Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Hợp đồng bảo hiểm con người những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.52 KB, 61 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Từ thời kỳ sơ khai của xã hội lồi người với những cơng cụ bằng đồng, đá
cho đến những thành tựu khoa học kỹ thuật ngày nay là cả một q trình phấn
đấu, tìm tịi phát triển không ngừng của mỗi con người trong xã hội. Các Mác đã
nói “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó cịn con người thì tái sản xuất ra tồn
bộ giới tự nhiên”.1, tr.358 Quả thực như vậy, vì hoạt động con vật chỉ phục vụ
nhu cầu trực tiếp của nó, cịn hoạt động con người gắn liền với xã hội, phục vụ
cho xã hội. Nhưng cũng phải nhận thấy rằng để sản xuất ra toàn bộ giới tự
nhiên, con người phải lao động để duy trì cuộc sống, phát triển xã hội và vì vậy
con người chính là lực lượng sản xuất chủ yếu, khơng có con người thì khơng có xã hội
lồi người.
Thực tế, chúng ta đều có thể nhận thấy là khi lao động sản xuất con người
luôn luôn phải đối mặt với tai nạn, rủi ro, bệnh tật,… đe doạ đến cuộc sống, tính
mạng của con người. Để khắc phục được tình trạng đó, có rất nhiều biện pháp đề
phòng, hạn chế tai nạn rủi ro xảy ra, nhưng đó là chưa đủ bởi vị trí và tầm quan
trọng của con người nói riêng và xã hội lồi người nói chung thì cần có những
biện pháp khác nữa để khắc phục hậu quả đó. Vì vậy, bảo hiểm con người đã ra
đời. Bảo hiểm con người giúp mỗi người khi tham gia ổn định cuộc sống, khắc
phục khó khăn, tạo ra chỗ dựa tinh thần để họ an tâm học tập, lao động sản xuất.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2000-2010, Đảng và nhà nước ta đã
xác định “ tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị trường bảo hiểm trong nước
mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài”.2 Bảo hiểm nói chung, bảo hiểm con người nói riêng đang được sự
quan tâm của Đảng, nhà nước và của toàn xã hội.
Đối với nước ta hiện nay là một nước đang phát triển, vừa là thành viên
của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với việc các nước tăng cường
hợp tác thì việc phát triển kinh tế để hội nhập là tất yếu và vì vậy, vấn đề bảo
hiểm con người càng được quan tâm hơn bao giờ hết.
1



Chính vì những ngun nhân trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Hợp đồng bảo
hiểm con người những vấn đề lý luận và thực tiễn”, mục tiêu của đề tài nhằm
khai thác được những vấn đề mọi người quan tâm, để thấy được vai trò, tầm
quan trọng của bảo hiểm con người và đặc biệt là tăng thêm sự hiểu biết của bản
thân trong lĩnh vực này.
2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu hợp đồng bảo hiểm con người, trên cơ sở xem
xét các quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật dân sự, và các văn bản
có liên quan. Trên cơ sở đó thấy được ưu điểm, nhược điểm của các quy định để
đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm nói
chung và bảo hiểm con người nói riêng.
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để hoàn thành tốt đề tài, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngồi
ra tác giả cịn sử dụng phương pháp: phân tích, so sánh, tổng hợp,…
4. Tình hình thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài
Về vấn đề bảo hiểm con người đã có nhiều cơng trình đề cập đến như giáo
trình “Bảo hiểm” của trường Đại học Kinh Té Quốc Dân, cuốn “Bảo hiểm nhân
thọ những vấn đề lý luận và thực tiễn” của thạc sỹ Trần Vũ Hải. Bên cạnh đó
cịn có rất nhiều các bài viết về bảo hiểm con người trên các sách, báo, tạp chí…
Tuy nhiên những cơng trình nghiên cứu đó chỉ đề cập đến những vấn đề lý luận
của bảo hiểm con người hoặc đi sâu nghiên cứu bảo hiểm nhân thọ (lĩnh vực chủ
yếu của bảo hiểm con người). Qua đề tài này tác giả muốn trình bày và đi sâu
nghiên cứu bảo hiểm con người trên cả hai phương điện đó là lý luận và thực
tiễn.
5. Cơ cấu của khố luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khố luận
cịn có phần nội dung được cơ cấu thành ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hợp đồng bảo hiểm con người


2


Chương II: Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng
bảo hiểm con người
Chương III: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người.
Với ý nghĩa là một đề tài khoa học khoá luận đòi hỏi nhiều kiến thức và
kinh nghiệm thực tế. Là sinh viên lần đầu tiếp xúc với đề tài khoa học nên
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự thơng cảm và
những ý kiến đóng góp, chỉ bảo của thầy cơ giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!

3


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
BẢO HIỂM CON NGƯỜI
1. Một vài nét khái quát cơ bản về lĩnh vực bảo hiểm con người
1.1. Các nước trên thế giới
Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng, bảo hiểm con người ra đời do
nhu cầu khách quan của đời sống kinh tế xã hội địi hỏi. Đó là nhu cầu được bảo
vệ, được giúp đỡ, được chia sẻ hoạn nạn rủi ro khi tổn thất xảy ra. Trở lại với
thời lịch sử xa xưa khi loài người sống bằng nghề săn bắt, hái lượm; ngay lúc
đó, họ đã biết cách dự trữ những con vật săn bắt được. Đến một giai đoạn phát
triển khá hơn, con người biết chăn nuôi trồng trọt, nhưng sản xuất nông nghiệp
rất bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và lúc đó nhà nông họ đã biết dự trữ
lương thực khi mất mùa.

Quả thật, những hành động dự trữ những con vật rồi cả lương thực khi
mất mùa nó khơng mang tính đảm bảo chắc chắn cho cuộc sống nhưng nó phần
nào đã thể hiện được ý thức được bảo vệ của con người. Và đây cũng là hình
thức sơ khai của bảo hiểm.
Thuật ngữ “Bảo hiểm con người” trong hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) con
người được ghi nhận trong Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (KDBH) của Việt
Nam (với hình thức bảo hiểm nhân thọ là chủ yếu). Trên thế giới, mỗi nước có
thể có các cách gọi khác nhau cho lĩnh vực này và các nước thường đề cập đến
là bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy, đối với việc nghiên cứu hình thành và phát triển
của bảo hiểm con người trên thế giới, tác giả xin trình bày sự hình thành và phát
triển của bảo hiểm nhân thọ.
Nếu như trong thời kỳ sơ khai, vấn đề con người quan tâm là nhu cầu ăn,
ở, mặc thì ngày nay khi nhu cầu đó đã được đáp ứng đầy đủ thì những nhu cầu
khác xa hơn, cao hơn trong đó có nhu cầu chăm lo cho tương lai cũng đòi hỏi
phải đáp ứng. Bảo hiểm nhân thọ ra đời là đáp ứng nhu cầu đó. Chúng ta nghiên

4


cứu lịch sử hình thành và phát triển vảo hiểm nhân thọ ở Anh, Mỹ là hai nước có
ngành bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển nhất thế giới.
Ở Anh:
Sau cách mạng Ánh sáng 1688 Châu Âu chỉ có vương quốc Anh cơng
nhận tính pháp lý của bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy mà trong suốt ba thập kỷ sau
cách mạng Ánh sáng ở Anh dịch vụ này phát triển mạnh mẽ. Công ty bảo hiểm
nhân thọ ra đời đầu tiên ở Anh (1762). Trong suốt quá trình cơng nghiệp hố,
dịch vụ bảo hiểm nhân thọ có rất nhiều bước phát triển. Năm 1879 chính phủ
Anh thơng qua “đạo luật bồi thường cho người lao động”. Đạo luật này buộc các
cơng ty phải đóng bảo hiểm tai nạn lao động cho nhân viên. Trong thế kỷ 19
người ta đã lập ra rất nhiều hội đồn có trách nhiệm bảo hiểm nhân mạng và sức

khoẻ cho hội viên. Bên cạnh đó cũng có một số hội kín chỉ cung cấp dịch vụ bảo
hiểm lệ phí thấp cho những ai là hội viên của họ. Ngày nay các hội kín này vẫn
tiếp tục bảo hiểm cho hội viên, điều này cũng diễn ra tương tự ở hầu hết các tổ
chức của người lao động. Có nhiều chủ sử dụng lao động cịn lo ln một lúc
nhiều HĐBH nhân thọ và sức khoẻ cho nhân viên. Các hợp đồng này không chỉ
đơn thuần bảo hiểm nhân thọ mà còn đảm bảo cho nhân viên có cuộc sống ổn
định khi họ bị bệnh, tai nạn hay về hưu. Chính các hình thức này là tiền thân của
loại hình bảo hiểm con người ngày nay. Do có một chiều dài lịch sử phát triển
nên ngày nay Anh vẫn là một trong những thị trường bảo hiểm nhân thọ lớn nhất
thế giới với các công ty bảo hiểm nhân thọ xuyên quốc gia điển hình như
Prudential…
Ở Mỹ:
Bảo hiểm ở Hoa Kỳ được xây dựng trên mơ hình bảo hiểm Anh. Vào năm
1735 cơng ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ đã ra đời ở Chaleston. Năm 1759
hội nghị giáo hội trưởng lão PhiladenPhia đã quyết định bảo trợ cho tập đoàn
bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Hoa Kì. Ngày 22-5-1761, tập đồn này đã kí kết
được HĐBH nhân thọ đầu tiên với công chúng Mỹ. Mãi đến 80 năm sau dịch vụ
bảo hiểm nhân thọ Mỹ mới thực sự phát triển. Chìa khố dẫn đến thành cơng

5


chính là nhờ các cơng ty bảo hiểm đã hạn chế được những sự chống đối từ các
nhóm tơn giáo.
Năm 1835 ở New York đã xảy ra một vụ hoả hoạn đầy tai tiếng. Vụ hoả
hoạn này khiến người dân ở đây lưu tâm nhiều hơn đến nhu cầu phải có nguồn
dự trữ để bù đắp cho những thiệt hại nghiêm trọng không thể lường trước được.
Hai năm sau Massachusetts trở thành bang đầu tiên ở Mỹ sử dụng luật pháp
buộc các cơng ty phải tích luỹ nguồn dự trữ này.
Từ đó đến nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế ngành bảo

hiểm của nước này cũng phát triển mạnh theo hướng từ một vài công ty ban đầu
trở thành ngành cơng nghiệp có quy mơ lớn. Mặc dù bảo hiểm Hoa Kỳ chịu ảnh
hưởng sâu sắc bởi vương quốc Anh nhưng thị trường bảo hiểm nước này lại phát
triển theo hướng có phần khác với Anh. Và ngày nay lĩnh vực bảo hiểm ở Mỹ
phát triển nhất thế giới.
1.2. Ở Việt Nam
Luật KDBH 2000 ghi nhận thuật ngữ “bảo hiểm con người”, trước đó
trong các nghị định, thông tư ghi nhận thuật ngữ bảo hiểm nhân thọ mà không
hề nhắc đến khái niệm bảo hiểm con người. Vì vậy, chúng ta nghiên cứu sự phát
triển của bảo hiểm con người từ loại hình chủ yếu là bảo hiểm nhân thọ cho đến
Luật KDBH 2000 (với khái niệm bảo hiểm con người) và sự phát triển của bảo
hiểm con người từ năm 2000 đến nay.
Sự phát triển của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng gắn
với lịch sử đất nước. Nếu lấy năm 1993 với Nghị định 100 CP (18-12-1993) về
KDBH ra đời, thì trước năm 1993 bảo hiểm Việt Nam nói chung không phát
triển. Nguyên nhân là do đất nước trải qua chiến tranh kéo dài và bị chia cắt
thành hai miền khác nhau, mãi cho đến năm 1975 đất nước mới hồn tồn giải
phóng. Và từ năm 1975 đến năm 1993 là thời kì bảo hiểm độc quyền: chỉ có
cơng ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Đây cũng là thời kì thử nghiệm nên số
nghiệp vụ chưa nhiều, phí bảo hiểm chưa phản ánh đầy đủ xác suất rủi ro.
Có thể nói Nghị định 100 CP ngày 18-12-1993 là mốc đánh dấu sự thay
đổi và phát triển của bảo hiểm Việt Nam. Nghị định quy định về địa vị pháp lí
6


của các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), cho phép sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế vào hoạt động KDBH, trong đó chú trọng đến các nhà đầu tư nước
ngoài để thúc đẩy sự phát triển của bảo hiểm trong nước. Trong Nghị định đã đề
cập đến khái niệm: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn con người theo khoản 1
và khoản 2 Điều 7 và đây cũng là những đối tượng của bảo hiểm con người sau

này.
Sau khi Nghị định 100 CP ra đời, để cụ thể hoá sự điều chỉnh của pháp
luật đối với hoạt động bảo hiểm. Bộ tài chính đã ra thơng tư hướng dẫn:
Thơng tư 46 của Bộ tài chính ngày 30-5-1994 về hướng dẫn thi hành Nghị
định 100 CP của chính phủ về hoạt động bảo hiểm.
Sau Nghị định 100 CP phải kể đến Bộ luật dân sự 1995 có những điều
khoản cụ thể quy định về HĐBH (Nghị định 100 CP chưa đề cập đến). Các quy
định này tương đối có hệ thống, có sự liên kết với các quy định về giao dịch dân
sự. Mặc dù chưa mang tính cụ thể, chi tiết nhưng những quy định của Bộ luật
dân sự là tiền đề quan trọng cho việc áp dụng, thực hiện các quy định của
HĐBH con người sau này.
Nếu chỉ có các quy định của Bộ luật dân sự về HĐBH thì q chung
chung, khơng thể đáp ứng các nhu cầu của con người và các vụ tranh chấp sẽ
xảy ra do những quy định không rõ ràng của pháp luật. Từ thực tế đó, để đáp
ứng nhu cầu đảm bảo cho tương lai của con người, Luật KDBH 2000 ra đời với
mục đích “để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham
gia bảo hiểm; đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và
duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân,
tăng cường hiệu lực quản lí nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo
hiểm”.7 Nội dung chủ yếu và quan trọng của luật là quy định về HĐBH (từ
Điều 12 đến Điều 57), và cũng từ luật này đã ghi nhận HĐBH con người (từ
Điều 32 đến Điều 39). Với chưa đầy 10 điều nhưng luật đã có qui định về đối
tượng, số tiền, quyền và nghĩa vụ của các bên, các trường hợp không trả tiền bảo
hiểm trong HĐBH con người. Những điều khoản này là căn cứ để ký kết và thực
hiện HĐBH con người.
7


Khi có những cơ sở pháp lý để cho việc thực hiện HĐBH con người thì
cũng cần phải có đường lối chiến lược đúng đắn, để đáp ứng được yêu cầu đó

Thủ tướng Chính Phủ đã ra quyết định Quyết định 175 / 2003 về phê duyệt “
Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm
đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư, bảo đảm cho các tổ
chức, cá nhân được thụ hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế,
thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế xã
hội, nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế”.9 Giải
pháp được đề cập đến đó là: “Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân
tham gia bảo hiểm nhân thọ, ưu tiên phát triển các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
có tính chất đầu tư dài hạn”. Bảo hiểm con người với sản phẩm bảo hiểm nhân
thọ là chủ yếu đã, đang và sẽ được được chú trọng, quan tâm của Đảng và Nhà
nước.
Sau khi luật KDBH ra đời chính phủ ban hành Nghị định 42/2001 NĐCP
ngày 1/8/2001nhằm quy định chi tiết thi hành Luật KDBH để các quy định này
đi vào cuộc sống.
Bộ luật dân sự 2005 ghi nhận quy định HĐBH, trong đó có hai hình thức
bảo hiểm là bắt buộc và tự nguyện. Tính mạng và sức khoẻ con người là đối
tượng của bảo hiểm tự nguyện. Bộ luật cũng quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ
của các bên và quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng của bên bảo hiểm nếu bên
mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin không đúng về đối tượng bảo hiểm nhằm
giao kết hợp đồng để hưởng tiền bảo hiểm (Điều 577 Bộ luật dân sự)
Tóm lại từ năm 1993 đến nay pháp luật về hợp đồng nói chung và HĐBH
con người nói riêng ln có sự phát triển để phù hợp hơn với nhu cầu thực tế
của con người, đó cũng là quy luật tất yếu của sự phát triển. Pháp luật hoàn thiện
là cơ sở để hạn chế tranh chấp xảy ra và hợp đồng thực hiện trong thực tế được
thuận lợi.
Từ các quy định của luật thấy rằng HĐBH con người nói chung và HĐBH
nhân thọ nói riêng khơng phải là một hợp đồng bồi thường. Mục đích của nó là
8



cung cấp một khoản tiền cụ thể khi xảy ra những sự kiện được nêu trong HĐBH.
Xét về khía cạnh vật chất cuộc sống con người là vô giá và rõ ràng là không
phải bất kỳ một tổ chức nào cũng có thể cung cấp cho một người một “giá trị”
tương đương với việc mất đi một sinh mạng.
2. Những quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người
2.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm con người
* Khái niệm
Trước tiên để đi đến tìm hiểu khái niệm HĐBH con người chúng ta phải
tìm hiểu thế nào là HĐBH. Theo Điều 567 Bộ luật dân sự 2005: “HĐBH là sự
thoả thuận giữa các bên theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, cịn
bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền cho bên bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm”. Từ khái niệm trên cho thấy HĐBH là sự thoả thuận giữa hai bên chủ thể
đó là bên mua bảo hiểm (người tham gia bảo hiểm) và bên bảo hiểm (DNBH)
với điều kiện là bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm để khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền cho bên mua bảo hiểm.
Khác với Bộ luật dân sự 2005 Luật KDBH 2000 có mở rộng phạm vi chủ
thể trong HĐBH con người. Theo Điều 12 Luật KDBH thì “HĐBH là sự thoả
thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm theo đó bên mua bảo
hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm”.
Rõ ràng Luật KDBH không chỉ quy định chung chung là DNBH phải trả
một khoản tiền cho bên mua bảo hiểm như Bộ luật dân sự mà chỉ rõ DNBH phải
trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi nghiên cứu
các quy định của HĐBH con người trong các phân tích tiếp theo.
Khác với Việt Nam, Thái Lan là một nước có nền kinh tế phát triển khá
trong khu vực nên lĩnh vực bảo hiểm cũng được chú trọng từ sớm. Các quy định
của pháp luật về bảo hiểm được quy định chủ yếu trong Bộ luật dân sự và

thương mại Thái Lan. Ngay từ năm 1992 Thái Lan có đạo luật bảo hiểm nhân
9


thọ nhằm điều chỉnh hoạt động của công ty bảo hiểm nhân thọ. Do vậy nếu so
sánh chúng ta sẽ thấy được điểm khác biệt trong các quy định về luật bảo hiểm
giữa hai nước.
Điều 861 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan có khái niệm: “ HĐBH
là hợp đồng trong đó một người đồng ý bồi thường hoặc trả một số tiền trong
trường hợp mất hàng hoặc xảy ra bất cứ sự cố nào trong tương lai quy định trong
HĐBH và người kia đồng ý trả cho việc đó một số tiền gọi là phí bảo hiểm”.
Theo khái niệm trên thì ở Thái Lan việc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra bất cứ sự cố
nào trong tương lai quy định trong HĐBH (Việt Nam là khi có sự kiện bảo hiểm
do các bên thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật), nên phạm vi trả tiền
bảo hiểm của Thái Lan mở rộng hơn.
Đó là HĐBH còn HĐBH con người cũng là HĐBH nhưng đối tượng của
nó chỉ liên quan đến tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn con người; vì thế theo
tác giả:
“HĐBH con người là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và DNBH để
bảo hiểm cho tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn của người tham gia bảo
hiểm hoặc người được chỉ định trong hợp đồng; theo đó bên mua bảo hiểm phải
đóng phí bảo hiểm và DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc
bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
2.2. Đặc điểm hợp đồng bảo hiểm con người
2.2.1. Hợp đồng bảo hiểm con người là hợp đồng thanh toán có định mức
Đối tượng của bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai
nạn con người. Đó là những thứ vơ giá khơng thể tính tốn được, khơng thể xác
định được chính xác và trên thực tế khơng bù đắp nổi. Khơng ai có thể xác định
được tính mạng con người trị giá là bao nhiêu. Vì thế trong HĐBH con người
không tồn tại điều khoản giá trị bảo hiểm. Nghĩa vụ của DNBH ở đây là trả tiền

bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng và không phải là trách nhiệm bồi
thường tổn thất mà là giúp đỡ về mặt vật chất cho người được bảo hiểm. Và
cũng chính từ đối tượng HĐBH con người khơng thể tính tốn được thành tiền
nên số tiền DNBH trả cho khách hàng chỉ có thể là một số tiền được ấn định sẵn
10


ngay từ khi ký kết hợp đồng. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm bên bảo hiểm sẽ thanh
toán cho bên tham gia bảo hiểm và thường không bị giới hạn bởi nguyên tắc giá
trị thiệt hại giống như HĐBH tài sản và HĐBH trách nhiệm dân sự.
Chính từ đặc điểm này mà người tham gia HĐBH con người khi ký hợp
đồng cần cân nhắc dựa trên mức thu nhập, khả năng tài chính để quyết định số
tiền tham gia phù hợp.
2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm con nguời không áp dụng nguyên tắc bảo hiểm
trùng và nguyên tắc thế quyền
Điều 44 Luật KDBH có nêu “bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo
hiểm giao kết HĐBH với hai DNBH trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối
tượng với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm”
Khoản 2 Điều 44 có quy định: tổng số tiền bồi thường của các DNBH
không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản. Vì thế mà HĐBH con người
khơng áp dụng nguyên tắc này. Và một thực tế là đối tượng HĐBH con người
khơng thể tính tốn được thành tiền nên nếu một người tham gia đồng thời nhiều
HĐBH với nhiều DNBH khác nhau thì họ có quyền nhận đầy đủ các khoản tiền
từ các DNBH đó theo thoả thuận trong hợp đồng, chứ không bị giới hạn về giá
trị thiệt hại giống như bảo hiểm tài sản.
Trong HĐBH con người cũng khơng áp dụng ngun tắc thế quyền. Điều
đó có nghĩa là người bảo hiểm sau khi đã thanh tốn, chi trả số tiền bảo hiểm,
khơng được phép thế quyền người tham gia bảo hiểm hay người thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm để khiếu nại người thứ ba truy địi số tiền bảo hiểm tương
ứng. Hay nói cách khác, một người có thể đồng thời nhận nhận được khoản chi

trả thanh tốn của cơng ty bảo hiểm và khoản bồi thường của người thứ ba gây
thiệt hại. Đặc điểm này mang lại lợi ích cho khách hàng khi tham gia HĐBH con
người
2.2.3. Hợp đồng bảo hiểm con người đáp ứng rất nhiều mục đích khác
nhau của người tham gia bảo hiểm
Trước hết đặc điểm này thể hiện ngay trong các loại HĐBH, bởi mỗi đối
tượng của bảo hiểm con người: tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn đều có thể
11


làm nên một hợp đồng riêng và trong mỗi loại hợp đồng có nhiều sản phẩm khác
nhau ví dụ trong HĐBH nhân thọ thì có bảo hiểm sinh kỳ, tử kỳ,..
Khơng giống như bảo hiểm tài sản chỉ góp phần khắc phục hậu quả khi
đối tượng tham gia bảo hiểm gặp sự cố, bảo hiểm con người đáp ứng được rất
nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm như HĐBH hưu trí sẽ
đáp ứng yêu cầu tham gia những khoản trợ cấp đều đặn hàng tháng. Bảo Việt tập đồn tài chính bảo hiểm nhân thọ lớn nhất Việt Nam đã ghi nhận mục đích
của các sản phẩm bảo hiểm hưu trí là “mang đến sức khoẻ và an nhàn cho tuổi
già, đảm bảo khoản lương hưu ổn định cho tất cả mọi người, cả nguời đã có và
chưa có bảo hiểm xã hội. Thể hiện lịng hiếu thảo đối với những người thân yêu
hoặc quan tâm đến chính bản thân”.23 Cịn bảo hiểm tử kỳ sẽ giúp người tham
gia bảo hiểm để lại cho gia đình một số tiền khi họ bị tử vong. HĐBH tai nạn
con người giúp người tham gia khắc phục khó khăn khi gặp tai nạn. Chính vì
đặc điểm này của HĐBH con người làm cho hợp đồng này chiếm khối lượng
lớn trên thị trường bảo hiểm, thu hút nhiều người tham gia.
2.2.4. Các loại hợp đồng trong bảo hiểm con người rất đa dạng, phức tạp
Thứ nhất: Trong HĐBH con người có các sản phẩm bảo hiểm khác nhau
rồi mỗi một hợp đồng có sự khác nhau của thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm
rồi độ tuổi của người tham gia
Thứ hai: Chủ thể trong HĐBH con người có thể có bốn bên tham gia:
Người bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ

hưởng quyền lợi bảo hiểm. Đặc điểm này chỉ có duy nhất trong HĐBH con
người và vì thế làm cho hợp đồng này phức tạp hơn.
2.2.5. Hợp đồng bảo hiểm con người chịu ảnh hưởng của những điều kiện
kinh tế xã hội nhất định
Thật vậy khi điều kiện kinh tế phát triển, áp lực cuộc sống giảm đi, họ
không phải lo cho cuộc sống hàng ngày thì lúc đó họ mới có thể nghĩ đến bảo
hiểm. Ở các nước kinh tế phát triển (bảo hiểm nhân thọ loại hình chủ yếu của
bảo hiểm con người đã ra đời và phát triển rất lâu) cịn những nước kém phát
triển hoặc đang phát triển thì hình thức bảo hiểm này hoặc là chưa có hoặc là
12


mới bước đầu triển khai. Ngoài ra bảo hiểm con người còn phụ thuộc vào rất
nhiều các yếu tố khác như đường lối chính sách, trình độ học vấn của người
dân…
2.3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm con người
* Theo thời hạn bảo hiểm
HĐBH con người được chia ra làm hai loại:
+ HĐBH con người ngắn hạn: Là loại hợp đồng mà trong đó người tham
gia bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm trong một thời hạn ngắn thường là một
năm trở xuống. Người bảo hiểm cam kết thanh tốn trợ cấp khi có các rủi ro bảo
hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm.
+ HĐBH con người dài hạn: Là loại hợp đồng mà trong đó người tham
gia bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm trong một thời hạn dài thường là trên một
năm cho đến hết đời.
* Theo hình thức bảo hiểm
HĐBH con người cũng được chia ra làm hai loại:
+ HĐBH con người bắt buộc: Là hợp đồng mà theo pháp luật bắt buộc
các đối tượng phải tham gia ví dụ như bảo hiểm tai nạn hành khách.
+ HĐBH con người tự nguyện: Là hợp đồng mà theo đó người được bảo

hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm có thể đưa ra rất nhiều nhu cầu bảo hiểm,
cịn người bảo hiểm có thể chấp nhận hay không chấp nhận là tuỳ theo sự thoả
thuận và cam kết. Tính tự nguyện khiến người bảo hiểm phải phục vụ tốt hơn,
cung cấp các dịch vụ tốt hơn đến khách hàng.
* Theo rủi ro bảo hiểm
HĐBH con người có các loại sau:
+ HĐBH nhân thọ: Là hợp đồng bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro liên
quan đến tuổi thọ của con người và được chia ra làm các loại sau:
. HĐBH tử kỳ: Là loại hợp đồng mà theo đó nếu người được bảo hiểm
chết trong thời hạn thoả thuận thì doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền
bảo hiểm cho người thụ hưởng.

13


. HĐBH sinh kỳ: Là loại hợp đồng mà theo đó nếu người được bảo hiểm
sống đến hết thời hạn thoả thuận, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền
bảo hiểm cho người thụ hưởng.
. HĐBH hỗn hợp: Là loại HĐBH kết hợp cả hai loại nghiệp vụ bảo hiểm
đó là: bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ.
+ HĐBH phi nhân thọ: Là loại hợp đồng chỉ liên quan đến các rủi ro như
bệnh tật, tai nạn, mất khả năng lao động và cả tử vong. Đặc điểm này không liên
quan đến tuổi thọ của con người.
2.4. Ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm con người
Để tồn tại và phát triển thì HĐBH con người phải đáp ứng được các mục
đích của người tham gia trong hiện tại cũng như nhu cầu đảm bảo cho tương lai
sau này. Thực tế khi ký kết HĐBH con người có vai trị khơng chỉ đối với người
tham gia bảo hiểm, DNBH mà còn đối với cả sự phát triển kinh tế của đất nước.
2.4.1. Đối với người tham gia bảo hiểm
HĐBH con người góp phần ổn định đời sống, là chỗ dựa tinh thần cho

người tham gia cũng như người được hưởng bảo hiểm. Như trên chúng ta đã biết
con người phải lao động để duy trì cuộc sống và chính trong q trình lao động
con người ln phải đối mặt với rủi ro. Nếu không may xảy ra rủi ro thì gia đình
khơng những mất thu nhập mà cịn phải bỏ ra rất nhiều chi phí để trang trải khó
khăn. Việc tham gia HĐBH con người sẽ phần nào giải quyết những khó khăn
trước mắt đó.
Trên báo Tiền Phong với nhan đề “Bảo hiểm nhân thọ, sự an tâm là vơ
giá” khách hàng đã cho biết “nếu có điều kiện chúng ta nên tham gia bảo hiểm
nhân thọ bởi lẽ nhu cầu bảo vệ tài chính cho gia đình là rất cần thiết. Tất nhiên
chẳng ai mong đợi những điều không may xảy ra, nhưng bảo hiểm sẽ mang đến
sự an tâm cho gia đình trước những bất chắc và giảm gánh lo về tài chính những
lúc ngặt nghèo. Đối với tôi, sự an tâm là vô giá".15 Sự an tâm giúp con người
vượt qua khó khăn, tiếp tục cuộc sống đảm bảo tương lai sau này.
Tất nhiên trong hiện tại có rất nhiều hình thức khác nhau có thể đảm bảo
cho cuộc sống hiện tại cũng như tương lai nhưng bảo hiểm con người ln góp
14


phần không nhỏ vào sự đảm bảo ấy (tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm
chuyển những rủi ro của mình mình cho DNBH).
2.4.2. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm
Mỗi doanh nghiệp có những ngành nghề kinh doanh nhất định, có những
ngành gây nguy hiểm cao cho cuộc sống con người, có những ngành gây nguy
hiểm chỉ ở một chừng mực nào đó. Cho dù ở mức độ nào đi nữa thì rủi ro, tai
nạn lao động ln ln là nguy cơ tiềm ẩn và nó ảnh hưởng khơng những đến
sản xuất kinh doanh do thiếu lao động mà quan trọng hơn là ảnh hưởng đến khả
năng tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy tham gia HĐBH con người góp phần
ổn định tài chính và sản xuất cho doanh nghiệp.
Hơn thế nữa các chủ sử dụng lao động thường mua bảo hiểm sinh mạng
cho người làm công, việc này không những đảm bảo cuộc sống ổn định cho

người lao động mà cịn tạo nên sự gắn bó giữa chủ sử dụng và người làm công
ăn lương (đây là điều kiện thúc đẩy sản xuất).
Đó là đối với doanh nghiệp nói chung cịn đối với DNBH nói riêng việc
tham gia HĐBH con người của khách hàng sẽ góp phần tăng doanh thu, mở
rộng quy mô hoạt động để cung cấp thêm nhiều sản phẩm cho con người. Đây là
yếu tố quyết định sự tồn tại của một doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị
trường cạnh tranh như ngày nay.
2.4.3. Đối với sự phát triển kinh tế
Thông qua HĐBH con người (có đối tượng tham gia đơng đảo) các nhà
bảo hiểm thu phí bảo hiểm để hình thành nên quỹ bảo hiểm. Quỹ này chủ yếu
được sử dụng vào mục đích bồi thường, khi nhàn rỗi nó sẽ là nguồn vốn đầu tư
hữu ích góp phần phát triển kinh tế.
Một đặc điểm nữa của hợp đồng bảo hiểm con người thường là hợp đồng
dài hạn nên số vốn của các công ty bảo hiểm thường rất lớn. “Tính đến năm
2002 tồn ngành bảo hiểm Việt Nam đã đầu tư 8000 tỷ đồng vào sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân”.12, tr.10 Bên cạnh đó nếu chúng ta nhìn nhận từ
khía cạnh con người thì chúng ta khơng thể phủ nhận rằng con người là nhân tố

15


phát triển kinh tế. Việc tham gia hợp đồng bảo hiểm con người giúp cho mỗi
người an tâm sản xuất phục vụ cho sự phát triển kinh tế.
Cuối cùng HĐBH con người là công cụ hữu hiệu để huy động những
nguồn tièn mặt nhàn rỗi ở các tầng lớp nhân dân để thực hiện tiết kiệm góp phần
chống lạm phát.
2.4.4. Hợp đồng bảo hiểm con người tạo cơ hội việc làm cho người lao
động
Các DNBH ra đời cung cấp các sản phẩm đến người dân đồng thời tuyển
dụng người lao động vào làm việc. Thực tế hiện nay các DNBH trong nền kinh

tế thị trường đang sử dụng số lượng lớn các đại lý tiếp thị bán sản phẩm. Theo
số liệu thống kê thì ở Mỹ có gần 2 triệu người lao động làm việc trong ngành
bảo hiểm. Hồng Kông 20.000 người làm việc ở các công ty bảo hiểm (dân số là
6 triệu người). Còn ở Việt Nam năm 2002 bảo hiểm thu hút 90.000 lao động làm
việc trong đó bảo hiểm nhân thọ là 74.494 người
Khi người dân có cơng ăn việc làm sẽ hạn chế được các tệ nạn xã hội
đồng thời giải quyết được các vấn đề mà cả xã hội quan tâm.
2.5. Các yếu tố của hợp đồng bảo hiểm con người
2.5.1. Chủ thể
Từ khái niệm hợp đồng dân sự nói chung và HĐBH nói riêng thì hợp
đồng là sự thoả thuận giữa các bên chủ thể. Một hợp đồng nói chung thường có
hai bên chủ thể nhưng do đặc điểm của đối tượng mà HĐBH con người bao gồm
các chủ thể sau:
Doanh nghiệp bảo hiểm
Khoản 5 Điều 3 Luật KDBH có khái niệm: “ DNBH là doanh nghiệp
được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của luật này và các quy định
của pháp luật có liên quan để KDBH và tái bảo hiểm”
Cịn theo “Giáo trình đào tạo đại lý bảo hiểm phi nhân thọ” của Hiệp hội
bảo hiểm Việt Nam có định nghĩa: “Người bảo hiểm là các doanh nghiệp bảo
hiểm nhận bảo hiểm, thu phí bảo hiểm và có trách nhiệm thực hiện đúng các
cam kết, lời hứa với người tham gia bảo hiểm”
16


Cả hai khái niệm trên đều nhấn mạnh đến khía cạnh thành lập và hoạt
động của DNBH. Khác với Việt Nam, Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan
Điều 862 có định nghĩa “người bảo hiểm nghĩa là bên mà đồng ý bảo hiểm hoặc
trả một số tiền”. Định nghĩa này chú trọng đến hoạt động mà DNBH thực hiện.
Nếu so sánh giữa hai nước thì quy định của Thái Lan đơn giản hơn và ít đề cập
đến khía cạnh pháp lý cho việc thành lập của DNBH.

Bên mua bảo hiểm
Theo khoản 6 Điều 3 Luật KDBH thì “bên mua bảo hiểm là các tổ chức,
cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo
hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người đượcbảo hiểm hoặc người
thụ hưởng”.
Theo “Giáo trình đào tạo đại lý bảo hiểm phi nhân thọ” của Hiệp hội bảo
hiểm Việt Nam có định nghĩa: “doanh nghiệp người tham gia bảo hiểm là các tổ
chức cá nhân chuyển giao rủi ro cho các doanh nghiệp bảo hiểm, đóng phí bảo
hiểm”. Vì vậy bên mua bảo hiểm có thể là tổ chức, cá nhân yêu cầu bảo hiểm và
đóng phí bảo hiểm để đảm bảo cho cuộc sống hiện tại cũng như tương lai sau
này (đó là sự đảm bảo cả về vật chất lẫn tinh thần).
Người được bảo hiểm
Theo khoản 7 Điều 3 Luật KDBH “người được bảo hiểm là các tổ chức,
cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng
bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng thời là người thụ hưởng”
Với khái niệm trên thì người được bảo hiểm trong HĐBH con người là
chủ thể có tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng. Khái niệm này chưa thể
hiện hết được các đối tượng của HĐBH con người vì ngồi tính mạng cịn có
sức khoẻ, tuổi thọ, tai nạn con người cũng là đối tượng của HĐBH con người.
Người được bảo hiểm có thể là những người đã trưởng thành có đủ năng
lực chủ thể để tự ký hợp đồng cho mình và cũng có thể là những người chưa đủ
tuổi thành niên phải do người khác (có thể là cha mẹ hoặc người giám hộ) đứng
ra ký HĐBH.

17


Người thụ hưởng
Theo khoản 8 Điều 3: “Người thụ hưởng là các tổ chức, cá nhân được bên
mua bảo hiểm chỉ định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con

người”. Khái niệm này đã khẳng định rõ chủ thể là người thụ hưởng chỉ có trong
HĐBH con người, còn HĐBH tài sản hay HĐBH trách nhiệm dân sự khơng có
chủ thể này. Để có thể là người thụ hưởng thì điều kiện bắt buộc là phải được
bên mua bảo hiểm chỉ định (thể hiện ý chí chủ quan của bên mua bảo hiểm).
2.5.2. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người
Theo khoản 1 Điều 31 Luật KDBH có nêu “đối tượng của HĐBH con
người là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn con người”.
Tuổi thọ
Trong HĐBH con người có đối tượng là tuổi thọ tức là người bảo hiểm sẽ
trả cho người được bảo hiểm (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số
tiền nhất định khi có những sự kiện bảo hiểm xảy ra (nếu người được bảo hiểm
sống hoặc chết tại một thời điểm nhất định) và nó liên quan đến tuổi thọ của con
người.
Tai nạn
Đó là việc bảo hiểm cho các trường hợp tai nạn xảy ra gây thiêt hại về
thân thể con người. Nhưng không phải mọi trường hợp tai nạn xảy ra gây thiệt
hại về thân thể đều được coi là đối tượng của HĐBH con người mà điều kiện là
những thiệt hại đó bắt nguồn duy nhất và trực tiếp từ một tai nạn do vật thể hữu
hình tác động từ bên ngoài gây ra và là nguyên nhân trực tiếp, độc lập với các
nguyên nhân khác dẫn đến tử vong hoặc thương tật.
Với đối tượng này hiện nay có các loại hình HĐBH con người phổ biến
như là

bảo hiểm tai nạn con người 24/24h và bảo hiểm tai nạn hành khách.
Sức khoẻ
HĐBH con người trong trường hợp này sẽ bảo hiểm khi người tham gia

(hay người được bảo hiểm) phải nghỉ việc do ốm đau, tai nạn mất khả năng lao
động (vì lý do ốm đau hoặc tai nạn hồn tồn khơng thể theo đuổi nghề nghiệp
ghi trong đơn bảo hiểm và không thể theo đuổi bất kỳ một nghề nào khác). Hiện

18


nay các công ty bảo hiểm thường triển khai các sản phẩm bảo hiểm hỗ trợ “bảo
hiểm chi phí phẫu thuật” bên cạnh sản phẩm chính ( ví dụ như Bảo Việt quy
định khách hàng khi tham gia bảo hiểm An Khang Thịnh Vượng thì được mua
thêm sản phẩm bảo hiểm hỗ trợ trên). Mục đích là nhằm bảo vệ sức khoẻ cho
con người.
Tính mạng
Việc bảo hiểm liên quan đến sự sống của con người. Nếu không thuộc các
trường hợp sau thì mọi trường hợp khi tử vong đều được nhận tiền bảo hiểm.
Theo khoản 1 Điều 39 Luật KDBH: DNBH không phải trả tiền bảo hiểm trong
các trường hợp sau đây:
a)

Người được bảo hiểm chết do tự tử trong thời hạn hai năm, kể từ

ngày nộp khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc từ ngày hợp đồng có hiệu lực;
b)

Người được bảo hiểm chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do

lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng;
c)

Người được bảo hiểm chết do bị thi hành án tử hình.

Trong các hợp đồng có đối tượng là tuổi thọ, sức khoẻ.. con người đều đề
cập đến trường hợp nếu xảy ra trường hợp tử vong thì giải quyết quyền lợi như
thế nào. Có quy định như vậy là do tính mạng con người là vơ giá khơng gì có

thể bù đắp thay thế được.
2.5.3. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm con người
Bao gồm các điều khoản mà thông qua đó các bên chủ thể thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình. Do HĐBH con người cũng là HĐBH nên theo
Điều 13 Luật KDBH nội dung của nó bao gồm các điều khoản chủ yếu sau:
Tên, địa chỉ của DNBH, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc
người thụ hưởng
Việc quy định này là rất cần thiết và đối với mỗi chủ thể nó có ý nghĩa
khác nhau. Đối với doanh nghiệp (tên, địa chỉ) thể hiện tư cách pháp lý của
doanh nghiệp đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ cho hoạt động KDBH. Đối
với các chủ thể khác là điều kiện tiền đề để hợp đồng được thực hiện, đảm bảo
quyền lợi của hai bên.
19


Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người
Đây là yếu tố khơng thể thiếu của HĐBH nói chung và HĐBH con người
nói riêng. Như trên chúng ta đã biết đối tượng của HĐBH con người là tuổi thọ,
tính mạng, sức khoẻ, tai nạn con người; người tham gia bảo hiểm có thể lựa
chọn các đối tượng cho phù hợp với điều kiện và khả năng của mình để đạt được
mục đích đảm bảo cho cuộc sống, là chỗ dựa tinh thần nếu không may rủi ro xảy
ra.
Số tiền bảo hiểm
Theo khái niệm mà Prudential (tập đoàn bảo hiểm nhân thọ của Anh ) đưa
ra thì: “số tiền bảo hiểm là mệnh giá HĐBH được bên mua bảo hiểm và DNBH
thoả thuận trong hợp đồng và khi xảy ra sự kiện bảo hiểm thì DNBH phải trả
tiền bảo hiểm”.24
Như trên chúng ta đã nghiên cứu đối tượng của HĐBH con người khơng
thể tính tốn được thành tiền nên số tiền bảo hiểm trong hợp đồng này do các
bên tự thoả thuận, không phụ thuộc vào đối tượng bảo hiểm. Hơn thế nữa tập

điều khoản của HĐBH con người là các tập điều khoản mẫu do một bên
(DNBH) đưa ra nên số tiền sẽ do bên tham gia bảo hiểm lựa chọn theo các mức
có sẵn. Theo đó dù thiệt hại xảy ra trong thực tế có lớn hơn nhiều lần so với số
tiền bảo hiểm thì bên bảo hiểm vẫn chỉ phải bảo hiểm tối đa bằng số tiền bảo
hiểm được xác định theo thoả thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của
pháp luật.
Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm xác định nghĩa vụ mà DNBH phải trả tiền bảo hiểm
đồng thời quy định quyền được hưởng quyền lợi bảo hiểm của người tham gia
bảo hiểm. Ví dụ việc quy định phạm vi rủi ro.
Điều kiện bảo hiểm: là điều kiện được xác định rõ trong HĐBH hoặc
được pháp luật quy định trước, theo đó bên mua bảo hiểm chỉ được mua bảo
hiểm cho các đối tượng bảo hiểm khi đã đáp ứng được các điều kiện đó. Trong
HĐBH con người có quy định:

20



×