Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng tmcp nhà hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.3 KB, 81 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
……………………………
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
ĐỀ TÀI:
TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN
HÀNG TMCP NHÀ HÀ NỘI
Giảng viên hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Nhiên
Lớp: TCDN pháp
Khóa: 48
Mã sinh viên: CQ482094
Hà Nội – 5/2010
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được ví như hệ thần kinh
của cả nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt, lành mạnh
và hiệu quả là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân chuyển, phân bổ và sử dụng
hiệu quả, kích thích tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. Tuy nhiên trong nền
kinh tế thị trường thì rủi ro kinh doanh là không thể tránh khỏi, mà đặc biệt là rủi
ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng có phản ứng dây chuyền, lây lan và
ngày càng có biểu hiện phức tạp. Sự sụp đổ của ngành ngân hàng có ảnh hưởng
tiêu cực tới toàn bộ đời sống – kinh tế - chính trị - xã hội của một nước và có thể
lan rộng sang quy mô quốc tế.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vừa qua là minh chứng rõ ràng nhất cho
sức ảnh hưởng của hoạt động ngành ngân hàng tới toàn bộ đời sống – kinh tế -
chính trị - xã hội trên quy mô toàn cầu. Sự sụp đổ của một loạt các ngân hàng lớn
có thâm niên hàng trăm năm tại Mỹ đã làm rung chuyển hệ thống kinh tế không


chỉ riêng nước Mỹ, mà nó đã ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế thế giới. Hậu quả
của nó là suy thoái kinh tế ở mức trầm trọng, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và kéo dài,
kéo theo đó là một loạt các tệ nạn xã hội đi kèm.
Đối với Hệ thống ngân hàng Việt Nam, kể từ khi chuyển đổi qua cơ chế thị
trường, đã từng bước lớn mạnh không ngừng và thu được những thành tựu quan
trọng, nhưng cũng trong quá trình đổi mới, hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng Việt Nam đã vấp phải không ít các khó khăn. Hoạt động kinh doanh trở nên
phức tạp hơn và áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng lớn hơn, cùng với nó, mức
độ rủi ro cũng tăng lên. Vậy làm thế nào để quản lý rủi ro nói chung và rủi ro tín
dụng nói riêng trong môi trường kinh doanh mới và thị trường có nhiều biến động
như hiện nay luôn là một bài toán khó đặt ra đối với mọi ngân hàng.
Trong hoạt động của ngân hàng thương mại, mục tiêu lợi nhuận luôn được
đặt lên hàng đầu, song song với nó là mức độ rủi ro phải chấp nhận cũng tăng
theo. Hoạt động tín dụng là quan trọng nhất trong ngân hàng thương mại bao gồm
hai mặt: sinh lời và rủi ro. Thực tế đã cho thấy, ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới
nền kinh tế, tới bản thân ngân hàng là rất lớn. Nó có thể khiến một ngân hàng phá
sản, khiến nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Rủi ro tín dụng là không thể tránh
khỏi nhưng làm thế nào quản lý được nó, hạn chế được nó luôn là một câu hỏi lớn,
một vấn đề được tất cả các nhà quản lý của ngân hàng quan tâm.
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
Sau một thời gian thực tập tại Sở giao dịch Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội,
nghiên cứu, tìm hiểu thực tế về các hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt
động tín dụng nói riêng, em đã nhận thấy tầm quan trọng của công tác quản lý rủi
ro tín dụng nên mạnh dạn chọn đề tài: “Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội”
Mục đích nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu đánh giá công tác quản lý rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng TMCP nhà Hà nội từ đó đề xuất ra các giải pháp nâng cao khả
năng quản lý hoạt động này tại ngân hàng.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu thực trạng quản lý rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội vài 3 năm trở lại đây, kết quả và nguyên
nhân.
Phương pháp nghiên cứu: chủ yếu là thu thập , phân tích và đánh giá các tài
liệu của NHTMCP nhà Hà Nội và các nguồn khác có liên quan.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 phần:
Chương 1: Tổng quan về tín dụng trong hoạt động của NHTM
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại NHTMCP nhà Hà Nội
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại NHTMCP
nhà Hà Nội.
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA NHTM
1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại (NHTM)
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần, số lượng các ngân
hàng.
Ngân hàng thương mại thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng là huy
động vốn và cho vay vốn. Đó là cầu nối giữa các cá nhân với tổ chức kinh tế, hút
vốn từ nơi nhàn rỗi bơm vào nơi khan thiếu. Hoạt động của ngân hàng thương mại
nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt: "vốn- tiền", trả lãi suất huy
động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, phần chênh lệch lãi suất chính là lợi
nhuận của ngân hàng thương mại Hoạt động của ngân hàng thương mại phục vụ
cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh nghiệp cũng
như các tổ chức khác trong xã hội.
Trong ngân hàng thương mại, tiền huy động được của người gửi gọi là tài

sản "nợ", tiền cho công ty và các cá nhân vay cũng như tiền gửi ở các ngân hàng
khác và số trái phiếu ngân hàng sở hữu gọi là tài sản "có" của ngân hàng. Phần tài
sản có tính thanh khoản cao được giữ để đề phòng trường hợp tiền gửi vào ngân
hàng bị rút đột ngột gọi là tỉ lệ dự trữ của ngân hàng. Toàn bộ số vốn của ngân
hàng được chia làm hai loại vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Vốn cấp 1 còn gọi là vốn
nòng cốt, về cơ bản bao gồm vốn điều lệ, lợi nhuận không chia và các quỹ dự trữ
lập trên cơ sở trích từ lợi nhuận của tổ chức như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ,
quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. Vốn cấp 2 bao gồm: phần giá trị
tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức, nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ
bên ngoài (như trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ nợ khác).
Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, ngân hàng thương mại thực sự
đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng
vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt
động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu.
1.2 Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế đã khiến môi trường cạnh
tranh trong các lĩnh vực kinh doanh ngày càng gay gắt, hầu hết các doanh nghiệp,
những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với những thua lỗ và
quy luật đào thải khắc nghiệt của thị trường. Chính điều đó đã là cho tỷ lệ nợ xấu
của các ngân hàng tăng lên trong những năm gần đây.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín
dụng và các tổ chức kinh tế, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả. Việc hoàn trả được
nợ gốc trong tín dụng có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hoá trên thị
trường, còn việc hoàn trả được lãi vay trong tín dụng là việc thực hiện được giá trị
thặng dư trên thị trường. Do đó, có thể xem rủi ro tín dụng cũng là rủi ro kinh
doanh nhưng được xem xét dưới góc độ của ngân hàng.

“Rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng”
là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động của ngân hàng, của tổ chức tín dụng do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết ( Điều 2- QĐ 493 Về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để
xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng ). Khi
thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản cho
vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro.
Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự
kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt
động chung. Do vậy khi tổn thất xảy ra dưới mức tỷ lệ dự kiến, ngân hàng coi đó
là một thành công trong quản lý.
1.2.2 Phân lọai rủi ro tín dụng
Phân loại theo phương diện quản lý
- Rủi ro có thể kiểm soát được
Là rủi ro tín dụng mà ngân hàng có thể phần nào dự đoán được chủ thể gây
ra nó, ước tính được mức độ ảnh hưởng của nó, dự kiến được thời gian phát sinh
ra nó, từ đó có những biện pháp hợp lý để phòng ngừa, hạn chế những tổn thất mà
nó có thể gây ra xuống mức tối thiểu. Những rủi ro tín dụng loại này thường do
chủ quan con người gây ra, cụ thể hơn là do khách hàng gây ra hoặc do chính bản
thân ngân hàng tự gây ra cho mình.
- Rủi ro không thể kiểm soát được
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
Là loại rủi ro tín dụng mà các ngân hàng không thể dự đoán được trước,
không thể biết chúng sẽ xảy ra khi nào, cũng không thể tính toán được một cách
cụ thể, chính xác những ảnh hưởng mà chúng gây ra nà chủ yếu do những bất lợi
thuộc về các yếu tố tự nhiên như hạn hán, mất mùa, lũ lụt, hỏa hoạn…
Các ngân hàng thương mại thường phải tập trung vào để ngăn chặn hạn chế những
rủi ro có thể kiểm soát được, còn rủi ro không thể kiểm soát được thì chỉ có cách

chống đỡ khi chúng xảy ra.
Phân loại theo tính chất của rủi ro
- Rủi ro sai hẹn:
Là loại rủi ro xảy ra khi người vay vốn không hoàn trả gốc và lãi tiền vay
đúng hẹn như trong hợp đồng.
- Rủi ro mất vốn:
Là loại rủi ro xảy ra khi người vay vốn không trả đươc gốc tiền vay một
cách đầy đủ như trong hợp đồng.
Dù là chia theo cách nào di chăng nữa thì rủi ro tín dụng cũng là một điều
không mong muốn, luôn mang lại những tổn thất cho đối với tất cả các ngân hàng.
Một khi có hoạt động ngân hàng thì còn tồn tại rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Việc tìm hiểu và đưa ra các biện pháp để quản lý tốt rủi ro tín dụng luôn được các
ngân hàng quan tâm, chú trọng.
1.2.3 Bản chất của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại, hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một loạt các hoạt động tài trợ cụ
thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là
cao nhất. Nhìn chung ngân hàng chỉ cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không
xảy ra. Khả năng hoàn trả vốn vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều
nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng phân tích tín
dụng thích đáng. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín
dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro
tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể
loại trừ. Vì vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt
động chung của ngân hàng.
1.2.4 Các chỉ số thường được dùng để đánh giá rủi ro tín dụng
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
Rủi ro tín dụng là khách quan song các ngân hàng luôn phải quản lý rủi ro

tín dụng nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các tổn thất co thể xảy ra. Những dấu
hiệu chính phát sinh trong hoạt động tín dụng phản ánh rủi ro tín dụng:
1.2.4.1 Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn
“Nợ” bao gồm:
- Các khoản cho vay, ứng trước, thấu chi và cho thuê tài chính;
- Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá
khác
- Các khoản bao thanh toán
- Các hình thức tín dụng khác
“Nợ quá hạn” là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi
đã quá hạn; hoặc ngân hàng phát hiện khách hàng sử dụng sai mục đích, hoặc tài
sản đảm bảo bị giảm giá trị, hoặc khách hàng phá sản….
Tỷ lệ nợ quá hạn:
Dư nợ quá hạn x 100%
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ cho vay
Theo quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà Nước thì dư nợ cho phép đối
với các ngân hàng thương mại không được vượt quá 5%, điều đó có nghĩa trong
100 đồng vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn được phép tối đa là 5 đồng.
Quy định này nhằm mục đích hạn chế tình trạng các ngân hàng cho vay ồ ạt, thiếu
sự quản lý dẫn tới khả năng thanh khoản kém.
.“Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ” là khoản nợ mà tổ chức tín dụng chấp
thuận điều chỉnh kỳ hạn hoặc gia hạn nợ cho khách hàng do tổ chức tín dụng đánh
giá khách hàng suy giảm khả năng trả nợ gốc hoặc lãi đúng thời hạn ghi trên hợp
đồng tín dụng nhưng tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá khách hàng có khả
năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ đã cơ cấu.
1.2.4.2 Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay:
“Nợ xấu” (NPL) của ngân hàng được quy định là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và
5. Tức là nó bao gồm các nhóm nợ: nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả
năng mất vốn.



Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
Nợ xấu x 100%
Tỷ lệ nợ xấu =
Tổng dư nợ cho vay
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ
chức tín dụng. Theo quy định hiện hành thì tỷ này không vượt quá 3%
Theo quyết định QĐ 18 về sửa đổi bổ sung một số điều của QĐ 493, tổ chức tín
dụng thực hiện phân loại nợ theo năm nhóm như sau:
a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn):
- Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn;
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có
khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng
thời hạn còn lại;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2 Điều
này.
b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý):
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là
doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về
khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu);
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 Điều
này.
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn):
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều

chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b Khoản
này;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng
trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 Điều
này.
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ):
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 Điều
này.
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn):
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị
quá hạn hoặc đã quá hạn;
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 Điều
này.
Cũng theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định 18/2006/QĐ-
NHNN thì dự phòng cụ thể được trích lập trên rủi ro tín dụng thuần của các khoản
cho vay theo tỷ lệ tương ứng:

Nhóm Loại Tỷ lệ dự phòng cụ thể
1 Nợ đủ tiêu chuẩn 0%
2 Nợ cần chú ý 5%
3 Nợ dưới tiêu chuẩn 20%
4 Nợ nghi ngờ 50%
5 Nợ có khả năng mất vốn 100%
1.2.4.3 Hệ số rủi ro tín dụng:

Tổng dư nợ cho vay x 100%
Hệ số rủi ro tín dụng =
Tổng tài sản có
Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản
mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận cũng lớn nhưng đồng thời
rủi ro cũng cao.
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
1.2.4.4 Vòng quay vốn tín dụng:

Doanh số thu nợ x 100%
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của một ngân hàng
tức là nó thể hiện khả năng thu hồi vốn của ngân hàng cao hay thấp, chất lượng
quản lý vốn tín dụng tốt hay xấu. Vốn tín dụng quay được một vòng tức là tính từ
thời điểm cấp tín dụng đến thời điểm thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn như
trong hợp đồng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay ngân
hàng luân chuyển càng nhanh, được sử dụng để tham gia vào nhiều chu kỳ sản
xuất và lưu thông hàng hóa. Với một số vốn nhất định, vòng quay vốn tín dụng
nhanh, ngân hàng có thể tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực khác để kiếm lời. Vòng quay

vốn tín dụng cao chứng tỏ khả năng quản lý vốn tín dụng cũng như chất lượng tín
dụng của ngân hàng tốt.
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi
ro tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có
liên quan tới thanh khoản và các rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn
mới chi trả cho tiền gửi và tiền cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một lời
cảnh báo cho ngân hàng: Hy vọng thu lại tiền vay cần có biện pháp hữu hiệu để
giải quyết.
1.2.5 Yêu cầu điều kiện đối với khoản tín dụng của Ngân hàng
Tình hình tài chính và phương án, môi trường hoạt động của người đi vay.
Nếu tình hình tài chính của người đi vay tốt, phương án có hiệu quả cao và
môi trường hoạt động thuận lợi thì rủi ro tín dụng sẽ thấp. Những yếu tố này xuất
hiện xấu đi sẽ cấu thành các khoản nợ có vấn đề.
Đảm bảo tiền vay
Nhiều trường hợp ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi
uy tín người vay không cao hoặc hoạt động có nhiều rủi ro. Như vậy tài sản đảm
bảo càng cao trên tổng dư nợ cho thấy ngân hàng đang cấp tín dụng cho những
khách hàng có rủi ro cao. Tuy nhiên tài sản đảm bảo sẽ góp phần làm giảm tổn
thất cho ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ. Vì vậy, khi xem xét yếu tố
tài sản đảm bảo phải chú ý tới từng trường hợp cụ thể.
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
Tính đa dạng hóa trong tài sản của ngân hàng
Bên cạnh nợ quá hạn, nhà quản lý ngân hàng còn sử dụng các hình thức đo
rủi ro tín dụng khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hóa tài sản, lập hồ sơ khách
hàng, trích lập quỹ dự phòng, đặt giá đối với khoản cho vay….
+ Mất ổn định vĩ mô
Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình hình chính trị mất ổn
định, vùng thiên tai , đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác động xấu tới người đi

vay và do vậy ảnh hưởng tới khả năng thu nợ của ngân hàng, tạo nên rủi ro tín
dụng trong ngân hàng.
+ Tính kém đa dạng tín dụng
Đa dạng tín dụng là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong chu kỳ
của người đi vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng tập trung vào tài trợ cho một
nhóm khách hàng của một ngành hoặc của một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so
với đa dạng hóa.
Để phản ánh rủi ro tín dụng, nhiều ngân hàng đã kết hợp phân loại nợ với
giá trị tài sản.
1.2.6 Nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng
Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và
người đi vay. Nhưng người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không
gian cụ thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi
là môi trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín
dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên
nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro
do nguyên nhân chủ quan.
1.2.6.1 Nguyên nhân khách quan từ bên ngoài
Khi khách hàng nhận khoản giải ngân từ ngân hàng, họ sẽ dùng đồng vốn
vào mục đích kinh doanh như: Đầu tư vào dây chuyền sản xuất, đầu tư mua
nguyên vật liệu… Trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu sẽ phát sinh những
rủi ro không mong muốn mà đôi khi các doanh nghiệp không lường trước được
như:
- Rủi ro do nền kinh tế không ổn định.
- Rủi ro do các thủ tục pháp lý ở các địa phương còn rườm rà.
- Rủi ro do thị trường bị bóp méo bởi hàng hóa nhập lậu.
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
Rủi ro do nền kinh tế không ổn định

Khi tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh, bao giờ doanh nghiệp cũng
tiến hành đánh giá tình hình thị trường cũng như đưa ra những dự báo phát triển
thị trường, dự báo tăng trưởng doanh số. Nếu nền kinh tế thế giới cũng như nền
kinh tế quốc nội vận hành theo quỹ đạo đã dự báo thì doanh nghiệp sẽ thực hiện
tốt các kế hoach đề ra.
Tuy nhiên, ta biết rằng: Nền kinh tế nước ta hiện giờ đang phụ thuộc nhiều
vào các ngành sản xuất nông nghiệp và các ngành công nghiệp phục vụ nông
nghiệp. Mà những ngành này lại phụ thuộc nhiều vào rủi ro thời tiết.
Khi nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng, tất yếu sẽ ảnh hưởng lớn đối với
các doanh nghiệp xuất khẩu. Những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như dệt
may, xuất khẩu hàng nông sản (xuất khẩu café, hạt điều, xuất khẩu cá basa, ) có
nguy cơ không bán được khi nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng. Hoặc một sự
thay đổi trong chính sách nhập khẩu (tăng thuế, giảm hạn ngạch, thay đổi tiêu
chuẩn nhập khẩu) tại các nước sở tại ảnh hưởng đến sản lượng xuất khẩu.
Rủi ro do các thủ tục pháp lý
Sự chậm trễ, rườm rà trong các thủ tục cấp giấy phép, các thủ tục hải
quan… nhiều lúc ảnh hưởng lớn đến cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp. Ta
biết rằng, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp có tính thời điểm, nhưng nó sẽ
không thể thực hiện nhanh chóng nếu không được “cởi trói” bởi các thủ tục pháp
lý. Việc chậm trễ sẽ dẫn đến hệ quả của hàng loạt các hợp đồng kinh tế bị đình trệ,
các dự án đầu tư “buộc lòng” phải “treo” trên giấy. Điều này gây tổn thất lớn về
mặt kinh tế đối với các doanh nghiệp vay vốn.
Rủi ro do hàng hóa nhập lậu tràn vào trong nước
Hàng hóa nhập lậu vào Việt Nam qua các con đường vùng biên từ lâu đã là
nỗi “ám ảnh” của các doanh nghiệp nội địa. Hàng hóa nhập lậu có ưu điểm rẻ hơn
về giá, loại hình phong phú đánh mạnh vào nhu cầu của đại bộ phận người tiêu
dùng có thu nhập thấp. Các mặt hàng về đồ điện tử, kim khí, quần áo, mỹ phẩm là
một minh chứng cho hiện tượng trên.
Các rủi ro cơ bản trên đã ảnh hưởng tới tình hình sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp. Một khi các đồng vốn mà doanh nghiệp đi vay đổ vào sản xuất

kinh doanh mà không thu lại được, tất yếu sẽ đẩy doanh nghiệp tới việc mất dần
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
khả năng trả nợ. Ngân hàng cũng đứng trước nguy cơ khó thu hồi lại khoản cho
vay này.
1.2.6.2 Nguyên nhân thuộc về năng lực ngân hàng
Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng:
Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó
nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người
kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc
kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các
ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem
như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ
thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những
ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.
Năng lực cán bộ còn hạn chế::
Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ
NHTM đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm
giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để
rút tiền ngân hàng.
Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn
đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm,
nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng
nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay:
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm
định trước khi cho vay mà nới lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi
cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một
cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách

nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung.
Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản
đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những
cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian
qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm
lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không
cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu.
Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự
hiệu quả:
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay
nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là
không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn
chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách
hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính,
khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của
nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay
một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả
chứ không chừa một ngân hàng nào.
Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện
nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính
xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay ngân
hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập
nhật và xử lý kịp thời.
1.2.6.3 Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay:
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh

doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý
lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc
phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng
xấu đến các doanh nghiệp khác.
Khả năng quản lý kinh doanh kém:
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh,
đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh
dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính,
kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy
quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả
thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch:
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nơ so với vốn tự có cao là đặc
điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép
đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp
tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh
nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực
chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa
trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực.
Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế
chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
1.2.7 Hậu quả của rủi ro tín dụng
1.2.7.1 Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Rủi ro tín dụng xảy ra tức là ngân hàng khi đó không thu được nợ gốc hoặc
lãi hoặc đồng thời cả gốc và lãi. Trong khi đó các khoản phải trả cho vốn huy
động của ngân hàng vẫn không thay đổi, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối
trong thu chi, vòng quay vốn tín dụng giảm, chi phí của ngân hàng tăng lên so với

dự kiến, kết quả kinh doanh của ngân hàng không tốt.
Nếu một khoản cho vay của ngân hàng bị mất khả năng thu hồi thì ngân
hàng phải dùng tới các nguồn khác đê bù đắp cho khoản không thu hồi được này.
Nếu ngân hàng sử dụng nguồn vốn để bù đắp, và tới chừng mực nào đấy nguồn
vốn không còn đủ để bù đắp cho khoản tiền gửi của khách hàng thì ngân hàng sẽ
lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn tới nguy cơ gặp phải rủi ro
thanh khoản. Kết quả làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm
sút, uy tín, sức mạnh cạnh tranh trên thị trường giảm. Kết quả kinh doanh ngày
càng xấu và có thể dẫn tới thua lỗ hoặc nặng hơn nữa là phá sản nếu không có biện
pháp xử lý kịp thời.
1.2.7.2 Ảnh hưởng tới kinh tế xã hội
Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính trong nền kinh tế, chuyên huy
động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức các cá nhân doanh nghiệp
có nhu cầu vay lại. Như vậy thực chất quyền sở hữu của các khoản tiền này đã
được chuyển từ người gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy khi rủi ro tín dụng xảy ra
thì không chỉ ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh
hưởng rất lớn.
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản sẽ làm cho
những người gửi tiền không chỉ ở ngân hàng đó mà cả các ngân hàng khác hoang
mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt tới các ngân hàng để rút tiền, làm cho hệ thống ngân
hàng gặp khó khăn thanh khoản trầm trọng.
Ngân hàng phá sản sẽ làm cho tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp khó khăn do ngân hàng là nguồn cung cấp vốn lớn cho các doanh nghiệp.
Cùng lúc đó nếu doanh nghiệp chưa thu được tiền hàng tức là không có nguồn thu
thì công nhân viên của doanh nghiệp sẽ không được trả lương, cuộc sống của công
nhân viên gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất
lớn tới nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế suy thoái, giá cả thay đổi liên tục, sức

mua giảm, thất nghiệp gia tăng, kéo theo đó là hàng loạt các tệ nạn xã hội đi kèm.
Điều này được phản ánh rất rõ trong cuộc khủng hoảng thế giới vừa qua. Sự sụp
đổ của hàng loạt các ngân hàng lớn tai Mỹ đã làm rung chuyển nền kinh tế toàn
cầu. Ngày nay, nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phụ thuộc rất lớn vào kinh tế khu
vực và kinh tế thế giới do vậy nếu nền kinh tế của một quốc gia có vấn đề thì các
nước khác cũng sẽ bị ảnh hưởng, nên rủi ro tín dụng của một nước cũng sẽ ảnh
hưởng tới các nước có liên quan.
Như vậy, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở nhiều mức độ khác
nhau; nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận, không thu hồi được lãi vay, nặng
nhất là ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân
hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được ngân
hàng sẽ bị phá sản gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và ngành
ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức
thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong kinh
doanh.
1.3 Quản lý rủi ro tín dụng
1.3.1 Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Như chúng ta đều biết, quản lý thực chất cũng là một hành vi, đã là hành vi
thì phải có người gây ra và người chịu tác động. Tiếp theo cần có mục đích của
hành vi, đặt ra câu hỏi tại sao làm như vậy? Do đó, để hình thành nên hoạt động
quản lý trước tiên cần có chủ thể quản lý: nói rõ ai là người quản lý? Sau đó cần
xác định đối tượng quản lý: quản lý cái gì? Cuối cùng cần xác định mục đích quản
lý: quản lý vì cái gì? Theo đó Quản lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng chính là
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
quản lý và điều hành các khoản huy động vốn và cho vay vốn trong hoạt động của
ngân hàng; mục đích quản lý ở đây là làm cho chất lượng tín dụng của ngân hàng
tốt hơn, hạn chế rủi ro và nâng cao lợi nhuận.
1.3.2 Sự cần thiết của công tác quản lý rủi ro tín dụng

Bản chất tự nhiên của hoạt động ngân hàng là rủi ro. Quản trị rủi ro là hoạt
động trung tâm của ngân hàng. Rủi ro chung đối với một ngân hàng có nghĩa là
mức độ không chắc chắn liên quan tới một vài sự kiện. Các ngân hàng được coi là
thành công khi mức độ rủi ro họ tham gia ở mức hợp lý, được kiểm soát trong
phạm vi và năng lực tài chính của họ. Rủi ro có thể được đo lường cho các loại sản
phẩm, dịch vụ khác nhau của ngân hàng. Rủi ro là những tình huống xảy ra ngoài
dự kiến gây nên những tổn thất kinh tế, làm chi phí tăng lên, thu nhập giảm và lợi
nhuận giảm đi so với dự kiến ban đầu.
Ngân hàng là một doanh nghiệp. Vì là một doanh nghiệp, bản thân nó trước
nhất phải tự trang bị cho mình những biện pháp, cách thức để sinh tồn trong môi
trường kinh tế để phát triển, làm sao vừa đảm bảo tăng trưởng vừa đảm bảo an
toàn. Đó chính là quản lý rủi ro ngân hàng, và trong hoạt động tín dụng thì đó
được gọi là quản lý rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng không chỉ là nỗi ám ảnh của bản thân ngân hàng, nó còn là
nỗi ảm ánh của cả hệ thống ngân hàng trên toàn thế giới. Những bất ngờ luôn xảy
ra, ngay cả với ngân hàng giỏi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất cũng khó phỏng đoán.
Vì thế, rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng luôn luôn là vấn đề thời sự cho
mỗi ngân hàng, mỗi nền kinh tế trong mỗi thời kỳ.
1.3.3 Phương pháp để quản lý rủi ro tín dụng
-Phân tán rủi ro trong cho vay bằng cách không dồn vốn cho vay quá nhiều
đối với một khách hàng hoặc không tập trung cho vay quá nhiều vào một ngành,
lĩnh vực kinh tế có rủi ro cao.
-Thực hiện tốt việc thẩm định khách hàng và khả năng trả nợ trước khi
quyết định tài trợ.
-Bảo hiểm tiền vay, nghĩa là ngân hàng chuyển toàn bộ rủi ro cho cơ quan
bảo hiểm chuyên nghiệp.
-Phải có chính sách tín dụng hợp lý và duy trì các khoản dự phòng để đối
phó với rủi ro.
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
17

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
-Trước khi quyết định cho vay đối với một khách hàng, ngân hàng phải
xem xét các điều kiện sau:
+Khả năng trả nợ của khách hàng phải lớn hơn hoặc bằng với mức cho vay.
+Mức cho vay không được vượt quá 70% tài sản đảm bảo.
+Tổng dư nợ cho vay một khách hàng không được phép vượt quá 15% vốn
tự có của ngân hàng.
1.3.4 Các bước thực hiện quản lý rủi ro tín dụng
Công tác quản lý rủi ro tín dụng là rất quan trọng đối với ngân hàng. Để
đảm bảo cho công tác này được thực hiện tốt, ngân hàng cần có những bước thực
hiện cụ thể:
Tính toán xác định rủi ro
+ Thẩm định đánh giá rủi ro đối với từng khoản giải ngân: Tình hình tài
chính của đối tượng xin vay vốn, phân tích đặc trưng ngành của doanh nghiệp vay,
phân tích khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp so
với các đối thủ cùng loại trên thị trường. Phân tích các rủi ro hệ thống, rủi ro tình
hình kinh tế
+ Đánh giá năng lực lãnh đạo của các cán bộ doanh nghiệp.
Lượng hóa rủi ro
Sử dụng các công cụ phân tích, các chỉ báo phân tích để tính toán, đo lường
những rủi ro được thể hiện qua các con số.
Quản lý, giám sát
+ Quản lý và giám sát việc doanh nghiệp sử dụng vốn. Nếu có dấu hiệu
doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích: Ngưng việc giải ngân, đề nghị doanh
nghiệp giải trình và yêu cầu thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng giải ngân.
Đưa ra các phương pháp giải quyết rủi ro
+ Không giải ngân đối với các hợp đồng không tuân thủ các điều kiện tài
chính
+ Không chấp nhận các hợp đồng có độ rủi ro cao (tài sản thế chấp không
đảm bảo, lĩnh vực đầu tư không rõ ràng…)

1.3.5 Mô hình xếp hạng tín dụng trong quản lý rủi ro tín dụng
Hệ thống XHTD giúp NHTM quản trị rủi ro tín dụng bằng phương pháp
tiên tiến, giúp kiểm soát mức độ tín nhiệm khách hàng, thiết lập mức lãi suất cho
vay phù hơp với dự báo khả năng thất bại của từng nhóm khách hàng. NHTM có
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
thể đánh giá hiệu quả danh mục cho vay thông qua giám sát sự thay đổi dư nợ và
phân loại nợ trong từng nhóm khách hàng đã được xếp hạng, qua đó điều chỉnh
nguồn lực vào nhóm khách hàng an toàn.
Mô hình xếp hạng tín dụng:
Mô hình đơn giản đơn giản nhất được sử dụng trong XHTD là mô hình một
biến số. Chỉ tiêu đánh giá phải được thống nhất trong mô hình. Tỷ suất tài chính
được sử dụng trong mô hình bao gồm các chỉ tiêu thanh khoản, các chỉ tiêu hoạt
động, chỉ tiêu cân nợ, chỉ tiêu lợi tức, chỉ tiêu vay nợ và chi phí trả lãi. Các chỉ tiêu
phi tài chính thường được sử dụng bao gồm thời gian hoạt động của Doanh
nghiệp, số năm kinh nghiệm và trình độ của nhà quản trị cao cấp, triển vọng
ngành. Nhược điểm của mô hình một biến số là kết quả dự báo khó chính xác nếu
thực hiện phân tích và cho điểm các chỉ tiêu đánh giá một cách riêng biệt, hơn nữa
mỗi người có thể hiểu các chỉ tiêu đánh giá theo cách khác nhau. Để khắc phục
nhược điểm này các nhà nghiên cứu đã xây dựng các mô hình kết hợp nhiều biến
số thành một giá trị để đánh giá thất bại của doanh nghiệp như mô hình phân tích
hồi quy, phân tích logic, phân tích xác suất có điều kiện, phân tích phân tích nhiều
biến số.
NHTM áp dụng các mô hình khác nhau tùy theo đối tượng xếp loại cá
nhân, doanh nghiệp hay tổ chức tín dụng. Các mô hình này có thể được điều chỉnh
sau vài năm sử dụng khi thấy có nhiều sai sót lớn giữa xếp hạng với thực tế.
Quy trình xếp hạng tín dụng:
Căn cứ vào chính sách tín dụng và các quy trình có liên quan của từng ngân
hàng nhằm xác lập quy trình XHTD. Một quy trình XHTD bao gồm các bước cơ

bản sau:
1. Thu thập thông tin có liên quan đến các chỉ tiêu sử dụng trong phân tích
đánh giá, thông tin xếp hạng của các tổ chức tín dụng khác có liên quan đến đối
tượng xếp hạng.
2. Phân tích bằng mô hình để kết luận về mức xếp hạng . Mức xếp hạng
cuối cùng được quyết định theo ý kiến của Hội Đồng xếp hạng. Trong xếp hạng
tín dụng thì kết quả xếp hạng tín dụng không được công bố rộng rãi.
3. Theo dõi tình trạng tín dụng của đối tượng xếp hạng để điều chỉnh mức
xếp hạng các thông tin điều chỉnh được lưu giữ. Tổng hợp kết quả xếp hạng so với
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
thực tế rủi ro xảy ra, và dựa trên tần suất phải điều chỉnh mức xếp hạng đã thực
hiên đối với khách hàng để xem xét điều chỉnh mô hình xếp hạng.
Phương pháp xếp hạng tín dụng theo mô hình điểm số
Mục đích của XHTD là để dự đoán những khách hàng có rui ro cao. Các
phương pháp XHTD hiện đại bao gồm phương pháp nghiên cứu thống kê dựa trên
sự hồi quy và cây phân loại hoặc các phương pháp vận trù học dựa trên toán học
để giải quyết các bài toán tài chính bằng quy hoạch tuyến tính, qua đó nhà quản trị
có quyết định hợp lý cho các hành động trong hiện tại và tương lai.
XHTD theo mô hình điểm số là phương pháp khoa học kết hợp sử dụng dữ
liệu để nghiên cứu thống kê và áp dụng mô hình thuật toán để phân tích, tính điểm
cho các chỉ tiêu đánh giá trong mô hình một biến hoặc đa biến. Các chỉ tiêu sử
dung trong XHTD được xác lập theo nhóm bao gồm phân tích ngành, phân tích
hoạt động kinh doanh, phân tích hoạt động tài chính. Sau đó đưa vào mô hình để
tính điểm theo trọng số và quy đổi điểm nhận được sang biểu xếp hạng tương ứng.
1.3.6 Nguyên tắc BASEL về quản lý rủi ro tín dụng
Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn luôn tiềm ẩn rủi ro, đặc biệt là hoạt
động tín dụng. Do đó để đảm bảo mục tiêu hiệu quả, kiểm soát rủi ro, phát triển
bền vững nhất thiết đòi hỏi các ngân hàng phải xây dựng một hệ thống để phòng

ngừa rủi ro và đưa ra các biện pháp cần thiết để khắc phục, giảm thiểu những rủi
ro tín dụng, tránh sự đổ vỡ cho ngân hàng.
Trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, đòi hỏi các nước phải tự do hoá, mở
cửa thị trường trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng để hội nhập. Do vậy, trong các
hoạt động ngân hàng cần được thực hiện và quản lý thông qua các tiêu chuẩn, tiêu
chí có tính thông lệ quốc tế, đặc biệt trong quản lý nợ xấu, vì:
- Quản lý nợ xấu theo chuẩn mực quốc tế hiện đại sẽ làm tăng khả năng
cung cấp dịch vụ của các NHTM do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng nhanh vòng
quay vốn và thu hút thêm được nhiều khách hàng, bởi vì các hình thức của sản
phẩm, dịch vụ, tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng và uy tín của ngân hàng, làm
cho khách hàng mong muốn gắn bó lâu dài với ngân hàng.
- Tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân
hàng, việc ứng dụng các mô hình quản lý tài sản hiện đại, đặc biệt là quản lý nợ
xấu sẽ hạn chế tổn thất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tăng lợi nhuận
bổ sung vốn đầu tư.
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
- Ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, góp phần điều hoà vốn
trong nền kinh tế. Do đó, chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng củng cố
mối quan hệ xã hội của ngân hàng, điều đó cũng có ý nghĩa là tạo được môi trường
thuận lợi nhất cho hoạt động ngân hàng phát triển, gia tăng giá trị cho các ngân
hàng đồng thời mở rộng thị trường trong nước và quốc tế.
- Việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản Basel giúp các cơ quan quản lý xây
dựng hệ thống thanh tra giám sát hiệu quả, hỗ trợ việc phát triển thị trường tài
chính, phát triển hoạt động ngân hàng vững mạnh, nâng cao khả năng cạnh tranh,
gia tăng giá trị cho các NHTMvà mở rộng thị trường trong nước và quốc tế.
Ủy ban Basel đã ban hành đề xuất khung đo lường mới với 3 trụ cột chính:
(1) Yêu cầu vốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa Basel I,
(2) Sự xem xét đánh giá của quá trình đánh giá nội bộ và sự đủ vốn của các

tổ chức tài chính,
(3) Sử dụng hiệu quả của việc công bố thông tin làm nhằm mạnh kỷ luật thị
trường như là sự bổ sung cho nỗ lực giám sát.
Bốn nguyên tắc chính của trụ cột II – Xem xét đánh giá cuả quá trình đánh
giá nội bộ và sự đủ vốn của tổ chức tài chính
Nguyên tắc 1: Ngân hàng nên có quy trình đánh giá sự thích hợp của tổng
vốn và hồ sơ rủi ro của ngân hàng cùng với một chiến lược duy trì các mức vốn
khác nhau.
Nguyên tắc 2: Những người giám sát cần kiểm tra lại, đánh giá các chiến
lược và đảm bảo sự tuân thủ các mức vốn điều tiết. Những người giám sát cần có
những hành động giám sát phù hợp nếu họ không thảo mãn với kết quả của quá
trình đánh giá.
Nguyên tắc 3: Kiểm sát viên nên yêu cầu ngân hàng duy trì mức cao hơn tỷ
lệ vốn điều chỉnh tối thiểu và phải có khả năng yêu cầu các đơn vị thành viên duy
trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu.
Nguyên tắc 4: Kiểm sát viên cần có biện pháp can thiệp ngay ở giai đoạn
đầu tiên để ngăn chặn mức vốn không bị rớt xuống thấp hơn mức tối thiểu để giải
quyết những thuộc tính rủi ro cảu một ngân hàng nhất định và cần có hướng gải
quyết tức thì nếu vốn không duy trì hoặc khôi phục được.
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
Hiện nay bên cạnh việc áp dụng nguyên tắc Basel, một số nước vẫn áp
dụng những tiêu chuẩn riêng của mình, nhưng nhìn chung Basel là nguyên tắc
được áp dụng phổ biến nhất hiện nay.
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
NHTMCP NHÀ HÀ NỘI

2.1 Khái quát chung về NHTMCP nhà Hà Nội
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội – tên viết tắt là Habubank- là
ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên ở Việt Nam, được thành lập từ năm 1989
theo Quyết định số 6719 QĐ/UB ngày 31/12/1988 của UBNN thành phố Hà Nội
với mục tiêu ban đầu là hoạt động tín dụng và dịch vụ trong lĩnh vực phát triển
nhà. Ngân hàng được ngân hàng nhà nước Việt Nam cấp giấy phép hoạt động số
0020/NH – GP ngày 6 tháng 6 năm 1992.
Ngân hàng được thành lập nhằm thực hiện các giao dịch ngân hàng bao
gồm: huy động và nhận tiền gửi ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ các tổ chức và
cá nhân; chi vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức cá nhân trên
cơ sở tính chất và khả năng nguồn vốn của Ngân hàng; thực hiện các giao dịch
ngoại tệ, các dịch vụ tài trợ thương mại quốc tế, chiết khấu thương phiếu, trái
phiếu và các giấy tờ có giá khác, các dịch vụ ngân hàng khác được Ngân hàng Nhà
nước cho phép.
Vốn điều lệ:
Vốn điều lệ ban đầu của ngân hàng là 50.000 triệu đồng và được bổ sung
từng thời kỳ theo kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Số vốn
điều lệ của ngân hàng tại thời điểm 31/12/2009 là 3000 tỷ đồng ( tại ngày
31/12/2008 là 2800 tỷ đồng)
Vốn tăng lên Được chấp thuận theo Ngày
200.000 tr đ QĐ 1882/NHNN – HAN7 16/10/2009
Mô hình tổ chức:
Habubank hiện có mô hình tổ chức báo cáo ít tầng nhằm giảm thiểu tính
quan liêu trong hệ thống cũng như nâng cao tính năng động của tổ chức. Ðặc điểm
nổi bật của mô hình Habubank là tập trung vào khách hàng, đội ngũ nhân viên
chuyên nghiệp và quản lý rủi ro hiệu quả.
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
23
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

Sơ đồ 2.1: CƠ CẤU TỔ CHỨC THEO MÔ HÌNH QUẢN TRỊ RỦI RO
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
CHỦ TỊCH
HĐQT
HĐQT NHÂN
LỰC
BAN QUẢN LÝ
VỐN CỔ ĐÔNG
TỔNG GIÁM
ĐỐC
BAN ĐIỀU
HÀNH
ỦY BAN QUẢN TRỊ RỦI RO
CÁC ỦY BAN
CHÍNH SÁCH
CÁC BAN TRIỂN KHAI
ỦY
BAN
ALCO
ỦY
BAN
CSTD
BAN
QUẢN
LÝ RỦI
RO
THANH
KHOẢN
BAN
QUẢN

LÝ RỦI
RO TÍN
DỤNG
BAN
QUẢN
LÝ RỦI
RO THỊ
TRƯỜNG
BAN
QUẢN
LÝ RỦI
RO
HOẠT
ĐỘNG
PHÓ
TỔNG
GIÁM
ĐỐC
NGÂN
HÀNG
DOANH
NGHIỆP
PHÓ
TỔNG
GIÁM
ĐỐC
NGÂN
HÀNG

NHÂN

PHÓ
TỔNG
GIÁM
ĐỐC
ĐÁNH
GIÁ VÀ
PHÊ
DUYỆT
TÍN
DỤNG
PHÓ
TỔNG
GIÁM
ĐỐC
PHÓ
TỔNG
GIÁM
ĐỐC
TÀI
CHÍNH

CUNG
ỨNG
DỊCH
VỤ
PHÓ
TỔNG
GIÁM
ĐỐC
MARKET

ING &
PR
PHÓ
TỔNG
GIÁM
ĐỐC
PHÁP
CHẾ VÀ
TUÂN
THỦ
PHÓ
TỔNG
GIÁM
ĐỐC
KINH
DOANH
NGUỒN
VỐN
HỖ TRỢ QUẢN TRỊ ĐIỀU HÀNH KIỂM TOÁN NỘI BỘ
BAN KIỂM SOÁT
24
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hữu Nghị
Mục tiêu chiến lược: Để tạo dựng NIỀM TIN, Habubank hoạt động theo năm
mục tiêu chiến lược rõ ràng:
1. Tối đa hóa giá trị đầu tư của các cổ đông, giữ vững tốc độ tăng trưởng lợi
nhuận và tình hình tài chính lành mạnh.
2. Không ngừng nâng cao động lực làm việc và năng lực cán bộ; Habubank
phải luôn dẫn đầu ngành Ngân hàng trong việc sáng tạo, phát triển chính sách đãi
ngộ và cơ hội thăng tiến nghề nghiệp cho cán bộ của mình.
3. Duy trì sự hài lòng, trung thành và gắn bó của khách hàng với Habubank;

xây dựng Habubank thành một trong hai ngân hàng Việt Nam có chất lượng phụ
vụ tốt nhất do các doanh nghiệp cầu tiến, hộ gia đình và cá nhân cầu chọn.
4. Phát triển Habubank thành một trong ba ngân hàng được tín nhiệm nhất
Việt Nam về: quản lý tốt nhất, môi trường làm việc tốt nhất, văn hóa doanh nghiệp
chú trọng khách hàng, thúc đẩy hợp tác sáng tạo nhất, linh hoạt nhất khi môi
trường kinh doanh thay đổi.
5. Góp phần tích cực làm vững chắc thị trường tài chính trong nước
Tới nay, qua hơn 20 hoạt động, Habubank đã có số vốn điều lệ là 3000 tỷ
đồng với mạng lưới ngày càng mở rộng. 9 năm liên tục được Ngân hàng Nhà
Nước xếp loại A và được công nhận là ngân hàng phát triển toàn diện, hoạt động
ổn định, an toàn và hiệu quả. Habubank luôn giữ vững niềm tin của khách hàng
bằng chất lượng sản phẩm dịch vụ và phong cách nhiệt tình chuyên nghiệp của tất
cả các nhân viên.
2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua
Sau 21 năm hoạt động, Habubank luôn giữ vững được tăng trưởng mạnh
mẽ và ổn định, tạo niềm tin cho khách hàng. Điều này được thể hiện bằng các chỉ
số tài chính qua các năm như sau:
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản 2007- 2009 Đv: Triệu
đồng
Tại thời điểm 31/12 2,009 2,008 2,007
Tổng tài sản có 29,240,000 23,606,717 23,518,684
Tổng dư nợ 13,358,000 10,515,947 9,419,378
Tổng tài sản Nợ 25,988,101 20,613,956 20,339,339
Tổng huy động 25,232,000 19,961,017 19,970,366
Vốn điều lệ 3,000,000 2,800,000 2,000,000
Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
25

×