Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Chỉ tiêu giám sát và đánh giá chi tiêu ngân sách nhà nước ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.93 KB, 111 trang )

ĐỀ TÀI:
CHỈ TIÊU GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ
CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ
Sinh viên: Nguyễn Quỳnh Nga
Lớp: Anh 1 – KTĐN – K45B
MỤC LỤC
Chương III. Hoàn thiện hệ thống đánh giá và giám sát chi ngân sách Nhà nước
ở Việt Nam 61
Phụ lục 1. Khung theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả tình hình thực hiện kế hoạch
phát triển 81
kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 81
Mục tiêu tổng quát 1: Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính
bền vững của sự phát triển, sơm đưa nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển 81
Chỉ số, chỉ tiêu 81
Mục tiêu tổng quát 2 - Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân
dân 87
Mục tiêu tổng quát 3 - Bảo vệ tài nguyên môi trường và phát triển bền vững 96
Mục tiêu tổng quát 4: tăng cường quản lý Nhà nước, xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thể
chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 99
Phụ lục 2. Bảng tình hình và khả năng hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 2006 -
2010 103
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
Chương I. Khái quát chung về chi tiêu ngân sách Nhà nước
I. Giới thiệu một số vấn đề
1. Khái niệm và bản chất ngân sách Nhà nước


1.1. Khái niệm ngân sách Nhà nước
“Ngân sách Nhà nước” là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong
đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Đó là một trong những chính sách
quan trọng nhất được Nhà nước thực hiện để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị
trường. Song quan niệm về ngân sách Nhà nước lại chưa thống nhất, người ta
đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách Nhà nước tùy theo các trường phái
và các lĩnh vực nghiên cứu. Nhưng nhìn chung có thể hiểu ngân sách Nhà
nước là một hệ thống các quan hệ phân phối không hoàn lại giữa Nhà nước và
các chủ thể kinh tế trong xã hội thông qua quỹ ngân sách Nhà nước.
Điều 1, luật Ngân sách Nhà nước 2002 đã nêu ra định nghĩa: “Ngân
sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo
đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.”
Ở Việt Nam, ngân sách Nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương.
Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
(luật ngân sách Nhà nước 2002, chương I, điều 4)
1.2. Bản chất ngân sách Nhà nước
1.2.1. Tính tất yếu khách quan của ngân sách Nhà nước
Sự vận hành của nền kinh tế thị trường nào cũng trước hết và chủ yếu
do các quy luật thị trường quyết định. Song, thực tế xã hội đã và đang chứng
minh sự bất cập của lý thuyết “Bàn tay vô hình” hay “Thị trường tự do” trong
môi trường hiện tại. Thị trường tự do có thể dẫn đến những biến đổi bất ngờ,
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
1

nghiêm trọng. Bản thân nền kinh tế có thể tự phục hồi qua những biến cố đó,
nhưng quá trình tự vận động đó đòi hỏi thời gian cũng như những hy sinh
đáng kể. Để hạn chế điều này, ngăn ngừa khủng hoảng và kích thích phục hồi,
Nhà nước là một chủ thế đóng vai trò hết sức to lớn. Thông qua các chính
sách của mình, Nhà nước có thể tác động tích cực vào nền kinh tế về mặt định
hướng. Vũ khí sắc bén nhất của Nhà nước chính là ngân sách Nhà nước. Nói
như vậy là vì Nhà nước có thể dễ dàng điều chỉnh thu, chi ngân sách cho phù
hợp với thực tế và thay đổi thu, chi ngân sách cũng sẽ dễ dàng đưa đến những
biến đổi về mặt kinh tế theo đúng những quy luật thị trường.
Thêm vào nữa, việc xây dựng và phát triển đất nước luôn đòi hỏi những
khoản chi tiêu công. Vậy ai sẽ chấp nhận chi những khoản này? Dĩ nhiên
không một cá nhân nào tình nguyện chi trả hết những yêu cầu đó. Việc này
chỉ ra tính tất yếu của ngân sách Nhà nước. Chính việc điều chỉnh thu, chi
ngân sách sẽ là nguồn tài trợ cho những khoản chi tiêu công cộng này.
Vì vậy, một Nhà nước điều hành xã hội tốt là một Nhà nước biết cách
nắm bắt và vận dụng chính sách ngân sách một cách linh hoạt, phát huy được
những ưu điểm và hạn chế những bất cập còn tồn tại của thị trường.
1.2.2. Bản chất của ngân sách Nhà nước
Ngân sách Nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Nhà
nước bằng quyền lực chính trị và xuất phát từ nhu cầu về tài chính để đảm
bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đã đặt ra những khoản thu, chi
của ngân sách Nhà nước. Điều này cho thấy chính sự tồn tại của Nhà nước,
vai trò của Nhà nước đối với đời sống kinh tế xã hội là những yếu tố cơ bản
quyết định sự tồn tại và tính chất hoạt động của ngân sách Nhà nước.
Trong thực tế nhìn bề ngoài hoạt động của ngân sách Nhà nước biểu
hiện đa dạng dưới hình thức các khoản thu và các khoản chi tài chính của Nhà
nước ở các lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Các khoản thu chi này được
tổng hợp trong một bảng dự toán thu chi tài chính được thực hiện trong một
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN

Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
2
khoảng thời gian nhất định. Các khoản thu mang tính chất bắt buộc của ngân
sách Nhà nước là một bộ phận các nguồn tài chính chủ yếu được tạo ra thông
qua việc phân phối thu nhập quốc dân được sáng tạo ra trong khu vực sản
xuất kinh doanh và các khoản chi chủ yếu của Ngân sách mang tính chất cấp
phát phục vụ cho đầu tư phát triển và tiêu dùng của xã hội. Như vậy, về hình
thức có thể hiểu: ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà
nước có trong dự toán, đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt
và được thực hiện trong một năm để đảm bảo việc thực hiện chức năng,nhiệm
vụ của nhà nước.
Tuy nhiên, hoạt động của ngân sách Nhà nước là hoạt động phân phối
các nguồn tài chính của xã hội gắn liền với việc hình thành và sử dụng quỹ
tiền tệ tập trung là Ngân sách nhà nước. Trong quá trình phân phối đó đã làm
nảy sinh các quan hệ tài chính giữa một bên là Nhà nuớc và một bên là các
chủ thể trong xã hội. Những quan hệ tài chính này bao gồm:
►Quan hệ kinh tế giữa ngân sách Nhà nước với các doanh nghiệp: Các
quan hệ kinh tế này phát sinh trong quá trình hình thành nguồn thu của Ngân
sách dưới hình thức các loại thuế mà doanh nghiệp phải nộp. Đồng thời, Ngân
sách chi hổ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp dưới hình thức xây dựng
cơ sở hạ tầng, hổ trợ vốn…
►Quan hệ kinh tế giữa ngân sách Nhà nước và các đơn vị hành chính
sự nghiệp: Quan hệ này phát sinh trong quá trình phân phối lại các khoản thu
nhập bằng việc ngân sách Nhà nước cấp kinh phí cho các đơn vị quản lý nhà
nước. Đồng thời, trong cơ chế kinh tế thị trường các đơn vị có hoạt động sự
nghiệp có các khoản thu phí và lệ phí, nguồn thu này một phần các đơn vị làm
nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách, một phần trang trải các khoản chi tiêu
của mình để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách.
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và

đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
3
►Quan hệ kinh tế giữa ngân sách Nhà nước với các tầng lớp dân cư:
Quan hệ này được thể hiện qua việc một bộ phận dân cư thực hiện nghĩa vụ
tài chính đối với nhà nước bằng việc nộp các khoản thuế, phí, lệ phí. Một bộ
phận dân cư khác nhận từ ngân sách nhà nước các khoản trợ cấp theo chính
sách qui định.
►Quan hệ kinh tế giữa ngân sách Nhà nước với thị trường tài chính:
Quan hệ này phát sinh khi nhà nước tham gia trên thị trường tài chính bằng
việc phát hành các loại chứng khoán của kho bạc nhà nước nhằm huy động
vốn của các chủ thể trong xã hội để đáp ứng yêu cầu cân đối vốn của ngân
sách nhà nước.
Như vậy, đằng sau hình thức biểu hiện bên ngoài của ngân sách Nhà
nước là một quỹ tiền tệ với các khoản thu và các khoản chi của nó thì Ngân
sách nhà nước lại phản ảnh các quan hệ kinh tế trong quá trình phân phối. Từ
sự phân tích trên cho thấy: Ngân sách Nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh
tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội để tạo
lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước nhằm thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước .
1.2.3. Chức năng của ngân sách Nhà nước
Với bản chất được phân tích như trên, ngân sách Nhà nước có thể coi là
một công cụ hiệu quả của Nhà nước với bốn chức năng cơ bản.
- Ngân sách Nhà nước có chức năng phân bổ trực tiếp
hay gián tiếp các nguồn tài chính quốc gia,
- Ngân sách Nhà nước có chức năng định hướng phát
triển sản xuất kinh tế xã hội,
- Ngân sách Nhà nước góp phần hình thành cơ cấu
kinh tế mới,

Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
4
- Ngân sách Nhà nước thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
ổn định và bền vững.
2. Vai trò của ngân sách Nhà nước
2.1. Vai trò huy động nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi
tiêu của Nhà nước
Vai trò này xuất phát từ bản chất kinh tế của Ngân sách nhà nước, để
đảm bảo cho hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã
hội đòi hỏi phải có những nguồn tài chính nhất định. Những nguồn tài chính
này được hình thành từ các khoản thu thuế và các khoản thu ngoài thuế . Đây
là vai trò lịch sử của Ngân sách nhà nước mà trong bất kỳ chế độ xã hội nào,
cơ chế kinh tế nào ngân sách nhà nước đều phải thực hiện.
2.2. Vai trò quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Ngoài vai trò nguồn tài chính cho chi tiêu chính phủ dễ dàng nhận thấy,
ngân sách Nhà nước có vai trò quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nhờ vai trò
quan trọng này, Nhà nước có thể điều tiết nền kinh tế thông qua việc điều
chỉnh thu – chi ngân sách Nhà nước. Cụ thể, ngân sách Nhà nước có những
vai trò chính sau đây:
2.2.1. Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết thị trường, định
hướng sản xuất, bình ổn giá cả và chống lạm phát
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thị trường là sự cạnh tranh giữa các
nhà doanh nghiệp nhằm đạt được lợi nhuận tối đa, các yếu tố cơ bản của thị
trường là cung cầu và giá cả thường xuyên tác động lẫn nhau và chi phối hoạt
động của thị trường. Sự mất cân đối giữa cung và cầu sẽ làm cho giá cả tăng
lên hoặc giảm đột biến và gây ra biến động trên thị trường, dẫn đến sự dịch
chuyển vốn của các doanh nghiệp từ ngành này sang ngành khác, từ địa

phương này sang địa phương khác. Việc dịch chuyển vốn hàng loạt sẽ tác
động tiêu cực đến cơ cấu kinh tế, nền kinh tế phát triển không cân đối. Do đó,
để đảm bảo lợi ích cho nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng nhà nước phải
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
5
sử dụng ngân sách để can thiệp vào thị trường nhằm bình ổn giá cả thông qua
công cụ thuế và các khoản chi từ ngân sách nhà nước dưới các hình thức tài
trợ vốn, trợ giá và sử dụng các quỹ dự trữ hàng hoá và dự trữ tài chính. Đồng
thời, trong quá trình điều tiết thị trường ngân sách nhà nước còn tác động đến
thị trường tiền tệ và thị trường vốn thông qua việc sử dụng các công cụ tài
chính như: phát hành trái phiếu chính phủ, thu hút viện trợ nước ngoài, tham
gia mua bán chứng khoán trên thị trường vốn… qua đó góp phần kiểm soát
lạm phát.
Chúng ta có thể phân tích vai trò thứ nhất này của ngân sách Nhà nước
qua mô hình tổng cung, tổng cầu.
Mô hình tổng cung, tổng cầu AD – AS
Giả sử thị trường đang ở mức cân bằng tự nhiên Y
*
.
Hình 1.1.1. Mô hình tổng cung, tổng cầu khi có sốc cầu
Nếu trên thị trường xảy ra một cú sốc tiêu cực đối với tổng cầu, ví dụ
như niềm tin của người tiêu dùng giảm sút làm nhu cầu hàng hoá và dịch vụ
giảm mạnh, chi tiêu giảm. Trường hợp này đường tổng cầu dịch chuyển sang
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C

6
trái (D
1
). Như vậy, tại mức giá P* ban đầu xảy ra hiện tượng dư cung. Thị
trường chuyển đến điểm cân bằng mới E
1
với mức giá thấp hơn, tổng sản
lượng thấp hơn mức tự nhiên Y
1
tương ứng với thất nghiệp tăng. Nếu Nhà
nước không làm gì cả, nền kinh tế có thể tự điều chỉnh, giá nhân công giảm
xuống, thất nghịêp trở về mức tự nhiên, sản lượng tăng lên với mức giá giảm
xuống P
2
do đường cung dịch chuyển sang phải.
Tuy nhiên, nếu như Nhà nước can thiệp bằng cách sử dụng chính sách
tài khoá nới lỏng, đường tổng cầu có thể trở về vị trí ban đầu và tương ứng
giá cả, sản lượng, thất nghiệp cũng trở về mức cân bằng ban đầu.
Ngược lại, nếu như xảy ra một cú sốc tích cực đối với tổng cung (xét
trường hợp tổng cung ngắn hạn), sự tăng lên về số lượng cung dẫn đến dư
cung làm giá cả giảm xuống và sản lượng tăng lên. Nếu Nhà nước không can
thiệp, sự thiếu hụt nhân công (do sản lượng tăng dẫn đến nhu cầu nhân công
tăng) làm cho tiền lương tăng, chi phí sản xuất tăng, sản lượng giảm, đường
tổng cung dịch chuyển về vị trí ban đầu. Tưởng chừng như trong trường hợp
này không cần đến sự tham gia của Nhà nước. Nhưng thực chất, việc cung
giảm luôn gây áp lực giá tăng nhiều dẫn đến lạm phát. Vai trò của Nhà nước
lúc này là điều chỉnh thị trường về cân bằng nhưng không gây ra lạm phát. Có
thể là giảm tổng cầu bằng cách giảm chi tiêu hoặc tăng thuế. Việc giá giảm do
chính sách này sẽ bù lại với áp lực tăng giá tự nhiên.
2.2.2. Ngân sách Nhà nước là công cụ định huớng đầu tư

Để định hướng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhà nước sử dụng công
cụ thuế và chi ngân sách. Bằng công cụ thuế một mặt tạo nguồn thu cho ngân
sách, mặt khác nhà nước sử dụng thuế với các loại thuế, các mức thuế suất
khác nhau sẽ góp phần kích thích sản xuất phát triển và khuyến khích đầu tư.
Có thể giải thích vai trò này thông qua mô hình cung, cầu về vốn vay như
sau:
Mô hình cung, cầu về vốn vay – cân bằng thị trường tài chính
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
7
Mối quan hệ giữa cung, cầu vốn vay và lãi suất được thể hiện trong
hình dưới đây:
Hình 1.1.2. Cung, cầu trên thị trường vốn vay
►Tác động của chính sách tăng chi tiêu ngân sách Nhà nước
Khi chính phủ tăng chi tiêu một lượng ∆G, các yếu tố khác không đổi,
thì tại mức lãi suất hiện hành, tiết kiệm chính phủ giảm đúng một lượng ∆G.
Điều này làm cho đường cung dịch chuyển sáng trái một khoảng bằng ∆G
(S
1
). Tại mức lãi suất ban đầu, có hiện tượng dư cầu về vốn vay. Như vậy,
những người đi vay phải cạnh tranh nhau để có thể được vay vốn, đẩy lãi suất
lên cao tới mức r
1
. Kết quả của chính sách tăng chi tiêu của chính phủ, trong
điều kiện các yếu tố khác không đổi là làm trạng thái cân bằng của thị trường
vốn vay thay đổi, tăng lãi suất, làm giảm đầu tư tư nhân và tiết kiệm quốc
dân.
►Tác động của chính sách tăng thuế

Khi chính phủ tăng thuế một lượng ∆T, trong khi các yếu tố khác
không đổi, thì mức tiết kiệm của khu vực chính phủ tăng một lượng đúng
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
8
bằng ∆T. Khi đó, thu nhập khả dụng của các hộ gia đình giảm đi ∆T làm cho
tiêu dùng giảm đi một lượng nhỏ hơn ∆T (c∆T). Điều này làm cho đường
cung dịch chuyển sang sang phải một khoảng c∆T (S
2
). Tại mức lãi suất ban
đầu, có hiện tượng dư cung về vốn vay. Như vậy, những người cho vay phải
cạnh tranh nhau để có thể cho vay vốn, làm cho lãi suất giảm tới mức r
2
. Kết
quả của chính sách tăng thuế, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi là
làm trạng thái cân bằng của thị trường vốn vay thay đổi, giảm lãi suất, làm
tăng đầu tư tư nhân và tiết kiệm quốc dân.
Hình 1.1.3. Tác động của chính sách tài khoá trên thị trường vốn vay
►Kết hợp hai chính sách
Khi chính phủ tăng đồng thời cả chi tiêu và thuế với lượng như nhau,
đường cung sẽ chịu ảnh hưởng dịch chuyển sang trái nhiều hơn sang phải. Do
đó, lãi suất sẽ tăng, tiết kiệm quốc dân và đầu tư giảm.
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
9
Như vậy, chính phủ có thể dùng một chính sách hoặc song song hai

chính sách để thực hiện mục tiêu khuyến khích tiết kiệm, đầu tư hoặc ngược
lại tuỳ theo nhu cầu từng thời kỳ.
Ngoài ra, với các khoản chi phát triển kinh tế, đầu tư vào cơ sở hạ
tầng, vào các ngành kinh tế mũi nhọn… nhà nước có thể tạo điều kiện và
hướng dẫn các nguồn vốn đầu tư của xã hội vào những vùng, lĩnh vực cần
thiết để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng đã định.
2.2.3. Ngân sách Nhà nước là công cụ điều chỉnh thu nhập giữa
các tầng lớp dân cư
Nền kinh tế thị trường với những khuyết tật của nó sẽ dẫn đến sự phân
hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, nhà nước phải có một chính sách
phân phối lại thu nhập hợp lý nhằm giảm bớt khoảng cách chênh lệch về thu
nhập trong dân cư. Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính hữu hiệu được
nhà nước sử dụng để điều tiết thu nhập, với các sắc thuế như thuế thu nhập
luỹ tiến, thuế tiêu thụ đặc biệt … một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách mặt
khác lại điều tiết một phần thu nhập của tầng lớp dân cư có thu nhập cao. Bên
cạnh công cụ thuế, với các khoản chi của ngân sách nhà nước như chi trợ cấp,
chi phúc lợi cho các chương trình phát triển xã hội: phòng chống dịch bệnh,
phổ cập giáo dục tiểu học, dân số và kế hoạch hoá gia đình… là nguồn bổ
sung thu nhập cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp .
3. Chi ngân sách Nhà nước
Chi tiêu công là việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực khu vực công
nhằm bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc
nhất định.
Quá trình phân bổ chính là việc quyết định và giao dự toán chi cho đơn
vị thuộc khu vực công. Quá trình sử dụng được thực hiện dưới hình thức dùng
tiền trong phạm vi dự toán để mua các yếu tố mang tính chất hàng hoá, dịch
vụ, chuyển giao hoặc trả nợ, nhằm thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân

Nhật 1–KTĐN-K45C
10
Trong bối cảnh hiện đại, những phân tích lý luận và thực tiễn đều chỉ ra
rằng, muốn phân bổ một cách có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế thị
trường thì phải có cơ chế Nhà nước can thiệp vào thị trường. Trong đó, sự can
thiệp của Nhà nước cần được giới hạn ở mức vừa đủ để bù đắp vào chỗ thiếu
hụt, khiếm khuyết của thị trường. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế
trong chừng mực cho phép, là một tất yếu khách quan và chi tiêu công là công
cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện sự can thiệp này. Nghĩa là vừa phải
dùng “ bàn tay vô hình’ của thị trường và ‘bàn tay hữu hình” của Nhà nước để
có thể vỗ tay điều khiển một cách nhịp nhàng cho xã hội phát triển trong nền
kinh tế thị trường. Chi tiêu công có vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu
tư xã hội (của tư nhân trong, ngoài nước); giúp Nhà nước điều chỉnh chu kỳ kinh
tế theo hướng tích cực; góp phần phân phối lại thu nhập, nhằm thực hiện công
bằng xã hội.
Căn cứ vào chức năng quản lý của Nhà nước, chi tiêu công bao gồm các
khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm
hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các
khoản chi khác. Căn cứ vào tính chất kinh tế, chi tiêu công gồm các khoản chi
thường xuyên để duy trì hoạt động của các cơ quan, đơn vị khu vực công; chi
đầu tư phát triển (xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, đầu tư,
hỗ trợ cho các doanh nghiệp cần có sự tham gia của Nhà nước, dự trữ nhà
nước, ); chi khác (trả nợ gốc tiền vay, viện trợ, ).
Chi tiêu công đóng vai trò quyết định hết sức quan trọng đó là đảm bảo
hoạt động cho bộ máy Nhà nước, cung cấp cho xã hội hàng hóa công cộng thuần
tuý hành chính pháp lý, dịch vụ thực thi pháp luật, an ninh trật tự. Đồng thời nhà
nước sử dụng chi tiêu công để quản lý xã hội và thực hiện những chiến lược ưu
tiên nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, xóa đói giảm nghèo, điều tiết lạm phát,
giải quyết những vấn đề bất cập về sự chênh lệch cơ cấu kinh tế và phát triển
giữa các vùng, địa phương.

Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
11
Với nhiều điều khoản và trách nhiệm vô cùng quan trọng của mình, chi
ngân sách không chỉ yêu cầu việc đưa ra những khoản thu hợp lý mà còn cần
sự giám sát chặt chẽ. Quản lý chi tiêu ngân sách chặt chẽ sẽ giúp Nhà nước
đưa ra những quyết định đúng đắn hơn, sát thực tế hơn.
II. Giám sát và đánh giá chi ngân sách Nhà nước thông qua các chỉ
tiêu
1. Tầm quan trọng của việc sử dụng các chỉ tiêu đánh giá chi ngân
sách Nhà nước
Trong nền kinh tề thị trường ngân sách nhà nước trở thành công cụ
quan trọng giúp nhà nước điều hành nền kinh tế xã hội. Hoạt động của ngân
sách nằm trong sự vận động của thị trường. Tạo nguồn thu cho ngân sách
phải gắn với mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế, các khoản chi của ngân
sách phải gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng
thời kỳ. Do đó, việc xác định cơ cấu thu chi của các cấp ngân sách phải dựa
trên những mục tiêu cụ thể, xác định.
Tuy nhiên, nếu chỉ có mục tiêu thôi thì chưa đủ đóng vai trò định
hướng cho kế hoạch, vì kế hoạch cần chỉ rõ như thế nào là đạt/vượt hay chưa
đạt mục tiêu đề ra. Muốn vậy, mục tiêu cần đi kèm với chỉ tiêu kế hoạch. Đó
là sự lượng hoá ý đồ kế hoạch thành một con số cần phấn đấu đạt đến tại một
thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch. Đặc biệt, chi tiêu ngân sách không
phải là việc chi tiêu vì một hay một bộ phận cá nhân nào mà vì lợi ích toàn
quốc gia nên đòi hỏi tính công khai, minh bạch cao. Chỉ tiêu chính là giải
pháp tối ưu nhất để thực hiện những yêu cầu này. Vì vậy, tìm ra phương pháp
xây dựng các chỉ tiêu này một cách hợp lý nhất là yếu tố hết sức quan trọng.
2. Phương pháp xây dựng các chỉ tiêu đánh giá chi ngân sách Nhà

nước
2.1. Bất cập của phương thức quản lý ngân sách Nhà nước theo
khoản mục đầu vào
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
12
Trong thời gian qua, phương thức quản lý truyền thống hay còn gọi là
quản lý ngân sách theo các khoản mục đầu vào đã bộc nhiều yếu kém:
- Quản lý ngân sách theo khoản mục đầu vào, không chú trọng đến các
đầu ra và kết quả trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược ưu tiên của
quốc gia. Điều này dẫn đến tình trạng, nguồn tài trợ cho những kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội không được quan tâm đúng mức dẫn đến sự hụt hẫng về
tài chính nên nhiều công trình phải chờ kinh phí; kinh phí đầu tư dàn trải cho
nhiều dự án khiến những ưu tiên của Chính phủ không được tài trợ tương
xứng với tầm quan trọng của chúng.
Trong quá trình soạn lập ngân sách, kiểm soát các khoản mục đầu vào
được coi trọng hơn cải thiện kết quả hoạt động. Các thông số về đầu ra cũng
như về kết quả thường ít được quan tâm, nên ngân sách thiếu thực tế, dễ bị
điều chỉnh và tạo ra kết quả ngoại ý. Phân bổ ngân sách theo các khoản mục
đầu vào đã tạo ra điểm yếu cơ bản là không khuyến khích đơn vị tiết kiệm
ngân sách, vì nó không đặt ra yêu cầu ràng buộc chặt chẽ giữa số kinh phí
được phân bổ với kết quả đạt được ở đầu ra do sử dụng ngân sách đó.
- Soạn lập ngân sách thiếu mối liên kết chặt chẽ giữa kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội trung hạn với nguồn lực trong một khuôn khổ kinh tế vĩ
mô được dự báo nên dẫn đến các kết quả ngân sách nghèo nàn.
Do ngân sách soạn lập theo chu kỳ hàng năm, nên nó không được đánh
giá, xem xét sự phân bổ nguồn lực gắn kết với những chương trình phát triển
kinh tế xã hội dài hạn. Nguồn lực của ngân sách phân bổ mang tính dàn trải;

thiếu vắng hệ thống các tiêu chí thích hợp để xác định thứ tự ưu tiên chi tiêu.
Cách phân bổ ngân sách hiện nay không dựa trên nền tảng lí luận tài chính
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, thiếu chiến lược rõ ràng, không cho
phép đạt được các mục tiêu mong muốn của Chính phủ ra.
Ngân sách soạn lập hàng năm vừa tốn thời gian, nhân lực và tiền bạc
vừa không tiên đoán hết mọi biến cố trung hạn có thể ảnh hưởng đến dự toán.
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
13
Ngân sách năm sau được soạn lập trên cơ sở ngân sách năm trước mà không
xét tới việc có nên tiếp tục duy trì hoạt động đang được cung cấp tài chính
hay không. Ngân sách chi thường xuyên và ngân sách chi đầu tư phát triển
được soạn lập một cách riêng rẽ làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực công.
Tính minh bạch và trách nhiệm không thực hiện nghiêm túc, một số khoản
mục chi được đưa vào thực hiện nhưng không công bố, đồng thời hạn chế sự
tham gia của xã hội trong quy trình ngân sách.
2.2. Phương pháp xây dựng các chỉ tiêu đánh giá chi ngân sách
Nhà nước dựa trên kết quả
2.2.1. Giới thiệu về phương pháp xây dựng chỉ tiêu đánh giá chi
ngân sách Nhà nước dựa trên kết quả
Trước sức ép về phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập, nhu cầu của
xã hội về nâng cao chất lượng hàng hóa công cũng như nhận thấy những bất
cập của phương thức quản lý ngân sách cũ, Nhà nước phải đổi mới phương
thức quản lý và giám sát ngân sách dựa trên kết quả.
Quản lý và giám sát ngân sách dựa trên kết quả là một hoạt động quản
lý ngân sách dựa vào cơ sở tiếp cận những thông tin đầu ra để phân bổ và
đánh giá sử dụng nguồn lực tài chính nhằm hướng vào đạt được những mục
tiêu chiến lược phát triển của chính phủ. Quản lý và giám sát ngân sách dựa

trên kết quả bao hàm một chiến lược tổng thể nhằm đạt được những thay đổi
quan trọng trong việc quản lý và đo lường công việc thực hiện của các cơ
quan nhà nước so với mục tiêu đề ra. Có thể hiểu rõ hơn vấn đề này qua sơ đồ
sau đây:
*Giải thích một số nội dung trong sơ đồ:
- Đầu vào là những nguồn lực được các cơ quan, đơn vị công sử dụng để thực
hiện các hoạt động và từ đó tạo nên kết quả đầu ra.
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
14
- Kết quả là các tác động, ảnh hưởng đến cộng đồng (chủ ý hoặc không chủ ý)
từ quá trình tạo ra một đầu ra hoặc nhóm các đầu ra. Kết quả kế hoạch (dự
kiến) là mục tiêu của chính phủ cố gắng đạt được thông qua mua các đầu ra.
- Đầu ra là hàng loạt hàng hóa công do các cơ quan, đơn vị nhà nước tạo ra và
cung cấp cho xã hội.
- Hiệu suất: Liên quan đến đầu ra và nguồn lực đầu vào cần thiết. Chỉ số hiệu
quả được tính toán thông qua các chỉ tiêu: chi phí trên một đơn vị đầu ra; chi
phí trung bình của xã hội để sản xuất một đơn vị đầu ra…
- Hiệu quả: Cung cấp thông tin trong phạm vi đầu ra đạt được so với các mục
tiêu chính sách. Để có được thông tin về chỉ số hiệu lực, cần tập trung vào
làm rõ vấn đề đánh giá quá trình tạo ra các đầu ra của đơn vị hiện tại có đóng
góp đến kết quả dự kiến hay không?
Hình 1.2.1. Sơ đồ đo lường hiệu suất và hiệu quả của dự án
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
15

Việc giám sát và đánh giá thực chất chính là xem xét sự hiệu quả trong
quá trình thực hiện. Do đó, nó phải được xây dựng dựa trên đầu ra và mục
đích, kết quả thực tế. Nhiều khi, chúng ta nhầm lẫn giữa hiệu suất và hiệu
quả. Hiệu suất chỉ xây dựng dựa trên đầu vào và đầu ra. Như vậy, nếu dựa
vào hiệu suất, có nghĩa là dựa trên đầu ra để điều chỉnh đầu vào là chưa đủ,
liệu rằng đầu ra đó đã phù hợp kết quả và mục đích chúng ta nhắm tới hay
chưa, và điều chỉnh như đầu vào làm đầu ra biến chuyển có phù hợp với kết
quả không hay ngược lại. Như vậy, chúng ta phải nhìn vào hiệu quả trước tiên
để đưa ra những điều chỉnh thích hợp nhất. Tuy nhiên, nói một cách chung
chung là hiệu quả phải tốt thì không có tính thực tế. Chúng ta cần dựa trên kết
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
Mục tiêu
Mục đích và
kết quả thực tế
Đầu ra
Hoạt động
Đầu vào
Nhu cầu của các bên tham
gia và kết quả mong đợi
Hiệu quả
Hiệu suất
Ảnh hưởng và
thích hợp
Bền
vững
16
quả, xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu thích hợp, như vậy quá trình giám

sát và đánh giá vừa dễ thực hiện hơn, vừa rõ ràng, minh bạch hơn.
Để tiến hành xây dựng các chỉ tiêu, ta sẽ trả lời và điền vào những chỗ
còn thiếu trong bảng sau đây:
Bảng 1.2.1. Bảng xây dựng giám sát và đánh giá bằng chỉ tiêu
Mục
tiêu
Mục
đích
Kết
quả
Đầu
ra
Hoạt
động
Đầu
vào
Chỉ số?
Đo lường cái gì?
Đo lường như thế nào?
Ai sẽ tiến hành đo lường?
Tần số đo lường?
Kỳ vọng đo lường được là bao nhiêu?
Các kết quả đo lường sẽ được báo cáo
như thế nào?
Nếu như trong quá trình thực hiện, chúng ta đi từ Đầu vào  Hoạt
động  Đầu ra  Kết quả (mục đích và mục tiêu đạt được thông qua kết
quả), thì trong quá trình xây dựng chỉ tiêu, chúng ta phải đi ngược lại. Khi trả
lời theo thứ tự và đầy đủ những câu hỏi trên chúng ta sẽ dễ dàng lấy ra những
chỉ tiêu ở từng giai đoạn cụ thể để sử dụng. Ở phần sau, chúng ta sẽ đưa ra ví
dụ cụ thể để minh hoạ cho lý thuyết này.

Trong quá trình quản lý, chúng ta sẽ thực hiện theo các bước sau đây:
1. Phân tích những vấn đề được đề cập; xác định nguyên nhân và tác động của
chúng;
2. Xác định các đối tượng liên quan và đối tượng hưởng lợi, bao gồm cả việc
xác định mục tiêu và biện pháp can thiệp cần thiết liên quan;
3. Xây dựng kết quả rõ ràng, cụ thể;
4. Xác định các chỉ số hiệu suất cho mỗi kết quả dự đoán;
5. Thiết lập mục tiêu và chỉ tiêu cho mỗi chỉ số, xác định mức dự kiến hay kế
hoạch của các kết quả cần đạt được trong từng giai đoạn cụ thể;
6. Phát triển một chiến lược bằng cách đưa ra mô hình khung làm thế nào để
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
17
đạt được các kết quả dự kiến, xác định phương thức hành động và tiến độ thực
hiện trong tương quan giữa khó khăn và cơ hội;
7. Cân bằng kết quả mong đợi và chiến lược dự kiến với nguồn lực sẵn có;
8. Quản lý và theo dõi tiến độ thực hiện mục tiêu dựa trên các hệ thống giám
sát hiệu suất theo dữ liệu của kết quả thực tế đạt được;
9. Báo cáo và tự đánh giá, so sánh kết quả thực tế với các mục tiêu đề ra; đánh
giá kết quả đạt được, những nguồn lực tham gia và sự cách biệt giữa kết quả
"mong đợi" và "đạt được";
10. Tổng hợp các bài học và kết quả tự đánh giá, dựa trên hệ thống giám sát lý
giải sự khác biệt giữa kết quả "mong đợi" và "đạt được";
11. Phổ biến và thảo luận về kết quả và bài học kinh nghiệm một cách minh
bạch;
12. Sử dụng hiệu quả thông tin thông qua quá trình giám sát và đánh giá cho
việc quản lý nội bộ và ra quyết định cũng như việc báo cáo cho các bên liên
quan về kết quả đạt được.

2.2.2. Những đặc điểm cơ bản của phương thức xây dựng chỉ tiêu
chi ngân sách Nhà nước dựa trên kết quả
- Ngân sách có tính chất “mở”- công khai, minh bạch;
- Các nguồn lực tài chính của Nhà nước được tổng hợp toàn bộ vào
trong dự toán ngân sách;
- Ngân sách được lập theo thời gian trung hạn;
- Ngân sách được lập dựa vào nhu cầu, hướng tới khách hàng và mục
tiêu phát triển kinh tế – xã hội;
- Ngân sách hợp nhất chặt chẽ giữa chi thường xuyên và chi đầu tư;
- Ngân sách lập dựa trên cơ sở nguồn lực không thay đổi trong trung
hạn và do vậy, đòi hỏi phải có cam kết chặt chẽ;
- Phân bổ ngân sách dựa theo thứ tự ưu tiên chiến lược;
- Phi tập trung hóa trong quản lý ngân sách, người quản lý được trao
quyền chủ động trong chi tiêu.
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
18
2.2.3. Vai trò của phương thức xây dựng chỉ tiêu chi ngân sách
dựa trên kết quả
- Xây dựng chỉ tiêu chi ngân sách dựa trên kết quả góp phần đổi mới
chính sách quản lý nguồn lực của khu vực công nhằm thiết lập ba vấn
đề cơ bản trong quản lý chi tiêu công, đó là: tôn trọng kỷ luật tài chính
tổng thể; phân bổ có hiệu quả nguồn lực tài chính theo các mục tiêu ưu
tiên chiến lược trong giới hạn nguồn lực cho phép; nâng cao hiệu quả
hoạt động về cung cấp hàng hóa công.
- Xây dựng chỉ tiêu chi ngân sách dựa trên kết quả tăng cường các
nguyên tắc quản lý tài chính của khu vực công với mục tiêu là cải thiện
sự phân phối và quản lý nguồn lực, việc thực hiện cung ứng hàng hóa

công và tính minh bạch, trách nhiệm. Quản lý ngân sách dựa trên kết
quả cho phép chính phủ và cơ quan đặt đúng quy trình thông tin cần
thiết nhằm:
+ Xác định cái gì sẽ đạt được ( kết quả mong muốn);
+ Xác định, chi tiết và đo lường (chi phí và số lượng) cái gì nên
được làm (các đầu ra được sản xuất/ hoặc mua sắm), sẽ được làm (các
đầu ra sẽ được sản xuất/ hoặc mua sắm);
+ Minh họa và kiểm tra mối liên hệ giữa cái gì được sản xuất/
mua sắm (các đầu ra) và cái gì sẽ đạt được ( các kết quả) so với cái gì
nên đạt được (các kết quả mong muốn);
+ Nguồn lực tài trợ cho các đầu ra cần thiết để đạt được các kết
quả mong muốn.
- Giám sát chi ngân sách dựa trên kết quả đặt chính phủ và các cơ quan
vào vị trí để đảm bảo rằng:
+ Các đầu ra theo yêu cầu để được tài trợ mà nó được xác định
thông qua những mối liên hệ được miêu tả với các kết quả;
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
19
+ Các đầu ra theo yêu cầu được tài trợ ở những mức độ khối
lượng, giá cả và chất lượng cụ thể;
+ Các đầu ra hướng tới mục tiêu và được cung cấp trong khuôn
khổ thời gian yêu cầu.
2.2.4. Những điểm khác nhau giữa phương thức quản lý ngân
sách theo khoản mục và theo kết quả
Nhìn chung, phương thức xây dựng chỉ tiêu chi ngân sách Nhà nước
theo kết quả có thể được nhận biết dễ dàng khi so sánh với phương thức cũ ở
những điểm khác biệt sau đây:

►Khác nhau về quy trình chiến lược:
- Quy trình chiến lược quản lý ngân sách theo đầu vào:
Chiến lược quản lý ngân sách theo đầu vào được lập theo quy trình từ
việc tính toán các yếu đầu vào: các khoản mục chi (tiền lương, công cụ, hàng
hóa ) để hướng tới các đầu ra và kết quả. Sự tính toán ngân sách chủ yếu dựa
trên dự toán thực hiện của năm trước và do vậy, không biểu thị mối quan hệ
giữa các yếu tố đầu vào với đầu ra và kết quả.
- Quy trình chiến lược quản lý ngân sách dựa trên kết quả:
Quản lý ngân sách dựa trên kết quả đi từ việc đánh giá kết quả mong
muốn, xác định đầu ra và qua đó hướng tới tính toán các yếu tố đầu vào để lập
dự toán và phân bổ nguồn lực tài chính.
►Khác nhau về nội dung quản lý chi tiêu công:
Bảng 1.2.2. So sánh nội dung quản lý ngân sách
theo khoản mục và theo kết quả
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
THEO KHOẢN MỤC
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
DỰA TRÊN KẾT QUẢ
Ngân sách được đo lường trong giới hạn đầu
vào, tức là ngân sách được quyết định bằng
tổng các yếu tố đầu vào được mua sắm.
Ngân sách được đo lường trong giới hạn các
loại hàng hóa công được cung cấp, tức là
ngân sách được quyết định bởi giá cả được
thanh toán cho các đầu ra được cung ứng.
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
20

Một khi ngân sách được thiết lập thì không
có sự thay đổi những nhân tố đầu vào.
Sử dụng ngân sách đầu vào rất linh hoạt để
tạo ra các đầu ra với giá cả và chi phí hợp
lý.
Tập trung vấn đề vĩ mô ngắn hạn, lập ngân
sách ngắn hạn, có sự tách rời giữa chi
thường xuyên và chi đầu tư.
Phát triển khuôn khổ trung hạn. Ngân sách
được lập trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa chi
thường xuyên và chi đầu tư trong một khuôn
khổ chi tiêu trung hạn.
Liên kết giữa chính sách, lập kế hoạch và
ngân sách rất yếu.
Liên kết giữa chính sách, lập kế hoạch và
ngân sách rất chặt chẽ.
Sự kiểm soát ngân sách thông qua đánh giá
các nhân tố đầu vào được mua sắm trong
giới hạn ngân sách.
Ngân sách được kiểm soát bằng khối lượng
thanh toán cho mỗi đầu ra phù hợp với kế
hoạch phân bổ ngân sách đã được thông
qua.
Người quản lý không có thông tin về kết quả
đầu ra trong quá trình lập kế hoạch ngân
sách.
Các cơ quan nhà nuớc quản lý ngân sách
được cung cấp thông tin đầu ra và báo cáo
kết quả thực tế đạt được. Chính phủ có được
thông tin đầu ra của các đơn vị, cơ quan và

đánh giá kết quả mong muốn .
Sự đánh giá chủ yếu dựa vào so sánh mức độ
chi tiêu trong mỗi khoản mục đầu vào giữa
kế hoạch với thực hiện hoặc gữa năm này
với năm khác.
Sự đánh giá dựa vào tính hiệu quả và hiệu
lực của hàng hóa công được cung cấp và so
sánh với mục tiêu chính sách .
Quyền tự chủ của người quản lý trong quản
lý chi tiêu ngân sách rất thấp.
Người quản lý được trao quyền tự chủ cao
trong quản lý chi tiêu ngân sách.
2.2.5. Những điểm cần lưu ý khi sử dụng phương pháp quản lý
ngân sách theo kết quả
Thứ nhất, quá trình vận dụng phương pháp này phải phân định rõ đâu là
mục tiêu tổng quát, đâu là các tiêu chí nhằm thực hiện mục tiêu đó, không
được nhầm lẫn. Để thực hiện một mục tiêu cần đến sự tham gia của nhiều quá
trình với các tiêu chí khác nhau thay đổi theo thời gian và không gian. Việc
nhầm lẫn giữa mục tiêu tổng quát và tiêu chí trong quá trình (có thể coi là
mục tiêu của quá trình) sẽ cản trở việc hoàn thành mục tiêu đúng thời hạn và
tối giản chi phí.
Thứ hai, chi ngân sách Nhà nước là một phạm trù mang tính quốc gia.
Hệ thống quản lý chi tiêu công không đơn giản và quản lý chi tiêu công cũng
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
21
vô cùng phức tạp. Việc thay đổi những yếu tố cơ bản trong quá trình ngân
sách có thể kéo theo nhiều rủi ro, làm tình hình càng trở nên xấu hơn. Do đó,

khi quyết định thay đổi những vấn đề cơ bản của quá trình này, như phương
pháp hay cách thức thực hiện cần nghiên cứu kĩ lưỡng, không phải mô hình
tốt với nước này sẽ có thể áp dụng thành công với nước khác.
Thứ ba, phải phân biệt được các khái niệm đầu ra, đầu vào, kết quả và
mối liên hệ giữa chúng. Đây là một vấn đề tương đối phức tạp vì các khái
niệm đó chỉ mang tính tương đối, đôi khi một vấn đề là đầu vào quá trình này
nhưng lại là đầu ra hay kết quả của quá trình khác. Do đó, khi vận dụng
phương pháp này luôn luôn phải gắn với mục tiêu tổng quát để nhận biết được
yêu cầu đặt ra. Đồng thời, khi đo lường kết quả thực hiện phải sử dụng nhiều
chỉ số để phản ánh được toàn diện và đầy đủ. Những chỉ số đó phải được lựa
chọn cẩn thận, rõ ràng và phải liên kết, hỗ trợ được cho nhau thì kết quả mới
chính xác và có ý nghĩa.
Thứ tư, phải xây dựng được mô hình rõ ràng, chi tiết cho hệ thống đánh
giá. Quá trình xây dựng đương nhiên sẽ khó khăn và phức tạp, nhưng chỉ có
xây dựng được tốt thì các hoạt động sau này mới dễ dàng và minh bạch được.
Những cán bộ xây dựng chỉ tiêu là những người am hiểu về phương pháp xây
dựng, nhưng họ không phải là lực lượng trực tiếp các hoạt động đó. Những
người thực hiện có thể là các cán bộ, công nhân viên hay cả những người
không thuộc tầng lớp trí thức, họ chỉ có thể hoàn thành tốt công việc của mình
khi có một hướng dẫn rõ ràng, cụ thể. Để làm tốt quá trình này, các cán bộ
xây dựng chỉ tiêu có thể tham khảo kinh nghiệm từ các nước, xây dựng mô
hình thử nghiệm và tranh luận, thảo luận công khai.
Thứ năm, quá trình thực hiện phải không ngừng tiếp nhận phản hồi từ
công chúng. Những phản hồi này là tư liệu quí giá cho các nhà hoạch định
chính sách, vì công chúng chính là đối tượng chi ngân sách hướng tới. Tuy
nhiên, quá trình tiếp nhận phải được thực hiện rông khắp, đầy đủ từ nhiều
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C

22
thành phần chứ không thể chỉ tiếp nhận từ một bộ phận nhỏ để suy rộng ra
quẩn thể lớn, như vậy sẽ mất đi tính tổng quát. Tiếp nhận phản hồi tốt không
chỉ là tiếp nhận đầy đủ, mà còn phải biết đánh giá đâu là những phản hồi cấp
thiết, đâu là phản hồi cần quan tâm (vì có thể có nhiều chiều hướng phản hồi
khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau) để đưa ra đối pháp nhanh chóng và hiệu
quả nhất.
Thứ sáu, quá trình thay đổi phải thực hiện từ từ, từ phạm vi nhỏ tới
phạm vi lớn, qui mô hẹp tới qui mô rộng, từ đơn giản đến phức tạp. Bất cứ
một sự thay đổi nào, nếu quá vội vàng, hấp tấp sẽ không thể trau chuốt, do đó
sẽ dễ dẫn tới những sai sót, để sửa chữa những sai sót đó đôi khi còn mất
nhiều thời gian hơn số thời gian định rút ngắn. Tuy nhiên, cũng không nhất
thiết phải đi đủ các khâu để thực hiện từng bước thay đổi. Với các nước đi
chậm hơn thế giới như Việt Nam thì phải nghiên cứu xác định xem bước nào
có thể bỏ qua hoặc thực hiện kép để mau chóng theo kịp xu hướng toàn cầu.
Đồng thời, trong quá trình thực hiện thay đổi, cần tiến hành theo dõi, giám sát
chặt chẽ để nhanh chóng phát hiện được những điểm bất hợp lý, có những
biện pháp khắc phục hợp lý để tháo gỡ và điều chỉnh.
Xây dựng chỉ tiêu giám sát và
đánh giá chi tiêu NSNN ở VN
Nguyễn Quỳnh Vân
Nhật 1–KTĐN-K45C
23

×