Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tiểu luận Đánh giá nguồn thu ngân sách nhà nước từ các khoản viện trợ trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395 KB, 20 trang )


Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất
nước. Đặc biệt, sự phồn thịnh của đất nước là một quá trình xây dựng và phát triển lâu dài của
nền kinh tế - xã hội.Để có những bước phát triển đó, chúng ta cần rất nhiều nguồn lực, đặc biệt
sự huy động nguồn vốn là một yếu tố rất quan trọng và không thể thiếu trong nền kinh tế . Mặc
dù đã trải qua hơn một thập kỷ đổi mới và đang tiến đến nền kinh tế thị trường nhưng Việt Nam
vẫn được coi là mới bắt đầu bước vào giai đoạn đầu của tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại
hoá. Bên cạnh việc khơi dậy và phát huy nguồn vốn nội lực, chúng ta cần tranh thủ mọi nguồn
vốn bên ngoài đặc biệt là nguồn viện trợ phát triển chính thức.Nguồn vốn này ngày càng có vai
trò to lớn, quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay vì đây không chỉ là nguồn
vốn có nhiều điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn, khối lượng, phương thức thanh toán
thời gian cho vay mà nó còn có ý nghĩa trong việc chuyển giao tri thức, công nghệ thích hợp,
đào tạo nguồn nhân lực, giúp xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống ở các vùng
nông thôn, miền núi, cải thiện môi trường, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng Do đó huy động
nguồn thu NSNN từ các khoản viện trợ được xem là một chiến lược đặc biệt quan trọng cho việc
tạo đà phát triển cho nền kinh tế Việt Nam.
Việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn viện trợ phát triển chính thức còn có một ý nghĩa
quan trọng trong điều kiện nguồn viện trợ này có xu hướng ngày một khan hiếm. Do vậy, làm
thế nào để tạo nguồn thu và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn viện trợ trở nên bức thiết
hơn bao giờ hết nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.
Thông qua việc nghiên cứu và đánh giá nguồn thu NSNN từ các khoản viện trợ, đặc biệt là
ODA ở Việt Nam hiện nay để thấy được những bất cập trong quá trình quản lý nguồn vốn này.
Đó là lý do mà nhóm chúng em chọn đề tài : “Đánh giá nguồn thu ngân sách nhà nước từ các
khoản viện trợ trong khoản thời gian qua” để nghiên cứu và báo cáo.

 !"#$%&'(
)*!$$%+
Viện trợ nước ngoài là một luồng vốn đổ vào hoặc một sự trợ giúp nào đó từ những
nước phát triển cho các nước kém và đang phát triển để tạo ra hoặc làm biến đổi một cách
sâu sắc nền kinh tế của nước đó nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung.
, $%&'(


Có bốn dạng viện trợ chính:
Thứ nhất, các khoản cho vay dài hạn phải được thanh toán lại bằng loại ngoại tệ, thường
có thể trả trong vòng 10 hoặc 20 năm. Lợi thế đói với người nhận là tiền thanh toán hàng
năm ít hơn nhiều so với tiền thanh toán của các khoản cho vay ngắn và trung hạn.
Thứ hai là những khoản “vay mềm” có thể được thanh toán lại bằng tiền trong nước.
Một số được trả bằng ngoại tệ nhưng trong một thời gian dài chẳng hạn như 99 năm với lãi
suất rất thấp, trong khi đó số nợ được thanh toán bằng tiền trong nước sẽ được cho vay lại
để nước nhận tiếp tục các công trình phát triển. Đôi khi, trợ cấp trực tiếp được thực hiện.
Dạng thứ ba là việc bán các sản phẩm dư thừa cho một nước để đổi lấy việc thanh toán
bằng tiền trong nước của nước này như chương trình PL 480 của Mỹ. Điều này có thể rất có
ý nghĩa cho một nước chậm phát triển có rất ít ngoại tệ vì nó sẽ giúp những nước này mua
được hàng hóa từ nước ngoài. Các nước này thường phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm
và các hàng tiêu dùng khác vì khu vực nông nghiệp của họ không thể sản xuất ra đủ để nuôi
sống công nhân thành thị trong các ngành xây dựng hoặc các công trình đầu tư khác.
Dạng thứ tư của viện trợ, không hoàn toàn là một luồng vốn mà là sự trợ giúp về kỹ
thuật dành cho các nước chậm phát triển.
/0$&'12$%&'(
Viện trợ nước ngoài giữ một vai trò quan trọng trong việc xây dựng chính sách phát
triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.Viện trợ nước ngoài có thể góp phần tạo ra hoặc làm
biến đổi một cách sâu sắc một ngành kinh tế hoặc thậm chí một nền kinh tế của một nước.
Viện trợ nước ngoài đã nhằm hai mục tiêu song song:
Mục tiêu thứ nhất: là thúc đẩy tăng trưởng dài hạn và giảm nghèo ở những nước đang
phát triển; động cơ chính của mục tiêu này là sự kết hợp giữa tinh thần vị tha và những quan
tâm tính toán mang tính cá nhân các nhà tài trợ hơn là nhằm vào những lợi ích lâu dài về an
ninh kinh tế chính trị khi các nước nghèo tăng trưởng.
Mục tiêu thứ hai: là tăng cường lợi ích chiến lược và chính trị ngắn hạn của các nước tài trợ,
hoặc nhằm vào những chế độ là đồng minh chính trị của các cường quốc phương Tây.
Tuy vậy viện trợ nước ngoài không phải luôn luôn tạo ra hiệu quả giống nhau mà phụ thuộc
vào chính sách tiếp nhận viên trợ của từng nước
Có rất nhiều nghiên cứu về lĩnh vực viện trợ nước ngoài. Tuy nhiên, có hai lý do quan trọng

khiến người ta quan tâm theo dõi, nghiên cứu về vấn đề này. Thứ nhất, những thay đổi sâu sắc
trong môi trường kinh tế và chính trị toàn cầu trong thời gian vừa qua - nhất là việc kết thúc
chiến tranh lạnh và dòng vốn tư nhân ồ ạt đổ vào các nước đang phát triển. Thứ hai, ngày nay
chiến lược phát triển kinh tế của những nước cung cấp viện trợ cũng như tiếp nhận viện trợ đã
được điều chỉnh, thay đổi và do đó đã đòi hỏi phải có một phương thức viện trợ mới.
Tóm lại, không thể phủ nhận tác dụng to lớn của viện trợ quốc tế trong quá trình phát triển
kinh tế của một quốc gia, chúng ta tin tuởng rằng, cùng với việc thực hiện đường lối Đổi mới về
kinh tế, Việt nam đã và sẽ tiếp tục nhận được sự tài trợ mạnh mẽ của các nhà tài trợ quốc tế,
thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Trong đó, vốn ODA là một phần chủ yếu của nguồn tài chính mà chính phủ các nước phát triển
và các tổ chức đa phương dành cho các nước đang phát triển nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế và
phúc lợi xã hội cho các quốc gia này. Hơn 15 năm qua Việt Nam đã có được những thành công
đáng kể trong lĩnh vực này, nhưng đồng thời cũng nổi lên nhiều bất cập đòi hỏi Chính Phủ và
Quốc Hội phải quan tâm đúng mức.
3$%&'(456
)*!$$%+456( Official Development Assistance):
Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là viện trợ phát triển chính thức (ODA - Official
Development Assistance) là các khoản viện trợ không hoàn lại, khoản vay với những điều kiện
ưu đãi hoặc hỗn hợp các khoản trên được cung cấp bởi các nhà nước, tổ chức kinh tế, tài chính
quốc tế và các tổ chức phi chính phủ nhằm hỗ trợ cho phát triển kinh tế - xã hội ở những nước
đang và chậm phát triển được tiếp nhận nguồn vốn này.
,. 78$9+23:456
- Vốn ODA là nguồn vốn có tính ưu đãi của các nước phát triển, các tổ chức quốc tế đối
với các nước đang và chậm phát triển.
Với mục tiêu trợ giúp các nước đang và chậm phát triển, vốn ODA mang tính ưu đãi hơn
bất cứ nguồn tài trợ nào khác. Thể hiện:
+ Khối lượng vốn vay lớn từ hàng chục đến hàng trăm triệu USD.
+ Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn dài (chỉ trả lãi,
chưa trả nợ gốc). Vốn ODA của WB, ADB, Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (Japanese
Bank for International Cooperation - JBIC) có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn

là 10 năm.
+ Thông thường vốn ODA có một phần viện trợ không hoàn lại, phần này dưới 25% tổng số vốn
vay. Ví dụ OECD cho không 20-25% tổng vốn ODA. Đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ
và cho vay thương mại.
+ Các khoản vay thường có lãi suất thấp, thậm chí không có lãi suất. Lãi suất giao động từ 0,5%
đến 5% /năm (trong khi lãi suất vay trên thị trường tài chính quốc tế là trên 7% /năm và hàng
năm phải thoả thuận lại lãi suất giữa hai bên). Ví dụ lãi suất của ADB là 1%/năm; của WB là
0,75% /năm; Nhật thì tuỳ theo từng dự án cụ thể trong năm tài khoá. Ví dụ từ năm 1997-2000
thì lãi suất là 1,8%/năm.
Nhìn chung, các nước cung cấp vốn ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng của
mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn (về
công nghệ, kinh nghiệm quản lý). Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp vốn ODA
cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể.
- Vốn ODA thường kèm theo các điều kiện ràng buộc nhất định:
Tuỳ theo khối lượng vốn ODA và loại hình viện trợ mà vốn ODA có thể kèm theo những điều
kiện ràng buộc nhất định. Những điều kiện ràng buộc này có thể là ràng buộc một phần và cũng
có thể là ràng buộc toàn bộ về kinh tế, xã hội và thậm chí cả ràng buộc về chính trị. Thông
thường, các ràng buộc kèm theo thường là các điều kiện về mua sắm, cung cấp thiết bị, hàng hoá
và dịch vụ của nước tài trợ đối với nước nhận tài trợ. Ví dụ, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu
khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hóa và dịch vụ của nước mình… Canada yêu cầu cao nhất,
tới 65%. Thụy Sĩ chỉ yêu cầu 1,7%, Hà Lan 2,2%, hai nước này được coi là nhữngnước có tỷ lệ
ODA yêu cầu phải mua hàng hóa và dịch vụ của Nhà tài trợ thấp. Nhìn chung, 22% viện trợ của
DAC phải được sử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ của các quốc gia viện trợ. Nguồn vốn
ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và lợi ích của nước viện trợ. Các nước
viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị,
vừa thực hiện xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ.
- ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ:
Vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc
trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, các nước nhận ODA phải sử dụng sao cho có
hiệu quả, tránh lâm vào tình trạng không có khả năng trả nợ.

/;!<=".$3:456
/)!>"&?!!@&
- ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp vốn ODA mà nước tiếp nhận không phải hoàn trả
lại cho các Nhà tài trợ.
- ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): là khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi
suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo đảm “yếu tố không hoàn lại” (còn gọi là “thành tố
hỗ trợ”) đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay
không ràng buộc;
- ODA vay hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được cung
cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại, nhưng tính chung lại có “yếu tố không hoàn
lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không
ràng buộc.
/,!>"3:@A
BODA song phương: là nguồn vốn ODA của Chính phủ một nước cung cấp cho Chính phủ
nước tiếp nhận. Thông thường vốn ODA song phương được tiến hành khi một số điều kiện ràng
buộc của nước cung cấp vốn ODA được thoả mãn.
- ODA đa phương: là nguồn vốn ODA của các tổ chức quốc tế cung cấp cho Chính phủ nước
tiếp nhận. So với vốn ODA song phương thì vốn ODA đa phương ít chịu ảnh hưởng bởi các áp
lực thương mại, nhưng đôi khi lại chịu những áp lực mạnh hơn về chính trị.
//!>"8:$&C(DE-F
- ODA hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể. Nó có thể là
hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho vay ưu đãi.
- ODA phi dự án: Bao gồm các loại hình sau:
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ
hàng hóa, hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hóa được chuyển qua hình thức này có thể được
sử dụng để hỗ trợ ngân sách.
+ Hỗ trợ trả nợ (hỗ trợ ngân sách).
- ODA hỗ trợ chương trình: là khoản vốn ODA dành cho một mục đích tổng quát với thời gian
nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.
/GHI&!>"+F8?!

- Hỗ trợ cơ bản: Là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh
tế, xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho vay ưu đãi.
- Hỗ trợ kỹ thuật: Là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công nghệ, xây dựng
năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư, phát triển thể chế và
nguồn nhân lực… hình thức hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ không hoàn lại.
/JHI&!>"8$ $%
- ODA không ràng buộc nước nhận: việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc bởi
nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.
- ODA có ràng buộc nước nhận:
+ Bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là việc mua sắm hàng hóa, trang thiết bị hay dịch vụ bằng
nguồn vốn ODA chỉ giới hạn cho một số công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối
với viện trợ song phương) hoặc các công ty của các nước thành viên (đối với viện trợ đa
phương).
+ Bởi mục đích sử dụng: Chỉ được sử dụng cho một số lĩnh vực nhất định hoặc một số dự
án cụ thể.
GK!C(8$9+2:456
• 8$9+
-Lãi suất thấp (dưới 20%, trung bình từ 0.25%năm)
-Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian
ân hạn 8-10 năm)
-Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của
tổng số vốn ODA.
• !C(8$9+
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị
trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo
đuổi mục tiêu chính trị Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà
họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát
triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).Ví dụ:
- Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các
ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước

tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh
mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực
tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời
cao
- Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với
việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không
cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án
và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên
nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá
cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới).
- Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu
tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp
nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
- Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các
danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực
tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ
chuyên gia.
- Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng
vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá
trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các
công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình
trạng nợ nần.
  L  MN O    P  *4Q  0R MS  456
M464NP)TT/B,U),
 3456!2VW
Trong thời gian qua, cộng đồng tài trợ tại Việt Nam đã được mở rộng rất nhiều, số
lượng nhà tài trợ ODA cho Việt Nam ngày càng tăng. Hiện nay có 51 nhà tài trợ ODA cho
Việt Nam bao gồm 28 nhà tài trợ song phương, 23 nhà tài trợ đa phương và khoảng 600 tổ
chức phi chính phủ đang hoạt động thường xuyên tại Việt Nam. Ngoài các nước là thành

viên của Tổ chức OECD-DAC còn có các nhà tài trợ mới nổi như Trung Quốc, Ấn độ,
Hung-ga-ri, Séc,
- Các nhà tài trợ song phương: Ai-xơ-len, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Ca-na-đa, Cô-oét, Đan
Mạch, Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Hungari, I-ta-lia, Luc-xem-bua, Mỹ, Na-uy, Nhật Bản, Niu-
di-lân, Ôt-xtrây-lia, Phần Lan, Pháp, Séc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ,
Trung Quốc, Singapo.
- Các nhà tài trợ đa phương:
+ Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ: nhóm Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu
(NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Quỹ Phát triển quốc tế của các nước xuất khẩu dầu
mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ OPEC), Quỹ Kuwait.
+ Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ: Ủy ban châu Âu (EC), Quỹ Dân số Liên hợp quốc
(UNFPA), Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Cơ quan Phòng chống ma tuý
và tội phạm Liên hợp quốc (UNODC), Quỹ Đầu tư Phát triển Liên hợp quốc (UNCDF),
Quỹ môi trường toàn cầu (GEF), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO), Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
Bảng 1: X&D:!K&K$&'(=YK=Z![C&$\
!K&K$&'( &$\&"K] &$\0$%&+
Nhật Bản Hạ tầng kinh tế và dịch vụ Hạ tầng kinh tế và dịch vụ
CHLB Đức
Phát triển kinh tế, cải thiện điều kiện
sống
Hỗ trợ cải cách kinh tế, phát triển hệ
thống GT

Tăng trưởng kinh tế, ổn định dân số và
sức khỏe
Cứu trợ nạn nhân chiến tranh và trẻ em
mồ côi

Pháp
Phát triển đô thị, GTVT, giáo dục,
khai thác mỏ
Phát triển nhân lực, GTVT, thông tin
liên lạc
Canada
Cơ sở hạ tầng, phát triển khu vực tư
nhân môi trường
Hỗ trợ kinh tế và tài chính, hỗ trợ thiết
chế và quản lý
Thụy Điển
Môi trường và biến đổi khí hậu; Dân
chủ và quyền con người.
Môi trường và biến đổi khí hậu; Dân
chủ và quyền con người; Chống tham
nhũng.
Thụy Sĩ
Hạ tầng kinh tế; môi trường; đào tạo
nguồn nhân lực;
Đào tạo nhân lực; phát triển đô thị; môi
trường; xóa đói, giảm nghèo; cải cách
hành chính công
Anh Nhiều lĩnh vực Xóa đói giảm nghèo, GTVT
WB
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng
phúc lợi
Xóa đói giảm nghèo, GTVT
ADB
Tạo việc làm, thêm cơ hội cho người
nghèo, người yếu thế

Tạo việc làm, thêm cơ hội cho người
nghèo, người yếu thế
IMF
Cân bằng về mậu dịch quốc tế, ổn định
tỉ giá hối đoái
Hô trợ cán cân thanh toán và điều chỉnh
cơ cấu
EU
Giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo,
bình đẳng.
Giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo, bình
đẳng; Hỗ trợ cộng đồng dân tộc thiểu số.
 ^!!^!!V8X:456
) _V+`:456!V8X$$8".)TT/B,U),
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển (ODA) có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội (KT-XH) và có đóng góp không nhỏ vào sự phát triển bền vững của nước ta.
Việt Nam đã đạt được khá nhiều thành tựu trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn
này qua từng năm, đặc biệt trong những năm gần đây, khi tình hình thế giới có nhiều biến
đổi bất lợi cho việc gia tăng viện trợ thì cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế vẫn thể hiện sự
cam kết cao và sự ủng hộ mạnh mẽ trong việc hỗ trợ sự nghiệp phát triển KT - XH và giảm
nghèo của Việt Nam.
Theo tập quán tài trợ quốc tế, hàng năm các nhà tài trợ tổ chức Hội nghị viện trợ quốc tế để
vận động tài trợ cho các quốc gia đang phát triển. Đối với Việt Nam, các hội nghị viện trợ
được gọi là Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (Hội nghị CG).
Tổng vốn ODA ký kết trong các điều ước quốc tế cụ thể từ năm 1993 đến 2012 đạt trên 58,4
tỷ USD, chiếm 71,69% tổng vốn ODA cam kết, trong đó vốn vay ưu đãi đạt 51,6 tỷ USD và
chiếm khoảng 88,4%, vốn ODA không hoàn lại đạt 6,76 tỷ USD và chiếm khoảng 11,6%.
Trong hai thập kỷ qua, tổng nguồn vốn ODA giải ngân đạt 37,59 tỷ USD, chiếm trên
66,92% tổng vốn ODA ký kết.
Qua biểu đồ trên ta thấy bắt đầu từ năm 2002 trở đi nguồn vốn ODA cam kết tăng nhanh,

đạt đỉnh điểm vào năm 2009 là 8 tỷ USD gấp khoảng 4,4 lần so với năm 1993. Vì đây là
thời kì khủng hoảng kinh tế. Từ năm 2009 tới nay, tuy nguồn vốn ODA cam kết có giảm
nhưng vẫn ở mức cao.Có thể thấy mức giải ngân vốn ODA đã có tiến bộ qua các năm song
chưa tương xứng với mức cam kết.
Riêng 2 năm trở lại đây, nhờ quyết tâm cao của Chính phủ, nỗ lực của các ngành, các cấp
và nhà tài trợ, giải ngân của một số nhà tài trợ quy mô lớn (Nhật Bản, Ngân hàng Thế
giới - WB) đã có tiến bộ vượt bậc. Tỷ lệ giải ngân vốn ODA của Nhật Bản tại Việt Nam
năm 2011 đứng thứ nhì và năm 2012 đứng thứ nhất thế giới, tỷ lệ giải ngân của WB tại
Việt Nam tăng từ 13% năm 2011 lên 19% năm 2012.
, ^!!^!!V8X:456&a!K&K$&'(
Việc thu hút vốn ODA từ các nhà tài trợ cho Việt Nam trong những năm qua đã có những
bước khởi sắc, việc này được thể hiện qua bảng vốn ODA cam kết của một số nhà tài trợ lớn:
Nhật Bản là nhà tài trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam trong giai đoạn 1993-2012 với
khoảng 19,81 tỷ USD. Pháp đứng thứ hai với 3,91 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ ba với 2,33
tỷ USD.
WB đứng đầu trong nhóm 6 ngân hàng phát triển với khoảng 20,1 tỷ USD. Ngân hàng Phát
triển châu Á (ADB) đứng thứ hai với 14,23 tỷ USD vốn ODA cam kết.
Từ biểu đồ cam kết vốn ODA cam kết của một số nhà tài trợ thời kỳ 1993 - 2012 cũng
cho thấy lượng vốn ODA cam kết cho Việt Nam tập trung vào một số nhà tài trợ chủ yếu.
Ta có thể thấy điều này rõ hơn qua biểu đồ tỉ trọng vốn ODA huy động từ các nhà tài trợ:
Mặc dù VN có quan hệ với hơn 50 nhà tài trợ song phương và đa phương nhưng 3 nhà
tài trợ lớn là Nhật, WB, ADBđã chiếm tới hơn 70% nguồn vốn tài trợ, chỉ có 23% lượng
vốn cam kết là của các quốc gia và tổ chức tài trợ khác.
Cuối năm 2009, nền kinh tế thế giới đã có những tín hiệu tích cực sau khủng hoảng,
đặc biệt các nền kinh tế trong khu vực Châu Á như Trung Quốc, Singapore, đang phục hồi
mạnh mẽ, các nhà tài trợ như ADB, Nhật Bản đã có các chính sách mới và phù hợp giúp
Việt Nam phục hồi kinh tế và lấy lại đà tăng trưởng như việc ADB cho Việt Nam vay 500
triệu USD nhằm khắc phục các tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và hỗ
trợ các cải cách chính sách hướng đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo; Nhật
Bản cung cấp khoản vay trị giá 54,9 tỷ Yên (tương đương 568 triệu USD) giúp Việt Nam

phục hồi kinh tế sau khủng hoảng và chuẩn bị cho những bước phát triển mạnh tiếp theo sau
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu,…Đây là sự hỗ trợ rất kịp thời và có ý
nghĩa mà cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế dành cho Việt Nam.
Về chính sách viện trợ của các nhà tài trợ: chính sách chung của các nhà tài trợ tại
Việt Nam là hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển ưu tiên của Chính phủ Việt Nam trong
các lĩnh vực kinh tế, xã hội; xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, mỗi nhà tài trợ quốc tế đều có
điểm nhấn riêng trong chính sách hỗ trợ phát triển của mình đối với Việt Nam tuỳ thuộc vào
quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam, quy mô viện trợ cũng như định hướng chính sách
tài trợ ưu tiên trong từng thời kỳ.
/ ^!!^!!V8X456K"K!b=Z![
Lĩnh vực giao thông vận tải và bưu chính viễn thông được ưu tiên tiếp nhận và sử dụng
nguồn vốn ODA lớn nhất trong tổng số 7 lĩnh vực khoảng 16,47 tỷ USD, trong đó 15,9 tỷ
USD là ODA vốn vay.
Trong thời kỳ 1993-2012, ngành giao thông vận tải đã hoàn thành và đang thực hiện 132
dự án, trong đó đã hoàn thành 83 dự án với vốn ODA đạt 5 tỷ USD và đang thực hiện 49
dự án với số vốn ODA khoảng 12 tỷ USD.
Ngành năng lượng và công nghiệp có tổng vốn ODA được ký kết trong thời kỳ 1993-2012
đạt khoảng 10 tỷ USD, trong đó viện trợ không hoàn lại không đáng kể, khoảng 0,1%. Tổng
số nhà tài trợ là 32, trong đó có 26 nhà tài trợ song phương và 6 nhà tài trợ đa phương.
Lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo nhận được nguồn
vốn ODA đứng thứ ba với tổng trị giá ký kết khoảng 8,85 tỷ USD (ODA vốn vay: 7,43 tỷ
USD, ODA viện trợ không hoàn lại: 1,42 tỷ USD).
G ^!!^!!V8X456K"cb=d!&!
Hiện vẫn tồn tại tình trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA không đồng đều giữa các
tỉnh trên địa bàn các vùng trong cả nước trong đó vùng đồng bằng sông Hồng tiếp nhận
nguồn vốn ODA lớn nhất với 10,42 tỷ USD và vùng Tây Nguyên tiếp nhận nguồn vốn
ODA thấp nhất với 1,36 tỷ USD.
,/!$&^!!^!!V8X:45620$%&+&'"&!e$$
Tình hình chính trị, xã hội ổn định; vị thế trên trường quốc tế không ngừng được nâng
cao; kinh tế tiếp tục hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới; môi trường thể chế, pháp

lý được cải thiện và tiệm cận với thông lệ quốc tế; quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam với
cộng đồng tài trợ quốc tế không ngừng được củng cố và phát triển, là những thuận lợi cơ bản
của Việt Nam trong việc thu hút nguồn vốn ODA.ODA là nguồn tài chính công của chính
phủ,với các khoản vay ưu đãi bình quân chiếm khoảng 80% cơ cấu vốn ODA dành cho Việt
Nam, do vậy cần thiết phải tăng cường kiểm tra giám sát và đánh giá.
f($&!W
- Thông qua công tác vận động và thu hút ODA, ta đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của
bạn bè quốc tế đối với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế-xã hội của Đảng và Nhà
nước ta, góp phần củng cố và nâng vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
- Tranh thủ được nguồn vốn vay ODA có ý nghĩa, song khả năng trả nợ nước ngoài của ta ước
tính sẽ bền vững trong trung và dài hạn.
- Cải cách chính sách kinh tế được triển khai theo lịch trình phù hợp với chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, ngân sách Nhà nước được hỗ trợ, hiệu quả và uy tín của các định
chế tài chính trong nước được cải thiện… Đó là một mặt được hơn nữa của ODA thông
qua các khoản vay chương trình của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), WB, ADB. Trong 10 năm qua,
ta vay các khoản vay chương trình với các điều kiện ưu đãi như: khoản vay tín dụng dự phòng
(SBA), thể thức chuyển đổi cơ cấu (STF), thể thức điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF), thể
chế tăng cường và xóa đói giảm nghèo (PRGF); của WB như: tín dụng điều chỉnh cơ cấu
(SAC-a), chương trình tín dụng Hỗ trợ giảm nghèo (PRSC), Dự án tài chính nông thôn 1, Dự
án tài chính nông thôn 2; của ADB như : Khoản vay chương trình cải cách Doanh nghiệp Nhà
nước và Quản trị công ty (SCPL), Khoản vay chương trình Tài chính 2 (FSPL-2), Dự án tài
chính nông thôn, Dự án tín dụng nông thôn. Tổng giá trị các khoản vay chương trình này đạt
hơn 1,6 tỷ USD. Nhiều nhà tài trợ song phương cũng cung cấp ODA không hoàn lại cho các
chương trình này.
f.!WKVW g+
Qua 20 năm tiếp nhận ODA, thực tế cũng đã chỉ ra còn nhiều hạn chế trong việc tiếp
nhận, sử dụng hiệu quả nguồn lực này, thể hiện ở những điểm sau:
Một là, năng lực hấp thụ nguồn vốn ODA còn kém, chưa đáp ứng được yêu cầu. Có thể
nhìn nhận thực trạng này thông qua tỷ lệ giải ngân so với nguồn vốn ODA đã ký kết
trong 20 năm qua chỉ đạt khoảng 67%. Riêng thời kỳ 2006-2010, khoảng 7 tỷ USD vốn

ODA đã ký kết, nhưng chưa giải ngân, trong đó có nhiều chương trình, dự án được
hưởng các điều kiện tài chính ưu đãi cao phải chuyển tiếp sang thời kỳ 2011-2015.
Nhiều chương trình và dự án chậm tiến độ, nhiều trường hợp phải xin gia hạn. Do chậm
tiến độ thực hiện, mà một số dự án bị cắt giảm, hủy một số hạng mục, hoặc phải tái cấu
trúc toàn bộ dự án, gây ảnh hưởng xấu tới hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.
Hai là, thiết kế của một số chương trình, dự án ODA chưa sát với thực tế Việt Nam nói
chung và của các địa phương nói riêng. Một số dự án ODA thí điểm những mô hình phát
triển, như: tín dụng quy mô nhỏ, quản lý và kinh doanh nước sạch, phát triển sinh kế, bảo
vệ và phát triển rừng , nhưng chỉ hoạt động khi còn dự án, mà không nhân rộng được và
áp dụng trong thực tế sau khi dự án kết thúc.Đồng thời, trong cùng một lĩnh vực như xóa
đói giảm nghèo, các nhà tài trợ áp dụng các mô hình khác nhau, dẫn đến trùng lặp, kém
hiệu quả và lãng phí nguồn lực của địa phương, cũng như của các nhà tài trợ.
Ba là, việc lồng ghép các chương trình và dự án của Chính phủ trên địa bàn với các
chương trình và dự án ODA, nhiều khi có sự trùng lặp, có những nội dung gần nhau, như:
xóa đói giảm nghèo, giao thông nông thôn, nước sạch nông thôn làm hạn chế hiệu quả
nguồn vốn.
Thực tế đã xảy ra trên cùng một địa bàn thôn, xã có nhiều công trình cùng một lĩnh vực
do nhiều nguồn vốn tài trợ, song chính quyền địa phương không đủ năng lực quản lý và
thiếu nguồn tài chính nhằm duy trì hoạt động của các công trình này một cách có hiệu
quả để phục vụ lâu dài cho người dân
Bốn là, nhiều bộ, ngành và địa phương để xảy ra những vụ việc vi phạm các quy định
quản lý ODA của Chính phủ và của nhà tài trợ, có tình trạng tham nhũng gây ảnh hưởng
đến uy tín quốc gia.
Năm là, sự phối hợp trong nội bộ các bộ, ngành, giữa Trung ương, địa phương và các nhà
tài trợ chưa thật sự thông suốt, nhất là các lĩnh vực có sự tham gia của nhiều nhà tài trợ
hoặc các chương trình, dự án đa ngành đa cấp và đa mục tiêu.
Sáu là, tổ chức quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp. Năng lực và trình độ chuyên môn
của đội ngũ cán bộ tham gia quản lý dự án còn hạn chế, nhất là ở các địa phương.
/Q;h;ijO0k456
Để thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA trong thời gian tới, nhất là trong bối

cảnh Việt Nam đã trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, cần phải thực hiện
tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cần đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn đối ứng cho các chương trình và dự án
ODA để đạt tỷ lệ giải ngân cao nhất và nhanh nhất, đây là điều rất cấp thiết với Việt
Nam. Thiếu nguồn lực đối ứng, gồm tài chính và nguồn vốn con người có năng lực, thì
khó mà thành công trong sử dụng ODA có hiệu quả cao để phục vụ các mục tiêu phát
triển. Dù là ODA vốn vay hay viện trợ không hoàn lại đều đòi hỏi những chi phí trong
nước mới có thể hiện thực hóa được vốn ODA trở thành những kết quả phát triển cụ thể.
Thứ hai, xu thế nguồn vốn ODA không hoàn lại và có lãi suất ưu đãi giảm đi khi Việt
Nam trở thành nước thu nhập trung bình thấp, thay vào đó phải sử dụng vốn vay kém ưu
đãi. Vì thế, việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay này đòi hỏi Việt Nam phải tăng cường
năng lực và cải tiến mạnh mẽ tình hình thực hiện dự án, sử dụng tập trung hơn để đầu tư
xây dựng hạ tầng kinh tế và xã hội quy mô lớn, có giá trị và tạo ra tác động lan tỏa đối
với sự phát triển chung của cả nước.
Thứ ba, hoàn thiện các văn bản pháp lý, đổi mới trong quy trình và thủ tục quản lý dự án
ODA trên cơ sở kết hợp tham khảo những quy chuẩn của các nhà tài trợ, nhất là trong ba
khâu công việc quan trọng: đấu thầu mua sắm; đền bù, di dân và tái định cư; quản lý tài
chính của các chương trình, dự án dẫn đến tình trạng trình duyệt “kép”.
Thứ tư, trong quan hệ hợp tác phát triển mới, các mô hình viện trợ mới sẽ được áp dụng
nhiều hơn, sự tham gia của khu vực tư nhân và các tổ chức phi chính phủ được khuyến
khích. Do vậy, Chính phủ cần có những chính sách và thể chế thích hợp để tạo môi
trường cho các mô hình, phương pháp tiếp cận mới. Bên cạnh đó, cần hợp tác chặt chẽ
với các nhà tài trợ để sử dụng một cách hợp lý các cách tiếp cận và mô hình viện trợ mới,
nhất là hỗ trợ ngân sách trong tiếp nhận tài trợ để nâng cao hiệu quả sử dụng, giảm bớt
các thủ tục và góp phần cải thiện các hệ thống quản lý công của Việt Nam theo chuẩn
mực và tập quán quốc tế.
Thứ năm, cần xác định các ưu tiên đầu tư khi sử dụng ODA và nâng cao công tác giám
sát, theo dõi và đánh giá dự án. Bởi, bản chất ODA vẫn là khoản vay và có nghĩa vụ phải
trả nợ, nên cần loại bỏ tư tưởng “xin” ODA trong một bộ phận cán bộ ở các cấp, kể cả
cán bộ lãnh đạo chưa hiểu rõ vai trò và bản chất của ODA, dẫn đến chưa quan tâm đầy đủ

đến việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn này. Do đó, cần nâng cao năng lực và nhận thức
cho đội ngũ tham gia quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA./.
*l
Qua việc đánh giá nguồn thu NSNN từ các khoản viện trợ trong thời gian qua, đặc biệt là
nguồn thu từ ODA, ta thấy rằng ODA có một vai trò quan trọng hỗ trợ cho quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của Việt Nam và trên thực tế những chương trình , dự án thu hút và sử dụng vốn
ODA được thực hiện đã tập trung vào những lĩnh vực đầu tư vừa có tính xúc tác, vừa mang tác
dụng trước mắt đòng thời là cơ sở lâu dài cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tính đến nay
tổng số vốn ODA mà cộng đồng quốc tế dành cho Việt Nam rất lớn và có xu hướng tăng đều
qua các năm.
Nguồn vốn viện trợ nước ngoài nói chung và nguồn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA)
nói riêng có tác dụng rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.Để phát triển
kinh tế với tốc độ nhanh trong khi quy mô nền kinh tế nhỏ đang thiếu vốn nghiêm trọng và tiết
kiệm trong nước còn quá thấp thì cần phải bổ sung vốn đầu tư bằng khối lượng lớn nguồn vốn
nước ngoài rất cần thiết để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đạihoá, phát triển để hoà nhập với
nền kinh tế thế giới, thì chúng ta cần phải tranh thủ nguồnvốn viện trợ phát triển chính thức
ODA. Muốn vậy Nhà nước ta cần có các chính sách phù hợp, tổ chức nhận vốn ODA cũng phải
có định hướng đúng đắnvà thận trọng để thu hút và sử dụng nguồn ODA có hiệu quả hơn và có
những biện phápthực hiện các chính sách đó một cách triệt để và hợp lí. Có như vậy chúng ta
mới sử dụngvà quản lí có hiệu quả nguồn vốn này, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và đi lên
theo định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã vạch ra
Việt Nam là một trong các quốc gia tiếp nhận vốn ODA có nhiều nỗ lực trong vấn đề
quản lý hiệu quả nguồn vốn này. Song, thực tiễn cho thấy còn rất nhiều bất cập trong lĩnh vực
này. Hy vọng rằng các ý kiến đề xuất của những nhà nghiên cứu, sự quan tâm thích đáng từ phía
Chính phủ và Quốc hội, tính chuyên nghiệp của bộ phận làm công tác quản lý ODA thật sự
mang lại tác dụng, đem lại sự an tâm nơi người dân và cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế

×