Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

GIẢI QUYẾT VIỆC làm CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH đô THỊ hóa ở TỈNH NAM ĐỊNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.21 KB, 99 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ
HÓA Ở TỈNH NAM ĐỊNH 11
1.1. Những vấn đề chung về giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa 11
1.2. Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp tỉnh Nam Định trong quá trình đô thị hóa 28
Chương 2 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG
NGHIỆP TỈNH NAM ĐỊNH TRONG QUÁ TRÌNH
ĐÔ THỊ HÓA HIỆN NAY 49
2.1. Một số quan điểm cơ bản nhằm giải quyết vấn đề việc
làm cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định trong quá
trình đô thị hóa 49
2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho
lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định trong quá trình đô
thị hóa hiện nay 57
KẾT LUẬN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
PHỤ LỤC 88
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm của người lao động nói chung, lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp nói riêng là vấn đề có ý nghĩa quan trọng về kinh tế - xã hội và quốc
phòng - an ninh, nên được Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm giải
quyết. Tạo đủ việc làm, tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của người nông dân có tác động mạnh mẽ trong mối quan hệ nhân quả


với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát
triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh của đất nước.
Sau 25 năm thực hiện đổi mới, vấn đề việc làm và thu nhập của người
lao động từng bước được giải quyết theo hướng tuân thủ quy luật khách quan
của kinh tế thị trường, trong đó có thị trường lao động. Tuy nhiên quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn - cùng với nó là tốc độ đô
thị hóa diễn ra mạnh mẽ, làm nảy sinh nhiều vấn đề mới cả về lý luận và thực tiễn
giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp cần quan tâm giải quyết.
Nam Định là tỉnh trọng điểm nông nghiệp của đồng bằng sông Hồng,
với diện tích đất nông nghiệp 106.701 ha, dân số trên 2 triệu người, tổng
nguồn lao động chiếm trên 51%. Mặc dù quyết tâm bứt phá bằng công nghiệp
và dịch vụ (biểu hiện rõ nét nhất là đẩy mạnh quy hoạch, xây dựng các khu,
cụm công nghiệp tập trung, các khu đô thị mới), nhưng nông nghiệp vẫn được
xác định là một trong ba ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, mở cửa hội nhập của cả nước, Nam Định sẽ có không gian đô thị rộng và
tốc độ đô thị hóa nhanh. Thực tiễn cho thấy, quá trình đô thị hóa đã trở thành
động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội tỉnh phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng ngày càng hợp
3
lý; tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp
giảm trong tổng GDP, góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Tuy
nhiên, quá trình đô thị hóa ở Nam Định cũng nảy sinh nhiều tác động tiêu cực
như: Sự chuyển dịch và mất cân đối trong cơ cấu kinh tế ngành, vùng do phát
triển theo chiều rộng; hạ tầng kinh tế - xã hội đô thị được xây dựng, phát triển
chưa đồng bộ; đất nông nghiệp bị thu hẹp những vấn đề trên đã ảnh hưởng
không nhỏ đến giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp. Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp có xu hướng gia
tăng, điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến tới sự phát triển kinh tế - xã hội, nhiệm

vụ quốc phòng - an ninh của tỉnh. Góp phần giải quyết các vấn đề bất cập trên,
tác giả đã lựa chọn đề tài: "Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp tỉnh
Nam Định trong quá trình đô thị hóa hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giải quyết việc làm là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Do vậy, đã có nhiều công trình nghiên
cứu về lao động, việc làm trong nước. Tiêu biểu như:
Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp (2001), Chu Tiến
Quang, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tác giả đã phân tích làm rõ vấn đề việc làm ở nông thôn Việt Nam và
cho rằng, việc làm cho người lao động và thất nghiệp là một trong những vấn đề
toàn cầu. Từ đó đưa ra phương pháp tiếp cận tổng quát về chính sách việc làm,
hệ thống khái niệm về lao động, việc làm, đánh giá thực trạng vấn đề việc làm ở
Việt Nam. Nội dung của công trình đã đề xuất hệ thống các quan điểm, giải pháp
giải quyết việc làm và khuyến nghị một số chính sách cụ thể về việc làm, chống
thất nghiệp trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay.
Đô thị hóa ở Việt Nam - từ góc nhìn nông nghiệp, nông thôn, nông dân
(2009), GS. TS. Phùng Hữu Phú, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4
Tác giả cho rằng từ lâu nay, vấn đề đô thị hóa tuy có bàn đến nhưng chưa
được quan tâm đúng tầm, trong khi trên thực tế, làn sóng đô thị đang từng
ngày, từng giờ tác động trực tiếp, nhiều mặt đến nông nghiệp, nông thôn,
nông dân. Đô thị hóa đã làm cho địa bàn nông thôn xuất hiện những khu công
nghiệp, khu chế xuất, trung tâm dịch vụ từ đó tạo nhiều cơ hội cho người
nông dân có thêm ngành nghề mới, tạo thêm việc làm, đời sống văn hóa tinh
thần được nâng lên rõ rệt. Song quá trình đô thị hóa vẫn còn nhiều mâu thuẫn,
thách thức, nhất là vấn đề về quy hoạch, quản lý, sử dụng đất, sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, sự ùn tắc lao động nông nghiệp, văn hóa, môi trường suy
thoái Từ những vấn đề trên, tác giả đã đề xuất một số giải pháp mang tính
khái quát nhằm đảm bảo cho quá trình đô thị hóa ở khu vực nông thôn đi

đúng quy luật khách quan của nó.
Vấn đề bồi thường trong thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, thực trạng
và giải pháp (2007), Nông Mạnh Hải, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tác giả cho rằng, trong những năm vừa qua, quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa ở nước ta đã mang lại nhiều lợi thế
cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống của đại bộ phận người
dân được nâng lên. Công tác bồi thường cho những hộ nông dân bị thu hồi
đất phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa đã được
tiến hành đúng pháp luật. Các cơ quan, ban, ngành thực hiện tốt chức năng
của mình, đảm bảo đáp ứng mong muốn của nhân dân. Song trong công tác
đền bù còn gặp nhiều vướng mắc, nhất là trong đền bù đất nông nghiệp. Từ
thực trạng đó, tác giả đã đưa ra nhiều giải pháp phù hợp, nhằm thực hiện tốt
hơn nữa công tác bồi thường trong thu hồi đất ở Việt nam thời gian tới.
Toàn cầu hoá - cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam
(2002), TS. Nguyễn Bá Ngọc, KS. Trần Văn Hoan, Nxb Lao động - xã
hội, Hà Nội.
5
Các tác giả đã trình bày tổng quan tác động của toàn cầu hoá đến lao
động và các vấn đề xã hội của Việt Nam, những xu hướng vận động của
nguồn nhân lực, lao động, việc làm và phân tích những cơ hội, thách thức đối
với lao động Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Từ đó đề ra các
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động Việt Nam trong xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Thị trường lao động Việt Nam - Định hướng và phát triển (2002), Thạc sĩ.
Nguyễn Thị Lan Hương, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
Tác giả đi từ việc phân tích các luận cứ cơ bản định hướng phát triển và phân
tích sự hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam. Từ đó đề xuất
các giải pháp định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam đến năm 2010.
Sử dụng vốn ngân sách nhà nước để cho vay giải quyết việc làm lao
động nông nghiệp (2007), Luận án tiến sỹ, Đặng Văn Quang, Đại học kinh tế

quốc dân, Hà nội.
Tác giả cho rằng, nông nghiệp là lĩnh vực có sức hấp dẫn vốn kém,
điều này do các đặc điểm của nông nghiệp chi phối. Lao động nông nghiệp,
một khi bị mất việc làm, khi nông vụ nhàn rỗi thì tìm việc làm là khó
khăn hơn các ngành nghề khác. Vì vậy, vốn sử dụng trong giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp có vai trò quan trọng. Tác giả phân tích,
đánh giá thực trạng cho vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp; tổng
kết những kết quả cũng như những tồn tại, đi sâu phân tích nguyên nhân
của những tồn tại cả về cơ chế chính sách lẫn tổ chức thực hiện; cả về phía
Nhà nước và người vay vốn. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp ở
nước ta hiện nay.
Việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh (2006), luận văn thạc
sỹ, Nguyễn Thị Hồng Ninh, Học viện Chính trị quốc gia, Hà nội.
6
Tác giả đã tập trung nghiên cứu đưa ra các quan niệm về việc làm, về
giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn. Luận giải, phân tích thực
trạng việc làm, giải quyết việc làm ở Việt Nam nói chung, của tỉnh Hà Tĩnh
nói riêng và đề xuất những phương hướng và giải pháp giải quyết việc làm
phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh Hà tĩnh hiện nay.
Đề tài Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải quyết
việc làm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (2001), do
PGS.TS Trần Văn Chử làm chủ nhiệm đề tài. Các tác giả của đề tài đã phân
tích làm rõ mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải quyết việc
làm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cho rằng: Việc
nâng cao chất lượng nguồn lao động không chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu của
phát triển, mà còn góp phần giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp. Từ đó, đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ lao động và giải quyết
việc làm ở nước ta trong thời gian tới.
Các bài viết "Lao động việc làm thời kỳ 1991 - 2000 và phương hướng giai

đoạn 2001 - 2010" của TS. Lê Duy Đồng (2001), Tạp chí Lao động và xã hội, số
3 (tr.6-8); "WTO và vấn đề tạo việc làm cho người lao động" của TS. Đinh
Trọng Thịnh (2008), Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 6 (tr.12-14). Trong đó các
tác giả đi sâu làm rõ các vấn đề như: Kết quả giải quyết việc làm, những mặt yếu
kém và bất cập, phương hướng giải quyết việc làm, đặc biệt giải quyết việc làm
cho người lao động trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Cũng đã có nhiều bài báo, tạp chí viết về thực trạng lao động, vấn đề
giải quyết việc làm ở nước ta như:
Văn Lạc (2005), “Nên hiểu thế nào là việc làm bền vững”, Tạp chí Tài
chính tiền tệ, số 9 (tr.4-7); Tuấn Cường (2005), “Thách tức về việc làm cho
người lao động ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lao động và xã hội, số 265 (tr.8-
10); Phan Văn Sơn (2008), “Bình đẳng giới về vấn đề việc làm”, Tạp chí Lao
7
động và xã hội, số 328 (tr.18-21); Trần Đào (2009), “Quan trọng nhất là vấn
đề việc làm”, Tạp chí Kinh tế dự báo, số 4 (tr.14-17); Nguyễn Trọng (2008),
“Đẩy mạnh liên kết trong đào tạo và giải quyết việc làm”, Tạp chí Thương
mại, số 5 (tr.26-28).
Bài viết của các tác giả đề cập đến vấn đề việc làm và giải quyết
việc làm ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó đưa ra một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về việc làm và giải quyết việc làm ở nước ta cũng như ở
một số tỉnh. Từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết việc làm
trong thời gian tới.
Ngoài ra, cũng có một số đề tài, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ viết
về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm ở tỉnh: Hưng Yên, Thái Bình,
Thanh Hoá, Kiên Giang với những cách tiếp cận khác nhau, nhưng chưa
có đề tài, công trình khoa học nào phân tích, đánh giá vấn đề giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định dưới dạng một luận văn
khoa học kinh tế.
Quá trình xây dựng luận văn, trên cơ sở đường lối, quan điểm phát
triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Nam Định, tác giả có

lựa chọn và kế thừa một số kết quả nghiên cứu đã công bố, kết hợp khảo sát
thực tiễn ở nông thôn Nam Định để phân tích thực trạng. Từ đó đưa ra các
giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
3. Mục đích, nhiệm vụ, nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận, thực tiễn về giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa. Trên cơ sở đó,
đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định trong quá trình đô
thị hóa hiện nay.
8
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Đề cập và luận giải những vấn đề liên quan đến giải quyết việc làm
cho lao động nông nghiệp, từ đó làm cơ sở để phân tích tình hình giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định trong quá trình đô thị hóa.
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm giải
quyết tốt hơn việc làm cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định trong quá
trình đô thị hóa hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
tỉnh Nam Định trong quá trình đô thị hóa.
- Luận văn nghiên cứu vấn đề việc làm, giải quyết việc làm, lao động
nông nghiệp, đô thị hóa, trên địa bàn tỉnh Nam Định thời gian từ năm 2005 -
2011 và đưa ra giải pháp chủ yếu cho giai đoạn 2012 - 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước;
các chỉ thị Nghị quyết về lao động, việc làm, đô thị hóa và giải quyết việc làm cho
lao động nông nghiệp của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh

Nam Định. Đồng thời kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học
có liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là phép biện chứng duy vật. Sử
dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp phân tích, so sánh,
thống kê, phương pháp chuyên gia, dựa trên những tài liệu thực tiễn của
các ngành có liên quan đến đối tượng, phạm vi nghiên cứu để làm rõ vấn
đề mà đề tài đề cập.
9
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về
giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa tỉnh Nam
Định hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
các cơ quan chức năng hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Nam Định, cũng như các địa phương khác có điều kiện kinh tế - xã
hội tương đồng.
Có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy, nghiên cứu kinh tế
chính trị, kinh tế quân sự trong các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.
10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở TỈNH NAM ĐỊNH
1.1. Những vấn đề chung về giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp trong quá trình đô thị hóa
1.1.1. Đặc trưng của lao động nông nghiệp và tác động của quá

trình đô thị hóa đến việc làm của lao động nông nghiệp
* Đặc trưng của lao động nông nghiệp
Lao động nông nghiệp mà luận văn đề cập đến được tiếp cận với tư
cách là chủ thể của những quá trình sản xuất nông nghiệp. Lao động nông
nghiệp gắn liền với không gian nông thôn, tư liệu sản xuất cơ bản là đất đai;
sản phẩm làm ra là lương thực, thực phẩm đảm bảo nhu cầu thiết yếu, quyết
định sự tồn tại của con người và xã hội loài người.
Từ vấn đề nêu trên có thể khái quát đặc trưng của lao động nông
nghiệp như sau:
Thứ nhất, nguồn lao động nông nghiệp (số lượng, chất lượng) mang
tính chất tự nhiên
Lao động nông nghiệp là một bộ phận của dân số gắn liền với đặc điểm
của từng gia đình, dân tộc, tôn giáo nguồn lao động nông nghiệp về cơ bản
là do quy mô dân số quyết định. Bởi vì, con người sinh ra, lớn lên và trưởng
thành sẽ là nguồn bổ sung cơ bản lực lượng lao động nói chung và lực lượng
lao động trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. Như vậy, ngay từ đầu, nguồn
lao động nông nghiệp không được "tính toán" từ nhu cầu lao động, từ sự cân
đối giữa lao động với các điều kiện để tạo việc làm trong tương lai như vốn,
tư liệu sản xuất, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu việc làm của xã hội Trong kinh tế
thị trường, cung lao động nông nghiệp thường lớn hơn cầu.
11
Thứ hai, việc làm của lao động nông nghiệp có tính chất thời vụ, thời
gian nông nhàn cao
Do có sự khác biệt giữa sản xuất nông nghiệp với các ngành sản xuất và
dịch vụ khác nên việc làm của lao động nông nghiệp luôn có tính chất thời vụ.
Do đối tượng sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với cây trồng, vật nuôi, nên
quá trình sản xuất nông nghiệp là quá trình gắn kết giữa hoạt động kinh tế của
con người với chu kỳ sinh học của cây trồng, vật nuôi. Chính vì thế, việc làm
của lao động nông nghiệp luôn mang sắc thái riêng so với lao động các ngành
khác. Đó là, tính ngay trong một thời điểm cụ thể (thời vụ), lúc thì nhu cầu lao

động nông nghiệp cao, đó là thời vụ gieo trồng và thu hoạch, còn lại là thời gian
nông nhàn. Vì vậy, tình trạng thiếu việc làm tạm thời của lao động nông nghiệp
là phổ biến. Do thời gian nhàn rỗi tương đối dài, thu nhập thấp, nên lao động
nông nghiệp đều muốn tìm kiếm thêm việc làm là điều tất yếu.
Thứ ba, chất lượng nguồn lao động trong lĩnh vực nông nghiệp thấp
Ở hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam, chất lượng nguồn lao
động nông nghiệp bao giờ cũng thấp hơn so với nguồn lao động ở các ngành
khác. Sự thấp kém này không chỉ thể hiện ở trình độ tay nghề, tư duy kinh tế
mà còn ở cả thể chất, thái độ, hành vi lao động trong đó có một bộ phận
không nhỏ lao động nông nghiệp thiếu cố gắng vươn lên khắc phục khó khăn ỷ
lại vào nhà nước và cộng đồng, vào số phận, ít tìm tòi sáng tạo trong thâm
canh, chuyển đổi vật nuôi, cây trồng Hơn nữa, lao động nông nghiệp chủ yếu
hoạt động ở quy mô hộ gia đình. Do vậy, đây là một trong những khó khăn cho
việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và đưa
nông nghiệp lên sản xuất hàng hóa lớn. Vì thế, khi đất nông nghiệp bị thu hẹp
lại, vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp rất khó khăn.
* Đô thị hóa và tác động của nó đến việc làm của lao động nông nghiệp
Tuy còn có nhiều quan niệm khác nhau về đô thị, nhưng theo cách
hiểu phổ biến hiện nay, đô thị là khái niệm dùng để chỉ phạm vi ranh giới
12
địa chính nội thị của thành phố, thị xã và thị trấn, bao gồm các quận và
phường, không bao gồm phần ngoại thị; là tụ điểm dân cư phi nông nghiệp
và làm chức năng một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của vùng lãnh
thổ, hoặc quốc gia. Trong quá trình phát triển, các đô thị ngày càng được
mở rộng. Việc mở rộng các đô thị diễn ra một cách nhanh chóng trên một
diện rộng được gọi là quá trình đô thị hóa.
Như vậy, đô thị hóa được hiểu, là quá trình thay đổi phương thức hay
hình thức cư trú của con người. Đô thị hóa không chỉ thay đổi phương thức
sản xuất, tiến hành các hoạt động kinh tế, mà còn là sự thay đổi lớn trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội phù hợp với điều kiện sản xuất

công nghiệp và lối sống hiện đại. Đô thị hóa là sự phản ánh những chuyển
biến sâu sắc trong cấu trúc kinh tế và trong các hoạt động của đời sống xã
hội. Có thể nói, đô thị hóa là quá trình biến nông thôn thành thành thị với
tốc độ nhanh, quy mô lớn, là quá trình phát triển lực lượng sản xuất gắn
với phân bố lại lực lượng lao động và thay đổi môi trường sống của cư
dân với mật độ cao, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại. Đô thị hóa là quá
trình biến người nông dân thành lao động phi nông nghiệp trong môi trường
sống, làm việc theo hướng văn minh công nghiệp. Quá trình đô thị hóa là kết
quả tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đô thị hóa
đã và sẽ tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tâm tư, tình cảm, việc làm, thu
nhập, mức sống và lối sống của người lao động và cư dân. Quá trình đô thị
hóa sẽ có những tác động nhất định đến việc làm và giải quyết việc làm của
lao động nông nghiệp. Vấn đề đó được biểu hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, quá trình đô thị hóa làm cho diện tích đất nông nghiệp thu hẹp,
dẫn đến làm giảm, thậm chí mất việc làm của một bộ phận lao động nông nghiệp
Khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang phục vụ sản
xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ và phát triển đô thị, làm xuất hiện
13
một bộ phận không nhỏ những người lao động nông nghiệp bị mất việc
làm do diện tích đất canh tác bị giảm. Đây là vấn đề khó khăn trong giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, bởi vì, đại đa số lao động nông
nghiệp có trình độ học vấn thấp, không có tay nghề, không có vốn để tự tổ
chức việc làm. Hơn nữa, do cách nghĩ, cách làm, lối sống của họ còn mang
nặng sắc thái văn hóa nông thôn, làng, xã truyền thống nên rất hạn chế trong
khả năng thiết lập các mối liên hệ để giải quyết việc làm cho mình, khả năng
tiếp cận các dịch vụ việc làm, khả năng hội nhập với cuộc sống đô thị Những
vấn đề trên đã cản trở lao động nông nghiệp tìm kiếm việc làm mới.
Thứ hai, đô thị hóa tạo cơ hội chuyển đổi việc làm cho lao động nông
nghiệp từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp
Quá trình đô thị hóa phát triển làm cho cầu về lao động ngày càng tăng,

nhiều ngành nghề mới ra đời tạo khả năng giải quyết việc làm cho người lao
động, đó là những ngành nghề trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch
vụ. Ngoài ra, đô thị hóa còn làm thay đổi cơ cấu việc làm theo hướng giảm
việc làm nông nghiệp, tăng việc làm công nghiệp và dịch vụ. Đô thị hóa góp
phần nâng cao trình độ mọi mặt cho người lao động, thúc đẩy thị trường sức
lao động hoạt động sôi nổi hơn Tất cả những điều đó đã tạo ra cơ hội chuyển
đổi việc làm cho lao động, nhất là lao động nông nghiệp. Để làm tốt vấn đề
này, không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân lao động nông nghiệp, mà điều
quan trọng hơn là nhà nước phải có kế hoạch và tổ chức tuyên truyền, đào tạo,
chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động.
Thứ ba, đô thị hóa làm gia tăng sức ép tìm kiếm, chuyển đổi việc làm
và phân bố lại lực lượng lao động xã hội
Cùng với quá trình đô thị hóa, ở nông thôn sẽ diễn ra quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng tỷ lệ
lao động phi nông nghiệp. Đó là sự chuyển dịch tiến bộ, hợp quy luật trên cơ sở
14
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Song
trong thời gian qua, ở nước ta nói chung, ở Nam Định nói riêng, sự chuyển
dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, trong khi giá trị nông nghiệp trong tổng GDP giảm xuống,
nhưng thực tế lao động nông nghiệp vẫn còn ở mức cao. Điều đó chứng tỏ
rằng, công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn phát triển chậm, chưa đủ
sức tạo nhiều việc làm mới để thu hút lực lượng lao động nông nghiệp còn
rất tiềm tàng. Ngoài một bộ phận được tuyển dụng vào các doanh nghiệp
trên địa bàn hoặc đi kiếm việc làm ở các đô thị, các khu công nghiệp lớn, thì
phần lớn lao động nông nghiệp ở khu vực nông thôn vẫn không có hoặc
không đủ việc làm. Một bộ phận lao động nông nghiệp tiếp tục sản xuất
nông nghiệp trong điều kiện đất canh tác ngày càng thu hẹp, một bộ phận
chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp giản đơn, số còn lại sẽ bị thất
nghiệp khi thời vụ nông nhàn do không tìm được việc làm. Từ đó dẫn đến

tình trạng thiếu việc làm, dư thừa lao động, làm cho đời sống của lao động
nông nghiệp ngày càng khó khăn hơn. Quá trình đô thị hóa không chỉ tạo
sức ép về việc làm cho lao động nông nghiệp mà cho cả lao động xã hội nói
chung, vì một bộ phận nông dân không còn đất đổ xô ra thành thị kiếm việc
làm, dẫn đến cung về lao động tăng.
1.1.2. Giải quyết việc làm và các nhân tố ảnh hưởng tới giải quyết việc
làm của lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở tỉnh Nam Định
* Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định trong quá
trình đô thị hóa
Thứ nhất, giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm hiểu theo nghĩa chung nhất là tạo mới và tạo thêm
việc làm cho người lao động. Nói một cách khác là tạo ra cơ hội để người lao
động có hoặc có thêm việc làm, tăng thu nhập, đáp ứng nhu cầu, lợi ích của
bản thân người lao động, của gia đình và cộng đồng.
15
Giải quyết việc làm cho người lao động chính là việc khai thác và sử
dụng có hiệu quả nguồn lực con người. Với tính cách là chủ thể, con người
tiến hành các hoạt động thực tiễn nhằm phát triển kinh tế - xã hội mà trước
hết là phát triển lực lượng sản xuất. Với tính cách là mục tiêu, con người
hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó. Như chúng ta đã biết, có
việc làm đồng nghĩa với có thu nhập. Vì vậy, giải quyết việc làm cho người
lao động, tức là đảm bảo đồng thời ba lợi ích: Nhà nước, tập thể và cá nhân
người lao động. Ngược lại, nếu không có việc làm thì người lao động không
tạo ra thu nhập, không cống hiến được sức lực của mình dẫn đến giảm nhu
cầu hưởng thụ, cản trở sự phát triển của nền kinh tế.
Giải quyết việc làm cho người lao động, giúp họ tham gia vào quá
trình sản xuất là yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bất kỳ một đất
nước nào, giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động và tăng
trưởng kinh tế đều có mối quan hệ nhân - quả với nhau, ngay cả khi quốc
gia đó có điều kiện tự nhiên không thuận lợi, ít tài nguyên, thậm chí bị

thiên tai đe dọa. Do đó, trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc
gia, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động nhằm sử dụng hợp lý
nguồn lực con người đang được thừa nhận là quan trọng và quyết định
nhất đối với một nền kinh tế. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020 Đảng ta đã nhấn mạnh: "Thực hiện tốt các chính sách về lao
động, việc làm, tiền lương, thu nhập nhằm khuyến khích và phát huy cao
nhất năng lực của người lao động. Đảm bảo quan hệ lao động hài hòa, cải
thiện môi trường và điều kiện lao động. Đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc
làm, hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các đối tượng chính sách, người
nghèo, lao động nông thôn và vùng đô thị hóa " [13, tr.125].
Trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức, giải
quyết việc làm, nâng cao chất lượng đội ngũ người lao động càng có ý nghĩa
16
quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh.
Bởi, xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn chặt với nghèo đói. Tỷ lệ thất nghiệp cao
không những thiệt hại lớn cho nền kinh tế, gây nhiều khó khăn cho cuộc sống cá
nhân người lao động, mà còn tiềm ẩn sự mất ổn định xã hội. Rõ ràng, việc làm
và giải quyết tốt việc làm cho người lao động là mục tiêu của sự phát triển kinh
tế - xã hội, đồng thời là động lực của sự phát triển ấy.
Thứ hai, giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định
trong quá trình đô thị hóa
Từ những phân tích về vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nói
chung, tác giả luận văn đưa ra quan niệm về giải quyết việc làm cho lao động
nông nghiệp tỉnh Nam Định trong quá trình đô thị hóa như sau:
Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị
hóa ở Nam Định là quá trình Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức kinh tế,
chính trị - xã hội sử dụng tổng thể các chính sách từ vi mô đến vĩ mô để tạo
thêm việc làm và chuyển đổi nghề cho lao động nông nghiệp dư thừa do quá
trình đô thị hóa, nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập và ổn định đời
sống của lao động nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở tỉnh
Nam Định cần được hiểu trên một số nội dung sau:
Một là, chủ thể giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam
Định trong quá trình đô thị hóa
Chủ thể giải quyết việc làm trong quá trình đô thị hóa ở tỉnh Nam Định gồm
Đảng bộ và chính quyền các cấp, các sở, ban, ngành, các doanh nghiệp và chính
bản thân người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Mỗi lực lượng trên có vai trò
khác nhau trong quá trình tổ chức thực hiện giải quyết việc làm. Trong đó, tổ chức
đảng và chính quyền các cấp của tỉnh là chủ thể quan trọng nhất, là người lãnh đạo,
chỉ đạo và ban hành các cơ chế, chính sách nhằm thực hiện đầy đủ mọi đường lối,
17
chủ trương Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Nam
Định về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình đô thị hóa. Bởi vì, thực hiện đô thị hóa, tỉnh phải thu hồi đất, trong đó đa
phần là đất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu xây dựng các khu, cụm công
nghiệp, dịch vụ, các khu đô thị mới và phát triển kết cấu hạ tầng nhằm thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn của tỉnh. Song, bên cạnh đó, việc thu hồi đất cũng làm cho số lượng lao
động nông nghiệp không có việc làm có xu hướng gia tăng. Vì vậy các tổ
chức đảng và chính quyền các cấp từ tỉnh đến huyện, xã phải là người chịu
trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo toàn bộ việc quy hoạch đô thị và kế hoạch giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa.
Các sở, ban, ngành liên quan là cơ quan trực tiếp tham mưu cho Đảng
bộ, chính quyền tỉnh về công tác quy hoạch phát triển đô thị và các kế hoạch
liên quan tới giải quyết việc làm cho lao động nói chung và lao động nông
nghiệp trong quá trình đô thị hóa nói riêng; tiến hành kiểm tra, giám sát, đôn
đốc quá trình thực hiện. Trong quá trình tổ chức, các sở, ban, ngành cần phối
hợp một cách chặt chẽ, tránh tình trạng mạnh ai người ấy làm. Sở Xây dựng
là cơ quan chuyên môn ngoài chức năng quản lý nhà nước về ngành xây dựng
tại địa phương còn làm tốt chức năng xây dựng kiến trúc quy hoạch xây dựng

đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư, hạ tầng kỹ thuật đô thị. Sở Công
thương thực hiện tốt việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề, khôi phục làng nghề truyền thống;
quy hoạch, quản lý và xây dựng cơ chế chính sách phát triển khu, cụm công
nghiệp; tham gia ban chỉ đạo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Sở Lao động
Thương binh và Xã hội trình Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định chương trình
và các giải pháp về việc làm của tỉnh. Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các
quy định của pháp luật về lao động, việc làm bao gồm: Tuyển lao động, hợp
18
đồng lao động; tổ chức quản lý và sử dụng nguồn lao động; thông tin thị
trường lao động; giải pháp tạo việc làm, giới thiệu việc làm; công tác xuất
khẩu lao động; tiền lương, tiền công, phụ cấp và các hình thức trả lương trả
công lao động và các chế độ vật chất thuộc khu vực sản xuất kinh doanh và
các chính sách lao động, việc làm khác đối với lao động nông nghiệp…ngoài
ra còn một số sở, ban, ngành khác liên quan như: Sở Kế hoạch và đầu tư, Sở
Tài chính, Ban Quản lý các dự án…cần thực hiện tốt chức năng của mình để
đảm bảo vấn đề giải quyết việc làm lao động nông nghiệp trong quá trình đô
thị hóa được thực hiện có hiệu quả.
Các doanh nghiệp là nơi tiếp nhận lao động vào làm việc, trước hết ưu
tiên cho lao động tại địa phương, nhất là số lao động nông nghiệp dư thừa do
đô thị hóa tác động để đảm bảo sự cân đối cung - cầu lao động. Phối hợp cùng
với các tổ chức chính trị - xã hội, các trường chuyên nghiệp, các trung tâm
dạy nghề của tỉnh, của địa phương làm tốt công tác đào tạo nghề, tự đào tạo
nghề cho lao động của nhà máy, xí nghiệp mình và thực hiện tốt các chế độ,
chính sách về lao động việc làm như: Tiền công, tiền lương, bảo hiểm xã hội,
an toàn lao động đối với người lao động.
Người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là chủ thể quan trọng, cần có
tính chủ động cao trong tự giải quyết việc làm cho mình. Mặc dù thực tế cho
thấy, xuất phát từ trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, cộng với thói quen,
phong tục, tập quán của lao động nông nghiệp, nên việc tìm một nghề nghiệp

cho mình khi bị tác động của quá trình đô thị hóa là hết sức khó khăn. Song
không phải là không có cơ hội tìm được việc làm, vì khi các khu công nghiệp
được lấp đầy, các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh, thì ngoài số
lượng lao động nông nghiệp được học nghề và được tuyển chọn vào làm việc
tại các khu công nghiệp, số còn lại vẫn có thể chuyển đổi nghề khác như làm
các nghề dịch vụ, lao động phổ thông như: thương mại, xây dựng, môi trường,
19
cầu đường, mở trang trại, làm những việc tại các làng nghề mà không cần đến
trình độ chuyên môn cao, như vậy sẽ tạo ra thu nhập đảm bảo cho cuộc sống của
bản thân, gia đình trong lúc chưa tìm được việc làm mới có tính ổn định, lâu dài.
Hai là, yêu cầu của quá trình giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp tỉnh Nam Định trong quá trình đô thị hóa
Trong quá trình đô thị hóa, việc thu hồi đất nông nghiệp để chuyển đổi
mục đích sử dụng cần phải được tính toán một cách khoa học, đảm bảo lợi ích
trước mắt và lâu dài. Vấn đề quy hoạch phải gắn chặt với kế hoạch đào tạo, sử
dụng lao động, trong đó kế hoạch về đào tạo, giải quyết việc làm cần phải có
trước khi thu hồi đất. Gắn kết quy hoạch sản xuất nông nghiệp với quy hoạch
phát triển công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn. Tăng cường thu hút đầu tư của
các doanh nghiệp vào các khu công nghiệp và đầu tư vào lĩnh vực nông
nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm mới, giải quyết nhu cầu lao động tại chỗ và
nâng cao thu nhập của lao động nông nghiệp ở khu vực quy hoạch đô thị. Tạo
mọi điều kiện để số lao động nông nghiệp không còn đất canh tác có cơ hội
chuyển đổi nghề nhưng vẫn gắn bó với chính quê hương mình, hạn chế dòng
chuyển cư sang các vùng lân cận và các thành phố lớn. Cùng với quy hoạch
các khu đô thị, tỉnh cần ban hành và thực hiện những chủ trương, chính sách
phù hợp trong việc giải quyết việc làm cho người lao động như: Chính sách
về vốn, thị trường lao động, các chương trình về giải quyết việc làm, cơ
chế chính sách phát triển nghề, làng nghề, thu hút đầu tư Có như vậy mới
tháo gỡ được những khó khăn trong giải quyết việc làm cho lao động nói
chung và lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa của tỉnh nói

riêng. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của Đảng
cũng đã chỉ rõ: "Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi
trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và
nông thôn, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thu hút nhiều
20
lao động. Triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao
động nông thôn mỗi năm" [13, tr.123].
Ba là, nội dung giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam
Định trong quá trình đô thị hóa
Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa
ở Nam Định hiện nay cần tập trung vào một số nội dung sau:
Không ngừng bổ xung hoàn thiện cơ chế chính sách giải quyết việc làm
cho lao động nói chung, lao động nông nghiệp dư thừa không có việc làm do
đô thị hóa nói riêng, trong đó, đặc biệt quan tâm tới số lao động nông nghiệp
bị thu hồi đất. Các chính sách cần được thực hiện tốt trong giải quyết việc làm
như: Chính sách đền bù đất nông nghiệp; chính sách và các chương trình, dự
án đào tạo, chuyển đổi nghề, giải quyết việc làm; chính sách bồi thường, hỗ
trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư
Mở rộng về quy mô, đa dạng về hình thức, nâng cao chất lượng đào tạo
và chuyển đổi nghề cho lao động nông nghiệp. Tăng cường đào tạo nghề cho
lao động nói chung, đặc biệt là lao động nông nghiệp dư thừa không có việc
làm dưới các hình thức như: Mở các lớp đào tạo nghề tại chỗ cho lao động tại
địa phương; liên kết với các trung tâm dạy nghề của tỉnh, của huyện; các
doanh nghiệp tự tổ chức dạy nghề Để làm được việc này, chính quyền các
cấp cần chủ động mở các khóa đào dài hạn theo chương trình đào tạo, kể cả
đào tạo ngắn hạn tại những cơ sở đào tạo nghề chuyên nghiệp để kịp thời
cung cấp nguồn lao động có tay nghề chuyên môn đáp ứng nhu cầu tuyển
dụng của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn, hoặc cung cấp nguồn lao động
cho xuất khẩu lao động. Ngoài ra, cần tích cực mở rộng phát triển công
nghiệp tiểu thủ công nghiệp. Khuyến khích các doanh nghiệp đóng trên địa

bàn ưu tiên tuyển dụng lao động tại địa phương vào làm việc, đặc biệt là số
lao động nông nghiệp bị thu hồi đất do quá trình đô thị hóa. Khôi phục và
21
phát triển các làng nghề truyền thống, khuyến khích, động viên và tạo mọi
điều kiện cho các bậc nghệ nhân, các lao động lâu năm có kinh nghiệm và tay
nghề giỏi tình nguyện tham gia truyền nghề tăng thêm cơ hội việc làm cho lao
động nông nghiệp dư thừa và không có việc làm. Việc chuyển đổi nghề cho
lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở Nam Định cần phải phù
hợp với nhu cầu về lao động của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh và khả
năng của người lao động ở các địa phương. Đồng thời, quá trình chuyển đổi
nghề phải được tiến hành cả trước, trong và sau khi thực hiện các dự án thu
hồi đất nông nghiệp để bảo đảm cho người lao động có việc làm ổn định, lâu
dài, chất lượng cuộc sống tốt hơn so với trước khi thu hồi đất.
Đẩy mạnh sản xuất tập trung quy mô lớn trên cơ sở tăng cường áp
dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong sản xuất nông nghiệp để “tăng
cầu” về lao động. Tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát
triển nhanh các vùng chuyên canh quy mô lớn. Tăng cường tạo những
ngành nghề phù hợp với lợi thế của từng địa phương như trồng hoa, cây
cảnh, trồng rau sạch tại các vùng ven đô thị và phát triển mô hình kinh tế
trang trại để từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở rộng quy
mô, thu hút lao động nông nghiệp đang thiếu việc làm.
Duy trì môi trường sản xuất kinh doanh ổn định, trong đó cần các giải
pháp đồng bộ về quản lý thị trường, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng
cao hiệu quả giải quyết vấn đề việc làm. Giải quyết việc làm cần phải được
quan tâm, xem xét cả phía người lao động, người sử dụng lao động và vai trò
của bộ máy nhà nước.
Như vậy, thực chất của vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở Nam Định hiện nay chính là quá trình
đào tạo, chuyển đổi nghề cho lực lượng lao động nông nghiệp trong quá
trình quy hoạch, phát triển đô thị. Nhằm tạo thêm việc làm, đảm bảo tăng

22
thu nhập, cải thiện và ổn định đời sống của lao động nông nghiệp. Đó cũng
là quá trình giảm thiểu tỉ lệ thất nghiệp và thời gian nông nhàn cho người
lao động trong khu vực đô thị hóa hoặc vùng ven đô, hướng tới sự toàn
dụng nhân công trong nông nghiệp.
Bốn là, đối tượng, mục đích của giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp tỉnh Nam Định trong quá trình đô thị hóa
Để hiện thực hóa quan điểm của Đảng, các cấp ủy Đảng, chính quyền
địa phương và các cơ quan, ban, ngành của tỉnh Nam Định cần xác định rõ
đối tượng giải quyết việc làm chính là người nông dân nói chung và lao
động nông nghiệp nói riêng nằm trong quy hoạch khu, cụm công nghiệp,
khu đô thị, từ đó xác định được mục đích, nội dung, chương trình giải
quyết việc làm cho phù hợp. Mục đích của các chương trình, đề án giải
quyết việc làm là đảm bảo có đủ việc làm cho người lao động nông nghiệp,
để người lao động nông nghiệp ổn định cuộc sống. Đây cũng là nhu cầu
chính đáng của người lao động nói chung, lao động nông nghiệp trong khu
quy hoạch đô thị nói riêng.
Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định trong quá
trình đô thị hóa hiện nay là nhiệm vụ trước mắt nhưng là vấn đề cơ bản, lâu
dài. Trước hết, nhằm ổn định thu nhập, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho lao động nông nghiệp, nhất là số lao động bị thu hồi đất. Nếu vấn
đề này không được thực hiện ngay sau khi quy hoạch, phát triển đô thị thì
cuộc sống của người lao động sẽ bị xáo trộn do việc làm, thu nhập bị thay
đổi, kéo theo là những thay đổi khó lường về mặt xã hội, “nhàn cư vi bất
thiện”. Về lâu dài, giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nhằm mục
tiêu đảm bảo phát triển bền vững kinh tế - xã hội của tỉnh, quốc phòng - an
ninh được củng cố, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn.
23
* Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho lao động nông

nghiệp tỉnh nam Định trong quá trình đô thị hóa
Thứ nhất, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng làm cho diện tích đất
nông nghiệp giảm
Việc làm của lao động nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự
nhiên, đặc biệt là yếu tố đất đai. Quá trình đô thị hóa là quá trình chuyển đổi diện
tích đất sản xuất nông nghiệp thành khu đô thị, khu công nghiệp, dịch vụ. Việc
này được tiến hành không chỉ ở vùng nông thôn nằm trong quy hoạch (khu ven
đô) có đất canh tác chuyển đổi mục đích sử dụng, nông dân không còn
ruộng mà còn ở các vùng tiếp giáp, vùng phụ cận. Các thành phố, thị xã, thị
trấn mới xây dựng hoặc mở rộng cũng phải dành một phần đất sản xuất để
xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như đường giao thông, vành đai
xanh, khu vui chơi giải trí, trường học, bệnh viện Từ đó làm cho người
nông dân thiếu đất sản xuất, nên thiếu việc làm là điều tất yếu xảy ra. Do
vậy, đất đai là yếu tố hết sức cơ bản và cần thiết đối với sản xuất nông
nghiệp và khả năng tạo việc làm cho lao động nông nghiệp của tỉnh Nam
Định hiện nay. Nhiều đất, khả năng tạo việc làm cho lao động nông nghiệp
lớn. Chính vì thế, quá trình đô thị hóa của tỉnh càng nhanh chóng thì nguy
cơ thất nghiệp và thiếu việc làm của lao động nông nghiệp càng gia tăng.
Thứ hai, chất lượng nguồn lực lao động trong nông nghiệp thấp
Ở Nam Định hiện nay, đa số lao động nông nghiệp có trình độ văn hóa,
khoa học - kỹ thuật thấp, do vậy khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn và xây dựng, phát triển các đô thị, thì cơ hội tìm kiếm
công ăn việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp ở các đô thị là
rất khó khăn. Trên thực tế, việc làm ở các đô thị rất đa dạng, bao gồm: Lao
động trong các nhà máy hiện đại; lao động trong các trung tâm kinh tế, văn
hóa, chính trị - xã hội; lao động trong các ngành dịch vụ Ngoài số lao động
24
trong ngành nông nghiệp và một bộ phận không lớn trong một số ngành dịch
vụ có trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật chưa cao, còn lại phần lớn lao
động ở các đô thị là lao động được đào tạo, có trình độ văn hóa, trình độ quản

lý, tri thức về nền kinh tế thị trường cao và rất cao. Điều đó làm cho thị
trường lao động có tính cạnh tranh gay gắt hơn, gây khó khăn trong giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp. Nếu trình độ lao động phù hợp với tiến
trình đô thị hóa, khi đó khả năng giải quyết việc làm cho lao động sẽ thuận
lợi. Ngược lại, nếu trình độ lao động thấp, sẽ gây khó khăn hơn cho việc giải
quyết việc làm. Tiến trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn tỉnh Nam Định hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới
cho người lao động. Ngoài việc được tuyển chọn đào tạo trong môi trường
chuyên nghiệp ra, đòi hỏi người lao động nông nghiệp phải tự đào tạo nâng
cao năng lực, trình độ của mình, nếu không nguy cơ mất việc làm là rất lớn,
cơ hội tìm kiếm việc làm sẽ rất khó khăn, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc
làm là không thể tránh khỏi.
Như vậy, quá trình giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
tỉnh Nam Định trong quá trình đô thị hóa cần thiết phải quan tâm tới việc
đào tạo, đào tạo lại đội ngũ lao động nông nghiệp nói riêng, lao động xã
hội nói chung theo cơ cấu lao động hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn, quy
mô và tốc độ của quá trình đô thị hóa.
Thứ ba, tốc độ gia tăng dân số ở khu vực nông thôn
Hiện nay, tốc độ gia tăng dân số ở nông thôn ở Nam Định cao hơn
nhiều so với khu vực đô thị. Do quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng
làm cho diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người ngày càng thấp,
dẫn đến thu nhập thấp. Mặt khác, đa số người dân nông thôn Nam Định
hiện nay vẫn có tư tưởng “đông con là đông của” dẫn đến tỷ lệ sinh còn
lớn, hệ quả là khả năng tìm kiếm, chuyển đổi việc làm cho lao động nông
25
nghiệp gặp khó khăn (Phụ lục 9). Trong sản xuất nông nghiệp ở Nam Định
hiện nay, ngành trồng trọt vẫn là chủ yếu, tính thời vụ của lao động nông
nghiệp cao. Vì vậy, tốc độ gia tăng dân số ắt sẽ dẫn đến tình trạng thiếu
việc làm, thất nghiệp của lao động nông nghiệp có xu hướng gia tăng, nhất
là khi quá trình đô thị hóa ngày càng phát triển theo quy luật vốn có của nó.

Đây là một thực tế cần sớm có biện pháp khắc phục.
Thứ tư, vốn đầu tư và sự phát triển của khoa học - công nghệ
Vốn đầu tư có ý nghĩa to lớn đối với việc làm của người lao động, vốn
dùng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm máy móc, thiết bị, đào tạo
đội ngũ người lao động Đặc biệt trong điều kiện ngày nay, để phát triển sản
xuất đòi hỏi phải đổi mới nhanh chóng máy móc, thiết bị, tích cực ứng dụng
tiến bộ khoa học - công nghệ. Hơn nữa hoạt động sản xuất, kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, tính rủi ro cao, có vốn
lớn, "trường vốn" đem lại lợi thế cho doanh nghiệp và người sản xuất. Quá
trình đô thị hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cho người lao động có việc làm nâng cao
thu nhập, ổn định đời sống. Song tình trạng thiếu vốn đầu tư đã làm hạn chế
việc mở rộng cơ sở sản xuất hoặc phát triển các ngành nghề mới, thu hút lao
động nông nghiệp không có đất để canh tác do đô thị hóa hoặc một bộ phận lao
động nông nghiệp thiếu việc làm lúc thời vụ nông nhàn. Do đó, việc tự tạo ra
nguồn vốn để tổ chức sản xuất, kinh doanh và giải quyết việc làm cho mình là
rất khó khăn đối với lao động nông nghiệp hiện nay. Để giải quyết vấn đề về
vốn cũng như đầu tư cho ứng dụng khoa học - công nghệ trong sản xuất của
lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa cần phải có sự quan tâm giúp
đỡ của tỉnh cũng như các cấp, các ngành liên quan.
Hơn nữa để giải quyết việc làm phải có tư liệu sản xuất, muốn có tư liệu
sản xuất phải có vốn đầu tư. Nếu cấu tạo C/V không thay đổi thì vốn đầu tư tăng,
việc làm sẽ tăng và ngược lại. Song trên thực tế C/V luôn có xu hướng tăng
26

×