Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

skkn tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.02 KB, 43 trang )

Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
PHẦN MỞ ĐẦU
I. CƠ SỞ KHOA HỌC
1. Cơ sở lý luận
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành và phát
triển năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn
ngữ thể hiện trong bốn dạng hoạt động, tương ứng là bốn kĩ năng nghe, nói,
đọc, viết. Trong đó, Tập đọc là một trong những phân môn quan trọng của
môn Tiếng Việt ở tiểu học. Bởi vì, nếu muốn phát triển tư duy ngôn ngữ cho
học sinh, các em cần phải biết đọc để tiếp thu những cái hay, cái mới, không
biết đọc các em không thể học được các môn học khác. Hơn nữa, phân môn
Tập đọc là trục chính cho các phân môn khác xoay quanh, nó cung cấp ngữ
liệu dạy – học tiếng Việt cho các phân môn khác. Cụ thể, các chủ đề trong
phân môn Luyện từ và câu (ở các bài Mở rộng vốn từ theo chủ đề) nhìn
chung được hình thành từ các chủ đề của phân môn Tập đọc, các từ ngữ được
liệt kê, giới thiệu trong các bài học đó cũng chủ yếu được chọn trong các bài
Tập đọc đã học. Còn ở phân môn Tập làm văn, các văn bản trong phân môn
Tập đọc cung cấp cho học sinh vốn từ phong phú, đa dạng, các ví dụ điển
hình về nghệ thuật dùng từ, đặt câu, viết đoạn, viết bài để các em vận dụng
vào bài làm văn. Học sinh học được cách dùng từ loại, học được cách dùng
phép so sánh, nhân hoá, để chắp thêm cánh cho trí tưởng tượng, liên tưởng,
khi làm các bài văn miêu tả, kể chuyện trong chương trình Tập làm văn.
Các văn bản sử dụng trong phân môn Tập đọc gồm những văn bản hành
chính, khoa học, công vụ, báo chí và các văn bản nghệ thuật. Trong đó, văn
bản nghệ thuật chiếm số lượng nhiều hơn cả. Nó đóng vai trò giúp cho học
sinh tiếp nhận được vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp của cách nói văn chương, khả
Trường Tiểu học Xuân Quan 1
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
năng phát hiện được tín hiệu nghệ thuật và cao hơn nữa là cho các em đánh
giá được giá trị của các tín hiệu nghệ thuật trong việc biểu đạt nội dung.
Ngoài ra nó còn góp phần rất quan trọng vào việc hình thành tư duy sáng tạo


nghệ thuật, tư duy văn chương ở học sinh tiểu học.
Khi tiếp nhận văn chương, học sinh không chỉ phải hiểu nội dung sự
việc của văn bản mà còn phải nắm nội dung liên cá nhân, giá trị biểu hiện,
chất trữ tình,… - cái làm nên sắc vẻ riêng của từng bài tập đọc. Vì vậy, đích
cuối cùng của dạy cảm thụ một tác phẩm trong giờ Tập đọc trước hết phải
thấy được bài văn là kết quả của một hành động tự nhận thức, nơi bộc lộ
những tình cảm, thái độ của nhà văn trước hiện thực. Một trong những cái
làm nên giá trị của một văn bản chính là nghệ thuật tu từ. Dạy học các biện
pháp tu từ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đó là cách học sử dụng ngôn từ có
hiệu quả cao. Ngôn từ được dùng không chỉ đảm bảo tính thông báo, thông
tin mà còn mang đậm tính nghệ thuật, thẩm mĩ và biểu đạt tình cảm. Nắm
được quy tắc này học sinh không chỉ biết sử dụng mà còn biết cảm thụ cái
hay, cái đẹp của tiếng Việt, thêm yêu tiếng mẹ đẻ và tự nảy sinh ý thức giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Cụ thể thông qua cách sử dụng những biện
pháp tu từ của tác giả trong các văn bản của phân môn Tập đọc, học sinh
không chỉ biết được giá trị đích thực của nội dung bài học, biết được tâm tư,
tình cảm của tác giả và hơn hết qua đó, các em sẽ cảm thụ được sâu sắc bài
học và ý nghĩa, nội dung tác giả muốn gửi gắm, viết lên được những suy nghĩ
của các em về tư tưởng, giá trị của văn bản. Cảm nhận được ý nghĩa của thơ
văn dựa trên những phép hiểu biết về tu từ và sự phong phú của ngôn từ, học
sinh sẽ thấy được tiếng Việt của ta sao mà đa dạng và lí thú và thú vị đến vậy.
2. Cơ sở thực tiễn
Trường Tiểu học Xuân Quan 2
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
Tuy nhiên dạy học các biện pháp tu từ từ ngữ liệu Tập đọc vẫn đang là
một vấn đề khó và cần được quan tâm ở tiểu học nói chung, lớp 4 nói riêng.
Bởi thứ nhất, mảng kiến thức về biện pháp tu từ khá mới mẻ so với cả giáo
viên và học sinh. Thứ hai học sinh rất khó để nhận biết và phát hiện ra các
biện pháp tu từ trong các văn bản ở phân môn Tập đọc nếu không có sự
hướng dẫn, gợi ý của giáo viên. Chính vì vậy việc cảm thụ và nhận biết giá trị

nghệ thuật của các biện pháp tu từ lại càng khó khăn hơn. Thêm vào đó, việc
trang bị những hiểu biết về các biện pháp tu từ của giáo viên tiểu học vẫn
chưa được quan tâm sâu sắc. Phần lớn hầu hết giáo viên mới chỉ hiểu sơ lược
khái niệm còn việc hiểu ý nghĩa, tác dụng của các biện pháp tu từ này lại khá
nông. Do đó vấn đề đặt ra là để đạt hiệu quả cao trong việc giúp học sinh cảm
thụ được giá trị của các biện pháp tu từ trong các văn bản ở phân môn Tập
đọc rất cần có những ứng dụng cụ thể giúp giáo viên có thể bổ trợ kiến thức
cơ bản và biết cách tiến hành tổ chức các hoạt động dạy học được tốt, đạt
được mục tiêu của môn học.
Phân môn Tập đọc lớp 4 tập trung khá nhiều văn bản nghệ thuật có sử
dụng các biện pháp tu từ. Hơn nữa học sinh lớp 4 đã được làm quen với biện
pháp so sánh, nhân hoá ở lớp 3 nên việc nhận biết các biện pháp tu từ này
trong các văn bản tập đọc sẽ dễ dàng hơn. Tuy vậy, các em mới chỉ được làm
quen với các biện pháp tu từ trong phân môn Luyện từ và câu với việc giáo
viên và sách giáo khoa đã chỉ ra cụ thể các biện pháp và yêu cầu học sinh tìm
hình ảnh so sánh, nhân hoá. Còn ở phân môn Tập đọc lớp 4 các em sẽ phải tự
phát hiện ra các biện pháp tu từ đã được tác giả dùng trong văn bản và nêu
được giá trị nghệ thuật của các biện pháp tu từ đó. Hay nói đúng hơn là các
em sẽ cảm thụ văn bản thông qua việc sử dụng các biện pháp tu từ của tác
giả. Điều đó quả là quá sức với học sinh tiểu học khi mà vốn kinh nghiệm
Trường Tiểu học Xuân Quan 3
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
sống, những hiểu biết về biện pháp tu từ, vốn văn chương chưa nhiều. Do vậy
việc tìm hiểu một số biện pháp tu từ ở các bài tập đọc, từ đó giúp giáo viên có
những hiểu biết sâu hơn về các biện pháp tu từ được sử dụng cũng như tác
dụng của chúng sẽ là những gợi ý bổ ích để giáo viên xây dựng lên các bài
tập hay câu hỏi gợi ý nhằm giúp học sinh cảm thụ tốt hơn về các tác phẩm.
Với những lí do trên, tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến kinh nghiệm:
Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4.
II. MỤC ĐÍCH CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc nhằm mục đích giúp
giáo viên có những hiểu biết sâu sắc hơn về các biện pháp tu từ được sử dụng
cũng như tác dụng của chúng từ đó giúp giáo viên xây dựng lên các bài tập
hay câu hỏi gợi ý nhằm giúp học sinh lớp 4 cảm thụ tốt hơn về các tác phẩm.
III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
- Các văn bản nghệ thuật được sử dụng trong phân môn Tập đọc sách
giáo khoa Tiếng Việt lớp 4.
- Các biện pháp tu từ được sử dụng trong các văn bản nghệ thuật lớp 4.
2. Phạm vi nghiên cứu
- Các văn bản nghệ thuật được sử dụng trong phân môn Tập đọc sách
giáo khoa Tiếng Việt lớp 4.
IV. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
- Đối tượng điều tra: Giáo viên cơ bản lớp 4 trường tiểu học Xuân
Quan; Học sinh lớp 4 trường tiểu học Xuân Quan.
- Đối tượng thực nghiệm: Học sinh trường tiểu học Xuân Quan.
- Thời gian bắt đầu: Bắt đầu từ năm học 2009-2010.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trường Tiểu học Xuân Quan 4
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
Trong sáng kiến kinh nghiệm này, tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
- Thu thập và xử lí tài liệu
- Điều tra, khảo sát.
- Thống kê, phân loại
- Thực nghiệm sư phạm
- Kiểm tra, đánh giá sau thực nghiệm
VI. THỜI GIAN HOÀN THÀNH
Thời gian hoàn thành Sáng kiến kinh nghiệm là tháng 3 – 2011.
NỘI DUNG

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT
Để tìm hiểu được các biện pháp tu từ có trong các bài tập lớp 4 cần giải
quyết được những vấn đề sau:
- Nắm vững mục tiêu dạy học phân môn Tập đọc.
- Nắm vững mục đích dạy đọc-hiểu các biện pháp tu từ trong Tập đọc.
- Một số biện pháp tu từ thường gặp trong các bài tập đọc lớp 4.
- Thống kê những bài tập đọc (văn bản nghệ thuật) có sử dụng các biện
pháp tu từ.
- Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc.
- Cách sử dụng ngữ liệu về các biện pháp tu từ ở các bài tập đọc.
II. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT
1. Thực trạng.
Qua thực tế giảng dạy có rất nhiều các biện pháp bồi dưỡng năng lực
cảm thụ văn học cho học sinh như trau dồi vốn sống, hướng dẫn học sinh
tưởng tượng, rèn đọc diễn cảm,… trong đó việc sử dụng câu hỏi và bài tập là
biện pháp cuối cùng được coi là chủ chốt giúp học sinh tiếp cận với thế giới
Trường Tiểu học Xuân Quan 5
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
nghệ thuật của văn bản. Các câu hỏi và bài tập này đã được sách giáo khoa
biên soạn sẵn theo các nguyên tắc đảm bảo tính khoa học, đảm bảo tính sư
phạm, đảm bảo tính hấp dẫn. Tuy nhiên giữa yêu cầu và thực tế luôn có
những điều bất cập, hơn nữa, sử dụng chúng như thế nào cho hiệu quả còn
tuỳ thuộc vào năng lực sư phạm của mỗi giáo viên. Ta có thể nhận thấy một
số ưu điểm của hệ thống câu hỏi sách giáo khoa đưa ra nhằm mục đích giúp
học sinh cảm thụ văn học, tích hợp kiến thức và kĩ năng giữa các phân môn
của môn Tiếng Việt, giúp học sinh chủ động, tích cực hơn. Ví dụ: Các câu
hỏi về nhận biết, đánh giá giá trị của các biện pháp tu từ đã xuất hiện giúp
học sinh bước đầu tìm hiểu giá trị nghệ thuật của tác phẩm như: Chiếc bè gỗ
được ví với cái gì? Cách nói ấy có gì hay?( Bè xuôi sông La - sách giáo khoa
Tiếng Việt 4, tập 2)

Bên cạnh những ưu điểm trên thì hệ thống câu hỏi và bài tập đọc hiểu
văn bản nghệ thuật sách giáo khoa đưa ra còn tồn tại một số điểm hạn chế
như:
- Thiết kế khá đơn điệu, cả bài chỉ sử dụng một kiểu câu hỏi chỉ yêu
cầu học sinh tái hiện nội dung, dễ gây nhàm chán, không khai thác được các
yếu tố nghệ thuật của bài.
- Các câu hỏi về nhận biết, đánh giá giá trị các biện pháp tu từ chưa
nhiều và chưa đi sâu tìm hiểu giá trị nghệ thuật của tác phẩm, ví dụ, có bài có
câu hỏi nhận biết nhưng không có câu hỏi đánh giá khiến học sinh chưa hiểu
rõ ý nghĩa của tác phẩm qua biện pháp tu từ hoặc có bài chỉ có câu hỏi đánh
giá tương đối khó so với học sinh đại trà nếu như không có những câu hỏi
nhận diện để dẫn dắt như : Cách nói dòng sông mặc áo có gì hay?( Dòng
sông mặc áo - Sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tập 2).
Trường Tiểu học Xuân Quan 6
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
Nhìn chung những câu hỏi đọc hiểu văn bản nghệ thuật trong sách giáo
khoa mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu nội dung bài đọc mà chưa đi sâu vào
phân tích, đánh giá giá trị nghệ thuật của các biện pháp tu từ trong bài đọc.
Vấn đề đặt ra là cần có hệ thống câu hỏi và bài tập dạy đọc hiểu biện pháp tu
từ để giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn nội dung, ý nghĩa của tác phẩm. Và để
có được điều đó đòi hỏi người giáo viên phải có những hiểu biết nhất định về
các biện pháp tu từ cũng như giá trị của nó trong việc biểu đạt nội dung trong
các bài tập. Trong thực tế có không nhiều giáo viên hiểu sâu và hiểu hết về
các biện pháp tu từ được sử dụng nên họ gặp nhiều lúng túng, khó khăn khi
muốn giúp học sinh cảm thụ văn bản. Vì nhiều lý do nên đại đa số giáo viên
thường trung thành với các câu hỏi sách giáo khoa cũng như gợi ý ở sách
giáo viên để dạy cho học sinh chứ chưa có những sáng tạo để giúp các em có
cảm thụ văn bản được sâu hơn.
2. Biện pháp
2.1 Nắm vững mục tiêu dạy học phân môn Tập đọc

Phân môn Tập đọc nhằm giúp học sinh:
- Phát triển các kĩ năng đọc và nghe cho học sinh, ở đây kĩ năng đọc
gồm đọc thành tiếng và đọc hiểu.
- Trau dồi môn Tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự
hiểu biết của học sinh về cuộc sống.
- Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình
yêu cái đẹp, cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống, hứng thú
đọc sách, yêu thích Tiếng Việt.
2.2 Nắm vững mục đích của việc dạy đọc hiểu các biện pháp tu từ trong
giờ Tập đọc lớp 4
Trường Tiểu học Xuân Quan 7
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
- Học sinh biết kiến thức về các biện pháp tu từ.
- Học sinh nhận diện được các biện pháp tu từ, hiểu nghĩa các hình ảnh
tu từ có trong các văn bản nghệ thuật.
- Học sinh nêu được nhận xét về giá trị nghệ thuật của các biện pháp tu
từ.
- Học sinh biết lựa chọn các biện pháp tu từ đặc sắc trong tác phẩm
mình đã đọc để vận dụng vào làm các bài tập trong phân môn Tập làm văn và
phân môn Luyện từ và câu, sử dụng thêm trong các tiết chuyên đề bồi dưỡng
học sinh giỏi.
2.3 Một số biện pháp tu từ thường gặp trong các bài tập đọc lớp 4.
2.3.1. So sánh
So sánh là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu
hai sự vật, hiện tượng có cùng một dấu hiệu chung nào đó với nhau, nhằm
làm cho việc diễn tả được sinh động, gợi cảm.
* Mô hình cấu tạo so sánh hoàn chỉnh gồm 4 yếu tố
1 2 3 4
Cánh diều mềm mại như cánh bướm
- Yếu tố 1: yếu tố được hoặc bị so sánh tuỳ theo việc so sánh là tích cực

hay tiêu cực.
- Yếu tố 2: yếu tố chỉ tính chất của sự vật hay trạng thái của hành động,
có vai trò nêu rõ phương diện so sánh.
- Yếu tố 3: yếu tố thể hiện quan hệ so sánh.
- Yếu tố 4: yếu tố được đưa ra làm chuẩn để so sánh.
Thực tế, có nhiều cách so sánh không đầy đủ cả 4 yếu tố nêu trên. Do
mang chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm – cảm xúc, và do cấu tạo
Trường Tiểu học Xuân Quan 8
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
đơn giản cho nên so sánh tu từ được dùng trong nhiều phong cách tiếng Việt
nhất là trong lời nói nghệ thuật.
2.3.2 Ẩn dụ
Ẩn dụ là phương thức bình giá riêng của cá nhân nhà văn. Bằng những
sắc thái, bằng ý nghĩa hình tượng tìm kiếm được, ẩn dụ tác động vào trực
giác của người nhận và để lại khả năng cảm thụ sáng tạo.
2.3.3. Nhân hoá
Nhân hoá là biến sự vật thành con người bằng cách gán cho nó những
đặc điểm mang tính cách người, làm cho nó trở nên sinh động, hấp dẫn. Về
mặt hình thức, nhân hoá có thể được cấu tạo theo ba cách:
- Dùng những từ ngữ chỉ tính chất, hoạt động của con người để biểu thị
tính chất, hoạt động của đối tượng không phải con người.
- Gọi đối tượng không phải người như gọi người.
- Coi đối tượng không phải người như con người và tâm tình trò chuyện
với chúng.
Do có chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm – cảm xúc cho nên
nhân hoá được sử dụng rộng rãi, đặc biệt là trong các văn bản nghệ thuật.
2.3.4. Điệp ngữ
Điệp ngữ ( còn gọi: lặp) là sự nhắc đi nhắc lại ( lặp đi lặp lại) có ý thức
những từ ngữ, nhằm mục đích nhấn mạnh ý, mở rộng ý, gây ấn tượng mạnh
hoặc gợi ra những xúc cảm trong lòng người đọc, người nghe.

Điệp ngữ có cơ sở ở quy luật tâm lí: một vật kích thích xuất hiện nhiều
lần sẽ làm người ta chú ý. Căn cứ vào tính chất của tổ chức cấu trúc, điệp ngữ
được chia ra nhiều dạng: điệp ngữ nối tiếp, điệp ngữ cách quãng, điệp ngữ
vòng tròn. Điệp ngữ được sử dụng rộng rãi trong tất cả phạm vi của lời nói,
đặc biệt là trong văn nghệ thuật.
Trường Tiểu học Xuân Quan 9
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
2.3.5. Đảo ngữ
Đảo ngữ là sự thay đổi trật tự cấu tạo ngữ pháp thông thường của câu,
nhằm nhấn mạnh và làm nổi bật ý cần diễn đạt. Đảo ngữ thường có những
kiểu sau đây: đảo vị ngữ - động từ ra trước chủ ngữ , đảo vị ngữ - tính từ ra
trước chủ ngữ, đảo bổ ngữ - khách thể, đảo bổ ngữ phương thức của vị từ,
đảo lên đầu câu bổ ngữ phương thức của từ, đảo vị trí của vị từ , đảo vị trí
của vị từ , đảo vị trí của vị từ
2.4. Thống kê những bài tập đọc có sử dụng biện pháp tu từ
Lớp Chủ điểm Tuầ
n
Tên tác phẩm Tác giả Thể loại
4 Thương
người như
thể thương
thân
1 - Dế mèn bênh vực
kẻ yếu
- Mẹ ốm
- Tô Hoài
- Trần Đăng
Khoa
- Truyện
- Thơ

2 - Dế mèn bênh vực
kẻ yếu
- Truyện cổ nước
mình
- Tô Hoài
- Lâm Thị Mỹ
Dạ
- Truyện
- Thơ
Măng mọc
thẳng
4 - Tre Việt Nam - Nguyễn Duy - Thơ
5 - Gà Trống và Cáo - La Phông
-Ten
- Thơ
ngụ
ngôn
Trên đôi
cánh ước

7 - Trung thu độc lập - Thép Mới - Văn
biểu cảm
8 - Nếu chúng mình
có phép lạ
- Đôi giày ba ta
màu xanh
- Định Hải
- Hàng Chức
Nguyên
- Thơ

- Truyện
Trường Tiểu học Xuân Quan 10
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
Tiếng sáo
diều
14 - Chú Đất Nung - Nguyễn Kiên - Truyện
15 - Cánh diều tuổi
thơ
- Tuổi ngựa
- Tạ Duy Anh
- Xuân Quỳnh
- Văn
biểu cảm
- Thơ
Người ta là
hoa đất
21 - Bè xuôi sông La - Vũ Duy
Thông
- Thơ
Vẻ đẹp
muôn màu
22 - Sầu riêng
- Chợ Tết
- Mai Văn Tạo
- Đoàn Văn Cừ
- Văn
miêu tả
- Thơ
23 - Hoa học trò
- Khúc hát ru

những em bé lớn
trên lưng mẹ
- Xuân Diệu
- Nguyễn Khoa
Điềm
- Văn
biểu cảm
- Thơ
24 - Đoàn thuyền
đánh cá
- Huy Cận - Thơ
Những
người quả
cảm
25 - Bài thơ về tiểu
đội xe không kính
- Phạm Tiến
Duật
- Thơ
26 - Thắng biển - Chu Văn -Văn
miêu tả
27 - Con sẻ - Tuôc-ghê-
nhép
- Truyện
Khám phá
thế giới
29 - Đường đi Sa Pa
- Trăng ơi …từ
đâu đến?
- Nguyễn Phan

Hách
- Trần Đăng
Khoa
- Văn
miêu tả
- Thơ
30 - Dòng sông mặc
áo
- Nguyễn
Trọng Tạo
- Thơ
31 - Con chuồn chuồn - Nguyễn Thế - Văn
Trường Tiểu học Xuân Quan 11
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
nước Hội miêu tả
Tình yêu
cuộc sống
33 - Con chim chiền
chiện
- Huy Cận - Thơ
2.5 Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc.
Với việc khảo sát, phân tích trong một số văn bản nghệ thuật ở phân
môn Tập đọc lớp 4, tôi rút ra được các biện pháp tu từ tiêu biểu và tác dụng
của chúng như sau:
Bài Dế Mèn bênh vực kẻ yếu – Tiếng Việt 4 – Tập 1
Đây là truyện nhưng tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hoá rất tài tình
làm nổi bật lên cử chỉ, lời nói, hành động của mỗi nhân vật. Cụ thể là dù viết
về loài vật nhưng bằng biện pháp nhân hoá, nhà văn Tô Hoài vẫn cho người
đọc hình dung ra được cử chỉ, lời nói, thái độ của con người. Tác giả đã nhân
hoá Dế Mèn như một chàng trai dũng cảm, tốt bụng, sẵn sàng giúp đỡ người

gặp hoạn nạn, nhân hoá chị Nhà Trò như một cô gái tội nghiệp, đáng thương:
bé nhỏ, lại gầy yếu quá, người bự những phấn như mới lột, hai cánh mỏng
như cánh bướm non, lại ngắn chùn chùn…hay nhân hoá lũ nhện trong trận
địa mai phục thật lạnh lùng và gớm ghiếc: mụ nhện cái chúa trùm “đanh đá
nặc nô”…Nhà văn còn sử dụng rất thành công biện pháp đảo ngữ: Sừng sững
giữa lối đi một anh nhện gộc, lủng củng những nhện là nhện…để nhấn mạnh
sự đáng sợ của trận địa mai phục do họ nhà nhện tạo ra, tác giả đã dùng nghệ
thuật đảo ngữ: đưa các từ ngữ miêu tả tính chất là sừng sững, lủng củng lên
trên các từ ngữ gọi tên sự vật. Tất cả những biện pháp nghệ thuật trên đã cho
người đọc thấy Dế Mèn dũng cảm, tốt bụng, sẵn sàng giúp đỡ người gặp hoạn
nạn.
Bài Mẹ ốm – Tiếng Việt 4 – Tập 1
Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã gửi gắm tình cảm yêu thương tha thiết của
mình đối với người mẹ kính yêu qua hình ảnh so sánh: “Mẹ là đất nước
Trường Tiểu học Xuân Quan 12
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
tháng ngày của con”. Tác giả đã ví mẹ là đất nước, là người mẹ thiêng liêng,
cao quý. Mẹ đã hi sinh cho con cả cuộc đời mình. Tác giả đã sử dụng từ “là”
chứ không phải từ như, như là, giống…để khẳng định tình yêu thương vô bờ
bến của mẹ giành cho con và tình cảm, lòng biết ơn của con đối với mẹ.
Bài Truyện cổ nước mình – Tiếng Việt 4 – Tập 1
Tôi nghe truyện cổ thầm thì .
Tác giả đã thật tinh tế và sâu sắc khi sử dụng biện pháp nhân hoá ở
đây, tiếng thầm thì của con người giờ đây đã được gán cho sự vật, như một
cuộc đối thoại giữa truyện cổ với chúng ta, giữa cha ông với chúng ta. “
Thầm thì” là cách nói nhỏ nhẹ, khẽ khàng, nhẹ nhàng, là giọng nói chân tình
đi sâu vào lòng người để thuyết phục, để nhắc nhở, để yêu thương, để gợi nhớ
mong. Tiếng thầm thì đó như một mạch chảy ngầm của truyền thống dân tộc,
nối liền quá khứ – hiện tại và tương lai.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ cũng đã sử dụng thành công biện pháp đảo

ngữ cho người đọc thấy được vẻ đẹp của những câu chuyện cổ – một gia tài
quý giá mà ông cha ta để lại:
Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi.
Những từ ngữ “ mang theo, thầm thì, vàng, trắng” được đảo lên đầu câu
để nhấn mạnh mỗi bước đi của dân tộc hôm nay đều có sự hiện diện của
truyện cổ, của “ tiếng xưa”, tượng trưng cho truyền thống quý báu của ông
cha để lại.
Bài Tre Việt Nam – Tiếng Việt 4 – Tập 1
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Trường Tiểu học Xuân Quan 13
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
Tay ôm, tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau, tre chẳng ở riêng
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con
Tác giả đã sử dụng rất tài tình biện pháp nhân hoá để miêu tả cây tre –
loài cây gắn bó với đời sống người dân Việt Nam từ bao đời nay. Tre giúp
cho nhân dân ta chiến đấu, tre bảo vệ xóm làng… Biết bao nhà văn, nhà thơ
đã có những lời văn, lời thơ ca ngợi cây tre Việt Nam. Nguyễn Duy cũng vậy.
Ông rất tinh tế khi nhận ra hình dáng cây tre, sức sống của cây tre như tượng
trưng cho người dân Việt Nam cần cù, đoàn kết và ngay thẳng. Cây tre được
tác giả gọi như gọi một bạn thân tình, được ông miêu tả như chính người dân
quê ông nói riêng và người dân Việt Nam nói riêng. Tre già, măng mọc. Đó
như một quy luật của cuộc đời. Thế hệ con cháu của người Việt Nam ta sẽ
nối tiếp truyền thống của cha ông: ngay thẳng, quật cường. Người Việt Nam
dù trải qua bao thế hệ vẫn một lòng đoàn kết, yêu nước. Tác giả phải yêu đất
nước lắm, phải gắn bó với làng quê lắm mới nhận ra được sự tương đồng

giữa tre và con người, lấy cái hồn của đất nước để viết về chính người dân
của đất nước.
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Với từ so sánh bao nhiêu….bấy nhiêu, nhà thơ muốn nói lên sự gần gũi,
gắn bó tương đồng của tre với người dân Việt Nam. Tre có rễ, còn con người
có sự cần cù chăm chỉ. Tre trở thành biểu tượng của sự cần cù, chắt chiu, bền
bỉ.
Biện pháp đảo ngữ: “Vươn mình trong gió tre đu” được nhà thơ sử
dụng rất tài tình, nói lên sự vươn lên, vượt qua khó khăn gian khổ, ý chí kiên
cường bất khuất của dân tộc ta.
Trường Tiểu học Xuân Quan 14
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
Mai sau
Mai sau
Mai sau…
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.
Sự trùng điệp ba dòng thơ với điệp từ “Mai sau” có giá trị biểu đạt đặc biệt.
Họ nhà tre cứ thế truyền cho nhau, đời đời, kiếp kiếp muôn đời sau những
đức tính quý báu nhất để duy trì nòi giống hay sức sống của con người Việt
Nam, những truyền thống quý báu của con người Việt Nam mãi được trường
tồn. Một dòng thơ cuối có tới ba từ “xanh” khiến bài thơ khép lại bằng một
sắc màu rất riêng, biểu tượng cho sự trường tồn của dân tộc Việt Nam.
Bài Gà Trống và Cáo - Tiếng việt 4 - Tập 1
Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hoá, gọi Gà Trống thân mật như gọi
người: anh chàng và miêu tả Gà Trống và Cáo thật sinh động với những từ
ngữ dùng để tả người: vắt vẻo, sung sướng, lõi đời, đon đả, hôn… để ca ngợi
Gà Trống thông minh, lên án Cáo gian ác, xảo quyệt.
Bài Trung thu độc lập – Tiếng Việt 4 – Tập 1
Trong tác phẩm này, nhà văn Thép Mới đã sử dụng rất nhiều từ ngữ độc
đáo và gợi tả, miêu tả vẻ đẹp của trăng trung thu độc lập: bao la, vằng vặc.

Có thể nói tác giả đã sử dụng nghệ thuật điệp từ. Từ “trăng” được nhắc đi
nhắc lại nhiều lần trong bài: “trăng ngàn và gió núi bao la”, “trăng đêm nay
soi sáng xuống nước Việt Nam độc lập”, “trăng sáng mùa thu vằng vặc
chiếu khắp thành phố, làng mạc, núi rừng”, “trăng của các em sẽ soi sáng
những ống khói nhà máy chi chít…”, “Trăng đêm nay sáng quá! Trăng mai
còn sáng hơn”… để nói lên vẻ đẹp của ánh trăng trung thu độc lập đầu tiên
của dân tộc. Tất cả cho thấy lòng yêu đất nước, tự hào về vẻ đẹp của đất
nước, niềm tin tưởng vào tương lai đất nước của người chiến sĩ.
Trường Tiểu học Xuân Quan 15
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
Ta cũng phải kể đến việc dùng từ rất hay của tác giả: từ “quyền” trong
“các em có quyền mơ tưởng”. Tại sao ông không viết là: “các em có thể mơ
tưởng” hay “các em nên mơ tưởng” mà ông lại dùng từ “quyền”? Bởi lẽ, giờ
đây đất nước ta đã độc lập, dân tộc ta đã giành lại được non sông, tất cả
người dân Việt Nam, từ già, trẻ, gái, trai đều có quyền độc lập, quyền tự hào
và mơ tưởng đến một tương lai tươi sáng cho đất nước.
Bài Nếu chúng mình có phép lạ - Tiếng Việt 4 – Tập 1
Câu thơ “Nếu chúng mình có phép lạ” được lặp lại nhiều lần trong bài
thơ, cụ thể là ở đầu mỗi khổ thơ và hai lần trước khi kết thúc bài nói lên ước
muốn của các bạn nhỏ rất tha thiết. Các bạn luôn mong mỏi một thế giới hoà
bình, tốt đẹp, trẻ em được sống đầy đủ và hạnh phúc. Ngôn ngữ của trẻ thơ
thật vui tươi, hồn nhiên và dí dỏm. Mỗi khổ thơ là một ước mơ: ước cây mau
lớn để cho quả ngọt, uớc trở thành người lớn để làm việc, ước không còn mùa
đông giá rét, ước không còn chiến tranh.
Các từ ngữ “chớp mắt thành”, “ngủ dậy thành” được đặt ở đầu câu
thơ cho thấy các bạn nhỏ rất mong muốn được thực hiện ước mơ của mình.
Bài thơ như một bài ca về ước mơ của trẻ em trên thế giới, muốn có
phép lạ để làm cho thế giới tốt đẹp hơn.
Bài Đôi giày ba ta màu xanh – Tiếng Việt 4 – Tập 1
Biện pháp so sánh đã được tác giả sử dụng để miêu tả vẻ đẹp của đôi

giày ba ta : “màu vải như màu da trời những ngày thu – tác giả đã ví màu
xanh của đôi giày như màu của bầu trời thu. Đôi giày hiện lên thật đẹp trong
mắt người đọc. Nó đẹp không chỉ bởi vẻ bề ngoài mà còn bởi ước mơ giản dị
mà cháy bỏng trong tâm hồn mỗi đứa trẻ ngày đó.
Bài Chú Đất Nung – Tiếng Việt 4 – Tập 1
Trường Tiểu học Xuân Quan 16
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
Các nhân vật trong câu chuyện: Chú bé Đất, hai người bột và ông Hòn
Rấm đã được nhân hoá như con người. Câu chuyện này thật đơn giản nhưng
lại thu hút người đọc bởi sự sống động nhờ vào các chi tiết nhân hoá. Chú bé
Đất được miêu tả với những biểu hiện cảm xúc của con người: nhớ quê, rét,
khoan khoái, nóng rát, sợ, ngạc nhiên…- được tác giả nhân hoá như một cậu
bé nghèo, trái ngược với hai người bột ăn mặc đẹp đẽ, sang trọng. Tác giả
cũng nhân hoá chàng kĩ sĩ như một anh chàng công tử bột thích chưng diện,
nhưng lại rất lúng túng , nhát gan khi gặp nguy hiểm còn nàng công chúa thì
cũng chỉ là một tiểu thư, suốt ngày ngồi trong lầu son. Câu chuyện diễn ra
thật gay cấn và li kì bởi những tình tiết tác giả đã nhân hoá cho các nhân vật,
tạo cho câu chuyện không chỉ đơn thuần là truyện kể mà nó như diễn ra trước
mắt độc giả, để qua đó hiểu thêm về ý nghĩa câu chuyện: Lửa thử vàng gian
nan thử sức – con người chỉ vững vàng và mạnh mẽ khi dám đối mặt với
gian lao, thử thách và ngược lại, sẽ vô cùng yếu đuối nếu như hèn nhát, an
phận.
Bài Cánh diều tuổi thơ - Tiếng Việt 4 – Tập 1
Biện pháp so sánh đã giúp người đọc hình dung ra một bầu trời trong
xanh với những cách diều bay lượn trên không trung: “cánh diều mềm mại
như cánh bướm”, “sáo đơn, rồi sáo kép, sáo bè…như gọi thấp xuống những
vì sao sớm”. Ở đây, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh để miêu tả vẻ đẹp
của cánh diều, của tiếng sáo diều. Nhưng không chỉ đơn thuần là thế, cánh
diều, tiếng sáo diều được miêu tả trong cảm giác với một chữ như kì ảo.
Ngắm nhìn cánh diều chao lượn, lắng nghe tiếng sáo diều vi vu, trầm bổng,

mỗi đứa trẻ không khỏi bồi hồi, xao xuyến và thích thú. Những liên tưởng thú
vị, những hình ảnh bay bổng, lãng mạn của cánh diều đã khiến cho lòng tác
giả lâng lâng, nó khiến cho tác giả “vui sướng đến phát dại nhìn lên trời”,
Trường Tiểu học Xuân Quan 17
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
cảm giác “không có gì huyền ảo hơn thế”. Trò chơi của những đứa trẻ thôn
quê như gợi lên những ước mơ, nỗi khao khát bay cao, bay xa.
Trong bài văn này có một từ dùng rất hay: “được nâng lên”. Chỉ một
câu “Tuổi thơ của tôi được nâng lên từ những cánh diều” đã gói trọn cảm
xúc của tác giả, tình cảm của tác giả đối với trò chơi yêu thích thuở nhỏ. Với
từ “ được nâng lên”, tác giả đã đánh thức cảm giác của mỗi chúng ta mỗi khi
được ngắm cánh diều chao lượn trên bầu trời. Có một cái gì đó nhẹ bỗng và
mê đắm sẽ xâm chiếm lòng ta, lâng lâng và dịu ngọt. Đó chính là cảm giác
được nâng lên. Đó có thể là tuổi thơ, là tâm hồn, là tâm trạng, là ước mơ… đã
được chắp cánh. Cách dùng từ đó cũng giúp làm cho câu văn giàu ý nghĩa,
vừa khẳng định tác dụng của trò chơi thả diều, vừa nhận mạnh tuổi thơ của
tác giả là một chuỗi ngày thơ mộng và lãng mạn.
Qua đây, tác giả muốn gửi gắm tới người đọc nhỏ tuổi: nhờ có cánh
diều mang theo nỗi khao khát mà bao nhiêu ước mơ, khát vọng của tuổi thơ
mới được chắp cánh bay cao, bay xa.
Bài Tuổi Ngựa – Tiếng Việt 4 – Tập 1
Biện pháp điệp từ, điệp ngữ được tác giả sử dụng rất thành công để nói
về ước mơ được đi xa, được khám phá khắp mọi miền đất nước của bạn nhỏ.
Gió xanh miền trung du
Gió hồng vùng đất đỏ
Gió đen hút đại ngàn…
Dẫu cách núi cách rừng
Dẫu cách sông cách biển.
Bài thơ là câu chuyện của bạn nhỏ tuổi Ngựa với mẹ của mình. Nhà
thơ Xuân Quỳnh phải tinh tế và sâu sắc lắm, gắn bó với trẻ lắm mới hiểu

được những suy nghĩ ngây thơ, hồn nhiên nhưng cũng thâm trầm, tình cảm
Trường Tiểu học Xuân Quan 18
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
của bạn nhỏ. Bạn nhỏ ví mình như một chú ngựa con, phi nhanh vượt qua cả
bao nhiêu ngọn gió. Mỗi từ gió được lặp lại nhấn mạnh ước mơ của bạn nhỏ
là sẽ đi khắp các miền trung du, vùng đất đỏ, đại ngàn…Điệp ngữ “dẫu
cách” cho thấy tình cảm của bạn nhỏ đối với mẹ. Dù con có đi đâu, xa bao
nhiêu thì mẹ vẫn là bến bờ, là nơi con tìm về để tìm sự bình yên bên mẹ.
Bài Bè xuôi sông La – Tiếng Việt 4 – tập 2
Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh rất hay.
Sông La ơi sông La
Trong veo như ánh mắt
Gỗ lượn đàn thong thả
Như bầy trâu lim dim
…………………….
Khói nở xoà như bông
Nước sông La trong xanh đến nỗi được tác giả ví như ánh mắt. Chiếc bè gỗ
đi xuôi theo dòng sông thì được tác giả ví như bầy trâu lim dim. Khói của
bom đạn được tác giả miêu tả xoà như bông. Tất cả những hình ảnh so sánh
đấy cho thấy sự yên ả, thanh bình của sông La. Trong hoàn cảnh đất nước
đang chiến tranh, sự yên ả đó khiến tác giả thấy thêm yêu quê hương, mong
ước hoà bình sẽ lại về với quê hương để ông có thể nghe tiếng chim hót trên
đê, để có thể nhìn thấy những đàn cá tung tăng bơi lội dưới làn nước trong
veo.
Bừng tươi nụ ngói hồng
Tác giả đã đảo vị ngữ bừng tươi lên trước chủ ngữ nụ ngói hồng để
nhấn mạnh đến mong ước và niềm tin về sự thay đổi của quê hương. Sẽ
không còn bom đạn, sẽ không còn chiến tranh nữa mà thay vào đó sẽ là sự
đổi mới của quê hương: những ngôi nhà mái ngói đỏ tươi, những cánh đồng
Trường Tiểu học Xuân Quan 19

Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
lúa chín vàng yên ả,…Tất cả vẫn và sẽ luôn là mong ước của mỗi người dân
Việt Nam.
Đây là một hình ảnh đẹp bởi nó cho thấy tâm hồn lạc quan của tác giả. Con
sông thanh bình đến mức tác giả có thể lắng nghe được mọi vật, cảm nhận
được cả mùi vôi vữa, mùi lán cưa. Ông tin rằng trong bom đạn đổ nát, người
dân Việt Nam vẫn đứng lên xây dựng một cuộc sống ấm no. Hình ảnh nụ
ngói hồng chính là biểu tượng của sự hoà bình, ấm no mà tác giả mong đợi.
Bài Sầu riêng – Tiếng việt 4 – tập 2
Sầu riêng là một loại trái thơm ngon, đặc sản của miền Nam. Nếu ai đã
từng một lần thưởng thức hương vị ngọt ngào, say mê của nó thì sẽ không thể
nào quên. Nhưng đối lập với hương thơm đó lại là cái dáng vẻ khẳng khiu,
héo hắt. Nghệ thuật so sánh đã đạt đến mức điêu luyện khi tác giả miêu tả
hình dáng cây sầu riêng.
Gió đưa hương thơm ngát như hương cau, hương bưởi toả khắp khu vườn.
Cánh hoa nhỏ như vảy cá, hao hao giống cánh sen con.
Nhìn trái sầu riêng lủng lẳng dưới cành trông giống những tổ kiến.
Lá nhỏ xanh vàng, hơi khép lại, tưởng như lá héo.
Tác giả miêu tả dáng vẻ của cây sầu riêng, từ cánh hoa cho đến những
chiếc lá. Mặc dù dáng vẻ không được đẹp như những loại quả khác của Nam
Bộ nhưng qua việc so sánh như vậy, chúng ta thấy được sầu riêng không
phải đẹp nhờ dáng vẻ của nó mà chính là nhờ mùi vị quyến rũ đến kì lạ.
Hương vị của trái sầu riêng được tác giả miêu tả là còn hàng chục mét mới
tơi nơi để sầu riêng, hương đã ngào ngạt xông vào cánh mũi.
Biện pháp miêu tả tương phản giữa dáng vẻ của cây sầu riêng và
hương thơm, vị ngọt đến đam mê của nó. Ở đây tác giả đã so sánh hình dáng
của cây sầu riêng với hình dáng của cây xoài, cây nhãn để thấy rằng nó thật
Trường Tiểu học Xuân Quan 20
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
kì lạ với thân khẳng khiu, cao vút, cành ngang thẳng đuột mà không cong,

không nghiêng, quằn như cây xoài, cây nhãn, lá thì như lá héo. Hình dáng
cây sầu riêng khiến người đọc, nếu chỉ đọc thôi sẽ không thể thích loại cây.
Nhưng đằng sau vẻ bề ngoài xấu xí, kì lạ đó là một hương thơm ngọt ngào,
quyến rũ mà bất kì ai thưởng thức một lần rồi cũng nhớ mãi.
Qua việc sử dụng biện pháp so sánh và nghệ thuật miêu tả tương phản,
tác giả miêu tả sầu riêng với tình cảm chan chứa của người con Nam Bộ gửi
tới miền đất đã nuôi ông khôn lớn và trưởng thành, tự hào về một loại trái
quý của quê hương.
Bài Chợ Tết – Tiếng Việt 4 – tập 2
Cái để lại ấn tượng cho người đọc, cái làm nên sức sống của bài thơ
này chính là cách dùng từ hay để miêu tả bức tranh một phiên chợ Tết giàu
màu sắc. Nhà thơ Đoàn Văn Cừ đã dùng những từ chỉ màu sắc với những sắc
thái thật đẹp như: dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, sương hồng lam, con
đường viền trắng mép đồi xanh, cỏ biếc, những thằng cu áo đỏ, cô yếm thắm,
con bò vàng, sương trắng, tia nắng tía,núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,
đồi thoa son. Tất cả những từ ngữ đó đã làm cho bức tranh chợ Tết thêm sinh
động.
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon
Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu
Con người, con vật và cảnh vật như đi lại, hoạt động trong bức tranh.
Mỗi người một dáng vẻ: nhưng hoà chung tất cả là niềm vui, sự tưng bừng,
háo hức, tấp nập của một phiên chợ Tết.
Trường Tiểu học Xuân Quan 21
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
Hình ảnh so sánh: Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa và hình ảnh
nhân hoá Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh cũng góp phần làm cho bức
tranh chợ Tết thêm đẹp và giàu hình ảnh.

Nhà thơ Đoàn Văn Cừ đã đem đến cho chúng ta không khí tưng bừng,
náo nhiệt của một phiên chợ Tết vùng cao với đầy đủ các hoạt động. Những
phiên chợ đã đi vào cuộc sống mỗi người dân Việt như một nét văn hoá lâu
đời, nhưng khi vào thơ ông, nó hiện lên thật sinh động và đầy màu sắc.Nó
khiến ta càng thêm yêu quê hương, đất nước, tự hào về truyền thống, phong
tục của quê hương.
Bài Hoa học trò – Tiéng Việt 4 – Tập 2
Mùa hè phượng nở, nở khắp trời đỏ rực. Đó là một loài hoa mà người
học trò nào cũng nhớ đến khi nghĩ về mái trường. Chính vì thế mà tác giả đã
gọi nó là hoa học trò. .Hoa phượng đẹp qua biện pháp so sánh: “những tán
hoa lớn xoè ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”, “hoa phượng
là hoa học trò”, “lá xanh um, mát rượi, ngon lành như lá me non”, “khắp
thành phố bỗng rực lên như đến Tết nhà nhà đều dán câu đối đỏ”. Tác giả đã
quan sát rất kĩ hoa phượng từ tán hoa, đến lá, đến màu hoa phượng đỏ chói.
Hơn thế, còn gắn bó với hoa phượng lắm mới gọi nó với cái tên thân thiết
“hoa học trò”. Ông miêu tả hoa phượng đẹp vẻ đẹp rực rỡ, như báo hiệu mùa
hè sắp đến, học trò có thể nghỉ ngơi sau một năm học vất vả.
Tác giả đã gắn cho phượng những hành động của con người, làm cho
phượng thêm sức sống, thêm sinh động, nhấn mạnh hơn vẻ đẹp của loài hoa
này: lá e ấp, “trên những cành cây báo một tin thắm”, “nỗi niềm bông
phượng”, “màu phượng mạnh mẽ kêu vang”. “Nỗi niềm bông phượng” như
chính nỗi niềm của mỗi học trò khi hè đến. Vừa buồn mà lại vừa vui. Vui vì
được nghỉ hè, buồn vì phải chia tay thầy cô, bạn bè. Hoa phượng đứng đó
Trường Tiểu học Xuân Quan 22
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
giữa sân trường chứng kiến biết bao cảnh chia tay, chững kiến những niềm
vui của mỗi học trò đến lớp để rồi nó trở thành loài hoa của tuổi học trò. Tác
giả đã nhân hoá màu hoa phượng “màu phượng mạnh mẽ kêu vang” khiến
người đọc cảm thấy thật bất ngờ vì màu đỏ chói lọi của hoa phượng hoà lẫn
với màu mặt trời đến thật nhanh và thật rực rỡ. Hoa phượng nở rộ cả khắp

các phố phường.
Xuân Diệu có cách sử dụng ngôn từ thật hay và nghệ thuật khiến người
đọc phải thán phục: bình minh của hoa phượng. Nếu tả về hoa phượng chắc
chúng ta cũng chỉ viết là đầu mùa hoa phượng. Nhưng tác giả đã không dùng
từ đơn giản vậy. Ông gọi là bình minh như gợi ra một khởi đầu thật trong
sáng, để nối tiếp sau nó là sự nở rộ của màu sắc hoa phượng. Ông cũng
không gọi phượng là hoa đơn giản mà coi nó như “một phần tử của cả xã hội
thắm tươi”, hoa phượng vì thế mà sinh động hơn, gắn bó hơn với cuộc sống,
với tuổi học trò hồn nhiên, thơ ngây.
Bài Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Tiếng Việt 4 – Tập 2
Đây là một bài thơ mang âm hưởng dân ca nhưng cũng đầy triết lí, bởi
nó được sáng tác trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Hình ảnh bà mẹ
dân tộc địu con trên lưng lên rẫy trỉa bắp đã in sâu trong tâm trí nhà thơ và
thôi thúc ông sáng tác nên những vần thơ hay ca ngợi lòng yêu nước.
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Tác giả đã so sánh lưng núi và lưng mẹ để thấy được nỗi vất vả của mẹ
khi địu con trên lưng. Cặp từ trái nghĩa to và nhỏ tạo nên ấn tượng về sự đối
lập giữa lưng núi và lưng mẹ. Lưng mẹ nhỏ nhưng vẫn là cái nôi êm đềm cho
con ngủ. Lưng mẹ không to như lưng núi nhưng tình yêu thương mẹ dành
cho con thì không gì sánh nổi. Tác giả như thầm thì với a –kay, nói cho em
biết công lao của mẹ: em ngủ cho ngoan đừng làm mẹ mỏi.
Trường Tiểu học Xuân Quan 23
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
Mặt trời của bắp / thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.
Ở đây, ta không thấy có từ so sánh, nhưng nếu đọc lên và ngắt giọng
đúng chỗ, các hình ảnh so sánh sẽ hiện ra. Hình thức đối chọi “mặt trời của
bắp” – “trên đồi” với “mặt trời của mẹ” – “trên lưng” cho thấy tình yêu
thương của mẹ dành cho con. Con là mặt trời của mẹ, là ánh sáng, là niềm
tin, là niềm tự hào của mẹ. Lời ru của mẹ bộc lộ niềm hi vọng lớn lao đẹp đẽ

và sâu sắc, lời hát ru từ trái tim yêu thương của người mẹ.
Tác giả đã dùng từ hay để miêu tả giấc ngủ của a-kay:
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng…
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời.
Những giọt mồ hôi và đôi vai gầy của mẹ, cả giấc ngủ không yên bình
của em – một “giấc ngủ nghiêng” trên lưng mẹ đang nhịp theo những nhịp
chày giã gạo – gợi lên cho người đọc niềm thương cảm sâu xa. “Tim hát
thành lời” là những câu hát ru từ đáy lòng, từ trái tim người mẹ. Người mẹ ấy
yêu con và gửi gắm trọn vẹn mơ ước ấy cho đứa con sau lưng, nối nhịp cầu
giữa hôm nay và mai sau.
Câu thơ Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi được lặp lại hai lần
như tiếng thầm thì của mẹ, như lời dặn dò của mẹ với a-kay về ước mơ về sự
no ấm thanh bình, về sức vóc thần thoại làm thay đổi cuộc sống.
Bài thơ là một bài hát ru của người mẹ yêu nước, yêu con, gửi gắm cho
con tất cả tình yêu của mẹ, giấc mơ của mẹ về một ngày mai tươi sáng của
đất nước.
Bài Đoàn thuyền đánh cá - Tiếng Việt 4 – Tập 2
Trường Tiểu học Xuân Quan 24
Bùi Ngọc Quyên Tìm hiểu các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 4
Bài thơ là bức tranh đoàn thuyền ra khơi đánh cá. Đoàn thuyền, mặt
trời như hiện lên trước mắt người đọc bởi ánh sáng rực rỡ của nó.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa…
Cá thu Biển Đông như đoàn thoi…
Biển cho ta cá như lòng mẹ.
Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh để ví mặt trời lúc hoàng hôn như
một khối cầu lửa khổng lồ. Đây cũng chính là thời điểm những người dân
chài ra khơi đánh cá. Cách so sánh đó thật giàu hình ảnh. Không chỉ miêu tả
mặt trời xuống biển mà nhà thơ còn cho người đọc thấy được sự trù phú của
biển cả: cá thu nhiều bơi lội nối tiếp nhau thành đoàn, biển cả bao la mang

đến cho con người nguồn hải sản dồi dào, vì thế mà nó được tác giả ví như
lòng mẹ. Biển nuôi con người bằng nguồn hải sải phong phú, mẹ nuôi con
bằng bao tình yêu thương vô bờ bến. Biển cả bao la, lòng mẹ cũng bao la.
Một sự so sánh thật tinh tế. Không phải ai cũng dễ dàng nhận ra được điểm
tương đồng đó. Nhà thơ phải quan sát và gắn bó với biển, với người dân chài
lắm mới có thể viết lên những hình ảnh so sánh đẹp như thế.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa…
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời,
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Bên cạnh biện pháp so sánh được sử dụng thành công, nhà thơ cũng
nhân hoá các sự vật làm cho bài thơ thêm sinh động, bức tranh về đoàn
thuyền đánh cá hiện lên thật rõ ràng, tươi đẹp. Đoàn thuyền ra khơi đánh cá
lúc trời chiều, hoàng hôn buông xuống. Tác giả đã nhân hoá sóng và đêm
bằng những từ ngữ diễn tả hành động của con người: cài then, sập cửa cho
Trường Tiểu học Xuân Quan 25

×