Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Hợp đồng bảo hiểm con người những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.35 KB, 61 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình xã hội hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang
trong quá trình chuyển đổi và phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội. Việt
Nam là một trong những quốc gia ln coi trọng vấn đề bình đẳng giới và coi đó
chính là mục tiêu mang tính chiến lược nhằm đảm bảo quyền con người nói
chung và quyền bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình nói riêng. Đặc biệt
là sự bình đẳng giữa vợ và chồng. Chính vì vậy, trong các văn kiện của Đảng và
trong các văn bản pháp luật của Nhà nước, quyền bình đẳng giữa nam và nữ,
giữa vợ và chồng luôn được quan tâm sâu sắc. Trong lĩnh vực hôn nhân và gia
đình (sau đây viết tắt là HN&GĐ), nhìn chung, quyền bình đẳng giữa vợ chồng,
đặc biệt là quyền bình đẳng trong việc chia tài sản giữa vợ chồng đã được đề cập
khá cụ thể và chi tiết trong các quy định của pháp luật và ngày càng có xu
hướng hồn thiện hơn. Điều đó cho thấy sự quan tâm của Đảng, của Nhà nước
và của toàn xã hội đến vấn đề này đồng thời góp phần vào mục tiêu chung là
bình đẳng giới của tồn thế giới. Song các quy định đó vẫn cịn nhiều bất cập,
chưa hồn thiện trong từng trường hợp cụ thể khi chia tài sản của vợ chồng dẫn
đến việc chia tài sản còn nhiều sai sót và chưa đảm bảo quyền bình đẳng cho các
bên.
Hơn thế nữa, trong điều kiện kinh tế đang phát triển theo hướng thị trường
hóa hiện nay, khi khối lượng tài sản của công dân tăng lên, nhu cầu riêng cũng
nhiều hơn, ý thức, tâm lý tài sản riêng để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống, nghề
nghiệp, sinh hoạt cá nhân được chủ động hình thành và phù hợp với tâm lý dân
tộc, mong muốn tạo lập cho mình một khoản tài sản độc lập không bị phụ thuộc
bất cứ ai kể cả giữa vợ và chồng cùng với tình trạng ly hơn ngày một gia tăng thì
việc chia tài sản giữa vợ chồng là một yêu cầu hợp lý. Và vấn đề phải đảm bảo
quyền bình đẳng giữa vợ chồng là một nhiệm vụ cần thực hiện.
Trước tình hình thực tế về chia tài sản giữa vợ chồng trong những năm
qua mặc dù đã đạt được những kết quả tốt đẹp, đáp ứng được nhu cầu, nguyện


1


Website: Email : Tel : 0918.775.368

vọng và đảm bảo quyền lợi cho cả đơi bên thì cịn có khơng ít những trường hợp
xảy ra mâu thuẫn, bất đồng giữa vợ chồng sau khi chia tài sản. Một điều dễ thấy
trong các vụ án về chia tài sản giữa vợ chồng, người vợ thường là người phải
chịu thiệt thòi hơn. Đó là do phong tục tập quán và tư tưởng lạc hậu luôn bảo vệ
quyền lợi của người chồng vốn dĩ đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi tầng lớp
trong xã hội. Người phụ nữ cịn có thái độ tự ti an phận khơng muốn tự địi
quyền lợi cho mình. Bên cạnh đó là cơng tác tun truyền pháp luật vẫn chưa
sâu rộng dẫn đến sự hiểu biết về pháp luật cịn q ít. Chính vì thế vẫn tồn tại sự
bất bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản.
Tuân thủ và thực hiện nguyên tắc quyền bình đẳng trong việc chia tài sản
giữa vợ chồng là yêu cầu bắt buộc với tất cả các cơ quan, tổ chức và mọi cá
nhân trong xã hội. Làm được điều đó sẽ góp phần xóa bỏ chế độ HN&GĐ phong
kiến lạc hậu đồng thời củng cố và xây dựng chế độ HN&GĐ Xã Hội chủ nghĩa
đặc biệt là bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người phụ nữ, giải phóng họ khỏi
thân phận lệ thuộc và bất bình đẳng trong gia đình cũng như trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Nghiên cứu về quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản là
việc làm thiết thực và có nhiều ý nghĩa. Xuất phát từ lý do đó tơi chọn đề tài
“Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo pháp luật Hôn
nhân gia đình hiện hành” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực HN&GĐ đã
có nhiều bài viết về tài sản vợ chồng trên Tạp chí Luật học, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, Tạp chí Tịa án nhân dân… đề cập đến những khía cạnh khác nhau
của tài sản vợ chồng: Ví như “Quyền sở hữu của vợ chồng theo luật Hơn nhân

và gia đình 2000” (Nguyễn Văn Cừ, Tạp chí Luật học số 4/2000. Tr. 3); “Hậu
quả pháp lý của việc chia tài sản vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” (Nguyễn
Phương Lan, Tạp chí Luật học số 6/2002)… Ngồi ra cũng đã có những khóa
luận tốt nghiệp cử nhân và luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu về vấn đề tài sản
vợ chồng như luận văn tốt nghiệp cao học luật khóa I của Th¹c sü Hồng Ngọc
2


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Huyên với nội dung “Chế độ tài sản vợ chồng theo luật Hôn nhân và gia đình”
và gần đây nhất là cơng trình khoa học “Chế độ tài sản vợ chồng theo luật Hơn
nhân và gia đình Việt Nam” được thầy giáo Nguyễn Văn Cừ bảo vệ thành công
luận án tiến sĩ vào đầu năm 2005. Đây thực sự là những cơng trình có giá trị về
khoa học và thực tiễn, nhưng những cơng trình này chủ yếu tập trung đi vào
phân tích những khía cạnh chế độ tài sản của vợ chồng theo luật HN&GĐ hiện
hành chứ chưa nghiên cứu dưới góc độ bình đẳng giới. Chính vì vậy vấn đề
“Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo pháp luật Hơn
nhân và gia đình hiện hành” mặc dù đã được nghiên cứu và trình bày trong giáo
trình Luật HN&GĐ Việt Nam của Trường Đại Học Luật Hà Nội và trong các
giáo trình giảng dạy luật học tại các cơ sở đào tạo luật học ở nước ta, nhưng việc
trình bày đó chỉ dừng lại ở một số vấn đề mang tính ngun tắc mà khơng đi sâu
vào giải quyết toàn diện vấn đề liên quan, đặc biệt là dưới khía cạnh bình đẳng
giới.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ quyền bình đẳng giữa vợ chồng
trong các trường hợp chia tài sản của vợ chồng theo pháp luật HN&GĐ Việt
Nam và đưa ra những kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm
đảm bảo cho quyền bình đẳng đó được triệt để tn thủ trong thực tế.
Phạm vi nghiên cứu đề tài: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề

chia tài sản của vợ chồng dưới góc độ bình đẳng giới theo pháp luật Việt Nam.
Đề tài không bao gồm việc nghiên cứu những vấn đề chia tài sản của vợ chồng
có yếu tố nước ngoài.
4. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề trong khãa luận nhất quán dựa trên
cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Để đạt được mục đích nghiên cứu tác giả có sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp như: phân tích, tổng hợp, so sánh…
5. Cơ cấu khóa luận
3


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khóa luận cịn
có phần nội dung được cơ cấu thành 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc
chia tài sản.
Chương II: Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo
quy định của pháp luật hiện hành.
Chương III: Thực tiễn bảo vệ quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc
chia tài sản và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật.

4


Website: Email : Tel : 0918.775.368

CHƯƠNG I

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ CHỒNG
TRONG VIỆC CHIA TÀI SẢN
1. Khái niệm chung
1.1. Khái niệm giới, giới tính, bình đẳng giới
1.1.1. Khái niệm giới
“Giới” là phạm trù chỉ mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ, biểu
hiện cách thức phân định xã hội giữa hai đối tượng này, có liên quan đến các
vấn đề thuộc về thể chế xã hội.
Các vai trò giới khác với các vai trị giới tính – mang đặc điểm sinh học.
Những vai trò khác nhau này chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố lịch sử, tơn giáo,
kinh tế, văn hóa và chủng tộc. Do vậy, vai trò giới của chúng ta khơng phải có từ
khi chúng ta được sinh ra mà là những điều chúng ta được dạy dỗ và thu nhận từ
khi cịn nhỏ và trong suốt q trình trưởng thành.
Các vai trò giới là sự hội tụ của những hành vi ứng xử được dạy dỗ về
mặt xã hội, mong muốn về những đặc điểm và năng lực xã hội coi là thuộc về
đàn ông hoặc thuộc về đàn bà (bé trai hay bé gái) trong một xã hội hay một nền
văn hóa cụ thể nào đó. Đó cũng là các mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới: ai
nên làm gì, ai là người ra quyết định, tiếp cận nguồn lực và các lợi ích. Thơng
thường mọi người phải chịu rất nhiều áp lực buộc phải tuân thủ các quan niệm
xã hội này.
Đặc điểm giới và các mối quan hệ giới là các khía cạnh quan trọng của
một nền văn hóa bởi chúng quyết định lối sống trong một gia đ×nh, ngồi cộng
đồng và nơi làm việc. Điều quan trọng là – các xã hội, các nền văn hóa, vai trị
và mối quan hệ giới liên tục được tái tạo và thay đổi. Nó sẽ thay đổi theo thời
gian, chịu tác động của nhiều nhân tố: xã hội, kinh tế, pháp lý, chính sách và đời
sống dân sự. Trong tiến trình đó, một số giá trị được tái khẳng định như quyền
bình đẳng giữa vợ chồng, trong khi một số khác bị xem xét lại không còn phù

5



Website: Email : Tel : 0918.775.368

hợp nữa. Và tất nhiên khi giới đã có sự bình đẳng thì trong quan hệ vợ chồng
cũng sẽ có xu hướng bình đẳng hơn.
1.1.2. Khái niệm giới tính
Giới tính là “những đặc điểm chung phân biệt nam với nữ, giống đực với
giống cái” (1)
“Giới tính là phạm trù chỉ sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và
phụ nữ, thể hiện các đặc điểm bẩm sinh mà khi con người sinh ra đã có. Ví dụ,
nam giới có thể làm thụ thai, nữ giới có thể sinh con và cho con bú”(2)
Các đặc điểm giới tính là tự nhiên và là đặc điểm sinh học. Vì vậy, đặc
điểm đó sẽ là thống nhất (ở mọi nơi đều giống nhau) và không thể thay đổi (dù ở
châu Á hay châu Âu chỉ phụ nữ mới có thể sinh con). Từ những đặc điểm là tự
nhiên ấy của giới tính cũng đã ít nhiều chi phối sự bình đẳng giữa nam và nữ,
giữa vợ và chồng nói chung. Bởi lẽ, khi các yếu tố sinh học của giới tính tác
động đến quan hệ vợ chồng thì xét ở một phương diện nào đó người vợ sẽ khó
có được sự bình đẳng với chồng ví dụ vấn đề thể lực. Và khi cần có sự bình
đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản thì yếu tố giới tính đã ít nhiều có sự
tác động đến.
1.1.3. Khái niệm bình đẳng giới
Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống
và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới. Họ cùng có vị thế ngang nhau và được
tơn trọng như nhau, có điều kiện và cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và
thụ hưởng các thành quả phát triển trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bình đẳng giới khơng có nghĩa nam giới và phụ nữ là hoàn toàn giống
nhau, được chia đều nhau quyền lực, quyền năng, nghĩa vụ hoặc trách nhiệm
trong mọi trường hợp, bởi họ không đồng nhất về đặc điểm sinh lý, thể trạng sức
khỏe, nhu cầu, chức năng xã hội, lợi ích… Bình đẳng giới địi hỏi sự cơng bằng,
sự nhận biết và đánh giá đúng những mặt mạnh, mặt yếu của mỗi giới để từ đó

có cách xử lý phù hợp. Nếu nam giới và phụ nữ có điều kiện và năng lực ngang
1

Viện ngôn ngữ học, từ điển tiếng việt, NXB Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học Hà Nội – Đà Nẵng, 2003, Tr.405
Ts. Đào Thị Hằng. “Vấn đề bình đẳng giới và những đảm bảo trong pháp luật lao động Việt Nam” – Đặc san về
bình đẳng giới. Tr. 10
2

6


Website: Email : Tel : 0918.775.368

nhau, họ phải được tạo cơ hội hoặc có trách nhiệm như nhau. Mặt khác, sự khác
biệt giữa phụ nữ và nam giới về các mặt cũng phải được thừa nhận và được tính
đến đầy đủ khi hoạch định và thực hiện các chính sách nhất định nhằm tạo điều
kiện và cơ hội đầy đủ cho các chủ thể; chủ thể yếu hơn phải được ưu tiên hơn để
tạo thế cân bằng. Bình đẳng giới vừa là vấn đề cơ bản về quyền con người, vừa
là yêu cầu về sự phát triển xã hội một cách cơng bằng, hiệu quả và bền vững.
Nói cách khác, bình đẳng giới là “phụ nữ và nam giới được coi trọng như
nhau, cùng được công nhận và có vị thế bình đẳng”.(3)
Bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản được xem là một khía
cạnh của bình đẳng giới. Cơng nhận và bảo vệ quyền bình đẳng về việc chia tài
sản giữa vợ chồng bằng pháp luật là điều kiện tiên quyết để xác lập quyền bình
đẳng về kinh tế giữa vợ và chồng trong thực tiễn. Đây cũng là cơ sở để phụ nữ
có thể tiếp cận, kiểm soát, tham gia và ra quyết định với nguồn lực kinh tế này.
1.2. Khái niệm thời kỳ hụn nhõn
Theo Khon 1 Điu 8 Lut HN&GĐ năm 2000 thì “Thời kỳ hơn nhân là
khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng kí kết hơn đến
ngày chấm dứt hơn nhân”.(4)

Thời kì hơn nhân bắt đầu từ khi vợ chồng kết hôn và kết thúc khi hôn
nhân chấm dứt do vợ chồng ly hôn, do vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố
là đã chết. Trong trường hợp vợ chồng ly hôn hoặc vợ, chồng bị Tịa án tun bố
là đã chết thì hơn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án hoặc quyết định của Tịa án
có hiệu lực pháp luật.
Việc xác định thời kỳ hôn nhân trong trường hợp đặc biệt: Nam nữ chung
sống như vợ chồng thì theo Nghị Quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 9/6/2000 của
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Luật
HN&G§ và Thơng tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP
ngày 3/1/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Bộ Tư Pháp hướng dẫn thi hành Nghị Quyết 35/2000 đã quy định như sau:
3

Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. “Giáo trình dành cho giảng viên về lồng ghép giới trong
hoạch định và thực thi chính sách”, Hà Nội 2004. Tr41
4
Luật Hơn nhân và gia đình và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.2002. Tr.13.

7


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987 sau đó họ mới đăng
kí kết hơn thì quan hệ vợ chồng của họ được công nhận là đã xác lập kể từ ngày
họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng mµ khơng phải từ ngày đăng kí
kết hơn.
Nam nữ chung sống như vợ chồng từ sau ngày 1/1/2003 mà không đăng
kí kết hơn thì họ khơng được cơng nhận là vợ chồng và không được xác lập thời
kỳ hôn nhân.

Nam nữ chung sống như vợ chồng từ sau ngày 1/1/2003 họ mới đăng kí
kết hơn thì quan hệ vợ chồng của họ chỉ được công nhận là đã xác lập kể từ ngày
họ đăng kí kết hơn. Vµ thời kỳ hơn nhân được bắt đầu kể từ ngày đăng kí kết hôn.
Nam nữ chung sống như vợ chồng bắt đầu từ ngày 1/1/2001 trở đi mà
khơng đăng kí kết hơn thì pháp luật khơng cơng nhận là vợ chồng và thời kỳ hôn
nhân không được xác lập.
Như vậy việc xác định thời kỳ hơn nhân có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc giải quyết các vụ kiện liên quan đến quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đặc
biệt là trong vic chia ti sn. Đó là một trong những cơ së đảm bảo quyền bình
đẳng và quyền lợi chính đáng cho cả hai bên.
1.3. Khái niệm tài sản, quyền sở hữu tài sản của vợ chồng, chia tài sản của
vợ chồng
1.3.1. Khái niệm tài sản
Có nhiều cách định nghĩa về tài sản:
“Tài sản là của cải vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở
hữu”(5)
Theo cách định nghĩa này thì tài sản bao gồm những thứ hiện hữu, có giá
trị trực tiếp phục vụ cho đời sống của con người và những giá trị tinh thần không
đem ra đo đếm được. Tài sản ln có giá trị, đặc biệt đối với người sở hữu nó.
Cịn theo Bộ Lut Dõn S năm 2005 quy nh: Ti sn bao gồm vật,
tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” (6)
5

Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng việt 2003, Nxb Đà Nẵng. Trung tâm từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng 2003.
Tr. 884
6
Bộ luật dân sự 2005. Điều 163. Tr.83

8



Website: Email : Tel : 0918.775.368

- Vật chính là đối tượng của thế giới vật chất có thể đáp ứng được nhu cầu
nào đó (vật chất) của con người, nằm trong sự chiếm hữu của con người và có
đặc trưng giá trị để con người sử dụng.
- Tiền và giấy tờ có giá được xác định là những loại tài sản có tính chất là
các phương tiện thanh tốn có giá trị với con người.
- Quyền tài sản: Đây là những quyền gắn liền với tài sản mà khi thực hiện
các quyền đó chủ sở hữu sẽ có được một tài sản. Đó là các quyền địi nợ, quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu đối với phát minh, sáng chế, kiểu dáng cơng nghiệp,
nhãn hiệu hàng hóa. Các quyền này phải giá trị được bằng tiền và có thể chuyển
giao trong giao lưu dân sự.
1.3.2. Khái niệm quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
Dưới góc độ pháp lý, tài sản của vợ chồng có thể hiểu là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề tài sản vợ chồng bao gồm các quy định về
căn cứ xác lập tài sản vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản
chung, tài sản riêng, căn cứ thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ về tài sản của
vợ chồng.
Dưới góc độ pháp luật HN&G§ thì quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
được hiểu là quyền sở hữu đối với tài sản chung và quyền sở hữu đối với tài sản
riêng của vợ chồng.
Quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng: Tài sản chung của vợ
chồng bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tài sản được tặng cho chung, được thừa kế
chung hoặc tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất
mà vợ chồng có sau khi kết hơn cũng là tài sản chung của vợ chồng (Điều 27
Luật HN&GĐ năm 2000).
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Vợ chồng có

quyền ngang nhau trong việc sở hữu tài sản chung đó. Như vậy, bình thường
chúng ta khơng thể xác định được phần tài sản nào là của vợ, phần tài sản nào là
của chồng mà chỉ khi cần phải chia tài sản chung vợ chồng thì mới xác định
9


Website: Email : Tel : 0918.775.368

được phần tài sản của từng người trong khối tài sản chung ấy. Trong gia đình,
vợ chồng là “đồng sở hữu chủ” đối với tài sản chung nên “vợ chồng đều có
quyền vµ nghÜa vô ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản chung” (Điều 28 Luật Hôn nhân gia đình 2000), nhằm đảm bảo nhu cầu đời
sống chung của gia đình.
Sự “ngang nhau” trong việc sử dụng tài sản chung nhưng khơng có nghĩa
là tài sản chung đó phải do cả hai vợ chồng cùng chiếm giữ, quản lý. Tài sản
chung của vợ chồng có thể do một bên chiếm hữu, sử dụng và định đoạt theo
những điều kiện mà pháp luật cho phép.
Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc sử dụng tài sản
chung. Đó là sự khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung
nhưng phải vì lợi ích của vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Vợ chồng
phải có nghĩa vụ sử dụng tài sản chung đúng mục đích luật định. Nếu có sự gian
dối trong việc sử dụng tài sản chung làm ảnh hưởng đến lợi ích của vợ, chồng và
gia đình đều bị coi là trái pháp luật.
Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc định đoạt tài sản chung. Mọi
giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc dùng tài sản
chung để đầu tư kinh doanh, hoặc tài sản chung là nguồn sống duy nhất của gia
đình thì về nguyên tắc phải có sự thỏa thuận của hai vợ chồng. Đó chính là sự
bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản
chung.
Quyền sở hữu đối với tài sản riêng của vợ chồng: Tài sản riêng của vợ,

chồng bao gồm tài sản có trước khi kết hơn, tài sản được tặng cho riêng, được
thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được chia riêng trong thời kỳ hôn
nhân, đồ dùng tư trang cá nhân… (Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2000). Vợ,
chồng có tồn quyền trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản riêng
của mình phù hợp với quy định của pháp luật. Vợ, chồng có quyền tặng, cho,
mua bán, trao đổi tài sản riêng của mình với bất cứ chủ thể nào một cách độc lập

10


Website: Email : Tel : 0918.775.368

và bình đẳng. “Vợ chồng có quyền nhập hoặc khơng nhập tài sản riêng vào khối
tài sản chung”(7).
Quyền “tự định đoạt” của vợ, chồng đối với tài sản riêng của mình chính
là sự bình đẳng mà pháp luật đã thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Nó cho phép
người có tài sản riêng nhập hay khơng nhập tài sản đó vào khối tài sản chung mà
khơng bên nào có quyền ép buộc bên nào. Mặc dù “Tài sản riêng của vợ, chồng
cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài
sản chung khơng đủ đáp ứng” (Khon 4 iu 33 Luật HN&GĐ năm 2000) thc
cht ó hạn chế quyền sở hữu tài sản riªng của vợ chồng, nhưng quy định đó
khơng làm ảnh hưởng đến quyền bình đẳng của vợ chồng trong sở hữu tài sản
riêng vì nó nhằm đảm bảo nhu cầu đời sồng chung của gia đình.
1.3.3. Khái niệm chia tài sản của vợ chồng
Chia tài sản của vợ chồng theo Luật HN&G§ là tổng hợp các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành quy định về nguyên tắc phân chia, căn cứ phân
chia, phương thức ph©n chia cũng như hậu quả pháp lý của việc chia tài sản vợ
chồng nhằm đảm bảo nhu cầu và lợi ích chính đáng của các bên vợ chồng.
Chia tài sản của vợ chồng được xác định trong các trường hợp: Chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân; Chia tài sản khi ly hôn; Chia tài sản khi một

bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tun bố là đã chết. Ngồi ra luật cịn quy
định một số trường hợp chia tài sản đặc biệt nhằm thỏa mãn yêu cầu và phù hợp
với thực tế cuộc sống khi giải quyết các vụ án liên quan đến vấn đề chia tài sản
có sự tham gia của vợ, chồng.
2. Ý nghĩa của quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản
2.1. Ý nghĩa về mặt pháp lý
Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản là cơ sở để cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến quan hệ vợ
chồng như: giải quyết tranh chấp tài sản, giải quyết ly hôn… Một trong những
nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân là độc lập xét xử và chỉ tuân theo
pháp luật, nên khi giải quyết các án kiện vỊ HN&G§ thì Tịa án phải xét xử trên
7

Luật Hơn nhân và gia đình 2000 Khoản 2 Điều 32. Nxb Chính tri quốc gia Hà Nội 2002. Tr. 23.

11


Website: Email : Tel : 0918.775.368

cơ sở các quy nh ca Lut HN&GĐ. VD: Lut HN&GĐ năm 2000 dựa trên
nguyên tắc vợ chồng bình đẳng đã quy định ra nguyên tắc chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hơn. Hơn nữa đây cịn là cơ sở để các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể giúp cho việc giải quyết
tranh chấp về HN&G§ được khách quan, thống nhất, đúng pháp luật, đảm bảo
quyền lợi cho các bên.
Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản là cơ sở pháp lý
thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản trong gia đình. Họ
được hưởng những quyền ngang nhau, thực hiện nghĩa vụ như nhau về tài sản.
Đó là các quyền mà họ được Nhà nước trao cho và bảo đảm thực hiện.

Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản là cơ sở để ban
hành các văn bản pháp luật liên quan đến quyền lợi của người phụ nữ nhằm đảm
bảo tính khả thi các quyền của phụ nữ được thực hiện trên thực tế đời sống, làm
ổn định quan hệ HN&G§. Đó chính là cơ sở để đảm bảo một gia đình dân chủ,
hịa thuận và hạnh phúc.
Quy định về quyền bình đẳng trong việc chia tài sản của vợ chồng góp
phần thúc đẩy q trình xã hội hóa theo xu hướng bình đẳng thực sự từ trong gia
đình đến cả xã hội, tiến tới mục tiêu bình đẳng giới trên toàn thế giới.
2.2. Ý nghĩa về xã hội
Từ thực tế cuộc sống cho thấy, do bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng lạc
hậu, phong kiến nên vẫn tồn tại trong xã hội sự bất bình đẳng giữa nam và nữ,
giữa vợ và chồng. Sự bất bình đẳng ấy đã đẩy người phụ nữ vào tình trạng lệ
thuộc, khơng có sự đảm bảo về quyền lợi chính đáng của mình. Quyền bình
đẳng giữa vợ và chồng trong việc chia tài sản được khẳng định và thể hiện là
một nhu cầu cấp thiết, góp phần bảo vệ quyền lợi của người vợ, đẩy lùi tư tưởng
lạc hậu phong kiến, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa thực sự dân chủ và bình
đẳng ở nước ta.
Đặc biệt trong điều kiện kinh tế, xã hội đang phát triển theo hướng thị
trường hóa hiện nay, sự đa dạng hóa các mối quan hệ đã ảnh hưởng không nhỏ
tới vấn đề tài sản của vợ chồng. Đó là, khi họ muốn kinh doanh riêng cần phải
12


Website: Email : Tel : 0918.775.368

sử dụng một phần tài sản chung mà không muốn ly hôn hay vì một lý do nào
khác thì việc đảm bảo quyền bình đẳng khi chia tài sản giữa vợ chồng là hồn
tồn cần thiết và phù hợp với thực tiễn.
Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc chia tài sản là một trong
những cơ sở góp phần triển khai các chương trình bình đẳng về giới, tránh bạo

lực trong gia đình như: Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam đã phát động phong
trào “Vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ”, “Vì sự tiến bộ của phụ nữ”. Tất cả
những ý nghĩa xã hội đó đều hướng tới sự bình đẳng giữa vợ chồng, sự bình
đẳng trong xã hội – cái mà xã hội ta đang vươn tới.
3. Sơ lược sự phát triển của pháp luật Việt Nam về quyền bình đẳng giữa
vợ chồng trong việc chia tài sản
3.1. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc chia tài sản theo pháp
luật thời kỳ phong kiến
Trong cổ luật Việt Nam – ngay từ thời Lý – Trần (Thế kỉ XI – Thế kỉ
XIV) đã có quy định liên quan đến HN&G§ nhưng sử liệu ghi chép khơng tồn
diện nên rất khó cho việc tìm hiểu và nghiên cứu. Vì vậy, Bộ Quốc Triều Hình
Luật (thường gọi là Bộ Luật Hồng Đức) ban hành dưới thời Lê (thế kỉ XV) và
Hoàng Việt Luật Lệ (thường gọi là Bộ Luật Gia Long) ban hành dưới thời
Nguyễn (năm 1815) ra đời được coi là hai bộ luật tiêu biểu nhất cho chế độ
HN&GĐ phong kiến Việt Nam.
Chế độ tài sản được thể hiện trong hai bộ luật này là chế độ tài sản cộng
đồng tồn sản. Bao gồm:
- Tài sản người chồng có trước khi kết hôn gọi là phu điền sản.
- Tài sản người vợ mang từ nhà mẹ đẻ về nhà chồng khi kết hôn gọi là thê
điền sản.
- Tài sản vợ chồng cùng nhau tạo ra trong thời gian chung sống gọi là tần
tảo điền sản.
Như vậy tài sản chung của vợ chồng trong thời kì này gọi là tần tảo điền
sản. Trong một số quy định của Bộ Quốc Triều Hình Luật và Hồng Việt Luật
Lệ thì vợ chồng có thể chia tài sản chung khi một bên chết hoặc khi vợ chồng ly
13


Website: Email : Tel : 0918.775.368


hôn: Trường hợp vợ chồng ly dị nếu có con chung thì tài sản sẽ để lại ni con,
người vợ khơng có con thì có thể được mang tài sản về nhưng nếu là thời gian
sống dài mà không sinh con. Nhưng nếu phạm vào thất suất sẽ không được
mang thê điền sản về nhà mình.
Đó là sự bất bình đẳng trong việc chia tài sản giữa vợ chồng. Yếu tố lỗi
của người vợ là yếu tố quyết định phần tài sản mà người vợ được mang về khi ly
hôn, thể hiện sự coi trọng quyền lợi của người chồng mà coi nhẹ vị trí của người
vợ. Người vợ ln phải chịu thiệt thòi khi chia tài sản chung với chồng
Trong pháp luật phong kiến, sự bất bình đẳng giữa vợ chồng trong việc
chia tài sản là không tránh khỏi bởi ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo, người
chồng được coi là chủ gia đình (gia trưởng) cịn người vợ thì phải “tứ đức” và
tn theo thuyết“tam tịng”. Vì vậy vai trị của người phụ nữ rất mờ nhạt, họ
hoàn toàn lệ thuộc vào người chồng nên người chồng có tồn quyền trong việc
quản lý, sử dụng tài sản trong gia đình, kể cả khi tài sản đó là cộng đồng tài sản.
Tuy nhiên, bên cạnh sự bất bình đẳng ấy thì chúng ta cịn tìm thấy một số
quy định tiến bộ, thể hiện sự bình đẳng nhằm bảo vệ quyền lợi của người vợ
trong việc chia tài sản giữa vợ chồng. Về nguyên tắc, chỉ vợ chồng được xác
định là những chủ thể trong việc chia tài sản chung. Việc phân định thê điền sản,
phu điên sản và cho phép người vợ khi ly hơn có thể lấy lại thê điên sản được
coi là một bước tiến bộ đặc biệt của pháp luật thời kỳ này, quyền sở hữu tài sản
của người vợ đã được thừa nhận.
Điều 375 Bộ Quốc Triều Hình Luật quy định: “Tài sản của vợ chång làm
ra thì chia làm hai, vợ chồng mỗi người được một phần nếu một trong hai người
chết mà chưa có con”, và khi ly hơn thì người vợ giữ lại tài sản của mình, kể cả
những gì trước đây đã được chồng tặng… Đó là một quan điểm tiến bộ ghi nhận
sự bình đẳng tương đối trong hai bộ luật mang sắc thái Việt Nam thuần túy. Đó
cũng là một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hướng nho và phong tục tập quán
dân tộc bản địa. Sự tiến bộ ấy là một trong những cơ sở quan trọng để hình
thành nên quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản được quy định
trong pháp luật hiện hành.

14


Website: Email : Tel : 0918.775.368

3.2. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo pháp luật
thời kỳ pháp thuộc
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Với việc duy trì quan hệ sản xuất phong kiến thì nền kinh tế, xã hội
của đất nước ln ở trình độ lạc hậu đi liền với những hủ tục đã ăn sâu từ nhiều
thế kỷ trước. Thực dân pháp và giai cấp địa chủ phong kiến đã lợi dụng chế độ
HN&GĐ phong kiến đang tồn tại ở nước ta để củng cố nền thống trị của chúng.
Sau khi đề ra chính sách “chia để trị” thực dân pháp đã tiến hành chia
nước ta làm ba miền với ba sự cai quản riêng: Bắc kỳ và Trung kỳ là xứ bảo hộ
của pháp, Nam kỳ là thuộc địa của pháp, cùng với đó thực dân pháp đã cho ban
hành ba bộ dân luật ở ba miền:
- Ở Bắc kỳ theo Bộ Dân Luật 1931
- Ở Trung kỳ theo Bộ Dân Luật 1936
- Ở Nam kỳ theo Tập Giản Yếu 1883
Mặc dù mỗi bộ luật được ban hành để áp dụng riêng cho từng miền nhưng
nội dung của ba bộ luật trên đều toát lên những điểm chung của chế độ HN&G§
Việt Nam thời bấy giờ. Một trong những điểm chung đó là sự bảo vệ quyền lợi
của người chồng “thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ với chồng với
quan niệm “thuyền theo lái, gái theo chồng”, “phu xướng phụ tùy” (8)
Tại Điều 112 Dân Luật Bắc Kỳ quy định:
“Khi nào vì sự ly hơn mà thành ra tiêu việc giá thú, nếu người vợ bị ly
hơn đã có con thì được một phần trong tài sản chung, phần ấy sẽ tùy theo kỷ
phần của người vợ đã góp vào hoặc đã tăng thêm cho của chung. Nếu người vợ
vì sự gian thơng mà bị ly hơn thì cái phần ấy sẽ bị bớt đi một nửa”.
Đây là trường hợp chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn nhưng quy định

đó khơng đảm bảo được quyền lợi của người vợ. Vì khi ly hơn nếu người vợ đã
có con thì được một phần trong tài sản chung và phần ấy được nhiều hay ít tùy
thuộc vào cơng sức đóng góp trước đó của người vợ là bao nhiêu vào khối tài
sản chung của vợ chồng mà không phải là sự chia đôi, ngang bằng. Mặt khác,
8

Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội
2002. Tr.58

15


Website: Email : Tel : 0918.775.368

yếu tố lỗi của người vợ là một yếu tố quan trọng để quyết định “kỷ phần” mà
người vợ được mang theo hay khơng khi ly hơn, Đó là trường hợp nếu người vợ
“gian thơng”. Mặc nhiên quy định này hồn tồn khơng đề cập đến lỗi của
người chồng và điều đó cũng chính là sự bất bình đẳng mà pháp luật thừa nhận
giữa vợ với chồng khi chia tài sản. Song do điều kiện kinh tế, xã hội còn quá
nghèo nàn, dưới ách thống trị của chế độ thực dân nửa phong kiến và ảnh hưởng
của tư tưởng nho giáo luôn bảo vệ quyền lợi của người người chồng và giai cấp
thống trị thì sự bất bình đẳng với người vợ là điều khó tránh khỏi.
3.3. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo pháp luật
thời kỳ từ Cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay
3.3.1. Giai đoạn 1945 – 1954
Cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hịa ra
đời, đồng thời với đó là sự ra đời của Hiến pháp năm 1946. Với tính chất là đạo
luật cơ bản tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước ta ban hành các văn bản pháp luật
khác nhau điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong xã hội, trong đó có các quan
hệ về HN&GĐ.

Điều 9 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông
về mọi phương diện” nhưng vào thời điểm đất nước đang gặp khó khăn trong
tình trạng “ngàn cân treo sợi tóc” với ba thứ giặc tràn lan thì chúng ta chưa xây
dựng ngay được một văn bản Luật HN&GĐ để thể chế hóa quy định tại Điều 9
Hiến pháp năm 1946.
Đến năm 1950, Nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh
quan hệ HN&GĐ, đó là Sắc lệnh 97- SL ngày 22/2/1950 về sửa đổi một số quy
lệ và chế định trong dân luật và Sắc lệnh số 159- SL ngày 17/11/1950 quy định
về vấn đề ly hôn. Một trong những nội dung của hai sắc lệnh này là phản ánh
nguyên tắc “nam nữ bình đẳng” và nguyên tắc “ người chồng và người vợ có
địa vị bình đẳng trong gia đình”.
Rõ ràng đây là những quy định mới và tiến bộ trong pháp luật về
HN&GĐ đã góp phần đáng kể vào việc xóa bỏ chế độ HN&GĐ phong kiến lạc
hậu, góp phần vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ khỏi chế độ đó, thúc đẩy sự phát
16


Website: Email : Tel : 0918.775.368

triển của xã hội Việt Nam trong thời kỳ Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Tuy nhiên cả hai sắc lệnh này vẫn chưa thể hiện đầy đủ và chặt chẽ về chế độ tài
sản cũng như vấn đề chia tài sản giữa vợ chồng nên quyền bình đẳng giữa vợ
chồng trong việc chia tài sản cũng chưa được thể hiện một cách rõ nét.
3.3.2. Giai đoạn 1954 – 1975
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã thắng li (năm
1954) nhng t nc ta vn tm thi b chia cắt làm hai miền với hai chế độ
chính trị khác biệt. Miền bắc được giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Miền nam tiếp tục cuộc Cách mạng dân tộc, dân chủ,
đấu tranh thống nhất nước nhà. Chính sự khác biệt đó làm cho hệ thống pháp
luật điều chỉnh hai miền cũng khác nhau.

Ở miền Bắc, chế độ HN&G§ phong kiến lạc hậu vẫn còn ảnh hưởng sâu
sắc trong đời sống nhân dân nên cần phải xóa bỏ triệt để những tàn tích đó, xây
dựng chế độ HN&GĐ xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc ban hành Hiến pháp năm
1959 vào 31/12/1959 Quốc hội khóa I đã chính thức thơng qua dự luật HN&GĐ
ngày 29/12/1959. Một trong những nguyên tắc cơ bản được đề ra đó là ngun
tắc nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình.
Vấn đề chia tài sản giữa vợ chồng trong Luật HN&GĐ năm 1959 đã có sự
quy định cụ thể hơn so với các văn bản pháp luật về HN&GĐ trước đó. Ví dụ
“Khi ly hơn, việc chia tài sản sẽ căn cứ vào sự đóng góp cơng sức vào của mỗi
bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình. Lao động trong gia
đình được kể như lao động sản xuất. Khi chia phải bảo vệ quyền lợi của người
vợ, của con cái và lợi ích của việc sản xuất”. (Điều 29 Luật HN&GĐ năm
1959). Nhưng luật không quy định chi tiết về cách chia tài sản giữa vợ chồng
như thế nào và sự bình đẳng ở đây cịn mờ nhạt, khơng rõ ràng. Tuy nhiên đó
vẫn là công cụ pháp lý của Nhà nước ta phục vụ lợi ích của nhân dân lao động,
là cơ sở mới để từng bước xây dựng quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong hệ
thèng pháp luật HN&GĐ nước ta. Việc căn cứ vào cơng sức đóng góp mà luật
HN&GĐ năm 1959 đề cập đến cũng chưa thể hiện sự bình đẳng của vợ chồng
trong việc chia tài sản khi ly hơn. §ång thêi cịng khơng hề đề cập đến ngun
17


Website: Email : Tel : 0918.775.368

tắc chia đôi tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Cã thể do Luật HN&GĐ năm 1959
quy định tài sản chung của vợ chồng là tài sản có trước và sau khi cưới nên khi
ly hơn phải chia theo cơng sức đóng góp để đảm bảo quyền và lợi ích của mỗi
bên vợ chồng, phần nào tránh được việc kết hơn vì mục đích kinh tế. Tuy nhiên,
điều này cũng cho thấy việc quy định về vấn đề tài sản của vợ chồng theo Luật
HN&GĐ năm 1959 là chưa hoàn toàn phù hợp, chưa thể hiện được triệt để

nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, đặc biệt là bình đẳng trong việc chia tài sản của
vợ chồng.
Ở miền Nam, sau năm 1954 Đế Quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp
thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, tiến hành cuộc chiến tranh xâm
lược kiểu mới. Các văn bản pháp luật HN&G§ do Nhà nước tay sai phản động
của ngụy quyền Sài Gịn ban hành như:
- Luật Gia đình ngày 2/1/1959 (Luật số 1-59) dưới chế độ Ngơ Đình
Diệm.
- Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964 về Giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng.
- Bộ dân luật 20/12/1972 dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
Cả ba văn bản pháp luật này tuy đã hủy bỏ chế độ đa thê song vẫn duy trì
quyền gia trưởng của người chồng. Những quy định về chế độ tài sản cũng chỉ
nghiêng về bảo vệ quyền lợi cho người chồng. Người vợ có tồn quyền quản lý
tài sản khi người chồng không thể bày tỏ ý chí được vì thất tung hoặc đi xa
vắng. Tuy về mặt quản lý tài sản thì người vợ khơng được bình đẳng như người
chồng nhưng khi ly hơn hoặc ly thân thì người vợ sẽ được nhận lại phần tài sản
riêng của họ (Điều 204, Dân Luật Sài Gòn). Và ngay cả trong khi hơn nhân đang
tồn tại thì cả vợ và chồng đều có quyền u cầu Tịa án giải quyết chế độ biệt
sản, nhưng đều phải có lý do theo luật định và phải được Tòa án công nhận bằng
một án biệt sản. (Điều 165 - Dân Luật Sài Gòn).
Như vậy, vấn đề chia tài sản giữa vợ chồng đã được đề cập đến trong
những văn bản pháp luật này nhưng cũng còn rất khái quát, mờ nhạt, chưa thể
hiện được quyền bình đẳng giữa vợ chồng thậm chí vẫn là sự bất bình đẳng vốn
đã tồn tại lâu đời ở nước ta.
18


Website: Email : Tel : 0918.775.368

3.3.3. Giai đoạn 1975 – 2000

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi (30/4/1975), cả nước
thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với tình hình mới đó thì việc áp
dụng Luật HN&GĐ năm 1959 có một số điều khơng phù hợp nữa. Vì vậy ngày
29/12/1986 Dự Luật HN&GĐ mới đã được Quốc hội Khóa VII kỳ họp thứ 12
thơng qua. Luật HN&GĐ năm 1986 được xây dựng và thực hiện trên các
nguyên tắc tiến bộ. Và một trong những sự tiến bộ đó là ngun tắc vợ chồng
bình đẳng mà nhất là bình đẳng trong việc chia tài sản giữa vợ chồng.
Theo luật này, việc chia tài sản giữa vợ chồng được quy định tại các §iều
17, 18, 42 mà nội dung là sự ghi nhận việc thanh toán tài sản chung của vợ
chồng trong các trường hợp luật định, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với
tài sản đó. Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại là
quy định mới của Lut HN&GĐ năm 1986 so vi Lut HN&G nm 1959. Điều
18 Luật HN&GĐ năm 1986 đã quy định: “Khi hôn nhân tồn tại, nếu một bên có
yêu cầu và có lý do chính đáng thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng …”
Như vậy phải có yêu cầu của một bên vợ, chồng và có lý do chính đáng
thì Tịa án mới giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân
đang tồn tại. Khi nhận được đơn của vợ, chồng, Tòa án phải xem xét xem lý do
chia tài sản chung của vợ chồng đã là “lý do chính đáng” chưa. Nếu là lý do
chính đáng thì Tịa án phải xác minh xem thực tế có đúng như vậy khơng hoặc
đó chỉ là hình thức để vợ chồng trốn tránh nghĩa vụ về tài sản …
Nghị quyết 01/NQ- HĐTP 20/1/1988 hướng dẫn:
“Lý do chính đáng: vợ chồng tính tình khơng hợp nhưng con cái đã lớn
nên không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng, do đó một bên hoặc cả hai bên xin
chia tài sản thì tài sản được chia như khi xử về ly hôn”.
Việc quy định về chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại là rất “cô
đọng”. Hướng dẫn của Nghị quyết 01 chưa đầy đủ, mới chỉ đưa ra một lý do
chính đáng. Điều ấy khơng tránh khỏi sự vân dụng tùy tiện của các cơ quan Tịa
án gây sai sót và khơng đảm bảo quyền lợi cho các bên.

19



Website: Email : Tel : 0918.775.368

Tuy nhiên so vi Lut HN&GĐ năm 1959 thỡ Lut HN&GĐ năm 1986 đã
quy định chi tiết và rõ ràng hơn về quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc
chia tài sản. Thể hiện ở quy định sự “chia đôi” tài sản của vợ chồng khi ly hôn
và việc chia tài sản, sử dụng, quản lý tài sản khi một bên vợ chồng chết. Điều đó
đã khẳng định đường lối của Đảng và Nhà nước trong việc giải phóng người phụ
nữ, là cơ s phỏp lý Lut HN&GĐ năm 2000 tip tc kế thừa, phát triển và
đảm bảo quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản được thực hiện
trong thực tế đời sống hiện nay.
3.3.4. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Sau hơn 10 năm thực hiện Luật HN&GĐ năm 1986, bước đầu quyền bình
đẳng giữa vợ chồng đã được khẳng định và thực thi. Tuy nhiên thực tiễn áp
dụng Luật HN&GĐ năm 1986 cho thấy những quy định cịn mang tính khái
qt, định khung, chưa cụ thể. Việc áp dụng luật để giải quyết các tranh chấp từ
các quan hệ HN&GĐ đặc biệt là vấn đề chia tài sản vợ chồng gặp nhiều vướng
mắc. Tình hình đó địi hỏi Nhà nước ta phải sửa đổi, bổ sung Luật HN&GĐ năm
1986 một cách tồn diện. Theo đó, Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 7 chính thức
thơng qua dự luật HN&GĐ năm 2000 vào ngày 9/6/2000.
Luật HN&G§ năm 2000 tiếp tục kế thừa và phát triển hệ thống pháp luật
HN&GĐ, nguyên tắc “vợ chồng bình đẳng” tiếp tục được khẳng định là nguyên
tắc cơ bản của Luật. Theo Luật này, việc chia tài sản của vợ chồng được quy
định ở các Điều 29, 30, 31, 32, 95. Ngoài sù ghi nhận việc chia tài sản của vợ
chồng khi ly hơn thì Luật cịn quy định cả việc chia tài sản vợ chồng khi hôn
nhân đang tồn tại cũng như khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố
là đã chết. Hơn thế cách chia mà Luật HN&GĐ năm 1986 áp dụng còn quá
chung chung, chưa cụ thể nguyên tắc chia đôi tài sản cũng như phương thức chia
tài sản khi một bên vợ, chồng chết và khi vợ chồng ly hơn. Bởi vậy, quyền bình

đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo Luật HN&GĐ năm 2000 quy
định là phù hợp với thực tế, đáp ứng được nhu cầu, tâm lý của mỗi cá nhân trong
xã hội. Đã góp phần xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu của xã hội phong
kiến Việt Nam, xóa bỏ quyền gia trưởng, bảo vệ quyền bình đẳng cho phụ nữ
20



×