớn.
Phim chụp bụng không chuẩn bị phải thấy rõ toàn bộ ổ bụng, tiểu
khung, cơ hoành. Để đánh giá tiến triển của tắc ruột, tuỳ theo từng trường hợp
cụ thể (mức độ tắc, diễn biến lâm sàng) người ta phải chụp rất nhiều phim,
dựa vào hình ảnh của các phim chụp cách nhau từ 3 giờ, 6 giờ hoặc 12 giờ.
Tỷ lệ chẩn đoán tắc ruột trên film X.quang bụng không chuẩn bị vào
khoảng 76 - 90 % tuỳ từng tác giả, dấu hiệu X.quang không thể cho ta một
chẩn đoán quyết định nhưng nó cho những dấu hiệu chính xác, phối hợp với
bệnh cảnh lâm sàng có thể chẩn đoán xác định.[24],[25],[26],[27],[13].
Tuy vậy nhưng X quang nói chung không có giá trị chẩn đoán mức độ
nặng nhẹ của bệnh. Phim X quang có nhiều mức nước hơi không đồng nghĩa
với tổn thương nặng hơn phim có ít mức nước hơi. Trong khi đó dấu hiệu có
dịch ở bụng là dấu hiệu báo hiệu bệnh rất nặng lại khó và ít thấy trên phim.
1.5.2 Hình ảnh siêu âm:
Siêu âm ổ bụng cho thấy hình ảnh ruột giãn hơi và chứa nhiều dịch do
tắc ruột. Một số nghiên cứu cho thấy siêu âm ổ bụng có thể xác định được vị
trí tắc và nguyên nhân tắc , xoắn , nghẹt ruột . Trong giai đoạn đầu khi ruột

17
chưa giãn , siêu âm có thể phát hiện một số nguyên nhân như lồng ruột , khối
u, các ổ áp xe trong ổ bụng [28].
Nguyên nhân tắc ruột sau mổ hay gặp nhất là các dây dính nhưng siêu
âm lại không thấy được, và sự hiện diện quá nhiều khí trong đường tiêu hóa
lại là nguyên nhân cơ bản cản trở sóng siêu âm .Tuy nhiên một số trường hợp
tắc ruột cơ học có hơi trong ruột không đáng kể, siêu âm lại có ích [8] .
Các hình ảnh siêu âm giúp chẩn đoán tắc ruột là[4]:
- Khẩu kính lòng ruột lớn hơn bình thường.
- Trong lòng ruột chứa dịch, hơi và các chất khác.
- Độ dày thành ruột thay đổi: ở giai đoạn đầu độ dày thành ruột giảm đi
(<3mm) nhưng ở giai đoạn sau, khi đã có phù nề thì độ dày thành ruột tăng
(>5mm), dày cả chu vi, đồng đều và cân xứng. Dấu hiệu thành ruột dày có
mối liên quan đến cơ chế tắc và hoại tử ruột. Trong tắc ruột do nghẹt, do tổn
thương bó mạch, thần kinh ruột nên dấu hiệu dày thành ruột xuất hiện rất
sớm, chính vì vậy dấu hiệu dày thành ruột là một thông điệp cho chúng ta biết
biến chứng , cơ chế và giai đoạn của tắc ruột.[4]
- Tăng nhu động ruột từng lúc trên vị trí tắc. Đặc biệt là sự chuyển động tiến,
lui và chuyển động xoáy của chất dịch trong lòng ruột.
- Một quai ruột mất hoàn toàn nhu động, trong khi những quai ruột khác vẫn
còn nhu động (dấu hiệu quan trọng để phân biệt với liệt ruột cơ năng);
- Trong tắc ruột do thắt ( xoắn, dây chằng), quai ruột bị thắt nghẹt bị
đóng kín hai đầu. Tại chỗ bị thắt, tĩnh mạch bao giờ cũng nghẹt trước, hiện
tượng trên đã làm ứ trệ toàn bộ hệ thống tĩnh mạch của quai ruột bị thắt nghẹt
một cách nhanh chóng. Dịch thấm sẽ nhanh chóng làm giãn căng quai ruột bị
đóng kín và tràn ngập ổ phúc mạc [7]. Tốc độ hình thành dịch trong ổ bụng
càng nhanh khi đoạn ruột bị thắt nghẹt càng dài.
18
Hình 1.3. ảnh siêu âm hai quai
ruột giãn to, trong lòng chứa đầy

dịch do tắc ruột (mũi tên trắng), ổ
bụng có dịch xen giữa các quai
ruột (mũi tên đen)
Nguồn: Stephanie R. Wilson, siêu âm
chẩn đoán, NXB Y học (2004), Tr 281
(võ Tấn Đức, Nguyễn Quang Thái
Dương biên dịch )
Siêu âm không những cho phép khảo sát biến đổi về hình thái của thành
ruột mà còn cho phép khảo sát huyết động trong các mạch máu trên thành
ruột, mạc treo ruột, động mạch chủ bụng và tình trạng ổ bụng. Tình trạng
thiếu máu biểu hiện bởi sự giảm hẳn hoặc mất hoàn toàn tín hiệu Doppler trên
thành ruột bị tổn thương.[26]
1.6. Chẩn đoán hoại tử ruột.
Việc chẩn đoán tắc ruột sau mổ tương đối dễ dàng nhờ thăm khám lâm
sàng và hình ảnh X quang, tuy nhiên việc chỉ định điều trị bảo tồn hay phẫu
thuật còn gặp nhiều khó khăn do trong nhiều trường hợp biểu hiện lâm sàng
không tương xứng tổn thương giải phẫu và tiến triển của tắc ruột sau mổ. Đối
với những bệnh nhân đến muộn các biểu hiện lâm sàng nặng nề, sốc, truỵ
mạch, nhiễm trùng nhiễm độc, mất nước điện giải nghiêm trọng, thiểu niệu,
vô niệu. Việc chẩn đoán và chỉ định phẫu thuật không khó nhưng tiên lượng
xấu, tỷ lệ tử vong cao. Do vậy một yêu cầu đặt ra với các thầy thuốc là phải
chẩn đoán và xử lý sớm được tắc ruột sau mổ.
Trong điều trị tắc ruột sau mổ việc xác định chính xác tắc ruột do nghẹt
(phải phẫu thuật ngay) hay tắc ruột do nghẽn ( có thể điều trị bảo tồn) là một
19
việc khó khăn, nhiều trường hợp các triệu chứng lâm sàng không điển hình và
rõ ràng. Các nghiên cứu cho thấy ngay cả với những phẫu thuật viên có kinh
nghiệm cũng chỉ xác định chính xác 70% trường hợp tắc ruột do nghẽn và
40% trường hợp tắc ruột do nghẹt.[40].
Theo tác giả Nguyễn Văn Hải,[5][6] bất cứ bệnh nhân nào có sẹo mổ cũ

ổ bụng vào viện vì đau bụng liên tục, dữ dội phải nghĩ ngay đến tắc ruột do
nghẹt. Theo Silen W. [44]. và cộng sự Snyder D [49] và cộng sự nhận thấy
chẩn đoán nghẹt ruột trước mổ chỉ thấy trên 1/4 số bệnh nhân tắc ruột sau mổ
và các dấu hiệu lâm sàng kinh điển dùng để phân biệt. Tắc ruột do nghẹt và
tắc ruột do nghẽn vẫn chưa chắc chắn. Do vậy nếu chỉ dựa trên tứ chứng cổ
điển để chấn đoán và đợi đủ các triệu chứng để chỉ định phẫu thuật thì đã
muộn, vì nguyên nhân tắc ruột rất khác nhau mà có bệnh cảnh lâm sàng khác
nhau. Việc chỉ định phẫu thuật phải dựa trên cơ sở chẩn đoán xác định được
sự có mặt tắc ruột do nghẹt hay tắc ruột gập góc mới chính xác.[43].
Tắc ruột do nghẹt (dây chằng, xoắn ruột, thoát vị trong…) có thể gây
hoại tử ruột rất nhanh khi chỉ vài giờ hay trong ngày đầu tiên sau khi khởi
phát, tắc ruột do nghẹt cũng có thể xảy ra sau một thời gian tắc ruột do nghẽn
kéo dài, quai ruột giãn to đè ép thành ruột làm ứ máu thành ruột, những
trường hợp này nếu không chỉ định mổ sớm, dễ tiến triển thành viêm phúc
mạc tiên lượng rất xấu.[43]
Michael và Scott jone nhận thấy các dấu hiệu nghẹt là: sốt, nhịp tim
nhanh, điểm đau khu trú, bạch cầu tăng. Tuy nhiên tác giả cũng nhấn mạnh sự
phân biệt này cũng không chắc chắn.[42]
Muro A và Millan cũng thống nhất với Micheal và Scott Jone [43] về 4
dấu hiệu của nghẹt ruột. Nếu có nghẹt ruột (đánh giá trong mổ ) thì ít nhất có
2 trong 4 triệu chứng trước mổ. Cohn [31] đánh giá cao triệu chứng mạch
nhanh vì theo ông giai đoạn đầu, mạch nhanh là dấu hiệu của nghẹt ruột, còn
20
về sau là do ảnh hưởng của mất nước, điện giải của nhiễm trùng, nhiễm độc.
Tác giả cũng đề cập đến dấu hiệu phản ứng thành bụng nhưng cho rằng nó chỉ
có giá trị khi kèm với mạch nhanh, sốt, bạch cầu tăng cao.
Gamma A.L và cộng sự [37] đưa ra tiêu chuẩn phản ứng thành bụng,
bạch cầu trên 16.000, huyết áp tụt và tiền sử TRSM một hoặc nhiều lần. Tác
giả đề nghị chỉ phẫu thuật khi có một hoặc nhiều các yếu tố tiên lượng trên,
riêng đối với bệnh nhân trên 70 tuổi chỉ định mổ rộng rãi hơn.

Ranson J.H [44] nhận thấy các dấu hiệu gợi ý nghẹt ruột là đau liên tục, dữ
dội, sờ thấy khối trên bụng, mạch nhanh, sốt trên 38
0
, bạch cầu tăng, huyết áp tụt.
Seror D và cộng sự,[50] Bùi Thanh Hải [7] chỉ đưa ra một yếu tố nghi
ngờ TR do nghẹt là mạch nhanh, khi có dấu hiệu mạch nhanh >100 lần/phút
thì xem xét chỉ định phẫu thuật, nếu có kèm theo dấu hiệu nôn mửa nhiều lần
liên tục hoặc đau bụng cơn dữ dội thì chỉ định phẫu thuật lại càng chắc chắn.
Theo Jone P.W [39] thời điểm phẫu thuật dựa vào 3 yếu tố: thời điểm tắc
biểu hiện bằng mất dịch nặng, rối loạn nước điện giải, sự không cải thiện
chức năng sống và nguy cơ của nghẹt ruột theo tác giả chỉ có thể điều trị bảo
tồn an toàn khi không có các dấu hiệu: sốt, mạch nhanh, bạch cầu cao, điểm
đau khu trú. Theo Nguyễn Đức Ninh: [19] chỉ nên bảo tồn khi bụng chướng
vừa, không có điểm đau khu trú, không có rối loạn toàn thân (mạch, huyết áp,
nước tiểu…). nên mổ sớm ở bệnh nhân đau dữ dội, nôn nhiều, bụng có một
vùng đau hay phản ứng, còn đợi huyết áp tụt, bụng chướng, hay có phản ứng
bụng hay cảm ứng phúc mạc thì đã muộn, khó tránh khỏi cắt đoạn ruột.
Nguyến Hữu Thành cho rằng: đau nhiều, nôn nhiều, mất nước, bụng
chướng nhiều, dấu hiệu rắn bò, ấn đau nên mổ ngay.[24]
Bùi Thanh Hải: dấu hiệu mạch nhanh có giá trị theo dõi TRSM và là dấu
hiệu trung thành báo hiệu xoắn ruột và hoại tử ruột, cần đặt vấn đề mổ sớm. Các
tác giả còn cho biết nên mổ sớm đối với loại TR sớm sau mổ.[8]
21
Đỗ Phú Đông [3] nhận thấy quá nửa số TRSM điều trị bảo tồn thành
công nên khuyên rằng điều trị nội trước tiên và theo dõi một vài triệu chứng,
nếu thấy nặng lên thì chỉ định mổ.
Nguyễn Đình Hối: cho rằng khi những bệnh nhân đến viện với những
triệu chứng không rầm rộ thì nên điều trị nội, không cần mổ ngay, khi bệnh
nhân đến muộn nhất là khi nôn ra dịch giống phân thì nên mổ ngay.[10]
Như vậy tất các các nghiên cứu về lâm sàng, Xquang, siêu âm, CT… đều

nhằm mục đích chẩn đoán chính xác thương tổn chỉ định phẫu thuật kip thời,
hợp lý, đây là cốt lõi của việc điều trị TRSM.
1.7. Điều trị phẫu thuật.
1.7.1. Đánh giá tổn thương trong khi mổ.
- Ổ phúc mạc: có dịch tiết, dịch có thể trong, có thể đục khi đã nhiễm
khuẩn, có máu khi đã xoắn ruột hay nhồi máu mạc treo , có dịch tiêu hóa khi
thủng vỡ chỗ bị tắc. Khi ruột hoại tử có mùi hôi khó chịu.[2]
- Các quai ruột trên chỗ tắc: giãn to, mỏng hoặc phù nề viêm tấy, căng,
màu hồng hoặc tím đen, xù xì khi hoại tử. Các quai ruột dưới chỗ tắc xẹp lép
màu bình thường. Trên vi thể , đoạn ruột tắc ben đầu ứ máu nhẹ về sau chảy
máu dưới niêm mạc. Trong lớp cơ có nhồi máu tăng dần, ruột không được hồi
phục và lớp niêm mạc bị thoái hóa rồi hoại tử từng mảng, lớp cơ, thanh mạc
cũng bị hoại tử và vỡ vào ổ bụng.[13]
1.7.2. Gỡ dính, cắt dây chằng.
Đa số những bệnh nhân mổ tắc ruột sau mổ là gỡ dính và cắt dây chằng,
giải phóng đè ép, lập lại lưu thông ruột, trong đó phẫu thuật viên cần phải
kiên nhẫn gỡ dính, đặc biệt ở những bệnh nhân mổ lại nhiều lần, tránh làm xước
thanh mạc và thủng ruột. Trong trường hợp dây chằng gây nghẹt ruột tím đen
không được cắt dây chằng ngay mà phải cắt đoạn ruột xa chỗ hoại tử trước.
22
1.7.3. Cắt đoạn ruột.
Do đoạn ruột đã bị hoại tử không còn khả năng bảo tồn phải cắt bỏ hay
trong những trường hợp xơ dính mất nhiều thanh cơ, mạc không khâu đủ lại
được trên một đoạn ruột ngắn. Tuỳ từng tình trạng, vị trí tắc của bệnh nhân
mà khâu nối hay đưa đầu ruột ra da [20]
1.7.4. Mở thông hỗng tràng.
Mở thông hổng tràng tạm thời thực hiện theo kỹ thuật Witzel hoặc “mở
thông hổng tràng tối thiểu” được chỉ định sau một phẫu thuật nặng vừa. Làm
càng cao càng tốt để có thể sử dụng tối đa khả năng hấp thu của hổng tràng.
1.7.5. Hậu môn nhân tạo.

Hậu môn nhân tạo là phương pháp mà người ta đưa đại tràng hoặc đoạn
cuối hồi tràng ra để tháo phân thay thế cho hậu môn thật. Chỉ định cho những
trường hợp.
1.7.6. Phẫu thuật nội soi.
Điều trị tắc ruột bằng phẫu thuật nội soi là phương pháp đem lại nhiều
lợi ích trong trường hợp tắc ruột do dây chằng, dính ruột một phần hay không
có vùng thiếu máu cục bộ. Sự mở rộng của phẫu thuật nội soi với tắc ruột sau
mổ nói chung có vai trò quan trọng trong việc lập lại lưu thông sau mổ sớm,
giảm thời gian nằm viện. Tuy nhiên phẫu thuật nội soi còn có nhiều hạn chế
như thường khó làm khi quai ruột giãn to, ứ dịch hay dính vào vết mổ và
thành bụng khó khăn cho đường chọc troca, hay thủng ruột thứ phát do cầm
máu hay đòi hỏi phẫu thuật viên nhiều kinh nghiệm. Trong trường hợp có dấu
hiệu hoại tử ruột hay viêm phúc mạc cũng không có chỉ ðịnh mổ vì mức độ
nặng của bệnh, ruột có thể bị hoại tử, thủng, nguy cơ biến chứng cao.[11],[1].
23
1.8.Các biến chứng sau mổ:
1.8.1. Nhiễm trùng vết mổ.
Nhiễm trùng vết mổ có thể xảy ra do hai nguyên nhân: do thẩm lậu vi
khuẩn từ lòng ruột vào ổ bụng hoặc do lây nhiễm khi mở thông lòng ruột.
Khi ruột bị phù nề thiếu máu nuôi dưỡng, niêm mạc ruột bị huỷ hoại
hàng rào bảo vệ của niêm mạc ruột bị tổn thương, các vi khuẩn từ lòng ruột
xâm nhập vào ổ bụng.
Các vi khuẩn cũng có thể lây nhiễm vào trường mổ và vết mổ khi thực
hiện kỹ thuật cắt nối đoạn ruột. vì vậy để tránh nhiễm khuẩn một mặt phải
tuân thủ nguyên tắc vô khuẩn, bao bọc kỹ trường mổ và vết mổ mặt khác việc
sử dụng kháng sinh dự phòng trước mổ là điều cũng rất cần thiết.[17].
1.8.2. Hội chứng ruột ngắn.
Hội chứng ruột ngắn được định nghĩa không dựa trên chiều dài của đoạn
ruột bị cắt bỏ mà dựa chủ yếu vào chiều dài đoạn ruột còn sót lại của cơ thể,
theo đó thì người ta quy định một bệnh nhân bị hội chứng ruột ngắn khi chiều

dài của đoạn ruột nầy là không quá 120 cm.
Khi đoạn ruột bị mất một số lương lớn chiều dài sẽ đưa đến một số
những hậu quả sau:
Ỉa chảy: Số lượng phân đi nhiều lần trong một ngày, do chiều dài của
đoạn ruột quá ngắn nên mặc dù với nhu động ruột bình thường cũng đã làm
thức ăn đi qua nhanh, thêm vào đó là do quá trình tái hấp thu nước cũng bị
ảnh hưởng nặng nề do đó tình trạng ỉa chảy xảy ra là điều không tránh khỏi.
Dĩ nhiên cơ thể bệnh nhân cũng luôn ở trong tình trạng mất nước mãn tính.
24
Ỉa phân sống, ỉa mỡ: Các chất chứa trong thức ăn đều chưa kịp tiêu hóa
đưa đến tình trạng đi phân sống, trong đó sự hiện diện của chất mỡ là rõ nét
nhất, trên thực tế lâm sàng bệnh nhân thường thấy phân của mình láng bóng.
Hội chứng kém hấp thu: Cũng do hai hậu quả trên sẽ đưa đến tình trạng
ruột giảm hấp thu các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể.
Hội chứng suy dinh dưỡng: Là hậu quả sau cùng mà bệnh nhân phải
chịu nếu không có biện pháp điều trị thích hợp
1.8.3. Tắc ruột sớm sau mổ.
Tắc ruột sớm sau mổ là những trường hợp tắc ruột sảy ra trong khoảng
30 ngày đầu sau mổ ổ bụng. việc chẩn đoán xác định tắc ruột sớm sau mổ
nhiều khi gặp nhiều khó khăn nhất là với những trường hợp tắc ruột sảy ra
trong những ngày đầu sau mổ vì dễ nhầm với những trường hợp liệt ruột cơ
năng sau mổ. Mặt khác tắc ruột có thể là hậu quả của những biến chứng sau
mổ như viêm phúc mạc, áp xe tồn dư vv.
Theo Nguyễn Đức Ninh để phân biệt giữa tắc ruột cơ học với tắc ruột
cơ năng cần dựa vào một trong số bốn triệu chứng sau.[19]
- Đau bụng cơn rõ rệt, có quai ruột nổi khi đau.
- Dấu hiệu rắn bò.
- Nôn nhiều.
- Sonde dạ dày có nhiều dịch mật hoặc dịch ruột.
Để xác định tắc ruột sớm sau mổ do áp xe tồn dư hay viêm phúc mạc

cần dựa vào dấu hiệu nhiễm trùng, sốt dao động sau mổ, bạch cầu tăng. Theo
Mondor “ Tắc ruột + Dấu hiệu nhiễm trùng = Viêm phúc mạc” Các thăm
khám cận lâm sàng khác như siêu âm, chụp CT ổ bụng rất có giá trị để đánh
giá tình trạng ổ bụng và phát hiện các ổ dịch trong khoang phúc mạc.
25
1.8.4. Viêm phúc mạc sau mổ.
Viêm phúc mạc sau mổ là một biến chứng nặng thường xảy ra vào
ngày thứ 4 đến 6 sau mổ. Các yếu tố nguy cơ gây viêm phúc mạc sau mổ là
khoang bụng bẩn, thành ruột bị nuôi dưỡng kém, miệng nối bị căng hoặc gần
góc hồi manh tràng, bệnh nhân cao tuổi điều trị tắc ruột lâu ngày và có kèm
theo bệnh phối hợp.
1.8.5. Suy kiệt sau mổ.
Suy kiệt sau mổ là một biến chứng nặng trong tắc ruột sau mổ các yếu
tố nguy cơ là cắt đoạn ruột quá nhiều hay rò tiêu hoá sau mổ trên nền bệnh
nhân cao tuổi hoặc sức đề kháng kém dẫn đến tình trạng mất nước điện giải
nặng, quá trình nuôi dưỡng bệnh nhân sau mổ qua đường tĩnh mạch chưa đảm
bảo nhu cầu năng lượng của người bệnh.

×