Đại học quốc gia hà nội
đại học khoa học xã hội và nhân văn
*
Lê Lan Anh
Xây dựng đội ngũ công nhân Thái Bình
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở tỉnh
luận văn thạc sỹ khoa học triết học
Hà Nội 2006
Đại học quốc gia hà nội
đại học khoa học xã hội và nhân văn
*
Lê Lan Anh
Xây dựng đội ngũ công nhân Thái Bình
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh
luận văn thạc sỹ khoa học triết học
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 50103
Ngời hớng dẫn: Tiến sỹ Dơng Văn Duyên
Hà Nội 2006
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi dới sự hớng dẫn của Tiến sỹ Dơng Văn Duyên. Các số liệu và kết quả đ-
ợc nêu trong luận văn là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Ngời cam đoan
Lê Lan Anh
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của luận văn
Nhân loại đã bớc sang thế kỷ XXI. Những diễn biến quốc tế phức tạp, khôn
lờng trong những thập niên của đầu thế kỷ này đã tác động mạnh mẽ đến sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc ta. Đại hội IX của Đảng
cộng sản Việt Nam đã nhận định:
Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học công nghệ sẽ có bớc
tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình
phát triển của lực lợng sản xuất. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách
quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nớc tham gia; xu thế này đang bị một số nớc
phát triển và các tập đoàn kinh tế t bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng
nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác,
vừa có đấu tranh[9,64]
Việt Nam từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp chuyển
sang nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà
nớc đã và đang tạo ra những biến đổi trong các lĩnh vực của đời sống xã hội từ
kinh tế, tới chính trịNền kinh tế của nớc ta đã và đang diễn ra những biến đổi
lớn. Nếu nh trớc đây chỉ có hai thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể thì
nay là một nền kinh tế nhiều thành phần nh: Kinh tế Nhà nớc, kinh tế hợp tác xã,
kinh tế t bản t nhân, kinh tế t bản nhà nớc, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế có vốn
đầu t của nớc ngoài. Sự thay đổi các thành phần kinh tế nêu trên tạo sự thay đổi
trong cơ cấu đội ngũ công nhân trên nhiều phơng diện, từ số lợng công nhân
trong các thành phần kinh tế, tới trình độ tay nghề, đời sống, việc làm, ý thức
chính trị.
Ngày nay, xu hớng hội nhập quốc tế, xu hớng toàn cầu hoá nền kinh tế thế
giới đối với cách mạng nớc ta có những thuận lợi cơ bản, tạo điều kiện cho chúng
ta thu hút các nguồn lực từ bên ngoài: vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm
quản lý, thực hiện sự kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại. Thực hiện hội nhập cũng là cơ hội tốt để thực hiện sự phân
công lao động khu vực và quốc tế. Thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động,
tham gia các hợp đồng xuất khẩu, đồng thời nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các
công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà đất nớc ta cha có nhằm tiếp cận với
nền khoa học công nghệ hiện đại, tranh thủ thời cơ đi tắt đón đầu để phát triển
một số ngành kinh tế mũi nhọn, có lợi thế cạnh tranh. Đây cũng là cơ hội tốt để
giai cấp công nhân Việt Nam có điều kiện học tập, nâng cao trình độ học vấn, tay
nghề, trình độ tổ chức quản lý. Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng đặt cách mạng nớc
ta trớc những thách thức không thể xem thờng: trình độ văn hoá, ngoại ngữ, tin
học, trình độ khoa học công nghệ, kỹ năng nghề nghiệp, tính tổ chức, tính kỷ
luật, tác phong công nghiệp còn những bất cập trớc những đòi hỏi cao của quy
trình sản xuất gắn với khoa học, công nghệ tiên tiến.
Đứng trớc những thách thức của thời đại, Việt Nam từ một nền sản xuất
nhỏ, năng suất lao động thấp, muốn vợt qua thách thức phải thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá . Hội nghị Trung ơng lần thứ 7 khoá VII
của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định :
Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử dụng thủ công là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghiệp, phơng tiện
và phơng pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên s phát triển của công nghệ và
tiến bộ khoa học tạo ra năng suất lao động xã hội cao[7,42]
Muốn thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc
chúng ta cần phải tiến hành nhiều việc, quan trọng nhất là phải xây dựng công
nhân phát triển về số lợng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, t tởng,
có trình độ học vấn, tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ
mới, lao động đạt năng suất, chất lợng, hiệu quả cao, vơn lên làm tròn sứ mệnh
lịch sử của mình
Hoà chung với đất nớc, là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam,
đội ngũ công nhân Thái Bình bên cạnh những đặc điểm chung của giai cấp công
nhân cả nớc, còn có những đặc điểm riêng mang tính đặc thù của một tỉnh nông
nghiệp, hạn chế về mặt số lợng và chất lợng, lại chiếm tỷ lệ thấp trong dân c của
Tỉnh, có trình độ khoa học công nghệ thấp hơn so với nhiều khu vực trong cả nớc.
Tuy có những đặc điểm đó, nhng đội ngũ công nhân Thái Bình đã phát huy đợc
những truyền thống tốt đẹp, bản chất cách mạng của quê hơng, của giai cấp công
nhân việt Nam đã góp phần cùng nhân dân Thái Bình thực hiện thắng lợi những
nhiệm vụ cách mạng trong thời gian qua.
Để phát huy nhân tố con ngời, nhất là đội ngũ công nhân, lực lợng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và khai thác sử dụng có hiệu quả
các tiềm năng phát triển kinh tế- xã hội của địa phơng, việc nghiên cứu, đánh giá
đúng thực trạng đội ngũ công nhân Thái Bình, qua đó đề xuất những giải pháp
chủ yếu từng bớc củng cố và phát triển đội ngũ công nhân của Tỉnh góp phần
đẩy lùi các nguy cơ mà trớc hết là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các
tỉnh trong cả nớc là một việc làm rất cấp thiết hiện nay. Do đó tôi chọn vấn đề:
Xây dựng đội ngũ công nhân Thái Bình đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Tỉnh làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của luận văn
Trong những năm gần đây xung quanh vấn đề giai cấp công nhân đã có rất
nhiều tác giả nghiên cứu và đã có nhiều công trình đợc công bố nh:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển của giai cấp công nhân
của PGS Cao Văn Lợng (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
2001.
Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc của PGS.TS Dơng Xuân Ngọc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2004.
Giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu
thế kỷ XXI của Viện Công nhân và Công đoàn, Nhà xuất bản lao động, Hà Nội
2002.
Một số vấn đề cơ bản về xây dựng và phát huy vai trò giai cấp công
nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Viện nghiên
cứu Công nhân và Công đoàn, Nhà xuất bản lao động, Hà Nội 2004.
Một số bài viết đã đợc đăng ở các tạp chí chuyên ngành nh:
Để giai cấp công nhân tiếp tục đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc của Hoàng Trung Hải, Tạp chí Cộng sản số 4+5 tháng
12/2003 trang 55.
Đội ngũ công nhân Thái Bình thực trạng và giải phápcủa Nguyễn Đức
Hợp, Tạp chí Nghiên cứu lý luận số tháng 3/1997 trang 19.
Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n-
ớc của Khổng Doãn Hợi, Tạp chí Cộng sản số 3 tháng 2/1998 trang 27.
Trí thức hoá giai cấp công nhân nớc ta hiện nay của Cù Thị Hậu, Tạp
chí Cộng sản số 13 tháng 7/2001 trang 8
Những công trình trên đã khảo sát thực tế trình độ và phân tích thực trạng
giai cấp công nhân trớc yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nớc, đồng thời đa ra những kiến nghị và giải pháp để xây dựng đội ngũ công nhân
ngày càng lớn mạnh.
Tuy các công trình đó có quy mô và khảo sát ở các tỉnh khác nhau, song
có những điểm chung là: Khẳng định vai trò của đội ngũ công nhân nớc ta trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc và sự cần thiết xây dựng phát
triển giai cấp công nhân về mọi mặt.
Cùng với các công trình trên, có nhiều bài viết đề cập gián tiếp tới vấn đề
mà đề tài nghiên cứu đã đợc đăng trên các tạp chí nh: Tạp chí Nghiên cứu lý luận,
Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Thông tin lý luận chủ nghĩa xã hội- lý luận và thực
tiễn
Những công trình và bài viết trên đợc tác giả luận văn nghiên cứu, kế thừa
và vận dụng trong khi thực hiện luận văn của mình.
Vấn đề này cũng đã có một số tác giả nghiên cứu, song qua luận văn tác
giả muốn làm rõ hơn thực trạng đội ngũ công nhân Thái Bình để từ đó đề xuất
một số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ công nhân lực lợng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Tỉnh .
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích: Làm rõ thực trạng đội ngũ công nhân Thái Bình từ đó đề xuất
những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ công nhân Thái Bình đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Tỉnh.
* Nhiệm vụ: Để đạt đợc mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết
một số nhiệm vụ sau:
Nêu lên yêu cầu xây dựng đội ngũ công nhân Thái Bình
Chỉ ra thực trạng của đội ngũ công nhân Thái Bình.
Đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ công nhân Thái Bình
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Tỉnh.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tợng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu đội ngũ công nhân Thái
Bình hiện nay. Do khuôn khổ của luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu thực trạng công
nhân Thái Bình trong một số năm gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nớc về giai cấp
công nhân.
* Phơng pháp nghiên cứu: Kết hợp các phơng pháp logic và lịch sử, phân
tích và tổng hợp, ngoài ra còn sử dụng một số phơng pháp cụ thể của xã hội học
nh thống kê, so sánh
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ hơn sự cần thiết, ý nghĩa, tầm quan trọng của
việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam nói chung, đội ngũ công nhân Thái
Bình nói riêng ngày càng vững mạnh đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Lụân văn đa ra một số giải pháp nhằm xây
dựng đội ngũ công nhân Thái Bình đáp ứng yêu cầu công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Tỉnh.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Về lý luận: Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu vấn đề giai cấp công
nhân và những yêu cầu xây dựng đội ngũ công nhân trong giai đoạn hiện nay .
* Về thực tiễn: Từ kết quả nghiên cứu, luận văn có thể trở thành tài liệu
tham khảo cho các cơ quan Đảng, cơ quan quản lý Nhà nớc đa ra các chính sách
xây dựng giai cấp công nhân ngày càng vững mạnh. Các doanh nghiệp, các cơ
quan nghiên cứu, các tổ chức Công đoàn có thể sử dụng kết quả nghiên cứu của
luận văn trong việc xây dựng đội ngũ công nhân ở cơ sở mình cho phù hợp với
yêu cầu hiện nay của Thái Bình
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề
tài gồm 3 chơng với 7 tiết .
NộI DUNG
Chơng1: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng đội
ngũ công nhân ở Thái Bình
1.1 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
1.1.1 Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá :
Trong mấy trăm năm, khởi đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra ở
Anh ( cuối thế kỷ XVII ), trên thế giới đã có nhiều nớc tiến hành công nghiệp hoá
(sau Anh là Hà Lan, Pháp , Đức, Italia). Đã có nhiều nớc khá thành công, hội
nhập vào thế giới văn minh công nghiệp, song cũng không ít nớc bị thất bại trở
thành con nợ phụ thuộc vào nớc ngoài và rơi vào tình trạng khủng hoảng triền
miên.
Thực ra, cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh cũng nh trên thế giới, đều là
kết quả của quá trình phát triển lâu dài không ngừng của sản xuất. Con ngời luôn
cải tiến công cụ lao động, cải tiến t liệu sản xuất để nâng cao hiệu quả của quá
trình chinh phục thiên nhiên, nâng cao năng suất lao động. Nhng nhiều thế kỷ
qua, ở nhiều nớc quá trình thay đổi diễn ra khá chậm chạp, công cụ lao động vẫn
là thủ công, nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính.
Nền sản xuất t bản chủ nghĩa bắt đầu từ thời phong kiến ( thế kỷ XV- XVI)
đến cuối thế kỷ XVII, đặc biệt từ đầu thế kỷ XVIII mới bừng tỉnh và có bớc phát
triển mới nhờ cuộc cách mạng công nghiệp với việc thay thế công cụ lao động thủ
công bằng máy móc. Cuộc cách mạng này, lúc đầu diễn ra trong lĩnh vực công
nghiệp sau đó phát triển dần sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Từ những năm 80 của thế kỷ XX, trong điều kiện cách mạng khoa học
công nghệ phát triển nh vũ bão, quá trình toàn cầu hoá đời sống kinh tế- xã hội
diễn ra mạnh mẽ. Cuộc cách mạng công nghiệp lần này không chỉ là sự đổi mới
công cụ, t liệu sản xuất, thay thế công cụ thủ công bằng máy móc mà còn là sự
đổi mới toàn bộ công nghệ sản xuất. Và trong vài thập kỷ qua, cách mạng khoa
học công nghệ đã tác động mạnh về hai mặt trái ngợc nhau đối với bản thân
chủ nghĩa t bản:
Một là : Đa nền sản xuất t bản chủ nghĩa đạt quy mô tăng trởng kinh tế ch-
a từng có. Khối lợng của cải hằng năm sản xuất ra nhiều gấp bội so với nhiều thế
kỷ trớc đây.
Hai là : Kinh tế càng tăng trởng, những vấn đề nan giải của chủ nghĩa t
bản ngày càng tăng về quy mô, sâu sắc nghiêm trọng về mức độ. Tình trạng bất
công xã hội, khoảng cách giàu - nghèo trong dân c tăng, khủng hoàng xã hội, gia
đình và tâm lý con ngời ngày càng nghiêm trọng, môi trờng ngày càng bị tàn phá,
ổn định chính trị bị uy hiếp và hệ thống chính trị lâm vào khủng hoảng .
Tuy nhiên xét về toàn cục, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai đã mở
ra cho con ngời có khả năng mới trên con đờng chinh phục, chế ngự tự nhiên vì
cuộc sống tiến bộ, văn minh của con ngời.
Sau gần hai thế kỷ, kể từ khi cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh diễn ra,
mãi đến cuối thế kỷ XIX, thuật ngữ công nghiệp hoá mới xuất hiện với ý nghĩa
là sự cải biến một lĩnh vực sản xuất nào đó sang hoạt động theo tính chất của
ngành công nghiệp cơ khí. Đến nửa sau thế kỷ XX, khái niệm công nghiệp hoá
mới đợc hiểu nh một giai đoạn phát triển kinh tế mà nội dung của nó bao hàm
cuộc cách mạnh công nghiệp.
Năm 1963, UNIDO đã đa ra định nghĩa :
Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận
nguồn lực quốc gia ngày càng lớn đợc huy động để xây dựng cơ cấu kinh
tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra các phơng tiện sản
xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp độ tăng trởng cao
trong toàn nền kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ về kinh tế xã hội[31,100-
101]
Đối với nớc ta, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội, từ một nớc nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn với nền kinh tế chậm phát triển,
hậu quả chiến tranh nặng nề, lại phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lợc:
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng ta sớm nhận thức đợc vị trí, vai trò của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Mục tiêu Dân giàu nớc mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh mà nhân dân ta đang hớng tới sẽ chủ yếu tuỳ thuộc vào
tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Bởi vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc là quá trình chuyển biến theo quy
luật từ xã hội nông nghiệp lạc hậu sang xã hội công nghiệp văn minh. Đó là quá
trình cải biến toàn diện cả về phơng thức sản xuất, kiến trúc thợng tầng, cả quan
hệ xã hội và cơ cấu xã hội, là quá trình xã hội hoá dới hình thức thị trờng, tuỳ
theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi nớc. Trong lịch sử phát triển của các n-
ớc trên thế giới, dù ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, với trình độ phát triển khác
nhau, nhng tất cả những nớc ở trình độ phát triển cao đều phải trải qua quá trình
công nghiệp hoá, nghĩa là quá trình chuyển biến một nền kinh tế nông nghiệp
thành một nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Đối với nớc ta, chỉ có đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có khả năng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn
với các nớc trong khu vực và trên thế giới, mới đảm bảo an ninh, ổn định chính trị
- xã hội, giữ vững độc lập và định hớng xã hội chủ nghĩa.
Thực ra t tởng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã đợc Đảng ta xác định là
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, từ Đại hội lần
thứ III. Đại hội IV,V của Đảng đã tiếp tục khẳng định, cụ thể hoá và hiện thực
hoá từng bớc t tởng trên. Tuy nhiên, có thể nói suốt thời gian dài (từ 1960 đến
1968) quan niệm và cách tiến hành công nghiệp hoá ở nớc ta hầu nh không thay
đổi, chủ yếu tập trung vào phát triển công nghiệp nặng. Khách quan mà đánh giá,
quan niệm và cách tiến hành khi đó là phù hợp với điều kiện nớc ta và trên thế
giới trong bối cảnh đất nớc có chiến tranh và sự tồn tại giữa hai hệ thống xã hội
chủ nghĩa và t bản chủ nghĩa. Và trên thực tế, chúng ta cũng đã xây dựng đợc một
số cơ sở công nghiệp quan trọng, then chốt trong nền kinh tế quốc dân. Nhng về
cơ bản nớc ta vẫn là một nớc nông nghiệp lạc hậu, tỷ trọng công nghiệp trong cơ
cấu kinh tế quốc dân còn rất thấp.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm (1986) đánh dấu bớc chuyển biến
chiến lợc về công nghiệp hoá ở nớc ta. Chúng ta chuyển từ u tiên phát triển công
nghiệp nặng sang lấy nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu làm trọng tâm. Từ đó đến nay, việc nhận thức và cách làm công nghiệp
hoá mới từng bớc phù hợp với tình hình cụ thể của đất nớc.
Công nghiệp hoá, là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại
cho các ngành kinh tế quôc dân. Công nghiệp hoá, không chỉ liên quan đến phát
triển công nghiệp mà là bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của
một nớc. Quá trình công nghiệp hoá trong bất kỳ giai đoạn nào cũng đều vừa là
quá trình kinh tế kỹ thuật vừa là quá trình kinh tế - xã hội.
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội theo h-
ớng phát triển mạnh công nghiệp, tạo ra điều kiện để đa khoa học công nghệ vào
sản xuất, góp phần tăng trởng kinh tế nhanh và bền vững, đồng thời tạo điều kiện
thay đổi cơ cấu lao động, từ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp.
Trong công nghiệp, lao động với hàm lợng chất xám cao ngày càng gia tăng.
Trong bối cảnh hiện nay, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá.
Hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội theo những quy trình công nghệ,
phơng tiện và phơng pháp tiên tiên, hiên đại, dựa trên sự phát triển của tiến bộ
khoa học - kỹ thuật tạo ra năng suất lao động, hiệu quả và trình độ văn minh, kinh
tế- xã hội cao.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là hai quá trình khác nhau, nhng đan xen,
lồng ghép bổ sung cho nhau tạo nên sự phát triển toàn diện về kinh tế và xã hội.
Trên tinh thần đó, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ơng khoá VII xác
định, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là :
Quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh , dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là
chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phơng tiện và phơng pháp tiện tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của
công nghệ và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao[7,42]
Sau 10 năm thực hiện đờng lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VII, đất nớc ta đã vợt qua những thử thách thu đợc
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Đại hội lần thứ VIII của Đảng trên
cơ sở đánh giá một cách khách quan, khoa học những tiền đề đợc tạo ra sau 10
năm đổi mới đã nhận định: nớc ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và đã
chuyển sang thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Mục tiêu cơ bản đợc Đảng ta xác định:
Xây dựng nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của lực lợng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng,
văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đa nớc ta cơ bản trở
thành một nớc công nghiệp[8,80]
Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nớc trong thời kỳ
mới, đờng lối kinh tế của Đảng đợc xác định tại Đại hội IX là:
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ, đa nớc ta trở thành một nớc công nghiệp, u tiên phát triển lực lợng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hớng xã
hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu
quả, bền vững, tăng trởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bớc
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trờng, kết hợp phát triển kinh tế
xã hội với quốc phòng an ninh[9,24]
Mục tiêu của Chiến lợc phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010 là:
Tăng trởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân
dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hớng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục
và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con ngời. Tạo nhiều
việc làm; cơ bản xoá đói, giảm hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục
tăng cờng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bớc quan trọng thể
chế kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị
và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ và an ninh quốc gia[9,90]
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cơ sở thực hiện đúng đắn các
chủ trơng, chính sách của Đảng, Nhà nớc sẽ mở đờng cho những t tởng sáng tạo,
thúc đẩy những hành động tích cực, tạo môi trờng thuận lợi thực hiện thắng lợi sự
nghiệp giải phóng và nhân lên sức mạnh của các nguồn lực trong đó nguồn lực
con ngời là quyết định.
Đến nay, ở nớc ta vẫn còn 58,7% lao động làm nông nghiệp, thu nhập từ
nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu nhập quốc dân, vấn đề nông
nghiệp, nông thôn vẫn là nền tảng của xã hội. Bởi vậy, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc, trớc hết và thực chất là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn, mà nội dung cơ bản của nó là sự chuyển đổi căn bản cơ cấu kinh tế, cơ
cấu xã hội nông thôn, nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ nông
thôn, từng bớc hình thành nông thôn mới hiện đại.
Vậy là, trọng tâm u tiên của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá những
năm đầu thế kỷ XXI là hớng vào nông nghiệp, nông thôn, điều đó cũng định hớng
cho việc xây dựng giai cấp công nhân và tạo điều kiện cho việc củng cố, tăng c-
ờng khối liên minh công- nông- trí thức.
Chính quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ làm thay đổi t duy, trí tuệ,
t chất, nhân cách con ngời, kích thích tính năng động, sáng tạo và tạo cho con ng-
ời khả năng thích ứng với những thay đổi của xã hội.
1.1.2 Những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn là một trong những nội dung cơ bản của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc. Vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới, để đa đất nớc
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, Đại hội VI của Đảng chủ trơng: phải thật
sự tập trung sức ngời, sức của vào việc thực hiện cho đợc ba chơng trình mục tiêu
về lơng thực- thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu[6,47] và nhấn mạnh
các chơng trình mục tiêu trên là cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá
xã hội chủ nghĩa trong chặng đờng đầu tiên đã đợc Đại hội lần thứ V của Đảng
xác định[6,48]. Khi đất nớc đã khắc phục đợc một bớc rất quan trọng tình trạng
khủng hoảng kinh tế-xã hội và đang tạo ra những tiền đề đa đất nớc chuyển dần
sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bớc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nớc, Đảng ta lại chủ trơng phải rất quan tâm đến công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trong thời kỳ mới của cách mạng,
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, Đảng ta khẳng định phải
Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông
thôn[8,86]. Từ sau Đại hội IX, mục tiêu tổng quát và lâu dài của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là:
Xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, hiệu quả và bền
vững, có năng suất, chất lợng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng
các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nớc và
xuất khẩu, xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng,
văn minh,có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ
tầng kinh tế- xã hội ngày càng phát triển hiện đại[10,44-45]
Những nội dung cụ thể:
Chỉ có thể thực hiện đợc những nội dung cơ bản của công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nói trên trong một thời gian lịch sử tơng đối lâu dài, trải
qua những nấc thang cụ thể của từng thời kỳ nhất định. Trong những năm trớc
mắt, nhu cầu về vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta là rất lớn, song
khả năng đáp ứng còn hạn chế. Trong khi đó nhu cầu việc làm của nhân dân lại
rất bức bách, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, sự ổn định kinh tế- xã
hội cha thật vững chắc. Do đó, phải lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu chuẩn
lựa chọn phơng án phát triển, tránh sai lầm chủ quan nóng vội, quá thiên về công
nghiệp nặng, chỉ chú ý quy mô lớn trong những bớc đi đầu tiên.
Khi bàn về công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã căn dặn: Đi bớc nào vững vàng, chắc chắn bớc ấy, cứ tiến tới dần
dần[29,540] và Nếu muốn công nghiệp hoá gấp thì là chủ quan. Cho nên trong
kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp. Ta cho nông nghiệp là quan trọng và u tiên,
rồi đến thủ công nghiệp, sau đó mới đến công nghiệp nặng[29,572-573].
Quán triệt t tởng Hồ Chí Minh, nội dung cụ thể của công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của nớc ta trong những năm trớc mắt đợc xác định nh
sau:
Một là: Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ng nghiệp gắn với công nghiệp chế
biến nông, lâm, thuỷ sản nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng của
nông, lâm, ng nghiệp, bảo đảm vững chắc yêu cầu an toàn lơng thực cho xã hội,
tạo nguồn nguyên liệu có khối lợng lớn, chất lợng cao, giá thành hạ, đủ tiêu
chuẩn đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến, tăng giá trị và khối lợng hàng
xuất khẩu, tăng thêm việc làm và thu nhập cho ngời lao động, phân công lại lao
động xã hội, hình thành các điểm công nghiệp gắn liền với đô thị hoá tại chỗ, mở
mang thị trờng sản phẩm và dịch vụ cho công nghiệp.
Để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông
thôn cần phải chú trọng các vấn đề thuỷ lợi hoá, áp dụng các công nghệ tiến bộ,
nhất là công nghệ sinh học, cơ giới hoá, điện khí hoá, phát triển mạnh công thơng
nghiệp, dịch vụ, du lịch, tăng cờng xây dựng kết cấu hạ tầng.
Hai là: Phát triển công nghiệp theo hớng u tiên, phát triển các ngành chế
biến lơng thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp
điện tử và công nghệ thông tin. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp
nặng trong những ngành trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách và có điều kiện
về vốn, công nghệ thị trờng để phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả ( năng l-
ợng, nhiên liệu, vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, đóng và sửa chữa tàu thuỷ,
luyện kim hoá chất).
Ba là: Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu
hạ tầng vật chất ở những khâu đang cản trở sự phát triển. Trong đó, cải tạo, mở
rộng, nâng cấp là chính, việc xây dựng mới chỉ có mức độ và phải tập trung vào
những khâu ách tắc nhất. Có nh vậy mới tạo điều kiện cho việc mở rộng đầu t
phát triển, nhất là việc thu hút vốn đầu t từ bên ngoài.
Bốn là: Phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ hàng không hàng hải, bu
chính viễn thông, tài chính ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, công nghệ, pháp lý,
thông tin và các dịch vụ phục vụ cuộc sống của nhân dân. Khôi phục, phát triển
từng bớc hiện đại hoá các ngành nghề tiểu, thủ công truyền thống có thị trờng
tiêu thụ rộng lớn trong và ngoài nớc. Từng bớc đa nớc ta trở thành một trung tâm
du lịch, thơng mại, dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực.
Năm là: Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ trên cơ sở khai thác triệt để các
lợi thế, tiềm năng của từng vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm cho tất cả các vùng
đều phát triển. Trong những năm trớc mắt phải tập trung thích đáng nguồn lực
cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm có điều kiện sớm đa lại hiệu quả cao,
đồng thời phải hỗ trợ những nơi khó khăn, đẩy mạnh hợp tác phát triển, bảo đảm
cho các vùng, các lãnh thổ và các thành phần dân c đều có lợi ích và đều đợc h-
ởng thành quả của sự phát triển các thành phần kinh tế. Kết hợp phát triển và
quản lý theo vùng theo lãnh thổ.
Sáu là: Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hớng u tiên và là trọng điểm của
kinh tế đối ngoại. Điều chỉnh cơ cấu thị trờng để vừa hội nhập khu vực, vừa hội
nhập toàn cầu, xử lý đúng lợi ích giữa ta và các đối tác.
Bảy là: Thiết lập từng bớc quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến
cao, với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Việc xây dựng
quan hệ sản xuất mới phải phù hợp với sự phát triển của lực lợng sản xuất.
1.1.3 Những yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc hội nhập vào nền kinh tế
thế giới đã và đang đặt ra những đòi hỏi về số lợng, chất lợng nguồn nhân lực có
thể đáp ứng đợc yêu cầu của quy trình khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại:
Thứ nhất: Cần có một đội ngũ cán bộ quản lý vững vàng, có trình độ chuyên
môn cao.
Thứ hai: Cần có một đội ngũ kỹ s giỏi, nắm vững quy trình khoa học kỹ
thuật và công nghệ hiện đại đang và sẽ áp dụng.
Thứ ba: Cần có một đội ngũ trí thức về khoa học, kỹ thuật, công nghệ, không
những nắm vững quy trình khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đại, mà còn có khả
năng nghiên cứu, cải tiến, hoàn thiện các quy trình công nghệ này.
Thứ t: Cần có một đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, có tác phong công
nghiệp, có tính kỷ luật cao trong các quy trình khoa học, công nghệ tại các khu
công nghiệp, công nghệ cao, có sức khoẻ.
Đây là một trong những yêu cầu quan trọng nhất của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc.
1.2 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình
1.2.1 Một vài nét về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình
Thái Bình nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, có địa hình t-
ơng đối bằng phẳng, đợc bao quanh bởi hệ thống sông biển kép kín, là một hành
lang cận kề với tam giác kinh tế Hà Nội Hải Phòng Quảng Ninh và cửa ngõ
giao thơng giữa Hải Phòng Quảng Ninh, nối dài các tỉnh duyên hải suốt dọc
đất nớc.
Diện tích đất tự nhiên: 1.542,24km
2
, chiếm 0,5% diện tích đất đai cả nớc. Từ
Tây sang Đông dài 54km, từ Bắc xuống Nam dài 49km.[2,14]
Dân số trung bình năm 2005 của Tỉnh dự kiến 1849 nghìn ngời tăng 0,35%
so với năm 2004, trong đó nữ chiếm 52% dân số, dân số khu vực thành thị chiếm
7,4%, nông thôn 92,6%.
Tỷ suất sinh thô năm 2005 dới 1,5%. Số ngời chuyển ra khỏi Tỉnh khoảng
20 nghìn ngời, trong đó xuất khẩu lao động khoảng 2000 ngời
Dự kiến 13000 ngời đợc giải quyết việc làm trong sáu tháng đầu năm 2005
Dự kiến năm 2005 tỷ lệ hộ nghèo giảm 0,4% so với năm 2004[39,5]
Nói đến Thái Bình là nói đến điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội rất đặc tr-
ng:
Thái Bình là một Tỉnh nông nghiệp, vùng đất giàu truyền thống cách
mạng, trong các thời kỳ lịch sử của cách mạng nớc ta. Đảng bộ và nhân dân Thái
Bình đã có nhiều đóng góp to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và
xây dựng đất nớc. Nông dân Thái Bình không những có truyền thống cách mạng
kiên cờng mà còn có truyền thống thâm canh lúa từ lâu đời. Trong kháng chiến,
Thái Bình đã có nhiều phong trào dẫn đầu cả nớc nh: cánh đồng 5 tấn/ha thóc
thừa cân, quân vợt mức là Tỉnh đầu tiên của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đạt 5
tấn thóc/ha vào năm 1966, ghi dấu ấn về trình độ thâm canh của nông dân Thái
Bình và luôn giữ đợc truyền thống dẫn đầu cả nớc về năng suất lúa 8,9 tấn, 10 tấn
và đến nay là 12,7 tấn/ha [53,13]
Trong thời kỳ đổi mới, cùng với cả nớc, những năm qua Thái Bình tiếp tục
phát huy truyền thống, tập trung đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn, đa nền kinh tế của Tỉnh phát triển toàn diện trên các
lĩnh vực và đã đạt đợc những thành tựu khá quan trọng.
Thực hiện đờng lối đổi mới đo Đảng ta khởi xớng và lãnh đạo, từ năm
1986 đến nay, đặc biệt là những năm gần đây, kinh tế Thái Bình đã có những bớc
chuyển biến tích cực, đạt nhiều thành tựu đáng tự hào, làm cho bộ mặt văn hoá,
xã hội ở nhiều vùng nông thôn trong Tỉnh có những thay đổi đáng kể, đời sống
nhân dân không ngừng đợc cải thiện.
Bớc vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để
tăng nhịp độ phát triển kinh tế xã hội, từng bớc nâng cao mức sống của nhân
dân, đa Thái Bình trở thành một Tỉnh có công, nông nghiệp và dịch vụ phát triển
bên cạnh những yếu tố bên trong, phát huy mọi nguồn lực, việc mở rộng, liên kết,
hợp tác thu hút vốn đầu t trong và ngoài nớc nhiều hơn nữa có vai trò quan trọng.
Sau gần 20 năm đổi mới, Thái Bình đã tập trung mọi nỗ lực, vợt qua mọi
khó khăn thử thách, đa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, có tốc độ tăng tr-
ởng, phát triển tơng đối toàn diện đạt và vuợt mức một số mục tiêu kinh tế xã
hội và đang trong qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng tích cực, tạo
tiền đền cần thiết đi vào thời kỳ mới:
Tổng sản phẩm(GDP) tăng 7,21%/ năm đạt mục tiêu Đại đội Đảng bộ
Tỉnh lần thứ XVI đề ra. Năm 2005, GDP đạt 6.455 tỷ đồng ( giá so sánh năm
1994), tăng 41,6% so với năm 2000, GDP bình quân đầu ngời đạt 5,7 triệu đồng
(370USD).
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng từ
15,04% (năm 2000) lên 22,86% (năm 2005), dịch vụ tăng từ 30,92% lên 34,87%,
giảm tỷ trọng nông nghiệp từ 54,04% xuống 42,27%. Cơ cấu lao động chuyển
dịch tăng tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp, xây dựng từ 8,9% ( năm
2000) lên 19,5% (năm 2005), khu vực dịch vụ tăng từ 9,5% lên 12,5%, khu vực
nông nghiệp giảm từ 81,6% xuống 68%[13,1-2]
Sản xuất nông, lâm, ng nghiệp phát triển tơng đối toàn diện cả trồng trọt,
chăn nuôi và thuỷ sản theo hớng nâng cao giá trị, hiệu quả, từng bớc chuyển sang
sản xuất hàng hoá.
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhất là về thiên tai, dịch bệnh, nhng gia
trị sản xuất nông, lâm, ng nghiệp tăng 4,04%/ năm, vợt 0,54% so với mục tiêu
Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XVI, năm 2005 đạt 4.821 tỷ đồng ( giá so sánh
năm 1994), tăng 21,9% so với năm 2000, giá trị sản xuất 1ha canh tác đạt 38 triệu
đồng ( mục tiêu Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XVI đề ra là 35 triệu đồng)[13,2]
Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đợc đẩy mạnh, đã hình thành
một số vùng và nhiều mô hình sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao, chuyển giao ứng
dụng, tiến bộ khoa học- kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp đợc coi trọng, nhất là
về giống cây trồng, vật nuôi và phơng thức canh tác. Kinh tế gia trại, trang trại có
bớc phát triển, toàn Tỉnh có 543 trang trại và 8000 gia trại[13,2]
Cơ cấu giống lúa chuyển đổi tăng diện tích lúa ngắn ngày, lúa chất lợng
cao. Năm 2005, năng suất lúa đạt 117,28 tạ/ha, mặc dù diện tích cấy lúa giảm
2500ha nhng sản lợng lơng thực vẫn đạt trên một triệu tấn. Diện tích cây vụ đông
năm 2003 và 2004 đạt 32 nghìn ha/năm chiếm 36% diện tích canh tác với 3 cây
chủ lực là ngô, khoai tây, đậu tơng và một số cây rau quả xuất khẩu. Toàn Tỉnh
chuyển gần 6000 ha cấy lúa, làm muối kém hiệu quả sang nuôi trồng các cây, con
có hiệu quả kinh tế cao hơn. Việc xây dựng cánh đồng 50 triệu đợc triển khai ở
nhiều cơ sở, có 251 xã, phờng, thị trấn đã xây dựng đợc 1.138 cánh đồng đạt giá
trị sản xuất 50 triệu đồng trở lên/ha với diện tích 11.268ha (chiếm 12,3% tổng
diện tích đất canh tác), trong đó có 2 xã đạt 50 triệu đồng/ha trên toàn bộ diện
tích đất canh tác ( Quỳnh Hải- Quỳnh Phụ, Thuỵ An- Thái Thuỵ)[13,2]
Chăn nuôi chuyển dần từ quy mô nhỏ lẻ bằng thức ăn tận dụng sang nuôi
tập trung theo phơng pháp công nghệ, mô hình gia trại, trang trại gắn với thị trờng
tiêu thụ sản phẩm. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng bình quân 10,2%/ năm.
Năm 2005 đạt 1.220 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 32% trong cơ cấu nông nghiệp (năm
2000 là 21,3%)[13,2]
Nuôi trồng thuỷ, hải sản đợc mở rộng, từng bớc chuyển từ nuôi quảng
canh là chính sang bán thâm canh. Một số vùng nuôi trồng thuỷ, hải sản đợc quy
hoạch, đầu t, xây dựng kết cấu hạ tầng. Giá trị sản xuất thuỷ sản tăng bình quân
10,9%/ năm. Năm 2005, sản lợng thuỷ, hải sản đạt 60,7 nghìn tấn, tăng 10,7
nghìn tấn so với mục tiêu Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XVI đề ra.
Rừng phòng hộ ven biển đợc quan tâm đầu t, tăng cờng công tác quản lý.
Đến nay, tổng diện tích đất rừng trồng 7.100ha, tăng 2000ha so với năm 2000.
Sản xuất công nghiệp, xây dựng có bớc phát triển nhanh, đã hình thành
một số khu công nghiệp, cụm công nghiệp, mở rộng nghề, làng nghề làm thay đổi
diện mạo công nghiệp của Tỉnh.
Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng tăng bình quân 16,02%, vợt 3,02%
so với mục tiêu Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XVI, năm 2005 đạt 3.964 tỷ đồng
(giá so sánh năm 1994), gấp 2,1 lần so với năm 2000, trong đó giá trị sản xuất
công nghiệp đạt 3.317 tỷ đồng, gấp 2,27 lần so với năm 2000, tốc độ bình quân
17,8% năm, vợt 4,8% so với mục tiêu Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XVI đề ra.
Năng lực sản xuất công nghiệp đợc mở rộng, công nghệ, thiết bị từng bớc
đợc đổi mới. Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đợc đẩy mạnh đầu t, đã quy
hoạch xây dựng đợc 5 khu công nghiệp và 8 cụm công nghiệp, đã có 185 dự án
đăng ký đầu t sản xuất kinh doanh với tổng số vốn 4.238 tỷ đồng, trong đó có 119
dự án đã đợc thực hiện với số vốn gần 2.380 tỷ đồng, tạo việc làm cho 35 nghìn
lao động[13,3]
Nghề, làng nghề phát triển, toàn Tỉnh 100% xã có nghề, 173 làng nghề
đạt tiêu chuẩn (23 làng nghề có quy mô toàn xã), tăng 91 làng nghề so với năm
2000, đã giải quyết việc làm ổn định, tăng thu nhập cho 15 vạn lao động[15,6]
Giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng 8,8%/năm, năm 2005 đạt 647 tỷ
đồng, tăng 52,2% so với năm 2000[13,3]
Dịch vụ có bớc phát triển, từng bớc nâng cao chất lợng, đáp ứng yêu cầu
của sản xuất và đời sống nhân dân.
Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 9,65%/ năm, năm 2005
đạt 2.769 tỷ đồng tăng 58,5% so với năm 2000[13,3]
Hoạt động thơng mại phát triển với sự tham gia của nhiều thành phần kinh
tế. Tổng mức lu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng 14,7%/năm. Đã xuất khẩu hàng hoá
sang 35 nớc và khu vực. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu tăng 21,5% đạt 95 triệu
USD vợt 26,6% so với mục tiêu Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XVI, gấp 2,79 lần
so với năm 2000 [13,4]
Dịch vụ vận tải tăng nhanh về phơng tiện và doanh số, bu chính viễn thông
có bớc phát triển, năm 2005 đạt 4,5 máy điện thoại/ 100 dân, tất cả các xã đều có
điểm bu điện, văn hoá hoặc điểm bu điện [13,6]
Công tác quản lý tài chính có bớc chuyển biến tích cực, tổng thu 5 năm đạt
3.338 tỷ đồng tăng 30,5%/năm. Chi ngân sách địa phơng 5 năm đạt 6.881 tỷ đồng
tăng 18,8%/năm, trong đó chi đầu t phát triển 2.352 tỷ đồng chiếm 34,2%[13,4]
Về đầu t phát triển: Tổng vốn đầu t cho phát triển toàn xã hội 5 năm đạt
11.416 tỷ đồng, vợt 906 tỷ đồng so với mục tiêu Đaị hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ
XVI, gấp 2,61 lần giai đoạn 1996-2000[13,4]
Đã hoàn thành xây dựng hệ thống điện, đờng, trờng, trạm, chỉnh trang đô
thị đa thị xã Thái Bình lên đô thị loại 3 và trở thành thành phố.
Việc sắp xếp, đổi mới, chuyển đổi hình thức sở hữu các doanh nghiệp nhà
nớc cơ bản hoàn thành. Các hợp tác xã cơ bản đợc chuyển đổi theo luật hợp tác
xã. Một số hợp tác xã đầu t đổi mới công nghệ, thiết bị, tạo sản phẩm mới, một số
hợp tác xã vơn lên tổ chức tiêu thụ nông sản cho nông dân. Doanh nghiệp thuộc
khu vực kinh tế t nhân phát triển nhanh, mở rộng, hình thức hoạt động đa dạng.
Đến nay, toàn Tỉnh có 1.143 doanh nghiệp gấp 3 lần so với năm 2000, có 16 DN
có vốn đầu t nớc ngoài [13,5]
Quy mô giáo dục tiếp tục đợc mở rộng, các loại hình trờng lớp phát triển
đa dạng ở các cấp học, ngành học. Hoạt động khoa học, công nghệ tập trung phục
vụ các chơng trình phát triển kinh tế - xã hội trọng điểm của Tỉnh. Nhiều tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ mới đợc ứng dụng có hiệu quả.
Công tác chăm sóc sức khoẻ của nhân dân đợc nâng lên cao hơn mức bình
quân chung cả nớc, đến nay toàn tỉnh có 120 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã.
Sự nghiệp văn hoá, thông tin, báo chí, phát thanh truyền hình, văn học,
nghệ thuật có nhiều tiến bộ, đến nay toàn Tỉnh có 56,5% gia đình đạt chuẩn văn
hoá, gần 30% thôn, làng đạt chuẩn văn hoá [13,6]
Chơng trình việc làm và đào tạo nghề cho ngời lao động đợc quan tâm
thực hiện, mỗi năm giải quyết trên 22,4 nghìn lao động, vợt 12% so với mục tiêu
Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XVI, xuất khẩu 2,5 nghìn lao động, dạy nghề cho
hơn 16 nghìn ngời. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị giảm 0,49%/ năm, tỷ lệ
sử dụng thời gian ở khu vực nông thôn tăng 1,1%/năm. Năm 2005 tỷ lệ lao động
qua đào tạo đạt 30%, trong đó qua đào tạo nghề 18% [13,6-7]
Các cấp, các ngành và toàn xã hội tích cực thực hiện chính sách u đãi đối
với ngời, gia đình có công với cách mạng, ngời có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
và chơng trình xoá đói giảm nghèo: toàn Tỉnh sửa chữa, xây mới trên 1000 nhà
tình nghĩa, xây dựng trên 4030 nhà tình thơng, hoàn thành xoá nhà ở dột nát cho
hộ nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 9,15% năm 2000 xuống 5,3% năm 2005[13,7]
Quốc phòng, an ninh đợc tăng cờng, trật tự an toàn xã hội đợc bảo đảm.
Chính quyền các cấp đợc củng cố, nâng cao chất lợng hoạt động của khối
đại đoàn kết toàn dân.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đợc tiến hành đồng bộ, tạo ra bớc
chuyển biến tích cực trong các tổ chức Đảng.
Bên cạnh những u điểm trên Thái Bình có những hạn chế và thách thức lớn,
là Tỉnh đất hẹp, ngời đông, dân số nông thôn, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn,
sức ép gia tăng dân số tự nhiên do vậy vấn đề giải quyết việc làm không chỉ là
những khó khăn của Tỉnh trong những năm trớc mắt mà còn là vấn đề bức xúc
cho phát triển kinh tế xã hội ở Thái Bình trong những năm phát triển tiếp theo.
Điểm xuất phát và tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế ở Thái Bình còn thấp. Sản
xuất hàng hoá còn yếu, cha phát triển mạnh, chất lợng thấp, giá thành sản phẩm
cao, khối lợng hàng hoá nhỏ bé, sức cạnh tranh trên thị trờng thấp. Ngành công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp địa phơng cha tạo đợc ngành nghề mũi nhọn, tạo đà
phát triển nhanh nền kinh tế.
Khối ngành dịch vụ tuy đạt đợc khối lợng phát triển khá nhng cha ổn định.
Những hành lang kinh tế Hà Nội Hải Phòng Quảng Ninh sẽ phát triển với
tốc độ nhanh, nếu Thái Bình không bứt lên sẽ bị tụt hậu, gặp nhiều bất lợi trong
quá trình phát triển.
Quá trình hội nhập khu vực và thế giới vừa là cơ hội, song cũng là thách
thức lớn đối với Thái Bình trong việc mở rộng thị trờng tiêu thụ, xuất khẩu sản
phẩm, thực hiện và thu hút thêm nguồn vốn đầu t nớc ngoài trong tơng lai.
Những nét cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình nêu trên
đã chi phối, tác động rất lớn đến sự phát triển của đội ngũ công nhân Thái Bình
trong những năm vừa qua.
1.2.2 Những yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình
Xuất phát từ một Tỉnh nông nghiệp, do vậy yêu cầu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của Thái Bình trong những năm tới đây nh sau:
Thứ nhất: Thái Bình phải tập trung thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp nông thôn nhằm đa nông thôn Thái Bình ngày càng phát triển.
Muốn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, tr-
ớc tiên Tỉnh cần tập trung phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm: Tiếp tục mở rộng đ-
ờng giao thông nông thôn nhằm có điều kiện thu hút vốn đầu t trong và ngoài n-
ớc, xây dựng những công trình thuỷ lợi đảm bảo tới tiêu chủ động, có nh vậy mới
có điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất, mới thực hiện đợc chuyển đổi cây trồng
vật nuôi, thực hiện thâm canh tăng vụ. Tăng cờng đầu t xây dựng cơ sở hạ tầng
cho các dịch vụ nh : tín dụng ngân hàng, bu chính viễn thông, hệ thống điện phục
vụ sản xuất và dân sinh.
Thực hiện chuyển đổi cây trồng vật nuôi, chuyển từ cây con có năng suất
thấp sang các loại cây có năng suất cao. Thái Bình phải tập trung khai thác hơn
nữa kinh tế biển và kinh tế ven biển, đẩy mạnh việc nuôi trồng thuỷ sản, đẩy
mạnh thâm canh để giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ.
Thực hiện xây dựng những khu sản xuất chuyên canh nhằm từng bớc tạo
ra những điều kiện cho việc xây dựng công nghiệp chế biến nông, hải sản nhằm
nâng cao giá trị của các mặt hàng nông hải sản. Muốn xây dựng những khu vực
sản xuất chuyên canh, bà con nông dân phải thực hiện việc dồn điền, đổi thửa
mỗi gia đình sản xuất trên một khoảng đất nhất định, phải nhanh chóng khắc
phục tình trạng phân tán hiện nay. Tỉnh cần có những nghiên cứu khoa học để xây
dựng những khu chuyên canh các loại sản phẩm sao cho có hiệu quả cao nhất.
Quy hoạch các khu chuyên canh phải gắn với công nghiệp chế biến. Có nh vậy
mới tạo đợc điều kiện cho nông nghiệp phát triển bền vững và tạo điều kiện phát
triển công nghiệp chế biến. Làm nh thế sẽ tăng cờng đợc sự liên kết giữa công
nghiệp và nông nghiệp, giữa công nhân và nông dân.
Phải đẩy mạnh việc áp dụng những tiến bộ khoa học, đa những giống mới
có năng suất cao, chất lợng tốt vào sản xuất, tăng cờng sự liên kết giữa các nhà
khoa học với bà con nông dân.
Thứ hai: Thu hút các nguồn lực trong nhân dân, thu hút các nguồn vốn để
đầu t, đẩy mạnh phát triển công nghiệp Thái Bình.
Những năm qua do khó khăn về đờng giao thông nên đầu t nớc ngoài cũng
nh trong nớc để phát triển công nghiệp ở Thái Bình còn ở mức độ khiêm tốn.
Trong thời gian tới muốn đa Thái Bình trở thành một Tỉnh công nghiệp, Tỉnh cần
có chính sách huy động mọi nguồn lực trong dân để phát triển công nghiệp, đồng
thời phải có chính sách u đãi để thu hút các nguồn vốn đầu t trong và ngoài nớc
tới Thái Bình. Tỉnh nên tạo điều kiện để thu hút các ngành dệt may, da giầy.v.v
Những ngành này tuy thu nhập không cao, song vốn đầu t ít và có thể giải quyết
đợc nhiều lao động d thừa. Có nh vậy mới có thể nhanh chóng chuyển lao động
nông nghiệp sang lao động công nghiệp, giải quyết đợc tình trạng thiếu việc làm
của lao động trong Tỉnh hiện nay.
Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Tỉnh, giảm bớt những thủ tục phiền
hà, tạo điều kiện cho các nhà đầu t tăng cờng đầu t vào Thái Bình.
Thứ ba: Thái Bình cần phát triển mạnh ngành nghề, làng nghề truyền
thống.
Nh trên đã trình bày, thế mạnh của Thái Bình là nhiều ngành nghề, làng
nghề truyền thống. Song nhìn chung các làng nghề, các nghề truyền thống còn t-
ơng đối phân tán, sử dụng công nghệ còn lạc hậu do vậy hàng hoá bán ra cha có
thế mạnh, sức cạnh tranh hàng hoá còn thấp. Để phát huy sức mạnh của Thái
Bình, trong lĩnh vực này Tỉnh cần quan tâm tới việc tiếp cận thị trờng. Cần phải
khảo sát những mặt hàng nào có thị trờng tiêu thụ sản phẩm lớn, trên cơ sở đó
Tỉnh có kế hoạch hỗ trợ, tạo nguồn vốn để đẩy nhanh tốc độ phát triển những mặt
hàng đó.
Thời đại ngày nay là thời đại khoa học công nghệ, khoa học công nghệ đã
đi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, muốn phát triển ngành nghề
truyền thống của Thái Bình cần nhanh chóng đa khoa học tiên tiến nhằm nâng
cao chất lợng sản phẩm và hiệu quả sản suất của các mặt hàng thủ công mỹ nghệ.
Thông thờng trớc đây, các làng nghề truyền thống thờng gắn liền với
những khu dân c sinh sống, thờng đợc tiến hành trong từng gia đình. Điều đó gây
ra những hậu quả ô nhiễm môi trờng không khí, môi trờng nớc, đồng thời với việc
sản xuất không thận trọng, dễ gây ra tình trạng cháy nổ Để thích ứng với thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Thái Bình cần xây dựng những khu
vực tập trung, thực hiện tách khu vực sản xuất với khu dân c. Có nh vậy mới có
điều kiện đa khoa học công nghệ mới vào sản xuất và từng bớc hình thành tác
phong công nghiệp, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, nâng cao trình độ tay nghề
cho công nhân.
Thứ t: Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chuyển dịch cơ cấu
lao động, phân công lao động dẫn tới phân hoá giàu nghèo. Tỉnh cần có những
chính sách xã hội cụ thể không chỉ đối với khu vực hành chính sự nghiệp, khu
vực doanh nghiệp mà còn phải đợc áp dụng ở khu vực nông thôn, cho nông dân.
Thứ năm: Công nghiệp hoá đòi hỏi phải kết hợp nghiên cứu khoa học, đào
tạo nguồn nhân lực để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cần
có những chuyên gia giỏi, những công nhân lành nghề trong mọi ngành, mọi
thành phần kinh tế.
1.3 Xây dựng đội ngũ công nhân Thái Bình
1.3.1 Quá trình xây dựng đội ngũ công nhân Thái Bình
Năm 1890, theo Quyết định của toàn quyền Đông Dơng, Tỉnh Thái Bình
thuộc trấn Sơn Nam Hạ đợc thành lập. Thái Bình là một Tỉnh đồng bằng không có
nguồn tài nguyên phong phú lại tơng đối xa các trung tâm công nghiệp, trung tâm
chính trị của đất nớc, cho nên các ngành công nghiệp ở Thái Bình trớc ngày miền
Bắc đợc giải phóng gần nh không phát triển.
Năm 1930, thực dân Pháp đã xây dựng ở thị xã Thái Bình một trạm biến
thế điện và một trạm cấp thoát nớc, mỗi nơi vài ba công nhân. Các cơ sở công
nghiệp đó nhằm để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của bọn thống trị. Đến năm 1938,
có xây dựng thêm nhà máy rợu Phúc Khánh, với khoảng 30 công nhân bán
chuyên nghiệp.
Tình hình công nghiệp ít ỏi nh vậy nên đội ngũ công nhân công nghiệp ở
Thái Bình rất ít về số lợng, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu của chính quyền thực
dân và một bộ phận dân c trong thị xã. Nhìn chung lực lợng công nhân của Tỉnh
trớc ngày miền Bắc giải phóng còn rất nhỏ bé và chủ yếu cũng là những ngời
công nhân trong lĩnh vực dịch vụ nh: cung cấp điện nớc, công nhân làm đờng
giao thông phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, thiéu
một lực lợng công nhân đại công nghiệp. Điều đặc biệt quan trọng là lực lợng
công nhân công nghiệp xuất thân từ quê hơng Thái Bình ra đi làm việc ở các nơi
khác. Họ là những ngời nông dân sinh ra và lớn lên ở Thái Bình vốn có truyền
thống gắn bó chặt chẽ với quê hơng làng xóm. Nhng do sự bóc lột hà khắc của
thực dân Pháp, buộc họ phải từ bỏ quê hơng đi phu đồn điền cao su, cà phê, bến
cảng, trong hầm mỏ, làm công nhân ở xí nghiệp t bản của Pháp và t sản Việt
Nam, ở trong nớc và nớc ngoài.
Thái Bình là Tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống nh: Chạm bạc ở Đồng
Xâm, dệt đũi ở Cao Bạt, dệt lụa ở Bộ La, Mẹo, dệt vải ở Đọ, trồng dâu nuôi tằm ở
Kiến Xơng, Vũ Th, Thái Thuỵ. Cho nên có thể nói Thái Bình là một Tỉnh có lực l-
ợng lao động thủ công đông đảo.
Hoà bình lập lại, ở miền Bắc bớc vào khôi phục phát triển kinh tế, các nhà
máy xí nghiệp mọc lên ở nhiều nơi. Với sự giúp đỡ hết lòng của nhân dân Liên
Xô, Trung Quốc, hàng loạt nhà máy đợc xây dựng ở nhiều nơi nh : Hà Nội, Hải
Phòng, Việt Trì, Thái Nguyên. Những năm này bộ mặt miền Bắc thay đổi hàng
ngày hàng giờ. Trong thời gian này chúng ta đã đáp ứng đợc 80% nhu cầu hàng
tiêu dùng của nhân dân.
Thái Bình là một Tỉnh nông nghiệp, giao thông đi lại khó khăn, do vậy các
ngành công nghiệp cũng ít đầu t vào Thái Bình. Trong những năm trớc đổi mới ở
Thái Bình chỉ có một số nhà máy sản xuất nhỏ, lẻ nh chế biến nông sản và một số
lĩnh vực khác chủ yếu là phục vụ đời sống cho nhân dân.
Công nhân Thái Bình trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và sau này là thời kỳ vừa xây dựng, vừa chiến đấu, cũng chủ yếu nhằm phục
vụ quốc kế dân sinh, phục vụ cho nông nghiệp phát triển nh công nhân xây dựng,
công nhân trong ngành điện, ngành cấp thoát nớc, ngành xăng dầu, cầu đờng, bu
chính viễn thông, thuỷ lợi Nếu so với các trung tâm công nghiệp thì công nhân
Thái Bình chiếm một tỷ lệ nhỏ trong dân c, thiếu một đội ngũ công nhân lao động
trong những lĩnh vực công nghiệp có trình độ cao.
Trong những năm 80 đầu những năm 90, trong quá trình chuyển đổi nền
kinh tế từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng, cùng với sự
đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nớc Đông Âu, nhiều mặt hàng
truyền thống của Thái Bình mất thị trờng hoặc thị trờng bị thu hẹp, do vậy công
nhân gặp rất nhiều khó khăn, nhiều công nhân phải nghỉ việc.
1.3.2 Một số đặc điểm đội ngũ công nhân của tỉnh Thái Bình.
Công nhân ở Thái Bình là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam,
cho nên có đầy đủ các đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam. Tuy nhiên do
ra đời và phát triển trong một Tỉnh nông nghiệp, nên công nhân của Tỉnh Thái
Bình có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Số lợng công nhân ít, chủ yếu làm việc ở khu vực ngoài kinh tế
Nhà nớc, trong công nghiệp chế biến.
Tới nay Thái Bình vẫn là tỉnh nông nghiệp, nông dân chiếm 69%, cao hơn
so với cả nớc (57,9%). Năm 2005 tổng sản phẩm GDP của Tỉnh đạt 6.455 tỉ đồng
(tính theo giá 1994), trong đó giá trị công nghiệp và xây dựng ớc tính 3.258 tỉ
đồng, thành phần kinh tế Nhà nớc đóng góp 612 tỉ [51,10], còn lại là đóng góp
của kinh tế ngoài khu vực kinh tế Nhà nớc. Nh vậy có thể nói lực lợng công nhân
ở Thái Bình làm trong khu vực kinh tế Nhà nớc còn rất nhỏ bé so với tỉ lệ dân c
nói chung, so với đội ngũ công nhân ở Thái Bình nói riêng. Ví dụ nh tính tới năm
2004 số đoàn viên Công đoàn thuộc các doanh nghiệp Nhà nớc trong toàn tỉnh có
9000 lao động, trong khi đó số ngời lao động công nghiệp, thủ công nghiệp trong
các thành phần kinh tế khác: 57.000 [44,1]
Thứ hai: Phần lớn công nhân lao động Thái Bình làm việc trong lĩnh vực
lao động thủ công năng suất thấp
Sau nhiều lần sắp xếp lại số doanh nghiệp Nhà nớc ở Thái Bình còn 76
doanh nghiệp [44,1]. Những doanh nghiệp Nhà nớc phần lớn đợc đầu t trang thiết
bị vào những năm 1950. Một số lợng đông đảo công nhân Thái Bình làm việc
trong các công ty t nhân, trong các hợp tác xã, trong lĩnh vực chế biến hải sản, do
vậy nhìn chung công nghệ còn lạc hậu. Từ thực tế sản xuất nh vậy, cũng có thể
nói ở Thái Bình thiếu một đội ngũ công nhân cơ khí, công nhân hiện đại.
Thứ ba: Công nhân ở Thái Bình còn cha đợc đào tạo một cách cơ bản, trình
độ tay nghề cha cao.
Nh trên đã trình bày, ở Thái Bình phần lớn công nhân làm ở các công ty t
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, trong các hợp tác xã với trình độ kỹ thuật cha
cao, cho nên cũng cha buộc công nhân phải học tập nâng cao trình độ. Năm 1995
theo thống kê của Sở Lao động tỉnh Thái Bình 70% số lao động công nghiệp
trong Tỉnh là lao động thủ công năng suất thấp, chỉ có 6% là công nhân kỹ thuật
bậc cao. Bậc thợ trung bình của công nhân trong Tỉnh thời gian này 3,94. Tuy
nhiên nếu tính theo công việc trong các doanh nghiệp bình quân 3,63. Điều đó
nói lên mức lơng của công nhân theo bậc thợ là cao hơn so với yêu cầu công việc
[20,7]. Nếu tính công nhân lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp Nhà nớc,
vào năm 2003 số công nhân có bậc thợ từ 6 - tới 7 là 8,4% bậc thợ từ 3- 5 chiếm
47% trên 44% có bậc thợ từ bậc 2 trở xuống [42,2]
Thứ t : Mức lơng của công nhân Thái Bình còn thấp, đời sống còn nhiều
khó khăn.
Trong những năm qua Thái Bình đã thực hiện nhiều biện pháp góp phần
phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Mức độ tăng trởng trong công nghiệp của
Tỉnh tơng đối khá, trung bình tăng trởng hàng năm là 18%. Song do mức xuất
phát điểm của Thái Bình còn thấp so với nhiều tỉnh khác cho nên thu nhập của
công nhân Thái Bình còn thấp.
Theo thống kê của Liên đoàn Lao động Tỉnh Thái Bình năm 2003, lơng
của công nhân trong các doanh nghiệp có việc làm thờng xuyên từ 600.000 đến
700.000 đ/ngời/tháng, 64% số doanh nghiệp lơng bình quân của công nhân từ
350-400.000 đ/ngời/tháng. Số còn lại không ít doanh nghiệp dới 300.000đ /ng-
ời/tháng.
Với mức thu nhập trên công nhân lại phải tự thuê nhà, sống ở các thành
phố, trung tâm công nghiệp quả là một khó khăn rất lớn đối với họ. Vì vậy có thể
nói công nhân Thái Bình sẽ rất khó khăn trong học tập nâng cao trình độ mọi mặt.
Thứ năm: Công nhân Thái Bình thờng sống phân tán trong các vùng nông
thôn.
Lực lơng công nhân ở Thái Bình làm trong các nhà máy lớn, những khu
công nghiệp tập trung ở thành phố là rất ít, đa số lao động ở các xí nghiệp vừa và
nhỏ ở các vùng nông thôn thuộc các huyện trong Tỉnh, một số lợng rất lớn những
ngời lao động làm những ngành nghề thủ công trong 173 làng nghề truyền thống.
Do vậy tuyệt đại bộ phận công nhân sống ở các vùng nông thôn. Điều đó tạo điều
kiện trong việc xây dựng khối liên minh công nông. Song do sống trong điều kiện
gia đình ở nông thôn, vì vậy công nhân Thái Bình còn mang rất nặng ý thức tác
phong của ngời sản xuất nhỏ, hạn chế việc phát triển tác phong công nghiệp, có ý
thức tổ chức kỷ luật cha cao, thiếu nhạy bén với cơ chế thị trờng.
Thứ sáu: Công nhân Thái Bình cha thật gắn bó với nghề nghiệp, hoạt động
của tổ chức Đảng và các đoàn thể khác gặp khó khăn.
Hiện nay mức thu nhập của công nhân ở Thái Bình còn thấp so với nhiều
tỉnh thành khác, hơn nữa tình trạng thiếu việc làm của một số doanh nghiệp sản
xuất có trình độ công nghệ thấp đã làm cho một bộ phận công nhân trong Tỉnh
cha thật sự thiết tha với nghề nghiệp. Có một bộ phận công nhân, khi nào lao
động công nghiệp có thu nhập cao hơn trong lĩnh vực nông nghiệp thì họ lao
động công nghiệp, ngợc lại họ lại trở về lao động nông nghiệp. Chính điều đó đã
làm cho một bộ phận công nhân không thật sự tâm huyết sống chết với nghề
nghiệp.
Do sống không tập trung, công nhân thờng sống ở gia đình, có ngời phải đi
xa mới tới nơi làm việc, hơn nữa nhiều công ty t nhân cũng chậm trễ trong việc tổ
chức Công đoàn, tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, cho nên việc
sinh hoạt các tổ chức chính trị - xã hội của công nhân ở Thái Bình còn gặp nhiều
khó khăn.
Tóm lại: Dựa trên những yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
mà Hội nghị Trung ơng lần thứ bẩy Đại hội VII đề ra, Thái Bình đã xác định ,
nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình là
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Phải thực hiện việc xây
dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn phát triển, thực hiện chuyển
đổi các loại cây trồng vật nuôi có năng suất thấp thành các loại cây trồng vật
nuôi có năng suất cao. Phải đa khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp,