A - LỜI MỞ ĐẦU:
Với xu hướng “toàn cầu hoá ” hiện nay, nhu
cầu về vốn cho phát triển kinh tế đã không còn
là vấn đề riêng của bất kỳ một quốc gia nào.
Việt Nam đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước, tích cực chủ động hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới nên nhu cầu về
vốn lại càng trở nên cấp thiết. Các Tổ chức tín
dụng (TCTD) có vai trò hết sức quan trọng đối
với việc huy động mọi nguồn vốn trong dân cư
để cung ứng cho nền kinh tế với nhứng điều
kiện nhất định. Vốn để các TCTD tiến hành và
phát triển các hoạt động kinh doanh của mình
không chỉ riêng nguồn vốn tự có mà chủ yếu là
nguồn vốn huy động được. Sau đây chúng ta sẽ
1
tìm hiểu về : “Quyền năng nhận tiền gửi. Thực
trạng và hoạt động nhận tiền gửi của TCTD và
đề xuất ý kiến về quy định hiện hành về quyền
năng này”.
2
B - NỘI DUNG:
I – Các quy định của pháp luật về hoạt động
nhận tiền gửi của TCTD:
1.Các quy phạm pháp luật về nhận tiền gửi
của các TCTD.
Theo giải thích từ ngữ tại khoản 13 Điều 4
Luật các TCTD năm 2010 thì Nhận tiền gửi
được hiểu là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá
nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các
hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có
hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền
theo thỏa thuận.
3
Nhận tiền gửi là nghiệp vụ huy động vốn đặc
thù của TCTD, do vậy nó chịu sự điều chỉnh chủ
yếu bằng các quy phạm pháp luật trong các văn
bản pháp luật về ngân hàng, cụ thể : Trong luật
các TCTD; Luật ngân hàng nhà nước; các Nghị
định của Chính phủ như: Nghị định số
49/2000/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của
ngân hàng thương mại; Nghị định số
16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt dộng của
công ty cho thuê tài chính; Nghị định số
13/1999/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của
TCTD nước ngoài, văn phòng đại diện của
TCTD nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định số
79/2002/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của
công ty tài chính; Nghị định số 89/1999/NĐ-CP
về Bảo hiểm tiền gửi ; Nghị định số 70/2000/
4
NĐ-CP về việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp
thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi
của khách hàng; Nghị định số 64/2001/NĐ-CP
về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán Trên cở sở các Luật và
các Nghị định của Chính Phủ, Ngân hàng nhà
nước ban hành ra nhiều Thông tư hướng dẫn và
ban hành các quyết định của Thống đốc ngân
hàng nhà nước để cụ thể hóa và hướng dẫn thi
hành.
Tình hình chung hiện nay cho thấy các quy
phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động
vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD cũng khá
nhiều. Nó được quy định trong nhiều các văn
bản pháp luật khác nhau, do nhiều cơ quan ban
hành. Các quy định của pháp luật về vấn đề này
5
tương đối chặt chẽ và đầy đủ, cụ thể hóa các nội
dung như: Các loại tiền gửi được phép huy
động; Giới hạn quyền được nhận tiền gửi đối với
từng loại hình TCTD; quyền và nghĩa vụ các
bên trong quan hệ tiêng gửi; đặc biệt quy định
về các trách nhiệm của TCTD phải thực hiện khi
huy động vốn bằng nhận tiền gửi; quy định về
quản lý nhà nước đối với hoạt động huy động
vốn bằng nhận tiền gửi cùng nhiều nội dung
khác có liên quan.
Vai trò của hoạt động nhận tiền gửi của ngân
hàng:
- Đối với ngân hàng: nhận tiền gửi là hình
thức huy động vốn dễ dàng, nhanh chóng, đơn
giản, tiện lợi, thường xuyên, tốn ít chi phí.
Thông qua hoạt động này lại cho ngân hàng một
6
nguồn vốn khổng lồ để cấp tín dụng. Không
những thế nhận tiền gửi còn tạo tiền đề để ngân
hàng tiền hành các hoạt động kinh doanh khác
như làm dịch vụ thanh toán ngân quỹ.
- Đối với người gửi tiền: nhờ có TCTD nhận
tiền gửi người dân có được nơi bảo quản tài sản
an toàn nhất; nó tạo cho họ có được một phương
thức đàu tư vốn nhàn rỗi nhằm mục đích thu lợi
mà ít gặp rủi ro nhất (không như thị trường
chứng khoán hay thị trường bất động sản lên
xuống thất thường). Ngoài ra người gửi tiền còn
được hưởng các dịch vụ ngân hàng tiện ích do
TCTD cung ứng thông qua việc đem tiền đi gửi
ở các TCTD.
- Đối với nhà nước và xã hội: Thông qua
hoạt động nhận tiền gửi của TCTD xã hội có
7
thêm một kênh thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi
khác nhau trong dân cư để đáp ừng nhu cầu đầu
tư cho phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở
hạ tầng, sự cung cầu vốn trong xã hội gặp nhau
dễ dàng; nhà nước có thể kiểm soát, điều hành
chính sách tiền tệ, góp phần ổn định giá trị đồng
tiền, thúc đảy phát triển kinh tế.
Nếu hoạt động nhận tiền gửi và dịch vụ
ngân hàng phát triển sẽ giúp nhà nước giảm chi
phí trong in ấn và vận chuyển, bảo quản, thu đổi,
tiêu hủy tiền, giúp nhà nước kiểm soát các
nguồn thu nhập ở các chủ thể trong xã hội. Căn
cứ vào số vốn tiền gửi trên các tài khoản của
khách hàng sẽ là cơ sở cho các cơ quan chức
năng của nhà nước thanh tra, kiểm tra thực hiện
được nhiệm vụ nhanh chóng, chính xác, phát
8
hiện kịp thời tệ tham ô, trốn thuế, ngăn chặn
hành vi tiêu cực, xử lý kịp thời vi phạm pháp
luật, góp phần ổn định kinh tế, nâng cao trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
2. Các quy định về loại tiền gửi mà TCTD
được phép huy động:
Thuật ngữ tiền gửi đã hình thành từ rất lâu
trong lịch sử tiền gửi của các ngân hàng. Ngày
nay do mục đích của người gửi tiền rất đa dạng,
họ gửi tiền không chỉ nhằm mục đích an toàn về
tiền vốn và thu lợi tức từ việc gửi tiền mà còn
hướng tới các dịch vụ tiện ích do tổ chức nhận
tiền gửi cung ứng. tiền gửi mà khách mang gửi
tại các tổ chức tín dụng không thuần túy chỉ là
nguồn vốn nhàn rỗi mà có thể là nguồn vốn
đang sử dụng trong quá trình kinh doanh hay
9
tiêu dùng để đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của
người gửi tiền, các tổ chức nhận tiền gửi đã đưa
ra nhiều hình thức gửi tiền có nhiều loại tiền gửi
khác nhau để người gửi tiền lựa chọn hình thức
gửi tiền cho thích hợp với mục đích, tính chất
nguồn vốn của mình. Chính vì thế rất khó có thể
đưa ra một định nghĩa chung về tiền gửi. Ở Việt
Nam tại khoản 9 Điều 20 luật các tổ chức tín
dụng(TCTD)năm 1997 có đưa ra định nghĩa tiền
gửi như sau: “Tiền gửi là số tiền khách hàng gửi
tại các TCTD dưới hình thức tiền gửi không kỳ
hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình
thức khác. Tiền gửi có thể để được hưởng lại
hoặc không được hưởng lãi và phải được hoàn
trả cho người gửi tiền.” Như vậy tiền gửi còn
đươc hiểu là một khoản tiền mà người dân gửi
10
vào ngân hàng với mục đích khác nhau, là một
quan hệ kinh tế phát sinh giữa một bên là tổ
chức, các nhân gửi tiền với bên kia là các tổ
chức nhận gửi tiền. Theo đó bên gửi tiền chuyển
giao cho bên nhận một số tiền nhất định, bên
nhận gửi có trách nhiệm quản lý, được quyền sử
dụng số tiền gửi này để cấp tín dụng làm các
dịch vụ ngân hàng khác và có trách nhiệm hoàn
trả toàn bộ hay một phần số tiền gửi này cho
người gửi tiền đến hạn hay khi người người gủi
tiền yêu cầu. Ngoài ra các bên còn có thể cam
kết thỏa thuận việc cung cấp dịch vụ thanh toán
hoặc trả lãi cho số tiền gửi đó.
Pháp luật hiện hành có rất ít quy định về vấn
đề này. Trong Luật các TCTD 2010( Điều 4) có
đề cập đến các loại tiền gửi gồm: tiền của tổ
11
chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát
hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và
các hình thức nhận tiền gửi khác. Pháp luật chủa
có những văn bản giải thích một cách cụ thể về
từng loại tiền gửi nêu trên, mà chủ yếu trong quá
trình áp dụng thì các TCTD bằng nghiệp vụ của
mình tự xác định lấy sao cho phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh của mình. Với hạn chế này, có
thể gây ra tình trạng hiểu không rõ ràng, không
nhất quán về từng loại hình tiền gửi, không thể
phân định rõ tính chất và đặc điểm của từng loại
tiền gửi, đặc biệt là những người không trực tiếp
hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng. Việc pháp
luật còn thiếu các quy định về các loại tiền gửi
gây ra những trở ngại chp quá trình thực thi
12
pháp luật, ngay các cơ quan nhà nước khi thanh
tra ,kiểm tra hoạt động nhận tiền gửi của các
TCTD cũng gặp khó khăn. Chẳng hạn một cá
nhân gửi tiền ở TCTD thời hạn 12 tháng, có thể
coi đây là tiền gửi có kỳ hạn hoặc có thể xem
đây là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Thống đốc
NHNN có ban hành quyết định số
432/2000/QĐ-NHNN quy định về nghiệp vụ
huy động vốn bằng Đồng Việt Nam bảo đảm giả
trị theo giả vàng của các TCTD. Theo quy định
trong quyết định này thì chỉ có TCTD có giấy
phép hoạt động ngoại hối mới được huy động
vốn bằng hình thức này. TCTD huy động vốn
VNĐ bảo đảm giả trị theo giá vàng được thực
hiện dưới hình thức tiết kiệm có kỳ hạn; phát
13
hành chững chỉ huy động VNĐ bảo đảm theo
giá vàng.
Ý nghĩa của việc phân loại tiền gửi:
- Đối với các ngân hàng: việc phân chia
nhiều loại tiền gửi khác nhau với đặc tính khác
nhau của mỗi laoij tiền gửi nhằm giúp các ngân
hàng nhận tiền gửi thu hút được nhiều người
tham gia gửi tiền, bởi mục đích gửi tiền của
người gửi tiền rất đa dạng, việc đưa ra nhiều loại
tiền gửi khác nhau đó sẽ đáp ứng hết được mọi
nhu cầu cảu khách hàng. Đồng thời để tạo điều
kiện cho ngân hàng sử dụng vốn huy động bằng
tiền gửi được một cách có hiệu quả và đảm bảo
khả năng thanh toán, chi trả, duy trì độ an toàn
chung cho hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng.
14
- Đối với người gửi tiền: do mỗi loại tiền gửi
có mỗi đặc tính riêng như: tiền gửi không kỳ hạn
có thể rút ra bất cứ lúc nào điều đó tạo cho
người gửi tiền sử dụng số tiền gửi một cách linh
hoạt nhưng lại không hưởng lãi hoặc lãi quá ít,
nên nó chỉ phù hợp với khách hàng có nhu cầu
sử dụng tiền gửi linh hoạt, đáp ứng nhu cầu
thanh toán. Còn tiền gửi có kỳ hạn thì phải tuân
thủ theo kỳ hạn nhưng thường có lãi xuất cao.
Chính vì thế mà khi có các loại tiền gửi khác
nhau người gửi tiền có thể căn cứ vào mục đích,
tính chất của việc gửi tiền, nguồn vốn của mình
đẻ lựa chọn hình thức gửi thích hợp.
- Đối với nhà nước: tính chất của từng loại
tiền gửi khác nhau, mức độ rủi ro và đảm bảo
khả năng thanh toán là khác nhau, đòi hỏi nhà
15
nước trong quản lý phải có cơ chế kiểm soát
thích hợp đảm bảo cho các ngân hàng huy động
và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động
bằng nhận tiền gửi, quyền lợi của các bên trong
quan hệ gửi tiền, cũng như sự an toàn của hệ
thống ngân hàng, bảo đảm sự ốn định của tiền
gửi quốc gia và ổn định sự phát triển nền kinh
tế.
Có thể nói tính chất, đặc điểm của mỗi loại
tiền gửi có ảnh hưởng chi phối đến nội dung
điều chỉnh của pháp luật và mức độ quản lý,
kiểm soát của nhà nước đối với mỗi loại tiền gửi
mà các TCTD được phép huy động. Nhằm kiểm
soát, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của các TCTD cũng như đảm bảo quyền lợi cho
người gửi tiền.
16
3. Các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của
TCTD trong việc nhận tiền gửi.
Trong quan hệ tiền gửi giữa TCTD và người
gửi tiền về bản chất là quan hệ hợp đồng vay nợ
đước các bên tự nguyện, bình đẳng thõa thuận
cam kết thiết lập. Qua đó làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ đối với các bên. Pháp luật tôn
trọng và bảo vệ các quyền và nghĩa vụ mà các
bên cam kết. Các bên đều phải thực hiện đầy đủ
các nghĩa vụ của mình trong quan hệ hợp đồng
đó. Tuy nhiên, do tính đặc thù của quan hệ tiền
gửi mà pháp luật có những quy định cụ thể hơn
về trách nhiệm của các TCTD trong huy động
vốn bằng nhận tiền gửi như sau:
Luật các TCTD có quy định về trách nhiệm và
nghĩa vụ khái quát chung mà TCTD phải thực
17
hiện trong hoạt động huy động vốn bằng nhận
tiền gửi gồm:
- Tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm
tiền gửi, mức bảo toàn hoặc bảo hiểm do Chính
phủ quy định.
-Tạo thuận lợi cho khách hàng, gửi và rút
tiền theo yêu cầu; bảo đảm trả đầy đủ, đúng hạn
gốc và lãi của mọi khoản tiền gửi.
-Bảo đảm bí mất sổ dư tiền gửi của khách
hàng, từ chối việc điều tra, phong tỏa, cầm giữ,
trích chuyển tiền gửi mà không có sự đồng ý của
khách hàng, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác Thông báo công khai mức lãi suất
tiền gửi.
-TCTD có nhận tiền gửi phải mở tài khoản
tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và duy trì tại đó
18
sơ dư bình quân không thấp hơn mức dự trữ bắt
buộc do Ngân hang Nhà nước quy định.
-TCTD phải duy trì tỷ lệ bảo đảm an toàn
như: Tỷ lệ bảo đảm khả năng chi trả; tỷ lệ an
toàn tối thiểu; Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn
hạn được sử dụng cho vay trung và dài hạn; ty lệ
tối đã dư nợ cho vay so với sơ dư tiền gửi
Trên cơ sở các quy định chung có tính nguyên
tắc đó thì một loại các văn bản pháp quy đã
được các cơ quan nhà nước ban hành để cụ thể
hóa các quy định nêu trên.
4. Những quy định của pháp luật về quản lý
nhà nước đối với hoạt động nhận tiền gửi:
Pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt
động ngân hang nói chung và hoạt động huy
động vón bằng nhận tiền gửi cảu các TCTD nói
19
riêng được quy định khá chi tiết đầy đủ trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Trong đó
quy định rõ các cơ quan có chức năng quản lý
nhà nước, thẩm quyền quản lý nhà nước, nội
dung quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân
hàng nói chung và hoạt động huy động vốn bằng
nhận tiền gửi nói riêng. Các quy định về quản lý
nhà nước đối với hoạt động huy động vốn bằng
nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng được thể
hiện cụ thể trong các quy định về các điều kiện
để được cấp giấy phép thành lập hoạt động đối
với các TCTD; quy định giới hạn quyền được
nhận tiền gửi đối với từng loại hình TCTD; quy
định về các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn trong
kinh doanh Đặc biệt là các quy định trong quy
chế kiểm soát đắc biệt đối với các TCTD mất
20
khả năng chi trả, các quy định kề kiểm tra thanh
tra và xử lý vi phạm trong huy động vốn bằng
nhận tiền gửi. Quy định về quản lý nhà nước
như vậy là khá chặt chẽ tuy nhiên còn tản mạn ở
nhiều văn bản pháp luật và một số quy định
chưa cụ thể hóa một cách rõ ràng.
II – Thực trạng và hoạt động nhận tiền gửi
của các tổ chức tín dụng:
Trong những năm qua, cùng với việc thực
hiện các quy định pháp luật, hoạt động huy động
vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD đã đạt
được những kết quả khả quan, nhưng bên cạnh
còn có khó khăn, trở ngại cần được tháo gỡ.
1 – Những kết quả đạt được và nguyên nhân
bằng của huy động vốn bằng nhận tiền gửi ở
một số địa phương:
21
a- Kết quả đạt được:
Trên địa bàn thành phố Hà Nội: với điều
kiện tự nhiên, kinh tế thuận lợi. Đây là nơi tập
trung hầu hết các tổng công ty nhà nước, công ty
nước ngoài và công ty lien doanh. Mạng lưới
các doanh nghiệp ở Hà Nội và số lượng dân cư
đông đúc có đời sống vật chất và thu nhập cao
tạo thành một thị trường tiền gửi đầy tiềm năng.
Tổng nguồn vốn huy động tăng mạnh qua các
năm, đến hết tháng 8/2010 gấp 4 lần so với năm
2004. Các TCTD đã có các giải pháp để mở
rộng huy động vốn như mở thêm các bàn tiết
kiệm , các hình thức huy động tiền gửi đa dạng,
thích hợp với các tầng lớp dân cư, lãi suất huy
động linh hoạt hơn, liên kết giữa các ngân hàng
được nâng cao, các dịch vụ gắn liền gửi như rút
22
tiền tự động ATM, quà tặng, dịch vụ ngân hàng
tại nhà, qua mạng… được cung cấp ngày càng
nhiều cho khách hàng. Thu nhập của người dân
tăng rõ rệt và chính sách ổn định vĩ mô thành
công là yếu tố góp phần gia tăng tiền gửi tại
ngân hàng… Chỉ xét trong 6 năm qua thì tốc độ
huy động vốn của TCTD trên địa bàn Hà Nội
tăng rất nhanh, năm 2010 tăng gấp 4 lần năm
2004, tốc độ tăng bình quân hàng năm, năm sau
cao hơn năm trước khoảng 25%, tương ứng tốc
độ tăng bình quân trên toàn quốc. Giữa hai đối
tượng khách hàng huy động vốn nội tệ, thì tỉ
trọng và số lượng tuyệt đối trong huy động của
các tổ chức kinh tế từ chỗ thấp hơn vốn huy
động của dân cư đến chỗ cao hơn, điều đó cho
thấy tiềm lực huy động từ tổ chức kinh tế còn rất
23
dồi dào, mặt khác các TCTD cũng đã chú trọng
nhắm vào đối tượng này để đẩy mạnh huy động
vốn.
Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, năm
2009, tổng vồn huy động của các TCTD là
85.996 tỷ đồng, tăng 30.7% so với năm 2008 và
tăng gấp 2.5 lần so với năm 2004. Huy động
vốn bằng nhận tiền gửi mang lại lợi ích kinh tế
trực tiếp cho người dân và doanh nghiệp, từ việc
hưởng lãi suất tiền gửi vào ngân hàng tùy hình
thức gửi tiền khác nhau. Nó cho phép khách
hàng là doanh nghiệp khai thác và sử dụng vốn
hiệu quả, nhờ việc khai thác tối đa quá trình vận
động của vốn tiền tệ, mang lại lợi nhuận cao
hơn. Đồng thời khia thác và sửu dụng nguồn
vốn trong nền kinh tế đây là hiệu quả mang ý
24
nghĩa kinh tế xã hội lớn khi nhìn dưới góc độ vĩ
mô, theo mô hình sử dụng vốn hiệu quả: tiết
kiệm – đầu tư – sản xuất và tiêu dùng.
Trên địa bàn cả nước, với những nỗ lực
chung của toàn hệ thống ngân hàng, tốc độ tăng
trưởng nguồn vốn huy động luôn ở mức cao.
Trong giai đoạn 2000 – 2005, tổng số vốn huy
động được qua hệ thống ngân hàng chiếm 15%
GDP; snag giai đoạn 2005 – 2010 lên đến 22%
GDP.
b- Nguyên nhân tích cực:
Nguyên nhân này có thể mang tính khách quan
hay chủ quan nhưng nó đều tác động đến quá
trình hoạt động của TCTD.
- Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là do
chính sách ổn định vĩ mô mà chính phủ Việt
25