Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

chính sách tiền tệ của việt nam năm 2011-2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.21 KB, 14 trang )

CHUYÊN ĐỀ: TÌM HIỂU VỀ CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2011-2012
NHãM 5:
TRƯƠNG THỊ MẾN
NGUYỄN THỊ TRÂM
ĐỖ THỊ KIM Trang
NGUYỄN THỊ HOÀNG YẾN
Hanoi,2013
Phụ lục
I. KHÁI QUÁT CHUNG
I.1 Khái niệm và vị trí của
chính sách tiền tệ
I.2 Các công cụ của chính sách
tiền tệ
II. Thực trạng điều chỉnh chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai
đoạn 2011-2012
2.1 Chính sách tiền tệ của Việt Nam năm 2012
2.2 Chính sách tiền tệ của Việt Nam năm 2012
III. Đánh giá về ưu,nhược điểm trong việc sử dụng chính sách
tiền tệ của nhà nước ta giai đoạn 2011-2012
3.1 Ưu điểm
3.2 Nhược Điểm
IV. Những giải pháp nhằm
nâng cao sử dụng chính sách tiền tệ một cách hiệu quả cho
những năm tới.
I. KHÁI QUÁT CHUNG
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kỳ quan trọng của
nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô
như: công an việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát Để đạt được các mục tiêu
của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết


định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ
của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền
kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào,
sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường
xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều
hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối
cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính
sách tiền tệ cụ thể là các công cụ chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cao.
Dưới đây là phần trình bày của nhóm 5 về “Chính sách tiền tệ được áp dụng
ở Việt Nam giai đoạn 2011-2012”.
1.1 Khái niệm và vị trí của CSTT.
Khái niệm: CSTT là một chính sách kinh tế vĩ mô do NHTW khởi thảo và thực
thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình để đạt được các mục tiêu: Ổn định
giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế.
Vị trí: Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước thì CSTT là
một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào
lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính
sách kinh tế vĩ mô khác như: Chính sách tài khóa, chính sách thu nhập,
chính sách kinh tế đối ngoại, Đối với NHTW việc hoạch định, thực thi
chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm
làm cho CSTT quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.
1.2 Mục tiêu của CSTT.
Ổn định giá trị đồng tiền.
Tăng công ăn việc làm.
Tăng trưởng kinh tế.
Ngăn ngừa lạm phát.
1.3 Các công cụ của CSTT.
1.3.1 Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng trung ương

đối với ngân hàng thuơng mại. Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM, NHTW
đã tăng luợng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho NHTM tạo bút tệ và khai
thông khả năng thanh toán của họ.
1.3.2 Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số luợng phuơng tiện cần vô hiệu
hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho
vay) của các NHTM.
1.3.3 Công cụ nghiệp vụ thị truờng mở: là hoạt động NHTW bán giấy tờ có giá
ngắn hạn trên thị truờng tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh
huởng đến khối luợng dự trữ của các NHTM dẫn đến làm tăng hay giảm khối
luợng tiền tệ.

1.3.4 Công cụ lãi suất tín dụng: đây đuợc xem là công cụ gián tiếp trong thực
hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm
hay giảm bớt luợng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm
sản xuất. Nó là công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất đựơc hiểu là tổng thể
những chủ truơng chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm điều tiết lãi
suất trên thị truờng tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.

1.3.5 Công cụ hạn mức tín dụng: là công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành
chính của NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín
dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM phải
chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
1.3.6 Tỷ giá hối đoái: là tương quan giữa sức mua đồng tiền nội tệ với đồng tiền
ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa biểu hiện quan hệ cung
cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái vừa là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại
tệ , tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong
nước.
II. Thực trạng điều chỉnh chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2011-
2012
2.1 Thực trạng điều chỉnh chính sách tiền tệ ở Việt Nam năm 2011

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô có nhiều bất ổn, CSTT thắt chặt đã được áp dụng với
các giải pháp hành chính hỗ trợ là một lựa chọn hợp lý trước các bất ổn gia tăng
trong nền kinh tế. Tuy nhiên, những bất ổn trên thế giới, kéo theo sự leo thang của giá
vàng, giá NVL thế giới và giá vàng, giá tiêu dùng trong nước, cộng với việc siết chặt
tiền tệ tín dụng khá đột ngột (các ngân hàng thương mại (NHTM) đã tăng trưởng
nóng trong giai đoạn dài trước đó), đã đặt hệ thống ngân hàng vào một cuộc rượt đuổi
đầy rủi ro, làm tăng giá cả tiền tệ và mức độ bất ổn cho hệ thống. Nền kinh tế cũng
chịu các tác động nặng nề.
2.1.1 Vấn đề tỷ giá và tăng trưởng tín dụng.
Năm 2011 thực sự là “năm thử lửa” đối với điều hành chính sách tiền tệ, tài khóa,
do những bất ổn vĩ mô mang lại. Bám sát Nghị quyết 11 với trọng tâm là giảm
tổng cầu, cùng với sự “thắt lưng buộc bụng” của tài khóa, chính sách tiền tệ cũng
phải theo hướng này.
Cụ thể, trong dịp Tết 2011 lượng tiền gửi tăng mạnh so với Tết 2010, vì
vậy NHNN đã quyết định tăng mức tiền mặt ra lưu thông và chuyển tiền đến
những khu vực có nhu cầu lớn.
Và, “thắng lợi đầu tiên là đã thành công trong việc rút về lượng tiền cung ứng
phục vụ Tết Nguyên đán”.
Với sự can thiệp của NHNN thì tính đến hết năm 2010, kết quả đạt được cụ thể đó
là: tín dụng phi sản xuất (gồm: cho vay bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng)
chiếm tỷ trọng 17 - 18% tổng tín dụng. Còn mức tăng tín dụng hai tháng đầu năm
tăng khoảng 3.27% nhưng trong đó có hư số do điều chỉnh tỷ giá ngày 11/2/2011.
Tăng tín dụng so với cuối năm 2010. Nguồn: số liệu trên mạng rickstock.
Bảng số 1.1. Diễn biến cung tiền và tăng trưởng tín dụng 2004-
2012
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012*
M2

Mục tiêu 22 22 23-25 20-23 32 18-20 25 15-16 14-16
Thực hiện 30.4 29.6 33.6 46.1 20.3 29 33.3 12.4 17

Tín
dụng
Mục tiêu 25 25 18-20 17-21 30 21-23 25 20 15-17
Thực hiện 41.6 31.1 25.4 53.9 25.4 37.5 31.2 14.4 5.5
Nguồn: NHNN
Bên cạnh đó NHNN còn điều chỉnh tỷ giá tăng lên, quy đổi ngoại tệ đã được quy
đổi sang VND theo tỷ giá mới. Từ đó làm cho một bộ phận tín dụng tăng lên, kéo
theo tăng tín dụng cả hệ thống. Tuy nhiên vẫn còn nhiều mối lo. Có ba vấn đề
được đặc biệt chú ý là lãi suất cao, thanh khoản kém khi Ngân hàng Nhà nước
thực hiện thắt chặt tiền tệ, và việc đưa kinh doanh vàng vào khuôn khổ luật pháp.

Đối với vấn đề lãi suất,trong năm 2011 có thông tin một vài ngân hàng đẩy lãi suất
huy động vượt quá 14% (mức trần quy định của NHNN).
Trước đây vàng là hàng hóa, cho phép lưu thông bình thường, nhưng gần đây đã
xuất hiện nhiều tiêu cực như phát sinh đầu cơ, liên thông với ngoại tệ, thậm chí trở
thành phương tiện thanh toán. Gần hai năm nay, Chính phủ giao cho NHNN xây
dựng nghị định quản lý vàng thay thế cho Nghị định 174. Và tinh thần chung của
nghị định này: là quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu
mối, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do.
2.1.2 Chính sách tiền tệ năm 2011 kiểm soát lạm phát.
Năm 2011, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận
trọng nhằm mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, góp
phần tăng trưởng kinh tế" - đây là 1 định hướng chiến lược mới, thay cho hỗ trợ
tăng trưởng của chính sách tiền tệ năm 2010.
Để thực hiện CSTT có hiệu quả, năm 2011,NHNN phải có những hoạt động cụ
thể:
 Hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu triển khai luật NHNN và luật các
TCTD mới đây là cột mốc quan trọng nhằm đẩy nhanh hơn nữa quá trình
đổi mới ngành ngân hàng theo cơ chế thị trường.
 Huy động nguồn vốn từ các TCTD nước ngoài phải tăng và dư nợ cho vay

khách hàng cũng phải tăng. Cơ cấu tín dụng tập trung đầu tư cho lĩnh vực
sản xuất, dịch vụ, cho vay kinh doanh bất động sản và kinh doanh chứng
khoán chiếm tỷ trọng thấp.
Việc huy động nguồn vốn từ các TCTD nước ngoài là lực lượng tạo động lực cạnh
tranh tích cực, vì thế các TCTD trong nước phải không ngừng đổi mới và nâng cao
năng lực toàn diện trên các mặt tổ chức, quản trị điều hành, quản lý rủi ro, nâng
cấp hạ tầng, công nghệ, đa dạng hóa và gia tăng tiện ích sản phẩm và dịch ngân
hàng.
2.1.3 Vấn đề tỷ giá năm 2011 - Quả bóng trong ngân hàng nhà nước.
Hiện nay, tỷ giá USD/VND giao dịch trên thị trường tự do lớn hơn tỷ giá niêm yết
khoảng 8%. Tình trạng này kéo dài trong khoảng 4 tháng qua và đang tạo ra nhiều
áp lực.
Biến động tỷ giá và nguyên nhân:
+ Biến động tỷ giá:
 Kể từ sau đợt nâng tỷ giá liên ngân hàng từ 18,544 lên 19,532 VND/USD
vào ngày 17/08/2010 đến nay, tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do luôn
vượt tỷ giá niêm yết chính thức.
 Vào đầu tháng 12/2010, tỷ giá có lúc đã tiến sát mốc 22,000 VND/USD.
Trong 3 tuần trở lại đây, tỷ giá trên thị trường tự do được giao dịch khá
bình ổn quanh mốc 21,000 VND/USD, cao hơn gần 8% so với tỷ giá niêm
yết.
+ Nguyên nhân:
 Nguyên nhân chính của việc tỷ giá biến động mạnh trong thời gian qua xuất
phát chủ yếu từ tâm lý người dân (Bằng chứng dễ thấy nhất là tình trạng đô
la hoá trong nền kinh tế tăng khá mạnh; tín dụng bằng USD trong năm
2010 vượt trội so với tín dụng đồng nội tệ).
 Nguyên nhân quan trọng khác là năm 2010, Việt Nam tiếp tục bị thâm hụt
cán cân thanh toán. Mức thâm hụt này ước tính vào khoảng 2.5 tỷ USD,
thấp hơn dự tính ban đầu là 4.5 tỷ USD.
2.1.4. Ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô:

Tại cuộc đọa đàm “Tình hình kinh tế vĩ mô và chính sách tiền tệ năm 2011” do
Hiệp hội Phát triển hàng tiêu dùng Việt Nam VACOD tổ chức mới đây ở Hà Nội,
các chuyên gia tài chính của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia khẳng định rằng
"bức tranh" tài chính - kinh tế trên thực tế tốt hơn nhiều người nghĩ, và mục tiêu
trong năm 2011 là ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra được khuôn khổ thuận lợi hơn cho
sự phát triển của doanh nghiệp
“Những biện pháp về ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát của Chính phủ
được đưa ra đã có một nền tảng kinh tế vĩ mô tốt hơn các đánh giá được đưa ra
trước đó. Với mục tiêu cao nhất là kiểm soát lạm phát như hiện nay thì các biện
pháp cứng rắn có thể coi là phù hợp. Điều này có thể dẫn tới các biện pháp kiểm
soát quá chặt chẽ và ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của ngân hàng thương
mại nói chung cũng như nền kinh tế”.
II.2 Thực trạng điều chỉnh chính sách tiền tệ ở Việt Nam năm 2012
Năm 2011-2012 đã cho thấy một chính sách điều hành CSTT thận trọng của Chính phủ,
các công cụ đã được sử dụng một cách linh hoạt hơn, cung tiền được kiểm soát chặt
chẽ. Có thể thấy rằng chính sách tiền tệ đã đóng vai trò then chốt trong các giải pháp
điều hành vĩ mô của Chính phủ, góp phần quan trọng trong việc tăng cường ổn định
kinh tế vĩ mô, lạm phát được kiềm chế ở mức thấp và đồng thời hỗ trợ tăng trưởng ở
mức hợp lý.
Thị trường tiền tệ đã có nhiều biến động kể từ khi đồng nội tệ và ngoại tệ đảo chiểu từ
năm 2010, đồng nội tệ mất giá dẫn đến nguy cơ đô la hóa cao trong nền kinh tế. Tuy
nhiên năm 2012 đã chứng kiến sự chuyển dịch từ đầu tư ngoại tệ sang nội tệ. Đây là
một dấu hiệu tốt đối với đồng tiền Việt Nam tuy nhiên lại gây ra tình trạng xấu đối với
tín dụng ngoại tệ
Nợ xấu đang ở mức độ nguy hiểm chứ không chỉ đơn giản là một điều bình thường của
hệ thống ngân hàng
Tổng dự nợ tín dụng của nền kinh tế tinh đến ngày 30/9 là 2,88 triệu tỷ đồng, trong đó nợ
xấu toàn ngành ngân hàng năm 2012 được xác định là khoảng 10%, tương đương với 290
nghìn tỷ, theo số liệu của NHNN. Tính từ năm 2008, nợ xấu liên tục tăng và đến năm
2012 đã tăng tới 66%. Theo số liệu của các tổ chức tín dụng, tính đến ngày 30/9, tỷ lệ nợ

xấu của toàn hệ thống là 4,93%, nhưng theo NHNN tỷ lệ này là 8,82%.
Quy mô nợ xấu đến nay khá lớn và tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ tăng nhanh cho thấy nợ
xấu của các TCTD tiềm ẩn và đã được tích tụ trong một thời gian dài, đặc biệt là thời kỳ
nới lỏng chính sách kinh tế vĩ mô để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhanh. Từ quý IV/2011
trở lại đây, nợ xấu bắt đầu lộ diện khi môi trường kinh doanh xấu đi, tín dụng tăng chậm
và công tác thanh tra, giám sát của NHNN được tăng cường.
“ Bảng xếp hạng” nợ xấu các ngân hàng niêm yết 2012
Ngân hàng Nợ xấu (tỷ đồng) Nợ xấu/Tổng dư nợ
Thay đổi tỷ của lệ nợ
xấu so với 2011 (lần)
Vietcombank 5.461,80 2,26% 1,11
Vietinbank 4.890,00 1,47% 2,22
SHB 4.845,80 8,53% 3,80
ACB 2.570,97 2,50% 2,80
Sacombank 1.973,00 2,05% 4,30
MB 1.371,60 1,86% 1,15
Eximbank 987,62 1,32% 1,22
Nguồn: BCTC các ngân hàng 31-12-2012
Chính sách tài khóa và Chính sách tiền tệ liệu đã phối hợp hiệu quả?
Chính sách tài khóa trong năm 2012 đã phải đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải, từ thu
ngân sách nhà nước (NSNN), chi NSNN, đến thâm hụt NSNN, nợ công và tác động của
chính sách quản lý giá cả đến NSNN nói riêng, đến ổn định kinh tế vĩ mô nói chung.
III. Đánh giá về ưu,nhược điểm trong việc sử dụng chính
sách tiền tệ của nhà nước ta giai đoạn 2011-2012.
Nhìn chung, NHNN đã kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng phù hợp
với mức tăng trưởng của nền kinh tế và chỉ số giá cả, đã đổi mới trong
điều hành các công cụ CSTT: chuyển dần sang các công cụ CSTT gián
tiếp một cách linh hoạt và có sự phối hợp đồng bộ giữa các công cụ CSTT
với nhau. Hiệu quả điều hành CSTT của NHNN ngày càng nâng lên đã
góp phần ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm quốc

phòng, an sinh xã hội.
Song song với các kết quả đạt được ở trên, trong quá trình điều hành
CSTT cũng còn một số vấn đề đặt ra đặt ra để nghiên cứu xử lý nhằm
nâng cao hơn nữa hiệu quả điều hành CSTT của NHNN trong thời gian
tới, giai đoạn Việt Nam hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng với các nước
trong khu vực và thế giới, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới sụt
giảm.
3.1 Thành tựu
- Lượng tiền cung ứng được điều hành chặt chẽ từ đầu năm, qua đó kiểm soát tăng
trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán ở mức thấp. Ước cả năm, tổng
phương tiện thanh toán tăng khoảng 10%, tín dụng tăng khoảng 12%, góp phần
đưa lạm phát tăng chậm lại (từ tháng 8 đến nay, lạm phát tăng dưới 1%/tháng);
đồng thời góp phần giảm mạnh nhập siêu, cải thiện đáng kể cán cân thanh toán
quốc tế.
- Tín dụng được kiểm soát chặt chẽ, tăng ở mức thấp nhưng cơ cấu tín dụng
chuyển theo hướng tích cực, tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất, nông nghiệp,
nông thôn và xuất khẩu, giảm cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất. Ước đến cuối
năm, tín dụng tăng 12%, trong đó: VND tăng 10,2%, tín dụng ngoại tệ tăng
18,7%, nhưng từ tháng 8 đến nay tín dụng ngoại tệ đã có xu hướng tăng chậm lại.
- Các mức lãi suất điều hành đã được điều chỉnh hợp lý hơn, phát huy công cụ
điều hành với vai trò Ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng; từ tháng
9, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh tăng lên 15%/năm và lãi suất cho vay qua
đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng lên 16%/năm; nghiệp vụ thị
trường mở được sử dụng linh hoạt hàng ngày phù hợp với diễn biến vốn khả dụng
của hệ thống và diễn biến lãi suất thị trường liên ngân hàng.
- Các mức lãi suất trên thị trường tiền tệ đã hợp lý hơn, phù hợp với diễn biến kinh
tế vĩ mô và chỉ đạo của Chính phủ: Với việc tăng cường thanh tra, giám sát và xử
lý nghiêm các trường hợp vi phạm trần lãi suất huy động và các giải pháp khơi
thông vốn giữa vốn huy động từ các tổ chức và dân cư và vốn huy động trên thị
trường liên ngân hàng đã tạo điều kiện giảm dần mặt bằng lãi suất huy động và

cho vay trong những tháng cuối năm.
- Thanh khoản VND toàn hệ thống về cơ bản được đảm bảo. Từ tháng 10, một số
TCTD có khó khăn thanh khoản tạm thời do mất cân đối về kỳ hạn giữa huy động
vốn ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn, do huy động vốn từ các tổ chức và dân cư
giảm, huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng chưa đủ bù đắp, nhưng đã được
NHNN hỗ trợ kịp thời thông qua tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở. Thanh
khoản ngoại tệ ở mức thấp trong 7 tháng đầu năm, từ tháng 8 đã cải thiện sau khi
NHNN thực hiện một số biện pháp kiểm soát tín dụng bằng ngoại tệ.
- Việc điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, kết hợp với việc thu hẹp đối tượng
được vay ngoại tệ trong nước, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, quy định
mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đô-la Mỹ của tổ chức và cá nhân tại
TCTD đã góp phần giảm tình trạng đô la hóa, tăng niềm tin vào đồng Việt
Nam. Các biện pháp nhằm bình ổn thị trường ngoại hối đã góp phần cải thiện
thanh khoản ngoại tệ, tái lập thế cân bằng trên thị trường ngoại hối cũng như thúc
đẩy xuất khẩu.
- Việc triển khai quyết liệt các giải pháp nhằm ổn định giá vàng và thị trường vàng
trong nước đã góp phần đưa giá vàng trong nước bám sát với giá vàng thế giới;
giới đầu cơ đã không còn khả năng thao túng thị trường; các ngân hàng đã bắt đầu
mua được vàng từ thị trường trong nước để bù đắp lại lượng vàng đã bán ra, giảm
bớt áp lực nhập khẩu vàng, tiết kiệm ngoại tệ và giảm bớt áp lực lên tỷ giá.
- Công tác thanh tra, giám sát về lãi suất và hoạt động huy động, cho vay của
các TCTD được thực hiện quyết liệt, lập lại kỷ cương thị trường, các chỉ tiêu tiền
tệ, tín dụng phản ánh đúng bản chất; tạo ra sự phân hóa giữa nhóm TCTD hoạt
động lành mạnh, có hiệu quả với nhóm các TCTD hoạt động kém hiệu quả. Diễn
biến này buộc các TCTD cần chú trọng quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng,
khuyến khích các ngân hàng tự nguyện liên kết, hợp nhất, sáp nhập để tăng cường
sức cạnh tranh, qua đó góp phần từng bước lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng và
tiến tới cơ cấu lại hệ thống ngân hàng trong tương lai.
-
Những chủ trương định hướng và quan điểm chỉ đạo điều hành về CSTT

giai đoạn 2011-2012 là sự điều chỉnh đúng hướng, phù hợp với yêu cầu tái cơ cấu
nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, sự diễn biến của kinh tế vĩ mô và thị
trường.
- Vai trò của tự chủ của NHNN trong hoạch định, điều hành thực thi CSTT
được nâng cao và phát huynhiều hơn trong việc quyết định, lựa chọn sử dụng
công cụ điều hành chính sách tiền tệ để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền
tệ đã được Chính phủ đề ra.
- Giữ

được hệ thống TCTD không bị đổ vỡ, kiềm chế lạm phát từ mức rất
cao 18.13% năm 2011 xuống ở mức khoảng 7% cuối 2012;
-Tỷ giá ổn định;dự trữ ngoại hối được tăng lên, cán cân thanh toán được
cải thiện;thị trường vàng được kiểm soát chặt chẽ hơn.
-Chính

sách tiền tệ và chính sách tài khóa ngày càng có sự kết hợp đồng bộ
hơn, hiệu quả hơn đối với những thời kỳ trước đây.
Tỷ

trọng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế được điều chỉnh theo hướng
hợp lý và tích cực hơn:giảm tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với các lĩnh vực đầu cơ
bất động sản, chứng khoán và tăng tỷ trọng tín dụng cho 4 lĩnh vực ưu tiên: sản
xuất nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, sản xuất phụ trợ và doanh nghiệp vừa và
nhỏ;
- Hoạt

động trên thị trường liên ngân hàng và nghiệp vụ thị trường mở có
những bước phát triển mới, tạo ra những chuyển biến tích cực hơn trên thị trường
tiền tệ.NHNN đã chủ động hơn trong việc thu thập các thông tin về lãi suất và
khối lượng giao dịch trên thị trường tiền tệ đểsử dụng các công cụ phù hợp điều

tiết cung cầu vốn trên thị trường.
3.2 Hạn chế
Những yếu tố và nguyên nhân cơ bản từ nội tại nền kinh tế làm cho lạm
phát bùng phát trở lại vẫn chưa được giải quyết;nhiều biến số tác động đến khối
lượng tiền trong lưu thông vượt ra khỏi tầm kiểm soát của NHNN;nguồn lực tài
chính của Nhà nước chưa đủ mạnh để can thiệp điều chỉnh có hiệu quả quan hệ
cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ.
Việc lựa chọn sử dụng các công cụ của CSTT chưa phân định được rõ ràng
theo chức năng, vai trò chủ yếu của từng công cụ; làm triệt tiêu hoặc hạn chế phát
huy tác dụng của một số công cụ, giảm hiệu quả thực hiện mục tiêu CSTT.
Công cụ lãi suất còn một số bất cập về phương pháp xác định các và cơ chế
điều hành.Lãi suất huy động và cho vay của các TCTD mang nặng tính hành
chính, nhiều khi chưa sát với CPI và chưa điều chỉnh kịp thời với quan hệ cung
cầu vốn trên thị trường.
Lãi suất tín dụng tuy đã giảm nhiều so với 2011 nhưng vẫn còn ở mức cao
vượt quá khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế.Hệ thống chính sách và cơ chế tín
dụng chưa thực hiện được chức năng phân bổ vốn tín dụng cho khu vực hiệu quả,
chưa giải quyết được tình trạng “suy kiệt tín dụng”, tác động tiêu cực đến phát
triển trung dài hạn của nền kinh tế.
-Mức độ điều chỉnhcắt giảm cung tiền, tăng trưởng tín dụng, cơ cấu tín
dụng đột ngột và quá giảm thấp trong năm 2011, so với mức thực hiện bình quân
của thời kỳ trước đó, vượt quá khả năng điều chỉnh thích ứng của nền kinh tế;làm
phát sinh thêm những khó khăn chưa từng có đối với SXKD, suy giảm tín dụng,
đóng băng và sụt giá tài sản trên thị trường bất động sản và chứng khoán, tăng bất
ổn hệ thống tài chính tiền tệ vốn đã ốm yếu.
- Tỷ trọng dư nợ cho vay phi sản xuất được quy định áp dụng chung cho tất cả các
loại hình TCTD, chưa phù hợp với một số trường hợp có hoạt động kinh doanh
đặc thù; dư nợ cho vay phi sản xuất bao gồm cả các nhu cầu vay vốn phục vụ nhu
cầu thiết yếu của người dân (như mua nhà để ở, xây dựng nhà ở cho người thu
nhập thấp, cho công nhân lao động thuê, nhà ở tái định cư ), nên TCTD không

thể cho vay đối với các nhu cầu vốn này khi tỷ trọng dư nợ cho vay phi sản xuất
đã sát hoặc vượt mức quy định.
- Thanh khoản của toàn hệ thống các TCTD được đảm bảo, tuy nhiên một số
NHTM cổ phần gặp khó khăn tạm thời về thanh khoản đã ảnh hưởng tới hoạt
động của các TCTD khác, gây biến động trên thị trường liên ngân hàng và tạo ra
dư luận không tốt đối với hoạt động kinh doanh của hệ thống TCTD.
V. Những giải pháp nhằm nâng
cao sử dụng chính sách tiền tệ một cách hiệu quả cho những
năm tới.
 Khi đánh giá về CSTT phải đứng ở góc độ của toàn
dân chứ không thể đứng trên quan điểm của doanh
nghiệp.

×