Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

phân tích sự biến đổi khí hậu tỉnh lai châu thông qua chế độ nhiệt và lượng mưa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 55 trang )

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành đến thầy giáo hướng
dẫn khóa luận ThS. Nguyễn Văn Minh đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ em nghiên
cứu và hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu trường Đại Học Tây
Bắc, phòng Quản lí khoa học, phòng Đào Tạo, Thư viện trường Đại học Tây
Bắc, các thầy cô trong khoa Sử - Địa, cùng các phòng chức năng đã giúp đỡ em.
Khóa luận hoàn thành sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong
nhận được sự giúp đỡ, đóng góp của các thầy cô cùng các độc giả để khóa luận
được hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Lƣờng Thị Chiến















MỤC LỤC



PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu nhiệm vụ 2
3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 3
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
5. Phương pháp nghiên cứu 5
6. Đóng góp của khóa luận 6
7. Cấu trúc của khóa luận 6
PHẦN NỘI DUNG 7
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 7
1.1. Cơ sở lí luận 7
1.2. Cơ sở thực tiễn 8
CHƢƠNG 2 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI 13
TỈNH LAI CHÂU 13
2.1. Điều kiện tự nhiên 13
2.1.1 Vị trí địa lý 13
2.1.2.Đặc điểm địa hình, địa mạo 15
2.1.3. Đặc điểm khí hậu thời tiết 18
2.1.4. Đặc điểm thủy văn và nguồn nước 19
2.2. Điều kiện kinh tế xã hội 22
2.2.1. Đặc điểm dân cư và nguồn lao động 22
2.2.2. Đặc điểm cơ sở hạ tầng kinh tế 22
CHƢƠNG 3: PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TỈNH
LAI CHÂU QUA CHẾ ĐỘ NHIỆT, LƢỢNG MƢA VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI
PHÁP GIẢM NHẸ TÁC HẠI 24
3.1. Tổng quan về biến đổi khí hậu 24
3.1.1. Những nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi khí hậu 24
3.1.1.1. Sự biến đổi trong quỹ đạo Trái Đất 24
3.1.1.2. Hoạt động núi lửa 25

3.1.1.3. Ảnh hưởng của con người 25
3.1.1.4. Hiệu ứng nhà kính 26
3.1.2. Những biểu hiện của biến đổi khí hậu trong thời gian gần đây 27
3.1.2.1. Sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu 28
3.1.2.2. Sự gia tăng của mực nước biển 28
3.2. Biểu hiện biến đổi khí hậu qua nhiệt độ 29
3.2.1. Biểu hiện của biến đổi nhiệt độ 29
3.2.2. Ảnh hưởng của biến đổi nhiệt độ đến đời sống và sản xuất 35
3.3. Biểu hiện biến đổi khí hậu qua lượng mưa 37
3.3.1. Biểu hiện của biến đổi lượng mưa 37
3.3.2. Ảnh hưởng của biến đổi lượng mưa đến đời sống và sản xuất 43
3.4. Một số giải pháp 44
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 47
1. Kết luận 47
2. Kiến nghị 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, BẢNG SỐ LIỆU, HÌNH


STT

Số hiệu

Tên biểu đồ, bảng số liệu, hình


Trang
1
Bảng 1

Các mức độ cao
16
2
Bảng 2
Các bậc địa hình
16
3
Bảng 3
Xu thế biến đổi nhiệt độ trung bình trên địa
bàn tỉnh Lai Châu
29
4
Bảng 4
Số ngày có nhiệt độ tối cao tuyệt đối (Tx) lớn
hơn 35
0
C và nhiệt độ tói thấp tuyệt đối (Tm)
nhỏ hơn 13
0
C trong các thập niên tại Lai Châu
33
5
Bảng 5
Nhiệt độ không khí tối cao tuyệt đối (
0
C)
34
6
Bảng 6
Nhiệt độ không khí tối thấp tuyệt đối (

0
C)
35
7
Bảng 7
Lượng mưa trung bình các thập niên tại Lai
Châu
37
8
Bảng 8
Số ngày có lượng mưa trên 50 mm trong các
thập niên tại Lai Châu
41
9
Bảng 9
Lượng mưa trung bình ở Lai Châu giai đoạn
1930 - 2009 (mm)
41
10
Bảng 10
Lượng mưa ngày lớn nhất ở Lai Châu giai
đoạn 1930 - 2009 (mm)
42
11
Hình 1
Bản đồ hành chính tỉnh Lai Châu
14
12
Hình 3.1
Diễn biến chuẩn sai nhiệt độ trung bình năm

các trạm ở Lai Châu
30
13
Hình 3.2
Diễn biến chuẩn sai nhiệt độ trung bình tháng
I ở các trạm Lai Châu
31
14
Hình 3.3
Diễn biến chuẩn sai nhiệt độ trung bình tháng
VII ở các trạm Lai Châu
32
15
Hình 3.4
Biểu đồ nhiệt độ tối cao tuyệt đối qua các
tháng trong giai đoạn 1930 - 2009
33
16
Hình 3.5
Biểu đồ nhiệt độ tối thấp tuyệt đối qua các
tháng trong giai đoạn 1930 - 2009
34
17
Hình 3.6
Xu thế diễn biến tỷ chuẩn sai lượng mưa năm
tại các trạm
35
18
Hình 3.7
Xu thế diễn biến tỷ chuấn sai lượng mưa trong

mùa ít mưa tại các trạm tỉnh Lai Châu
38
19
Hình 3.8
Xu thế diễn biến tỷ chuấn sai lượng mưa trong
mùa mưa tại các trạm tỉnh Lai Châu
39
20
Hình 3.9
Biểu đồ lượng mưa qua các tháng trong giai
đoạn 1930 - 2009
40
21
Hình 3.10
Biểu đồ lượng mưa ngày lớn nhất qua các
tháng trong giai đoạn 1930 - 2009
42


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại
trong thế kỉ XXI. Biến đổi khí hậu sẽ tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời
sống và môi trường trên phạm vi toàn thế giới. Nhiệt độ tăng, mực nước biển
dâng gây ngập lụt, gây nhiễm mặn ảnh hưởng đến nông nghiệp, gây rủi ro đến
công nghiệp và hệ thống kinh tế - xã hội trong tương lai.
Tại Việt Nam trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng
khoảng 0,7

0
C, mực nước biển dâng khoảng 20 cm. Hiện tượng El-Nilo, La-Nina
ngày càng tác động mạnh đến Việt Nam. Biến đổi khí hậu thực sự đã đã làm cho
các thiên tai, đặc biệt là bão lũ, hạn hán ngày càng ác liệt. Theo tính toán, nhiệt
độ trung bình ở Việt Nam có thể tăng lên 3
0
C và mực nước biển có thể dâng 1 m
vào năm 2100. Số đợt các không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam đã giảm đi
rõ rệt trong hai thập niên qua, bão có cường độ mạnh xuất hiện nhiều hơn. Nếu
mực nước biển dâng 1 m, khoảng 40 nghìn km
2
đồng bằng ven biển Việt Nam
sẽ bị ngập hàng năm, trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long bị ngập hầu như toàn bộ (Bộ Tài Nguyên Môi Trường, 2003). Theo đánh
giá của ngân hàng thế giới (2007), Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh
hưởng nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu và nước biển dâng, trong đó đồng bằng
sông Hồng và sông Cửu Long bị ngập chìm nặng nhất. Nếu mực nước biển dâng
1 m thì khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất đối với GDP khoảng
10%. Nếu mực nước biển dâng lên tới 3 m sẽ có khoảng 25% dân số bị ảnh
hưởng trực tiếp và tổn thất đối với GDP lên tới 25%. Hậu quả của biến đổi khí
hậu đối với Việt Nam là nghiêm trọng và là một nguy cơ hiện hữu cho việc xóa
đói giảm nghèo cho việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển
bền vững của đất nước.
Lai Châu được thành lập trên cơ sở chia tách tỉnh Lai Châu cũ thành hai
tỉnh Điện Biên và Lai Châu ngày nay, là một tỉnh nghèo của miền núi phía Bắc
Việt Nam có địa hình khá hiểm trở chia cắt mạnh với 20 dân tộc sinh sống, giá
trị sản xuất nông nghiệp hiện vẫn đang chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế

2
của Tỉnh. Trong những năm qua khí hậu Lai Châu có sự biến đổi theo chiều

hướng tiêu cực, cùng với sự biến đổi của khí hậu toàn cầu: luôn phải hứng chịu
nhiều loại hình thiên tai, đặc biệt là lũ quét và những thiệt hại không nhỏ về
người và của. Trong những năm gần đây dưới sự tác động của biến đổi khí hậu
thì chế độ nhiệt và lượng mưa… của Lai Châu có sự thay đổi, các loại hình thiên
tai gia tăng cả về mức độ và tần số. Biến đổi khí hậu ở Lai Châu thể hiện rõ nét
ở lượng mưa trung bình năm có xu hướng suy giảm nhưng số ngày mưa lớn
trung bình tháng đã có sự chuyển dịch rõ rệt từ tháng 7 và tháng 8 trong giai
đoạn 1978 - 1994 sang tháng 8 của giai đoạn 1994 - 2002 tần suất và cường
độ các trận lũ quét gia tăng, các hiện tượng cực đoan của thời tiết diễn biến bất
thường, đặc biệt là số lượng và cường độ các đợt rét.
Là một tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn, những thiệt hại do thiên tai gây
ra là không nhỏ, ảnh hưởng rất lớn đến các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Để ứng phó với những thách thức nói trên, trong những năm qua tỉnh đã tiến
hành một số giải pháp di dời dân cư ra khỏi vùng nguy cơ xảy ra lũ quét cao,
quy hoạch các khu vực kinh tế phù hợp với điều kiện từng địa phương. Để thực
hiện tốt và có hiệu quả những biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu thì những
công trình nghiên cứu để tìm hiểu về nguyên nhân, đặc điểm, hậu quả của biến
đổi khí hậu là rất cần thiết. Để thấy rõ được sự biến đổi khí hậu thể hiện trên các
nhân tố tự nhiên trên địa bàn tỉnh Lai Châu cụ thể là thể hiện trên chế độ nhiệt
và lượng mưa Tôi lựa chon đề tài: “Phân tích sự biến đổi khí hậu tỉnh Lai
Châu thông qua chế độ nhiệt và lượng mưa”
2. Mục tiêu nhiệm vụ
* Mục tiêu
- Phân tích biểu hiện biến đổi khí hậu Tỉnh Lai Châu qua chế độ nhiệt và
lượng mưa.
- Tổng quan về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với đời sống và
sản xuất.
- Tìm ra giải pháp hạn chế những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.



3
* Nhiệm vụ
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau:
+ Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Lai Châu;
+ Phân tích ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với đời sống và sản xuất.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế hậu quả của biến đổi khí hậu.
3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: khóa luận nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Lai Châu, về mặt
giới hạn đã được xác định theo Quyết định thành lập tỉnh Lai Châu của Thủ
tướng chính phủ năm 2004.
- Về mặt nội dung: khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu sự biến đổi khí hậu
trên địa bàn tỉnh Lai Châu thông qua hai yếu tố chính của khí hậu là chế độ nhiệt
và lượng mưa.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lịch sử nghiên cứu đề tài biến đổi khí hậu không phải là vấn đề mới hoàn
toàn, chỉ có điều ngày nay vấn đề này đang xảy ra đến mức nghiêm trọng nên
không thể không thu hút sự chú ý của con người.
Nghiên cứu khí hậu là một trong những khát vọng lớn lao của con nguời từ
nghàn năm nay trong cuộc đâu tranh chinh phục tự nhiên nhằm duy trì sự sống,
con người luôn quan tâm đến các hiện tượng tự nhiên như: Mặt Trời, Mặt Trăng,
thời tiết nóng lạnh, mưa gió…
Trong cuốn: “Nghiên cứu khí hậu toàn cầu”– chương trình khoa học lớn
của thời đại nên rõ: “mọi người trên thế giới không thể không thể không quan
tâm đến một vấn đề có ý nghĩa quyết định đến vận mệnh của mình: thời tiết, khí
hậu và những biến đổi khí hậu khác thường, đột ngột mang tính chất cực đoan
của nó. Hạn hán kéo dài, giá lạnh hay nóng nực khác thường, bão lớn, mưa dữ
dội … gây thiệt hại lớn từ mùa màng đến nguồn nước uống, nguồn điện thắp
sáng hay sưởi ấm, các hợ động giao thông vận tải và hang loạt hoạt động kinh
tế và đời sống khác”.
Cùng với sự mạnh mẽ của sức sản xuất, khoa học kỹ thuật đã tạo điều kiện

cho con người tiến sâu hơn vào nghiên cứu tự nhiên trong đó có khí hậu. Từ thế

4
kỷ XVII trở đi đánh dấu một bước ngoặt trong nghiên cứu khí hậu nhờ tạo ra
những dụng cụ đo đạc khí hậu đầu tiên, đặc biệt là sự ra đời của khí áp biêu tự
nhiên của Tôrixenli ở thành Tôncan (Ý). Lần lượt ra đời Nhiệt kế, Khí áp kế,
Ẩm kế và máy đo gió. Việc tìm ra mối quan hệ giữa thể tích và áp suất khí
quyển trong thời kì này có thể coi là giai đoạn sơ khai trong việc khám phá động
lực của khí quyển.
Thế kỷ XVIII với việc khám phá ra bản chất, trạng thái và thành phần của
khí quyển, tạo cơ sở vững chắc cho việc nghiên cứu các hiện tượng khí hậu.
Đến thế kỷ XIX nhiều nhà khoa học thế giới đã vạch ra những nét cơ bản
của khoa học khí tượng mà thực chất là tìm hiểu những quy luật chuyển động và
biến thiên trong khí quyển.
Năm 1820, tờ biểu đồ khí tượng thế giới đầu tiên xuất hiện với một số liệu
của 39 trạm quan trắc.
Năm 1873, Đại hội Khí tượng lần thứ nhất được triệu tập tại Áo đã mở ra
một triển vọng lớn trong hợp tác quốc tế về vấn đề khí hậu.
Những năm đầu của thế kỷ XX con người lần đầu tiên đã dùng máy bay để
thăm dò khí tượng, các tầng cao của khí quyển. Trong những năm 20 - 30 của
thế kỷ này ở Pháp, Liên Xô xuất hiện máy vô tuyến thám không đã tạo nên một
bước phát triển nhảy vọt trong công việc nghiên cứu các tầng khí quyển.
Cùng với bước phát triển của kỹ thuật đo đạc khí tượng là sự phát triển
nhanh chóng của lý thuyết về chuyển động khí quyển mà kết quả quan trọng
nhất là đưa công việc dự báo thời tiết trở thành một khoa học chính xác, sử dụng
các phương trình toán học để tính thời tiết trong tương lai.
Đóng góp vào thành công trong nghiên cứu khí hậu không thể không nói
đến vai trò của vệ tinh, hàng ngày gửi những tài liệu thông số về trái đất, trong
số những tài liệu đó có những tài liệu, số liệu về khí hậu toàn cầu. Như thế
chúng ta mới đánh giá đúng đắn về sự thay đổi khí hậu trong những năm gần

đây và dự đoán khí hậu tương lai. Đặc biệt, với sự ra đời của vệ tinh khí tượng
từ những năm 60 trở đi đã mở ra “một khả năng chưa từng có trong lịch sử”
[8;tr22]. Các nhà khí tượng đã có thể quan sát thời tiết không chỉ dưới đất, từ

5
những trạm khí tượng mà có một công cụ theo dõi diễn biến thời tiết trên những
miền đất rộng lớn từ vũ trụ. Vệ tinh khí tượng đã cung cấp những bức ảnh quý
về những biểu hiện phức tạp của chuyển động khí quyển tại bất kỳ vùng nào trên trái
đất thông qua hệ thống mây. Có thể nói, sự ra đời vệ tinh khí tượng là một điều kỳ
diệu do con người sáng tạo nên, nhờ có vệ tinh khí tượng mà dự báo viên như có
được “ thêm óc, thêm mắt, thêm tay ” góp phần quan trọng vào nghiên cứu khí hậu.
Nghiên cứu khí hậu Việt Nam và các tỉnh, đã được nhà nước ta quan tâm
ngay khi miền Bắc giải phóng và thu được những kết quả quan trọng, góp phần
vào công cuộc xây dựng kinh tế sau chiên tranh cũng như bảo vệ tổ quốc, đấu
tranh thống nhất đất nước, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước.
Trong những tài liệu nghiên cứu về khí hậu Việt Nam cho đến nay, cuốn “ Khí
hậu và tài nguyên khí hậu Việt Nam” GS.TSKH Nguyễn Đức Ngữ - GS. TS
Nguyễn Trọng Hiệu, Viện khí tượng thủy văn, nhà xuất bản Hà Nội, năm 2004,
được đánh giá là một trong những công trình khoa học giá trị, phản ánh đầy đủ
đặc điểm khí hậu Việt Nam, một phần khí hậu của thế giới và những biến đổi
khí hậu Việt Nam trong thời gian tới.
Cuốn “Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu tỉnh Lai Châu”
thuộc danh mục các nhiệm vụ, dự án thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia
ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2009 - 2015 kèm theo quết định số
158/2008/QĐ.TTg.
Tuy nhiên tài liệu trên chỉ đề cập được nhiều những ảnh hưởng của khí hậu
tới Lai Châu nói chung và biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, xét ở một
góc độ nào đó, biến đổi khí hậu là một đề tài lớn có thể khai thác ở nhiều khía
cạnh khác nhau để tìm hiểu nhiều hơn về bản chất biến đổi khí hậu. Hi vọng đề
tài tiếp theo “phân tích sự biến đổi khí hậu Tỉnh Lai Châu thông qua chế độ

nhiệt và lượng mưa” sẽ cung cấp thêm một khía cạnh nữa trong nghiên cứu biến
đổi khí hậu địa phương, tỉnh Lai Châu và Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập tài liệu: Những thông tin về khí hậu và biến đổi
khí hậu rất nhiều và được rất nhiều tác giả đề cập đến. Việc thu thập, chắt lọc

6
nội dung từ các nguồn tài liệu là một vấn đề đòi hỏi người nghiên cứu phải có tư
duy lôgíc khả năng tổng hợp. Việc thu thập thông tin từ nhiều nguồn như: từ các
công trình nghiên cứu, báo chí, trên các trang web, bản đồ… sẽ giúp chúng ta
hiểu sâu hơn và cắt nghĩa được các hiện tượng khí hậu cũng như sự hiện trạng
biến đổi của khí hậu.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Xuất phát từ những nguồn tài liệu thu
thập, trong quá trình nghiên cứu đề tài đã chọn nội dung cơ bản để phân tích,
khái quát kiến thức giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vấn đề khí hậu và những ảnh
hưởng của khí hậu đến Việt Nam và cụ thể là Tỉnh Lai Châu.
- Phương pháp bản đồ, biểu đồ: Đây là phương pháp đặc trưng của bộ môn
Địa lý, sử dụng bản đồ không chỉ khái quát hóa nội dung mà còn chỉ ra được các
mối quan hệ giữa đối tượng nghiên cứu và với thành phần tự nhiên khác.
6. Đóng góp của khóa luận
Đề tài đã hoàn thành là tài liệu tham khảo cung cấp những kiến thức khí hậu
hữu ích cho sinh viên (nhất là sinh viên chuyên ngành địa lý và người nghiên cứu).
Đề tài là tài liệu góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mọi
người trong việc bảo vệ môi trường sống.
Là tài liệu tham khảo khi nghiên cứu, giảng dạy, học tập về địa lí địa
phương tỉnh Lai Châu.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận khóa luận bao gồm các chương sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Lai Châu

Chương 3: Phân tích hiện trạng biến đổi khí hậu Lai Châu qua chế độ nhiệt,
lượng mưa và đề xuất giải pháp giảm nhẹ tác hại.



7
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lí luận
Khí hậu theo quan điểm của (Alixôp): “Khí hậu là trạng thái khí quyển ở
một nơi nào đó được đặc trưng bằng các chỉ số trung bình nhiều năm về nhiệt
độ, độ ẩm, lượng mưa, lượng bốc hơi, gió, mây, giữa các thành phần này có mối
quan hệ thống nhất và hoàn chỉnh”.
Khái niệm mang tính chất địa lý của khí hậu theo Sneiderkarius như sau:
“Khí hậu là một cơ quan điển hình của một nơi nào đó hoặc là tập hợp các trạng
thái khí quyển và các quá trình thời tiết của một khoảng không gian lớn quan sát
được gần mặt đất có tác động đến bề mặt trái đất trong một khoảng thời gian dài.
Tập hợp này được biểu thị bằng sự phân bố của các giá trị trung bình được lặp
lại thường xuyên và các giá trị cực trị”.
Khái niệm khí hậu địa phương: khí hậu của một khu vực nào đó có quy mô
địa phương được tạo nên bởi quan hệ giữa điều kiện địa hình (hướng dốc và độ
dốc), địa mạo (kiểu dạng địa hình của khu vực đó) với điều kiện bức xạ mặt trời
từ mối quan hệ này sẽ hình thành nên các điều kiện nhiệt độ, không khí, chế độ
gió, chế độ mưa khác nhau ở các khu vực đó
Biến đổi khí hậu là sự thay đổi khí hậu từ trạng thái này sang trạng thái
khác, mà biểu hiện là sự thay đổi của các thành phần đặc trưng.
Chế độ khí hậu nói chung đều biểu thị bằng những biến đổi có quy luật
trong một quãng thời gian dài hàng chục năm hoặc hàng trăm năm. trong quá
trình biến đổi này khí hậu của một vùng nào đó có thể ấm lên, lạnh đi, ẩm hơn

hoặc khô hơn. Trong sự biến đổi có tính chất hệ thống này xuất hiện sự dao
động thường là không điều hòa của chế độ khí tượng. từ năm này qua năm khác
tạo nên các dao động nhỏ với các chu kì khác nhau trong xu thế biến đổi chung
của khí hậu.
Elnino: theo tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “bé trai” theo các ngư dân bờ
biển Pêru đặt tên. Xuất phát từ hiện tượng nước biển dọc bờ biển Pêru trở nên
nóng, ấm lạ thường vào thời điểm giáng sing. Lúc này, bờ biển Pêru - Chilê trở

8
nên ít cá, nhiều mưa lũ xảy ra liên tục. Elnino trong khí tượng còn được gọi là
“dao động phương Nam”.
Lanina còn gọi là “bé gái”. Lanina được các nhà khoa học thừa nhân là hiện
tượng ngược của Elnino. Về cơ bản. Khi Lanina xuất hiện sẽ làm cho hoàn lưu
khí quyển trở về trạng thái bình thường ở khu vực Thái Bình Dương. Tại Nam
Mỹ thời tiết trở lại lại như vốn có còn khu vực Đông Nam Á, Bắc Úc lại mưa
lớn kéo dài.
Khả năng bị tổn thương – Vulnerability: Là mức độ mà một hệ thống (tự
nhiên, xã hội, kinh tế) có thể bị tổn thương do biến đổi khí hậu hoặc không có
khả năng thích ứng với những tác động bất lợi của biến đổi khí hậu.
Theo Công ước đa dạng sinh học (năm 1992): “đa dạng sinh học là sự
phong phú của mọi cơ thể sống có từ tất cả các nguồn trong hệ sinh thái trên
cạn, ở biển và các hệ sinh thái dưới nước khác, các ghen của các loại đó và các
hệ sinh thái mà các loài góp phần tạo nên”[6;tr2]
1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong những thập niên gần đây khí hậu toàn cầu có sự thay đổi mạnh mẽ.
đặc biệt từ giữa thế kỷ XIX nhiệt độ không khí toàn cầu có sự gia tăng và biêu
hiện rõ nhât là ở Bắc Cực thuộc Bắc Đại Tây Dương. thời kỳ này băng núi thu
hẹp, các loài động vật phát triển thêm về hai cực.
Đến thế kỷ XX tồn tại hai quan niệm khác nhau về xu thế biến đổi khí hậu
toàn cầu. Quan niệm thứ nhất, một số nhà khoa học cho rằng, khả năng tiếp tục

lạnh đi của khí hậu vẫn còn tồn tại. Quan niệm thứ hai, bằng những chứng cứ
xác thực các nhà khoa học đã phát hiện xu hướng nóng lên của khí hậu từ sau
những năm 70 của thế kỷ này và đi đến dự đoán khí hậu thế giới sẽ nóng lên từ
0,5
0
C đến 1
0
C ở cuối thế kỷ.
Một thực tế là khí hậu đang thay đổi. những hiện tượng thời tiết cực đoan
xuất hiện ngày càng nhiều gây thiệt hại không nhỏ tới sản xuất và đời sống. hiện
tượng hạn hán, lũ lụt, bão tuyết diễn ra trên phạm vi rộng cả vùng nhiệt đới và
vùng ôn đới. Năm 1972 Liên Xô đã phải trải qua đợt hạn hán nghiêm trọng với
kỷ lục thế kỷ về nhiệt độ, độ hụt lượng mưa và lượng nước sông, gây mất mùa

9
nặng và nạn cháy rừng hoành hành. Mùa hè năm 1976 Tây Âu, miền Trung và
miền Tây nước Mỹ, Canada. Úc phải trải qua đợt hạn hán nghiêm trọng.
Trái đất nóng lên với tốc độ ngày càng tăng biểu hiện là nhiệt độ trung bình của
trái đất tăng từ 0,3
0
C đến 0,6
0
C trên bề mặt, một tốc độ gia tăng chưa từng thấy
trong gần 1000 năm qua. Riêng giai đoạn 1885 - 1990 nhiệt độ trái đất đã tăng
0,5
0
C xuất phát từ sự thay đổi hàm lượng Ctrong khí quyển từ 0,027% lên
0,035%. Theo tính toán khi hàm lượng CO2 trong khí quyển tăng gấp đôi thì
nhiệt độ trái đất tăng lên khoảng 3
0

C, và có khu vực có thể tăng lên 4,9
0
C -
5,4
0
C, ở các vĩ độ cao của Bắc bán cầu có thể tăng lên 7 - 8
0
C. Nhà khoa học
Mỹ cho biết “ nếu nồng độ CO2 tăng gấp 4 lần trong vòng 500 năm tới thì nhiệt
độ trên toàn lục địa sẽ cao hơn nhiệt độ hiện nay từ 7
0
C đến 10
0
C [4;tr36]
Những năm 90 của thế kỷ XX được ghi nhận là thập kỷ nóng nhất kể từ
1861 khi có số liệu trắc quan bằng máy và thậm chí là nóng nhất trong 1000
năm qua ở bán cầu Bắc hai giai đoạn có nhiệt độ tăng nhanh nhất là từ 1910 -
1945 và từ năm 1976 đến nay với mức tăng khoảng 0,15
0
C một thập kỷ.
Sự gia tăng nhiệt độ trung bình của trái đất ngày càng rõ ràng hơn. Nhiệt độ
trái đất đã tăng thêm 0,75
0
C so với thời kỳ tiền công nghiệp, 11 năm nóng nhất
trong vòng 125 năm qua đã diễn ra từ suốt 1990, trong đó gần nhất là năm 2005,
và là năm nóng nhất.
Gia tăng nhiệt độ hiện nay ngày càng có xu hướng tăng nhanh so với dự
báo của các nhà khoa học. Tuy nhiên xét ở những điều kiện, vị trí địa lí cụ thể
thì ức gia tăng nhiệt độ có sự khác biệt giữa các vùng. giới khoa học cảnh báo,
Bắc cực sẽ là nơi đầu tiên bị ảnh hưởng bởi hiện tượng “ấm hóa” toàn cầu. băng

và tuyết phản xạ từ 80 đến 90% bức xạ mặt trời. Tuy nhiên khi những bề mặt
băng này biến mất thì đất và biển ở dưới sẽ hấp thụ nhiều bức xạ hơn dưới dạng
nhiệt. Chính lượng nhiệt này sẽ tác đông trở lại làm băng và tuyết tan nhiều.
Bắc cực ấm lên sẽ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. các sinh vật trong
vùng bắc cực nằm trong nguy cơ tuyệt chủng

10
Ở các khu vực Châu Âu và vĩ độ trung bình, nhiệt độ cũng đã tăng lên.
bằng chứng là mùa hè trở nên nóng hơn nhiều so với trước đây đã gây ra tình
trạng tử vong cao ở khu vực này.
Bên cạnh đó hiện tượng lạnh đi khác thường của khí hậu cũng đáng được
quan tâm cụ thể „mùa thu 1976 tại nhiều nơi thuộc Liên Xô nhiệt độ đã giảm
xuống từ 10 - 15
0
C một hiện tượng hiếm thấy trong vòng 50 năm qua. hay
những vùng khác cũng có sự lạnh đi khác thường”
Đứng trước những biến dổi khí hậu đang tăng lên mang tính chất cực đoan
trên phạm vi rộng lớn trong nững năm cuối thế kỷ XX các nhà khoa học đã tỏ ra
quan ngại đến xu thế thay đổi xấu hơn nữa của khí hậu Trái Đất. Tháng 6 năm
1976 tổ chức khí tượng thế giới phải ra tuyên bố đặc biệt kèm theo những giải
thích cần thiết về biến đổi khí hậu trên thế giới. Nhiều giả thuyết và phỏng đoán
được đưa ra, những câu hỏi về khí hậu thế giới đặt ra ngày càng nhiều. Hàng
loạt hội nghị chuyên đề hợp tác khoa học giữa các nước, tổ chức liên quan diễn
ra nhằm nghiên cứu xâu hơn về biến đổi khí hậu toàn cầu.
Những năm cuối thế kỷ XX sang những năm đầu thế kỷ XXI loài người
đang phải ghánh chịu nhiều thảm họa thiên tai khốc liệt mà nguyên nhân căn
bản bắt nguồn từ sự biến đổi khí hậu.
Trước những hậu quả của biến đổi khí hậu toàn cầu thì khí hậu Việt Nam
cũng chịu ảnh hưởng tiêu cực:
Điển hình của kiểu thời tiết dị thường là nhiệt độ tăng, bão mạnh, mưa lớn,

lũ lụt, hạn hán và nước biển dâng cao Trong đó Việt Nam đã và đang phải
đương đầu với những biểu hiện ngày càng gia tăng của những hiện tượng thời
tiết này.
Theo Thông báo quốc gia lần thứ 2 của Bộ Tài nguyên và Môi trường: Kể
từ năm 1958 đến năm 2007, nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng lên
khoảng 0,5 - 0,7
0
C. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa hè và nhiệt
độ ở các vùng phía Bắc tăng nhanh hơn các vùng phía Nam. Cụ thể như năm
2007, nhiệt độ trung bình cả năm tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đều

11
cao hơn trung bình của thập kỷ 1931 - 1940 là 0,8 - 1,3
0
C, cao hơn thập kỷ 1990
- 2000 là 0,4 - 0,5
0
C.
Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa trung bình năm trên
lãnh thổ nước ta không rõ rệt theo các thời kỳ và các vùng khác nhau. Lượng
mưa năm giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng ở các vùng khí hậu phía
Nam. Tính trung bình trong cả nước, lượng mưa trong 50 năm qua đã giảm
khoảng 2%. Tuy vậy, biến đổi lượng mưa có xu hướng cực đoan, đó là tăng
trong mùa mưa và giảm mạnh trong mùa khô.
Bên cạnh đó, số đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam cũng giảm rõ
rệt trong 2 thập kỷ qua. Các biểu hiện thời tiết dị thường xuất hiện ngày càng
nhiều, tiêu biểu như đợt lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài 30 ngày trong tháng 1
và tháng 2 năm 2008 ở Bắc Bộ, đã gây thiệt hại lớn về cây trồng, vật nuôi cho
các địa phương ở đây.
Đặc biệt, do tác động của biến đổi khí hậu, trong khoảng 5 - 6 thập kỷ gần

đây, tần số xoáy thuận nhiệt đới hoạt động trên Biển Đông tăng lên với tốc độ
0,4 cơn mỗi thập kỷ, tần số xoáy thuận nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt Nam tăng
với tốc độ 0,2 cơn mỗi thập kỷ và có cường độ mạnh xuất hiện nhiều hơn. Quỹ
đạo của bão có dấu hiệu dịch chuyển dần về phía Nam và mùa mưa bão kết thúc
muộn hơn. Nhiều cơn bão có đường đi bất thường và không theo quy luật. Điển
hình như “siêu” bão số 8 đã hoàng hành suốt dọc các tỉnh ven biển từ Nghệ An
đến tận Quảng Ninh trong mấy ngày vừa qua.
Một biểu hiện đáng lo ngại của biến đổi khí hậu nữa là mực nước biển dâng
đã và đang gây ngập lụt trên diện rộng, nhiễm mặn nguồn nước, ảnh hưởng lớn
đến sản xuất nông nghiệp, gây rủi ro đối với công nghiệp và các hệ thống kinh
tế-xã hội trong tương lai. Số liệu quan trắc tại các trạm hải văn ven biển Việt
Nam cho thấy, tốc độ dâng lên của mực nước biển trung bình hiện nay là
3mm/năm, tương đương với tốc độ tăng trung bình trên thế giới. Trong 50 năm
qua, mực nước biển tại Trạm Hải văn Hòn Dấu tăng lên khoảng 20cm.
Cũng như các tỉnh miền núi phía Bắc khí hậu tỉnh Lai Châu đã chịu ảnh
hưởng nhiều tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Theo khảo sát của các cơ

12
quan chức năng, những biểu hiện dễ nhận thấy nhất là sự thay đổi nhiệt độ,
lượng mưa và gia tăng các hiện tượng thời tiết tiêu cực như: gió Tây khô nóng,
rét đậm, rét hại, sương muối, giông lốc, mưa đá, lũ quét, sạt lở đất, xuất hiện
với tần suất và mức độ lớn hơn.
Theo kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam của bộ tài
nguyên và môi trường. Biến đổi khí hậu sẽ tác động đến các tỉnh vùng núi và
trung du Bắc Bộ trong đó có Lai Châu gồm: Các khu vực này thường chịu ảnh
hưởng của lũ, lũ quét, sạt lở đất, cháy rừng, hạn hán. Các lĩnh vực: an ninh
lương thực. Lâm nghiệp, Giao thông vận tải, môi trường, tài nguyên nước, đa
dạng sinh học, y tế, sức khỏe cộng đồng, các vấn đề xã hội khác thuộc vùng núi
và trung du Việt Nam có nguy cơ chịu tác động của biến đổi khí hậu
Lai Châu là tỉnh có điều kiện và tiềm năng để phát triển phát triển kinh tế -

xã hội, song cũng chịu nhiều tai biến thiên nhiên. Khí hậu Lai Châu mang đặc
thù của vùng nhiệt đới chịu tác động mạnh của tính phi địa đới theo đai cao và
mưa cùng với tác động của con người vào môi trường sinh thái ngày càng mạnh.
trong những năm gần đây các tai biến thiên nhiên như lũ lụt, lũ ống, lũ quét,
trượt lở đất… các hiện tượng khí hậu cực đoan như rét đậm, rét hại cũng xuất
hiện ngày càng nhiều hiện tượng băng tuyết bắt đầu xuất hiện tại vùng núi cao
như đèo Hoàng Liên Sơn, Sìn Hồ ngoài ra tình trạng hạn hán trên nhiều địa bàn
của Lai Châu xảy ra thường xuyên hơn và phạm vi ảnh hưởng ngày càng rộng.
Các tai biến thiên nhiên ở Lai Châu không chỉ gây thiệt hại nặng nề về người và
của mà còn gây ra tâm lí hoang mang, lo lắng cho nhân dân vùng bị thiệt hại nói
riêng và cả tỉnh nói chung.



13
CHƢƠNG 2 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI
TỈNH LAI CHÂU

2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1 Vị trí địa lý
Vị trí địa lí không phải là thành phần cấu tạo nên cảnh quan, nhưng với
hệ tọa độ địa lí thì các đặc trưng khác của tự nhiên sẽ biến đổi theo nó, và như
vậy, vị trí địa lí sẽ giúp cho cảnh quan có một đặc điểm riêng của mình.
Lai Châu là một tỉnh miền núi nằm ở phía Tây Bắc của Tổ Quốc, cách
xa thủ đô Hà Nội 450km về phía Tây Bắc. Lai Châu có toạ độ địa lí xác định
như sau:
Vĩ độ: từ 21
0
40


đến 22
0
50

B
Kinh độ: từ 102
0
20

đến 103
0
Đ
Phía Bắc: giáp tỉnh Vân Nam - Trung Quốc.
Phía Đông: giáp tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Sơn La.
Phía Tây và Tây Nam: giáp tỉnh Điện Biên.
Tỉnh có 273km đường biên giới với Trung Quốc, có cửa khẩu Ma Lù
Thàng cùng nhiều tuyến đường trên tuyến biên giới Việt – Trung, giúp tỉnh trực
tiếp giao lưu với các tỉnh phía Tây Nam (Trung Quốc), được nối với khu vực
tam giác tăng trưởng kinh tế của cả nước là: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh,
các đường quốc lộ: 6, 4D, 70, 32, 279, 12, 127, đường sông. Lai Châu còn nằm
trên tuyến du lịch Tây Bắc - Hà Nội - Lào Cai - Sa Pa - Lai Châu - Điện Biên -
Sơn La - Hoà Bình - Hà Nội. Nằm trong tam giác năng lượng khoáng sản Yên
Bái - Lào Cai - Phong Thổ. Vị trí địa lí đã giúp Lai Châu có tiềm năng để phát
triển dịch vụ - thương mại, xuất nhập khẩu và đặc biệt là du lịch, đồng thời cũng
có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ
quyền biên giới quốc gia. ngoài ra Lai Châu còn là vùng đầu nguồn và phòng hộ
đặc biệt chủ yếu của sông Đà, đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia, hiện
đang trực tiếp đang xây dựng công trình thủy điện Lai Châu trên sông Đà (tại
Nậm Hàng – Nậm Nhùn)



14

(Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lai Châu)
Hình 1: Bản đồ hành chính tỉnh Lai Châu

15
2.1.2. Đặc điểm địa hình, địa mạo
Đặc điểm địa hình:
Địa hình Lai Châu với đặc điểm chính là địa hình là núi và cao nguyên, bị
cắt xẻ mạnh, có độ chia cắt sâu và ngang lớn. Phía tây, tây bắc tỉnh là dãy Hoàng
Liên Sơn chạy dài gần 80km, với đỉnh Phan Xi Păng cao nhất nước ta (cao
3.143m). Phía đông, đông bắc tiếp giáp với dãy núi sông Mã với độ cao 1.800m,
và Mường Nhé – Điện Biên qua phần đất thuộc vùng núi thấp, tương đối rộng và
lưu vực sông Đà, ở đây có các cao nguyên đá vôi dài 400km, rộng từ 1 – 25km,
cao 600 – 1.000m. Phía bắc có đỉnh Pu Si Lung cao 3.076m, trên 90% diện tích
có độ dốc trên 25º, bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi chạy dài theo hướng tây bắc
- đông nam, xen kẽ là các thung lũng có địa hình tương đối bằng phẳng như
Mường So, Tam Đường, Bình Lư, Than Uyên… Nhìn chung, Lai Châu có đặc
điểm cấu trúc địa hình là núi thấp dần và đổ dồn xuống các sông và suối lớn, núi
non xen kẽ với các thung lũng sông, khe suối và các bồn địa núi đồi cao và dốc,
các thung lũng sâu và hẹp có nhiều sông suối, nhiều thác ghềnh, dòng chảy lưu
lượng lớn lên có tiềm năng về thuỷ điện.
Đặc điểm sơn văn: hệ thống sơn văn của Lai Châu có thể chia thành 4
loại chính: vùng núi cao, vùng núi trung bình, núi thấp và cao nguyên.
Núi cao: Phân bố ở phía bắc và tây bắc, kéo dài theo phương tây bắc – đông
nam, dọc biên giới Việt – Trung như: Pu Si Lung, Pu Đen Đing, Pu Sam Sao
Vùng núi trung bình: đây là các vùng núi uốn nếp nằm ở độ cao 1.000 –
2.000m, với cảnh quan chung là các dãy núi song song trải rộng lại bị chia cắt đã
tạo nên các cảnh núi rừng trùng điệp, là dạng địa hình núi phổ biến của vùng.

Núi thấp: là các địa hình dạng đồi, núi thấp có độ cao dưới 1.000m, đây
cũng là loại địa hình khá phổ biến, dạng địa hình này phân bố hầu hết tại các địa
phương trong tỉnh.
Cao nguyên: Lai Châu có cao nguyên Tà Phìn – Sín Chải với độ cao 1.100
– 1.300m, nằm kẹp giữa lưu vực sông Đà và dãy Hoàng Liên Sơn, có hướng Tây
Bắc – Đông Nam, đây là cao nguyên đá vôi đồ sộ, có bề mặt kém bằng phẳng.

16
Dạng địa hình đồi và đồng bằng: Địa hình đồi và đồng bằng chiếm diện
tích nhỏ, nằm ở rìa xen kẽ giữa những dãy núi cao là các đồi sót liền kề với các
thung lũng hoặc các lòng chảo có địa hình tương đối bằng phẳng như: Mường
So, Tam Đường, Bình Lư, Than Uyên, Sìn Hồ Kiểu địa hình đồi có dạng bát
úp, là dạng địa hình mềm mại, độ dốc nhỏ, vỏ phong hóa dày, phân bố chủ yếu ở
các thung lũng Mường Nhé, Bình Lư, Tam Đường, Nậm Mạ. Các đồng bằng
chủ yếu chạy dọc thung lũng sông suối, là kết quả của quá trình bồi tụ, Lai Châu
có các đồng bằng bồi tụ thung lũng như: Sìn Hồ, Bình Lư, Than Uyên.
Các bậc địa hình: Địa hình Lai Châu được phân chia thành 7 bậc và 15 mức
Về các mức độ cao, Lai Châu được phân thành 15 mức với định lượng cụ thể:
Mức
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

12
13
14
15
độ
cao
(m)
<2
00
200-
400
400-
600
600-
800
800-
1000
1000–
1200
1200–
1400
1400–
1600
1600–
1800
1800 –
2000
2000–
2200
2200–

2400
2400–
2600
2600–
2800
>2800
(Nguồn: Đặc điểm địa hình Lai Châu)
Bảng 1. Các mức độ cao địa hình
Theo các bậc địa hình như trên, ta có thể nhóm địa hình Lai Châu thành
7 bậc với các đặc điểm như sau:
Mức
1
2
3
4
5
6
7
Độ cao
< 200
200 - 600
600 –
1.200
1.200 –
1.600
1.600 –
2.000
2.000 –
2.800
> 2.800

(Nguồn: Đặc điểm địa hình Lai Châu)
Bảng 2. Các bậc địa hình
* Phân chia khu vực địa hình: trên tổng thể địa hình ta có thể phân chia
địa hình thành 3 khu vực khu tây – tây bắc, khu dông – đông nam và khu vực
trũng thấp gần ở trung tâm.
Khu vực tây – tây bắc: đây là hệ thống đối núi cao thuộc bộ phận kéo dài
của hệ thống hoàng Liên Sơn, ở đây địa hình có hướng tây bắc – đông nam.
Hướng địa hình thoải nhanh theo hướng tây – đông và thấp dần theo hướng tây

17
bắc – đông nam. Phía tây, tây bắc có các đỉnh núi cao thuộc dãy Hoàng Liên
Sơn đó là: Phan Xi Păng, Pu Sam Cáp… Pu Si Lung.
Khu vực đông – đông bắc: đây là phần địa hình khá cao, là hệ thống núi
chạy dọc theo thung lũng sông Đà, Địa hình có hướng tây bắc – đông nam. Địa
hình có đặc điểm là sườn phía đông, tiếp xúc với sông Đà, có sườn dốc, các vách
đá dựng đứng. Càng sang phía tây, địa hình càng mềm mại hơn. Xu thế địa hình
cũng có hướng thấp dần từ đông bắc xuống tây nam.
Khu vực trũng thấp gần ở trung tâm: đây là khu vực có địa hình thấp nhất
của Lai Châu, khu vực này rải rác theo địa hình kẹp giữa hai khu vực núi phía
đông và tây, thực chất đây là các khu vực đồng bằng bãi bồi, vùng trũng giữa
núi, bao gồn các khu vực có địa hình tương đối bằng phẳng như Mường So, Tam
Đường, Bình Lư, Than Uyên… Đáng chú ý nhất là đồng bằng Than Uyên, đây
là một sụt võng Kastơ được tích tụ trầm tích hàng năm, tạo nên một đồng bằng
trù phú và là một trong bốn cánh đồng nổi tiếng của khu vực Tây Bắc.
Đặc điểm địa mạo:
Địa mạo là bề mặt địa hình, là nơi mà các quá trình địa chất, địa lí biểu
hiện. Địa mạo của Lai Châu được tạo thành từ các hoạt động ngoại sinh trên nền
địa hình miền núi, vì vậy theo đặc điểm đó địa mạo Lai Châu có hai dạng hoạt
động khác nhau là bóc mòn và tích tụ. Bóc mòn sẽ xảy ra ở các khu vực địa hình
núi, trên các sườn địa hình và khu vực núi đá vôi. Ngược lại địa hình tích tụ sẽ

xảy ra ở các vùng thung lũng, trũng của địa hình.
* Hoạt động bóc mòn: Lai Châu có các địa hình bóc mòn sau:
- Sườn bóc mòn trọng lực: phân bố chủ yếu ở trên các dãy núi cao, các
sống núi sắc nhọn và không liên tục,
- Sườn bóc mòn – xâm thực và xâm thực – bóc mòn: là dạng phổ biến và
phân bố rộng ở tỉnh, thường có ở các dãy núi cao, sườn dốc, đường phân thủy
sắc nhọn, thảm thực vật không dày lắm.
- Sườn bóc mòn tổng hợp: phân bố trên các núi trung bình đến núi cao, độ
dốc sườn từ hơi dốc đến dốc, đường phân thủy chủ yếu là tròn, thoải là chủ yếu.

18
- Sườn bóc mòn trên các đá dễ hòa tan: phát triển trên các sườn có cấu tạo
từ các đá vôi dễ hòa tan.
- Sườn bóc mòn – rửa trôi: có diện phân bố hẹp ở các vùng đồi núi thấp,
khu vực có địa hình lượn sóng, thoải. Sườn thoải, lớp phủ thực vật khá dày
- Bề mặt kastơ - bóc mòn: là các bề mặt cao nguyên bóc mòn, đây là dạng
địa hình cao nguyên, phân bố ở các vùng cao nguyên Tà Phìn, Sín Trải.
* Hoạt động tích tụ
- Bề mặt tích tụ hỗn hợp aluvi – proluvi – deluvi: phân bố rải rác trong các
vùng rìa hoặc vùng trũng, thung lũng giữa núi.
- Bề mặt tích tụ hỗn hợp aluvi – proluvi: phân bố rải rác ở các vùng trũng,
thung lũng sông suối giữa núi, diện phân bố hẹp, dạng trũng giữa núi.
- Bề mặt tích tụ aluvi: có diện phân bố chủ yếu ở các thung lũng sông như
sông Đà, sông Nậm Na, sông Nậm Mu…
Như vậy ta thấy nền rắn là cấu trúc địa chất và địa hình của Lai Châu vừa
có tính thống nhất, vừa có sự phân hóa. Cấu trúc địa hình chủ yếu là địa hình
miền núi tạo nên kiểu cảnh quan vùng núi chung cho tỉnh. Sự thống nhất của địa
hình lại bị phân hóa theo các yếu tố địa hình làm cho cảnh quan Lai Châu lại
được phân hóa thành các lớp cảnh quan theo cấu trúc địa hình là lớp cảnh quan
núi và cao nguyên, lớp cảnh quan đồi núi thấp và cảnh quan đồng bằng nhỏ hẹp

kiến tạo, giữa núi.
2.1.3. Đặc điểm khí hậu thời tiết
Tương tự như các tỉnh khác trong miền núi phía Tây Bắc, tỉnh Lai Châu
có đặc điểm khí hậu mang tính chất gió mùa nội chí tuyến, khí hậu điển hình của
vùng nhiệt đới núi cao vùng Tây Bắc có ngày nóng, đêm lạnh, ít chịu ảnh hưởng
của bão. Khí hậu trong năm chia làm hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng IV đến
tháng X có nhiệt độ và độ ẩm cao, mùa khô bắt đầu tư tháng XI đến tháng III
năm sau, khí hậu lạnh, độ ẩm và lượng mưa thấp.
Nhiệt độ không khí bình quân năm là 22,25
0
C. Nhiệt độ trung bình thấp
nhất 14,3
0
C (vào tháng I) và trung bình cao nhất vào là 23,0
0
C (vào tháng VII)
các tháng có nhiệt độ nhỏ hơn 20
0
C phổ biến từ tháng XI đến tháng III. Các

19
tháng có nhiệt độ trên 20
0
C phổ biến từ tháng 5 đến tháng 9 và chỉ xảy ra ở vùng
có độ cao dưới 500 m. Tổng tích ôn cả năm trung bình là 8.121
0
C. Do có độ cao
biến đông lớn nên chế độ nhiệt giữa vùng cao và vùng thấp cũng rất khác nhau,
những vùng có độ cao trên 1.000 m khí hậu mát, lạnh và ẩm quanh năm.
Lượng mưa bình quân hàng năm từ 2.500 - 2.700mm, phân bổ không đều,

mưa lớn tập trung vào tháng XI, XII, XIII chiếm đến 80% lượng mưa cả năm,
các tháng khô hạn bắt đầu từ tháng XII năm trước đến tháng III năm sau.
Độ ẩm không khí tương đối biến động từ 78 – 93% và có sự chênh lệch độ
ẩm giữa các khu vực từ 2 – 5%, trong đó có độ ẩm trung bình tháng lớn nhất
(tháng VII) đạt 87 – 93%, độ ẩm trung bình tháng nhỏ nhất (tháng III, IV) là 71
– 77%. Độ ẩm tối thiểu tuyệt đối vào các tháng I, II, III là 12 – 15%, tối đa gần
tuyệt đối 100%.
Đây là khu vực chịu ảnh hưởng của gió Đông Bắc thổi từ tháng IX đến tháng
III năm sau, gió Nam, Đông Nam và Tây Nam thổi từ tháng IV đến tháng VIII.
Ngoài ra còn có mưa đá, gió lốc thường xảy ra vào đầu mùa mưa với tần
suất xuất hiện trung bình 1,3 - 1,5 ngày/năm, có xuất hiện sương muối vào mùa
đông, cá biệt còn có tuyết tại các vùng cao.
Tóm lại, khí hậu trong khu vực có một mùa đông ít lạnh và tương đối khô.
Mùa hạ nóng và mưa nhiều. Khí hậu thích hợp đối với các loài gia súc và cây
trồng ôn đới trong mùa đông và mùa hè với lượng mưa lớn đem lại nguồn tài
nguyên nước phong phú thuận lợi cho các cây trồng vật nuôi nhiệt đới. Khó
khăn lớn nhất ở khu vực do khí hậu đem lại là tương đối thiếu nước trong mùa
đông và các hiện tượng thời tiết đặc biệt thường phá hại mùa màng và ảnh
hưởng xấu đến đời sống của người dân như: mưa đá trong thời kỳ cuối đông,
đầu hạ, sương muối hay xuất hiện trên các vùng núi cao vào mùa đông và trong
các thung lũng cũng phải chịu đựng kiểu thời tiết khô nóng nhất là trong các
tháng đầu mùa hạ.
2.1.4. Đặc điểm thủy văn và nguồn nƣớc
Lai Châu nằm trong khu vực đầu nguồn và phòng hộ đặc biệt xung yếu
của sông Đà sông Nậm Na và sông Nậm Mu, điều tiết nguồn nước trực tiếp cho

20
các công trình thuỷ điện lớn trên sông Đà, đảm bảo sự phát triển bền vững cho
cả vùng châu thổ sông Hồng. Hệ thống sông, suối khá dày đặc, mật độ khoảng
5,5 – 6km/km

2
, trong đó đa phần các sông, suối lớn đều có nước chảy quanh
năm. Tổng lượng dòng chảy năm toàn tỉnh khoảng 16,87 triệu m
3
, phân bố giảm
dần từ bắc xuống nam.
Lai Châu là phần thượng lưu sông Đà, khi bắt đầu chảy vào lãnh thổ Việt
Nam. Hầu hết các sông suối của lưu vực này là những sông suối nhỏ, chảy từ
trên vùng núi Pulasan (tả ngạn) và Pusilung (hữu ngạn) xuống sông Đà. Độ
cao trung bình của lưu vực là 1.036m, độ cao lớn nhất là 2.999m, trên 75,7%
diện tích lưu vực thuộc đai cao từ 600 đến 1.500m, độ cao dưới 300m không
những không đáng kể (gần 5 ha), mà tất cả số này còn có độ dốc trên 35
0
. Độ
dốc trung bình được xác định là hơn 20
0
, đặc biệt ở đây xuất hiện độ dốc cực
đại lớn nhất tỉnh 86
0
.
Sông Đà bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam – Trung Quốc chảy qua địa bàn
huyện Mường Tè, sau đó chạy dọc phía nam huyện Sìn Hồ, tạo thành ranh giới
tự nhiên giữa tỉnh Lai Châu và tỉnh Điện Biên. Sông Đà có 3 chi lưu cấp 1 là:
Nậm Mạ là lưu vực nằm kẹp giữa sơn nguyên Tà Phìn (phía tây), dãy
Pusamcap (phía đông) và sơn nguyên Sín Chải (phía nam). Độ cao trung bình
của lưu vực 785m, cao nhất là 2.547m thuộc đỉnh Pu Sam Cap, độ dốc trung
bình ở đây cũng thấp hơn các lưu vực tả ngạn sông Đà khác, hơn 17
0
. Sông Nậm
Mạ có tổng lượng dòng chảy năm là 4.100x10

6
m
3
, diện tích lưu vực khoảng
930km
2
, chảy qua các vùng thấp của huyện Sìn Hồ, độ dốc khá nhỏ, lưu lượng
dòng chảy trung bình đạt 50l/s. Trước năm 2000, trong khi một số lưu vực khác
của Lai Châu (như Nậm Lay, Nậm Na, Nậm Rốm, Nậm Pô) đã xảy ra nhiều lần
lũ quét thì tại đây vẫn chưa có trận lũ quét nào xảy ra, song đến ngày 3 tháng 10
năm 2000, trận lũ quét đầu tiên được ghi nhận đã xuất hiện ở bản Nậm Coóng -
xã Nậm Cuổi (Sìn Hồ).
Nậm Mu là lưu vực có diện tích nhỏ nhất, gần 52.672ha, chiếm 3,11%
diện tích toàn tỉnh, là phần thượng nguồn của suối Nậm Mu, phần lớn lãnh thổ
còn lại của lưu vực chảy trong địa phận tỉnh Lào Cai, được giới hạn bởi dãy

×