Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

các đơn vị ngôn ngữ trong sách giáo khoa môn tiếng việt bậc tiểu học ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.33 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN



LÊ THỊ NGỌC ĐIỆP



CÁC ĐƠN VỊ NGÔN NGỮ TRONG SÁCH GIÁO KHOA
MÔN TIẾNG VIỆT BẬC TIỂU HỌC Ở VIỆT NAM
(SO SÁNH VỚI SÁCH GIÁO KHOA MÔN TIẾNG ANH
CÙNG BẬC Ở SINGAPORE)


Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu
Mã số: 62.22.01.10


TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ






Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2013


Công trình được hoàn thành tại:



TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Người hướng dẫn khoa học:
- TS. Đỗ Thị Bích Lài
- TS. Huỳnh Thị Hồng Hạnh


Chủ tịch Hội đồng:
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận
án tiến sĩ cấp cơ sở đào tạo tại Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn TPHCM vào lúc ………….
giờ, ngày………… tháng…… năm 2013.

Có thể tìm thấy luận án tại:
- Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM
- Thư viện Trường Đại học KHXH&NV TPHCM

-1-

MỞ ĐẦU

0.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Được trực tiếp giảng dạy nhiều năm và đang làm công tác quản lí tại một

trường tiểu học (TH), chúng tôi nghiên cứu chương trình và nội dung của sách giáo
khoa (SGK) để tổ chức các hoạt động dạy và học phù hợp với mục tiêu giáo dục,
đồng thời đưa ra những nhận xét về nội dung chương trình, SGK và hiệu quả sử dụng
qua từng năm học nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đây là một vấn đề
mang tính lí luận và thực tiễn rất cao. Hầu hết các công trình nghiên cứu về SGK bậc
TH chưa khảo sát một cách có hệ thống và toàn diện vấn đề này. Với đề tài “Các đơn
vị ngôn ngữ trong SGK môn Tiếng Việt bậc tiểu học ở Việt Nam (so sánh với SGK
môn Tiếng Anh cùng bậc ở Singapore)”, luận án của chúng tôi hướng đến cái nhìn
tổng thể về tính hợp lí, khoa học, tính dân tộc và tính quốc tế trong việc sử dụng
tiếng Việt ở bộ SGK Tiếng Việt (TV) hiện hành; đồng thời có đối chiếu, so sánh với
SGK môn Tiếng Anh (TA) của Singapore để thấy được những điểm tương đồng và
khác biệt của hai quốc gia trong việc sử dụng tiếng phổ thông để dạy học sinh (HS)
bậc TH.

0.2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
0.2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là khảo sát, nghiên cứu các đơn vị ngôn ngữ ở cấp độ âm
vị, từ, ngữ, câu và văn bản được sử dụng trong SGK môn TV bậc TH ở Việt Nam
(VN), đồng thời so sánh với SGK môn TA cùng bậc của Singapore. Dựa trên kết quả
nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số ý kiến trao đổi về việc biên soạn, chỉnh lí SGK
môn TV, đề xuất một số ý kiến nhằm góp phần xây dựng chương trình SGK phổ
thông mới, dự kiến triển khai từ năm 2015.
0.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Miêu tả và phân tích về đặc điểm các đơn vị ngôn ngữ được sử dụng trong
SGK môn TV bậc TH ở VN.
- Nhận xét về các đơn vị ngôn ngữ được sử dụng trong SGK môn TA bậc TH ở
Singapore; so sánh, đối chiếu các vấn đề hữu quan trong SGK môn TV bậc TH của
VN và SGK môn TA cùng bậc ở Singapore để tìm ra những điểm tương đồng và
khác biệt giữa chúng; đồng thời đưa ra nhận xét về tính chất, mức độ sử dụng các
đơn vị ngôn ngữ trong bộ SGK dành cho lứa tuổi TH để thấy được những nét phổ

quát trong vấn đề biên soạn SGK cũng như những nét đặc thù có tính dân tộc – văn
hoá của mỗi quốc gia.
- Trên cơ sở đó, bước đầu đưa ra một số trao đổi có tính đề xuất về việc biên
soạn, chỉnh lí SGK TV bậc TH trong giai đoạn mới về nội dung ngôn ngữ.

0.3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Từ khi chương trình TH hiện hành còn đang trong thời gian thử nghiệm và triển
khai thực hiện đại trà trong phạm vi cả nước đến nay đã có nhiều hội thảo khoa học
-2-

cấp quốc gia và thành phố họp bàn về nội dung chương trình, SGK bậc TH nói chung
và SGK TV TH nói riêng; rất nhiều bài viết cũng như nhiều công trình nghiên cứu về
vấn đề này được đăng tải trên các tạp chí: Ngôn ngữ, Ngôn ngữ và Đời sống, Giáo
dục, Giáo dục Tiểu học, Thế giới trong ta,… . Các vấn đề được triển khai theo các
hướng nghiên cứu như sau:
- Về đặc điểm ngôn ngữ SGK TV bậc TH;
- Về nội dung chương trình SGK TV bậc TH;
- Về những điểm mới của chương trình SGK TV TH hiện hành so với
chương trình SGK TV TH trước đây;
- Về thực tế dạy và học môn TV tại một vài địa phương.
Chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào tiến hành khảo sát một cách có hệ
thống về các đơn vị ngôn ngữ trong bộ SGK môn TV TH ở VN và so sánh với SGK
môn TA ở Singapore. Có thể nói, luận án của chúng tôi là công trình nghiên cứu đầu
tiên về vấn đề này.



0.4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luận án nghiên cứu các đơn vị ngôn ngữ được sử dụng trong bộ SGK môn
TV bậc TH ở VN và SGK môn TA ở Singapore: âm vị, từ, ngữ, câu và văn bản.

Chúng tôi khảo sát tần số và việc sử dụng các đơn vị ngôn ngữ (xét từ góc độ cấu tạo,
góc độ nguồn gốc, phạm vi sử dụng đối với đơn vị từ và xét từ góc độ cấu trúc, mục
đích phát ngôn đối với đơn vị câu). Các bài tập đọc trong SGK chứa đựng hầu hết
các ngữ liệu, làm cơ sở để HS học các phân môn khác của chương trình TV. Do đó,
trong luận án, chúng tôi chỉ khảo sát các đơn vị ngôn ngữ được sử dụng trong những
bài tập đọc ở SGK môn TV từ lớp 1 đến lớp 5. Để làm cứ liệu so sánh đối chiếu với
SGK môn TV, chúng tôi sử dụng bộ SGK môn TA “My Pals are here! English” từ
lớp 1 đến lớp 6 của Singapore.

0.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN NGỮ LIỆU
0.5.1. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu:
thống kê, điều tra xã hội học, miêu tả, phân tích và so sánh, đối chiếu.
0.5.2. Nguồn ngữ liệu
0.5.2.1. SGK môn Tiếng Việt bậc tiểu học ở Việt Nam
Đối với tiếng Việt, chúng tôi sử dụng bộ SGK môn TV từ lớp 1 đến lớp 5
(mỗi lớp có 2 tập) của NXB Giáo dục TP.HCM từ năm 2002 đến năm 2006.
0.5.2.2. SGK môn Tiếng Anh bậc tiểu học ở Singapore
- My Pals are here! English 1A, 6A, 6B (NXB Federal, 2001 - 2005)
- My Pals are here! English 1B, 3A, 3B, 4A, 4B, 5A, 5B (NXB Marshall
Cavendish Education, 2001 – 2003 - 2004).
- My Pals are here! English 2A, 2B, (NXB MPH Education, 2001)
0.5.2.3. Phiếu khảo sát giáo viên và học sinh
-3-

Ngoài những ngữ liệu từ SGK, chúng tôi đã thực hiện phiếu khảo sát thực tế để
tìm hiểu về việc sử dụng từ ngữ địa phương trong SGK môn TV, thực tế giảng dạy
của giáo viên (GV) và sự lĩnh hội, vận dụng từ ngữ địa phương của HS thông qua
200 GV và 1000 HS TH tại các tỉnh và thành phố: Vĩnh Long, Thành phố Hồ Chí
Minh, Quảng Nam, Bắc Kạn.


0.6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
0.6.1. Ý nghĩa khoa học
- Các kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung và khẳng định thêm lí
thuyết xây dựng các thể loại văn bản được trình bày trong SGK.
- Luận án đưa ra nhận xét một cách có cơ sở về tính hợp lí của nội dung chương
trình đối với sự phát triển của trẻ em, đặc biệt là sự phát triển trí tuệ và khả năng sử
dụng ngôn ngữ của HS.
0.6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Những số liệu thống kê và những luận chứng cụ thể được trình bày trong luận
án sẽ cung cấp thêm một cách nhìn mới về nội dung chương trình SGK môn TV ở
bậc TH.
- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là một trong những nội dung cần thiết để làm
tư liệu tham khảo đối với GV dạy TH; đồng thời đó cũng là cơ sở để chúng tôi đề
xuất ý kiến cho những lần chỉnh lí và biên soạn SGK TV bậc TH sau này.

0.7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Luận án của chúng tôi gồm 182 trang. Ngoài phần Mở đầu (18 trang), phần Kết
luận (7 trang), có 4 chương nội dung như sau:
- Chương 1 trình bày một vài vấn đề lí thuyết phục vụ cho việc thực hiện luận án;
trong đó tập trung về thụ đắc ngôn ngữ và một số khái niệm làm công cụ cho việc
miêu tả các đơn vị ngôn ngữ được sử dụng trong SGK.
- Chương 2 trình bày kết quả thống kê, miêu tả, phân tích và nhận xét về các đơn
vị ngữ âm và từ vựng được sử dụng trong SGK môn TV bậc TH ở VN.
- Chương 3 trình bày kết quả thống kê, miêu tả, phân tích và nhận xét về các đơn
vị ngữ, câu và văn bản được sử dụng trong SGK môn TV bậc TH ở VN.
- Chương 4 trình bày kết quả thống kê, miêu tả, phân tích, nhận xét về các đơn vị
ngôn ngữ được sử dụng trong SGK môn TA bậc TH ở Singapore; so sánh đối chiếu
các đơn vị ngôn ngữ được sử dụng trong SGK môn TV và SGK môn TA; qua đó đưa
ra một số ý kiến trao đổi về việc chỉnh lí, biên soạn SGK môn TV mới trong vấn đề

sử dụng các đơn vị ngôn ngữ.
Luận án còn có Thư mục tài liệu tham khảo (12 trang, gồm 160 đơn vị) và 9
Phụ lục (134 trang).
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỤ ĐẮC NGÔN NGỮ
VÀ NGÔN NGỮ TRONG SGK TIẾNG VIỆT BẬC TIỂU HỌC

-4-

Luận án của chúng tôi, về bản chất, có liên quan đến vấn đề thụ đắc ngôn ngữ.
Do đó, bên cạnh việc trình bày các khái niệm liên quan đến đề tài để làm cơ sở nhận
xét cho các chương sau, chúng tôi sẽ lựa chọn và chấp nhận một số nội dung liên
quan đến vấn đề thụ đắc ngôn ngữ làm xuất phát điểm cho cách tiếp cận của mình.
Cách làm như thế sẽ phù hợp với mục đích và nhiệm vụ đặt ra của luận án, tạo thuận
lợi cho việc xác định, xử lí và phân tích ngữ liệu.
1.1. THỤ ĐẮC NGÔN NGỮ TRONG GIÁO DỤC NGÔN NGỮ
1.1.1. Một số quan điểm về thụ đắc ngôn ngữ
Hiện nay, việc nghiên cứu về thụ đắc ngôn ngữ có nhiều điểm khác biệt với một
số phương pháp và cách tiếp cận trái ngược nhau. Trong mục này, chúng tôi trình bày
một số quan điểm của Noam Chomsky, Barbara Lust, Bloomfield, Jean Stilwell
Peccei, Skinner,… về thụ đắc ngôn ngữ thứ nhất. Tuy chưa thống nhất với nhau ở
nhiều khía cạnh liên quan đến thụ đắc ngôn ngữ của trẻ em nhưng mọi lập luận mà
các nhà nghiên cứu đưa ra đều tự nhiên có cùng một giả định là “trước tiên, trẻ sẽ học
các cấu trúc và chức năng ngôn ngữ đơn giản nhất, sau đó tiến đến độ khó cao hơn”.
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi lựa chọn những quan điểm phù hợp với
thực tế sử dụng ngôn ngữ trong SGK để làm cơ sở cho những nhận xét, đánh giá của
mình.
1.1.2. Một số khái niệm liên quan đến thụ đắc ngôn ngữ
Liên quan đến thụ đắc ngôn ngữ, chúng tôi lựa chọn và trình bày các khái niệm:
kĩ năng ngôn ngữ (language skills), năng lực ngôn ngữ (language competence), hành

ngôn (language performance), khả năng ngôn ngữ (language ability) và thành thạo
ngôn ngữ (language proficiency).
1.1.3. Tâm lí học, giáo dục học, ngữ dụng học và ngữ nghĩa học liên quan
đến thụ đắc ngôn ngữ
- Về Tâm lí học, chúng tôi quan tâm đến hoạt động chủ đạo trong sự phát triển
của trẻ em và đặc điểm phát triển ngôn ngữ của HS TH.
- Về Giáo dục học, những nội dung về vận dụng tổng hợp các phương pháp,
cách thức, các phương tiện giáo dục tạo ra môi trường thích hợp cho sự hoạt động và
phát triển của con người được chúng tôi ghi nhận trong quá trình khảo sát đối tượng
nghiên cứu.
- Về Ngữ dụng học, chúng tôi ghi nhận một số khái niệm nền tảng của ngữ
dụng học như: lời nói, hành động, nhân tố giao tiếp và các vấn đề như: quy chiếu,
hành động ngôn từ, hội thoại và nghĩa hàm ẩn.
- Về Ngữ nghĩa học, các khái niệm về nghĩa, nghĩa của từ, ngữ cảnh của một
từ, trường ngữ nghĩa và nghĩa của câu là cơ sở để chúng tôi đối chiếu, nhận xét việc
sử dụng các đơn vị ngôn ngữ trong SGK về mặt ngữ nghĩa.

1.2. VỀ CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN ĐƠN VỊ NGÔN NGỮ
Trong phần này, chúng tôi trình bày khái quát về:
-5-

- Âm vị và một số khái niệm hữu quan;
- Từ và phân loại từ;
- Ngữ và ngữ cố định;
- Câu và phân loại câu;
- Văn bản và các đặc trưng của văn bản.

CHƯƠNG 2
CÁC ĐƠN VỊ NGỮ ÂM VÀ TỪ VỰNG
TRONG SÁCH GIÁO KHOA MÔN TIẾNG VIỆT BẬC TIỂU HỌC


2.1. CÁC ĐƠN VỊ NGỮ ÂM TRONG SGK TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC
2.1.1. Việc giới thiệu các đơn vị ngữ âm trong SGK TV
Hệ thống âm vị của tiếng Việt chuẩn được giới thiệu trong SGK TV lớp 1
thông qua phần học vần. Bên cạnh việc nhận biết các đơn vị của ngữ âm, HS phải
nhận biết đồng thời âm vị và chữ viết thể hiện âm vị đó. Các đơn vị ngữ âm được
trình bày từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với khả năng thụ đắc ngôn ngữ của HS.
2.1.2. Các đơn vị ngữ âm trong SGK TV
2.1.2.1. Mô tả việc giới thiệu các đơn vị ngữ âm trong SGK TV
SGK TV lớp 1 có 103 bài. 31 bài đầu cung cấp cho HS những con chữ thể
hiện nguyên âm làm âm chính theo trật tự e/ɛ, ê/e, o/ɔ, ô/o, ơ/ə, i /i, a/a, u/u, ư/ɨ, y/i,
ia/ie, ua/uo, ưa/ɨə (chữ in nghiêng là chữ quốc ngữ, chữ không in nghiêng là chữ thể
hiện âm vị trong tiếng Việt); cung cấp sáu dấu thể hiện thanh điệu (theo trật tự dấu
không, sắc, hỏi, nặng, huyền, ngã) và những con chữ/tổ hợp con chữ thể hiện phụ âm
làm âm đầu (gồm b/ɓ(b), v/v, l/l, h/h, c/k, n/n, m/m, d/z, đ/ɗ(d), t/t, th/t’, x/s, ch/c, s/ʂ,
r/ʐ, k/k, kh/x, p-ph/f, nh/ɲ, g/ɣ, gh/ɣ, q-qu/k, gi/z, ng/ŋ, ngh/ŋ, tr/ʈ,). Nét chung của
31 bài này là tất cả các nguyên âm, dấu thanh, phụ âm đều được giới thiệu ở trạng
thái âm tiết mở.
Từ bài 32 đến bài 103, SGK giới thiệu chữ viết của những âm vị tiếng Việt
còn lại trong phần vần những âm tiết khép (âm tiết đóng) hay âm tiết nửa khép (âm
tiết nửa đóng) và những âm tiết có âm đệm /w/. Có thể nói ở những bài này, về thực
chất, SGK Tiếng Việt 1 giới thiệu về phần vần trong tiếng Việt. Trình tự cung cấp hệ
thống âm vị được giới thiệu bằng chữ viết trong 71 bài còn lại của SGK Tiếng Việt
lớp 1 thành những nhóm như sau: nhóm có âm cuối là bán nguyên âm, âm cuối là
những phụ âm mũi, âm cuối là những phụ âm tắc và nhóm có âm đệm của bán
nguyên âm /w/.
2.1.2.2. Một vài nhận xét về cách thức giới thiệu các đơn vị ngữ âm
- Khi giới thiệu chữ viết và cùng với chữ viết là những đơn vị ngữ âm, SGK
“Tiếng Việt 1” đã hoàn toàn chính xác khi đặt việc giới thiệu chữ viết trong khuôn
khổ của âm tiết tiếng Việt. Nhóm tác giả đã giới thiệu các đơn vị ngữ âm theo trình

-6-

tự từ đơn giản đến phức tạp và biết cách lựa chọn sự tương phản về chữ viết để giúp
cho HS TH dễ nắm bắt sự khác biệt giữa âm với chữ trong tiếng Việt.
- Có trường hợp bất cập khi SGK đồng thời giới thiệu chữ p cùng với tổ hợp ph;
và tổ hợp qu cùng với chữ q. Tình trạng dùng âm tiết/từ có nghĩa “chưa thật thông
dụng” sẽ gây khó khăn trong việc tiếp thu ngôn ngữ của HS.


2.2. CÁC ĐƠN VỊ TỪ NGỮ TRONG SGK MÔN TIẾNG VIỆT
2.2.1. Vấn đề từ ngữ trong SGK TV tiểu học
Trong mục này, chúng tôi mô tả và phân tích về phương thức cấu tạo, nguồn
gốc và phạm vi sử dụng của các đơn vị thuộc cấp độ từ ngữ. Ngoài từ đơn, từ ghép,
từ láy và từ ngẫu hợp, luận án còn khảo sát các thành ngữ - một đơn vị thuộc cấp độ
từ ngữ. Trong SGK môn TV TH, các kiểu từ này được xuất hiện với tần số khác
nhau. Song, dù nhiều hay ít, sự có mặt của chúng đã góp phần quan trọng trong quá
trình dạy và học môn TV trong nhà trường phổ thông, trước hết là ở bậc TH. Chính
sự xuất hiện với tần số khác nhau đó, xét về mặt thụ đắc ngôn ngữ, phản ánh mức độ
khó dễ liên quan đến cách thức cung cấp các đơn vị từ ngữ trong SGK.
2.2.2. Mô tả và phân tích từ ngữ trong SGK TV
2.2.2.1. Từ xét về cấu tạo
- Trong SGK TV TH, từ đơn được sử dụng nhiều hơn từ ghép và từ láy, với
tỉ lệ 85.8%. Từ đơn được lựa chọn để đưa vào SGK thường dễ hiểu và gần gũi với
HS. Những chủ đề trong SGK Tiếng Việt lớp 4, 5 thể hiện phạm vi rộng hơn ở các
lớp thuộc giai đoạn đầu, hướng tầm nhìn của HS ra ngoài cộng đồng, kích thích HS
biết sống với những ước mơ, hoài bão mặc dù nội dung bài học vẫn rất gần gũi. HS
cuối cấp bắt đầu làm quen với những từ ngữ trừu tượng hơn. Những từ đơn được giới
thiệu trong sách TV lớp 5 bao gồm những từ ngữ quen thuộc với HS lớp 1, 2, 3, 4.
Những từ mới xuất hiện lần đầu chiếm số lượng không nhiều.
- Các bài tập đọc trong SGK TV được lựa chọn và sắp xếp theo từng chủ

điểm, vì vậy nghĩa của từ ghép cũng được chú trọng và chọn lọc theo từng chủ điểm.
Số lượng từ được tăng dần trong từng bộ sách. Đối với những từ ngữ mới xuất hiện
lần đầu, tác giả biên soạn SGK đã đưa chúng vào những ngữ cảnh cụ thể, do đó HS
có thể dễ dàng luyện đọc và hiểu nghĩa của từ.
- Từ láy được sử dụng trong SGK lớp 1 không nhiều, rải rác mỗi bài chỉ có 1,
2 từ. Các từ láy đứng độc lập thường có nghĩa đơn giản hơn các từ láy xuất hiện trong
văn bản. Trong sách lớp 1, lớp 2 có những từ như: ngan ngát, xao xuyến, ngoằn
ngoèo, huênh hoang, huỳnh huỵch, nắc nỏm, nghênh nghênh, lúc lỉu, hí hoáy, ngó
ngoáy,…là những từ khó về phát âm và khó cả về ngữ nghĩa. Từ lớp 3 trở đi, từ láy
xuất hiện thường xuyên. Số lượng từ láy tăng dần theo từng cấp lớp. Trung bình, mỗi
bài tập đọc có chứa từ 1 đến 5 từ láy. Có những bài có đến 12 từ láy: “Cây gạo”
(TV3, tr.144). Những bài không có từ láy thường thuộc về văn bản hành chính và văn
bản báo chí.
- Lớp từ ngẫu hợp hầu như không được sử dụng trong SGK môn TV.
-7-


2.2.2.2. Từ xét về nguồn gốc
- Trong SGK TV TH, từ thuần Việt chiếm tỉ lệ 95.6% trong tổng số lượt từ.
Những lớp từ khác tuy được giới thiệu song hành với từ thuần Việt nhưng số lượng
không đáng kể. Các từ ngữ được cung cấp cho HS tập trung chủ yếu trong hệ thống
từ vựng cơ bản. Điều này phù hợp với tâm lí và quá trình thụ đắc ngôn ngữ của HS.
- SGK sử dụng 2.367 lượt từ Hán Việt (trên tổng số 55.737 lượt từ các loại
được sử dụng trong sách). Từ Hán Việt có tỉ lệ cao hơn các loại từ vay mượn khác
(4.3%). Ở giai đoạn học âm và học vần của lớp 1, từ Hán Việt được đưa vào sử dụng
từ bài 17 trở đi; mỗi bài chỉ có từ 1 đến 2 từ. Cũng như từ đơn và từ ghép, một số từ
Hán Việt đã được giới thiệu ở lớp 1 cũng được tiếp tục đưa vào để sử dụng ở lớp 2 và
các lớp trên. Việc lặp lại một số từ Hán Việt trong các bài tập đọc là do ngẫu nhiên.
Nhưng cũng có một số từ có tần số xuất hiện nhiều hơn do nghĩa của từ phù hợp với
chủ điểm mà HS đang học. Bên cạnh những từ Hán Việt quen thuộc, SGK TV còn có

những từ mà HS ít biết đến. Ví dụ: sứ thần, bệ kiến, vương hầu, vạn tuế, thượng
khẩn, … Có một số từ ngữ mang nghĩa trừu tượng: cách mạng, tượng trưng, thiêng
liêng, …
- Về từ ngữ gốc Ấn – Âu, tuy số lượng được sử dụng trong SGK không đáng
kể (0.1%) nhưng nhóm từ này đã góp phần làm phong phú thêm vốn từ ngữ cho HS.
Ví dụ: ba lô, ca nô, ti vi, ô tô, sơ mi, phéc-mơ-tuya, mít tinh, ca lô, xích lô, va li,
ắc-sê, ni lông,…. .Về mặt hình thức, từ vay mượn gốc Ấn –Âu được trình bày trong
sách không theo một qui tắc thống nhất. Dấu gạch ngang giữa các âm tiết được sử
dụng lúc có, lúc không. Ví dụ: in-tơ-nét, a-lê-hấp, ca nô, ti vi, lô cốt,… Điều này sẽ
gây khó khăn cho HS khi luyện viết chính tả.

2.2.2.3. Từ xét về phạm vi sử dụng
Trong SGK TV, hầu hết các từ được tác giả biên soạn sách sử dụng đều
thuộc lớp từ vựng toàn dân. Từ ngữ địa phương chiếm 0,14% trong tổng số lượt từ
được sử dụng. Các lớp từ khác (từ cổ, thuật ngữ, từ lịch sử, từ nghề nghiệp) rất ít;
riêng từ cổ hầu như không xuất hiện trong bộ SGK TV TH. Vì vậy, trong phần này,
chúng tôi chỉ khảo sát và nhận xét về từ ngữ địa phương.
Từ ngữ địa phương được dùng trong SGK không nhiều nhưng mang lại
những sắc thái riêng. Có những từ ngữ chỉ sự vật chỉ có ở một vài địa phương nhất
định nên tên gọi của chúng trở thành từ địa phương. Ví dụ: vải thiều, đậu tương,
bánh tét,… Có những từ ngữ chỉ có ở một vài địa phương, tập trung một vùng miền,
không phổ biến trong cả nước. Ví dụ: (con) gọng vó, săn sắt, thầu dầu, niềng niễng,
cá sộp, (con) xập xành, … là những từ ngữ dùng để định danh các con vật tập trung ở
các vùng phía Bắc. Một số từ ngữ có cùng một nghĩa, để chỉ cùng một sự vật, hiện
tượng, trạng thái, tính chất, nhưng mỗi địa phương sử dụng mỗi từ ngữ khác nhau
cũng xuất hiện trong sách. Chẳng hạn, mách (nơi khác dùng từ “méc”), tết – thắt
(bím), bế – ẵm – bồng, xỏ – xâu, quẹo – rẽ, bàn là – bàn ủi,… Những từ ngữ “đặc
-8-

sệt” phương ngữ Nam Bộ được xuất hiện nhiều hơn ở sách lớp 5: hổng (thấy), thiệt,

tui, ra lịnh, ráng, chớp bóng, rủi,…
2.2.2.4. Ngữ cố định
Trong luận án, chúng tôi chỉ khảo sát thành ngữ.
- Thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng chiếm 58.3% (56/96 thành ngữ) trong tổng số
thành ngữ được sử dụng trong SGK TV TH. Phần lớn các thành ngữ đối xứng đều
gồm bốn yếu tố, lập thành hai vế đối xứng với nhau, mỗi vế gồm hai yếu tố. Ví dụ:
con hiền cháu thảo, chị ngã em nâng, máu chảy ruột mềm, gan vàng dạ sắt, … Sự
cân đối hài hòa, đối xứng nhịp nhàng của thành ngữ đối là yếu tố thuận lợi khi dạy
HS TH về thành ngữ. Tuy chưa hiểu hết nghĩa nhưng với nhịp điệu 2/2 quen thuộc,
trẻ sẽ dễ dàng tiếp nhận, dễ nhớ và dễ vận dụng.
- Thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng trong SGK được cấu tạo theo hai kiểu kết
cấu ngữ pháp phổ biến là: kết cấu ngữ pháp có một trung tâm và kết cấu ngữ pháp có
hai trung tâm. Những kết cấu ngữ pháp có một trung tâm là những kết cấu danh ngữ,
động ngữ và tính ngữ. Kết cấu ngữ pháp có hai trung tâm chính là những kết cấu chủ
- vị. Thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng có kết cấu là tính ngữ không thấy xuất hiện
trong SGK môn TV TH.
- Có 24 thành ngữ so sánh được sử dụng trong SGK TV TH. Tất cả các thành
ngữ này đều có cấu trúc A như B (đen như quạ, thẳng như ruột ngựa, …). Có những
thành ngữ so sánh cùng một đặc trưng nhưng có những đối tượng so sánh khác nhau.
Chẳng hạn: nhanh như cắt (TV2 T2, tr.36 và TV4 T2, tr19), nhanh như sóc (TV2 T2,
tr.55), nhanh như cóc nhảy (TV2 T2, tr.80).
Bên cạnh các thành ngữ có nghĩa đơn giản như: dữ như cọp, khỏe như voi,
uống nước nhớ nguồn, trên kính dưới nhường, … SGK TV có rất nhiều thành ngữ
khó về nghĩa, chẳng hạn: xuôi chèo mát mái, mua dây buộc mình, thuốc hay tay đảm,
chuột gặm chân mèo, gạn đục khơi trong,… Hiện tượng hai biến thể của cùng một
thành ngữ cũng xuất hiện trong SGK: thành ngữ chung lưng đấu cật (TV3 T1, tr.33)
và chung lưng đấu sức (TV5 T1, tr.56),…

2.3. TIỂU KẾT
SGK TV TH đã trình bày các đơn vị ngữ âm thông qua chữ viết từ đơn giản

đến phức tạp. Ưu điểm rõ nhất của bộ SGK này là đã tôn trọng đặc trưng âm tiết tính
trong hoạt động ngữ âm để giới thiệu chữ viết liên quan đến ngữ âm tiếng Việt. Về
cơ bản, sách đã sử dụng hợp lí từ ngữ trong thụ đắc ngôn ngữ xét ở mặt cấu tạo từ.
Xét về nguồn gốc và phạm vi sử dụng, nếu như từ thuần Việt và từ toàn dân (có tỉ lệ
95.6% và 99.8% tổng số lượt từ) trong SGK là hoàn toàn phù hợp với khả năng thụ
đắc ngôn ngữ của HS TH thì việc sử dụng từ vay mượn cũng như từ địa phương còn
chưa đáp ứng tốt yêu cầu ấy. Đó là tình trạng sử dụng từ Hán Việt (nhất là ở lớp 2 và
lớp 3) có nghĩa quá khái quát hay trừu tượng; từ vay mượn Ấn - Âu khó tiếp thu đối
với độ tuổi của HS. Hơn nữa, từ vay mượn Ấn - Âu còn chưa thống nhất trong cách
ghi chính tả làm ảnh hưởng lâu dài đến việc học tập của trẻ. Việc sử dụng thành ngữ
-9-

trong SGK TV như non sông gấm vóc, muôn người như một, chị ngã em nâng,…. về
đại thể, giúp HS hiểu được cái hay của tiếng Việt. Tuy nhiên, do vẫn còn có những
thành ngữ với nghĩa biểu trưng rất khó tiếp nhận nên nhiều em không thể hiểu hết
nghĩa của thành ngữ khi mới tiếp xúc với chúng. Vì thế, nên chăng, khi giới thiệu
thành ngữ trong SGK TV TH, chúng ta cần cân nhắc và lựa chọn sao cho phù hợp
với lứa tuổi này.
CHƯƠNG 3
CÁC ĐƠN VỊ NGỮ, CÂU VÀ VĂN BẢN
TRONG SGK MÔN TIẾNG VIỆT BẬC TIỂU HỌC

3.1. NGỮ TRONG SGK MÔN TIẾNG VIỆT
3.1.1. Yêu cầu thụ đắc đơn vị ngữ trong SGK
Trong sách hướng dẫn (SHD) chuẩn kiến thức TV lớp 1, do tập trung ưu tiên
cho các đơn vị ngữ âm nên không thấy SGK hướng dẫn về đơn vị ngữ. Trong SHD
chuẩn kiến thức TV lớp 2, vấn đề từ ngữ đã được đặt ra. Với các yêu cầu “tìm được
từ ngữ có tiếng học, có tiếng tập”, “tìm được một số từ ngữ chỉ người, đồ vật, con vật,
cây cối”, “từ ngữ về tình cảm”, SGK đã làm nhiệm vụ cung cấp đủ ba đơn vị ngữ
pháp ngữ (động ngữ, danh ngữ, tính ngữ) cho HS.

Theo SHD chuẩn kiến thức TV lớp 2, ba kiểu đơn vị ngữ tự do nói trên được
cung cấp cho HS trong việc sử dụng các câu cũng như các văn bản ngắn. Nói một
cách khác, yêu cầu thụ đắc ngôn ngữ thuộc đơn vị này gắn liền với việc sử dụng
chúng trong những đơn vị ngữ pháp thuộc cấp độ lớn hơn. Điều đó cho thấy, khi
cung cấp các đơn vị ngữ pháp trong SGK, chương trình giáo dục đòi hỏi tác giả biên
soạn sách phải đáp ứng yêu cầu “ngôn ngữ SGK phải làm sao để phù hợp với lí
thuyết ngôn ngữ học cập nhật hiện nay”.
3.1.2. Mô tả và nhận xét đơn vị ngữ trong SGK
3.1.2.1. Về động ngữ
Các ngữ động từ được đưa vào SGK rất đa dạng. Trong các bài tập đọc,
thành tố phụ đứng trước động ngữ thường là những từ như: đã, đang, sẽ, vẫn, cũng,
chưa, không,… Thành tố phụ ở phần cuối động ngữ được giới thiệu trong SGK có khi
là một từ, một ngữ hay một cụm chủ vị. Ví dụ: giã thóc, giần sàng thành gạo, thổi
cơm ; đến thăm một trường tiểu học; tìm những bông cúc màu xanh… Sự đơn giản
về cấu tạo cũng như về nghĩa của các động ngữ được sử dụng trong SGK phù hợp
với khả năng tiếp thu và phát triển trí tuệ của HS TH.
3.1.2.2. Về danh ngữ
Danh ngữ được sử dụng trong SGK thường có dạng phần phụ trước khá đơn
giản, còn cấu trúc phần trung tâm và phần phụ sau trung tâm đa dạng hơn. Ví dụ:
những thím chích chòe, mùa nước nổi, nước trong ao hồ, đàn cá ròng ròng, các lớp
áo cánh nhiều màu, nền đất mát rượi,… Phần phụ sau trong các danh ngữ thường rất
đa dạng, phong phú về kết cấu và ý nghĩa; có vai trò cụ thể hóa cho danh từ trung tâm
-10-

và tạo ra những cách diễn đạt vừa chi tiết, vừa gợi cảm. Ví dụ: “… nơi chị oa oa cất
tiếng khóc đầu tiên, nơi quả ngọt, trái sai …” (“Quê hương”, TV3 T1 tr.20). Danh
ngữ thường đóng vai trò là chủ ngữ hoặc bổ ngữ trong câu. Ví dụ: “ vị nắng non
của mùa hè mới đến… (“Mùa hoa sấu”, TV3 T1 tr.73).
3.1.2.3. Về tính ngữ
Tính ngữ trong câu thường có các thành tố phụ chỉ mức độ, tính chất đứng

trước hoặc sau thành tố trung tâm. Hầu hết các tính ngữ được tạo thành với những từ
có sức gợi tả cao. Ví dụ: cực mỏng, thật huy hoàng, mới đẹp làm sao, đầm ấm lạ lùng,
dài lênh khênh, vàng lốm đốm,…. Tính ngữ được sử dụng một cách hài hòa, khéo léo
trong các văn bản nghệ thuật tạo điều kiện cho HS được tiếp xúc với nhiều cách dùng
từ gợi tả khác nhau trong từng ngữ cảnh.

3.2. CÂU TRONG SGK MÔN TIẾNG VIỆT
3.2.1. Yêu cầu thụ đắc đơn vị câu trong SGK
Từ năm học thứ ba trở đi, SGK đã làm nhiệm vụ cung cấp đủ những thông
tin cần thiết về đơn vị ngữ pháp câu cho HS TH. Dựa vào những gì được trình bày
trong SHD chuẩn kiến thức TV lớp 4 và lớp 5, có thể nhận thấy đơn vị câu được
cung cấp cho HS TH ở hai lớp học này chủ yếu nằm trong những ngữ cảnh cụ thể.
Đó là những văn bản tương đối đơn giản. Như vậy, yêu cầu nhận hiểu các đơn vị câu
gắn liền với việc sử dụng chúng trong những đơn vị ngữ pháp thuộc cấp độ lớn hơn
(văn bản). Điều đó cho thấy việc cung cấp các đơn vị ngữ pháp câu trong SGK ở hai
lớp cuối cấp là để “luyện tập” và “hoàn thiện” kiến thức ngữ pháp về câu trong hành
chức.
3.2.2. Mô tả và nhận xét các loại câu theo góc độ cấu tạo
Trong luận án, chúng tôi thống kê số lượng câu đơn và câu ghép trong các bài
văn xuôi, bỏ qua những bài văn vần và những văn bản hành chính. Do sách TV
không sử dụng nhiều dạng câu ghép, vì vậy chúng tôi chỉ khảo sát và thống kê số
lượng câu ghép chính phụ và câu ghép đẳng lập.
3.2.2.1. Về câu đơn không có trạng ngữ
Câu đơn không có trạng ngữ được sử dụng trong SGK chiếm tỉ lệ 45.6%, có cấu
trúc hoàn chỉnh. Các từ ngữ trong câu mang nghĩa cụ thể, vì vậy nội dung của câu
cũng rất dễ hiểu và gần gũi với HS.
3.2.2.2. Về câu đơn có trạng ngữ
Câu đơn có trạng ngữ tuy có tỉ lệ phân bố thấp (13.4%) nhưng chúng có mặt trong
hầu hết các bài tập đọc. Câu đơn có 1 trạng ngữ chiếm số lượng nhiều hơn câu có 2, 3
trạng ngữ. Những câu đơn có trạng ngữ thường có nội dung phong phú và mang đậm

tính biểu cảm trong nghệ thuật dùng từ của các tác giả, đặc biệt là những câu có từ 2
trạng ngữ trở lên.
3.2.2.3. Về câu ghép đẳng lập
Câu ghép đẳng lập chiếm 87% trên tổng số câu ghép được sử dụng trong
-11-

SGK. Câu ghép được sử dụng trong SGK lớp 1 thường có cấu trúc đơn giản, chủ thể
hoặc hành động ở thành phần nòng cốt trong câu được lặp lại ở cả hai vế. Đây là
những câu ghép đẳng lập đồng loại, giữa các vế không có từ nối. Ví dụ: bé vẽ cô, bé
vẽ cờ (TV1, tr.25). Ở một số câu, giữa các vế có sự cân đối về số lượng tiếng. Ví dụ:
bò bê có cỏ, bò bê no nê (TV1 T1, tr.29); Bé Hà nhổ cỏ, chị Kha tỉa lá. (TV1 T1,
tr.61).
Từ lớp 2 trở đi, câu ghép được sử dụng thường xuyên hơn, giữa các vế câu
đẳng lập thỉnh thoảng có thêm từ nối. Chúng xuất hiện trong đoạn văn để tạo mối
quan hệ liệt kê, đối chiếu hoặc nối tiếp.
3.2.2.4. Về câu ghép chính phụ
Với sự phức tạp và đa dạng của câu ghép chính phụ, ở bậc TH, SGK không
sử dụng nhiều loại câu này. Theo thống kê của chúng tôi, chỉ có 5% câu ghép chính
phụ được giới thiệu trong tổng số câu được giới thiệu trong các bộ sách. Những câu
ghép chính phụ trong sách TH thường có cấu trúc đơn giản. Những cặp kết từ thường
dùng như: “tuy…nhưng”, “nếu…thì”, “nhờ …nên”, “dù …vẫn”, “giá…thì”,…
3.2.2.5. Về câu đặc biệt
Câu đặc biệt được xuất hiện 92 lần trong 10 quyển SGK môn TV, chiếm tỉ lệ
2.3% trong tổng số câu được sử dụng. Đây là những câu được làm thành từ một từ
hoặc một cụm từ. Trong mỗi ngữ cảnh, câu đặc biệt được sử dụng một cách linh hoạt,
hợp lí và dễ hiểu. Thỉnh thoảng, câu đặc biệt được sử dụng ở dạng câu mệnh lệnh:
Chạy đi! Voi rừng đấy! Không được bắn! Phải bắn thôi! (“Voi nhà”, TV2 T2, tr. 56)
hoặc dạng câu cảm thán: “Cháy! Cháy nhà!” (“Tiếng rao đêm”, TV5 T2, tr. 30). Câu
đặc biệt được đưa vào văn bản làm thay đổi nhịp điệu vốn đều đều ở các đoạn văn
bản miêu tả, đồng thời góp phần làm phong phú thêm cho các bài văn tường thuật.

3.2.3. Mô tả và nhận xét các loại câu câu theo mục đích phát ngôn
3.2.3.1. Về câu tường thuật
Câu tường thuật giữ vai trò then chốt trong tất cả các văn bản trong SGK
(89.8%). Dù là câu đơn hay câu ghép, câu tường thuật vẫn có cấu trúc đơn giản, nội
dung trong sáng, rõ ràng, ý được diễn đạt mạch lạc và súc tích. Các đoạn văn có
chuỗi câu tường thuật liên tiếp thường thể hiện nội dung miêu tả, tường thuật hoặc kể
chuyện. Với cách diễn đạt riêng biệt của từng loại văn bản, HS có thể chắt lọc những
câu văn hay, ý trong sáng, mạch lạc để vận dụng vào bài tập làm văn của mình.
3.2.3.2. Về câu nghi vấn
Tỉ lệ phân bố câu nghi vấn trong SGK rất thấp (5.4%). Câu nghi vấn thường
thể hiện sự thắc mắc, cần được giải đáp; đôi lúc câu nghi vấn ẩn chứa kiểu hỏi suông
hoặc biểu lộ sự trách móc hay biểu hiện yêu cầu của người nói. Có khi câu nghi vấn
còn được dùng để tỏ sự ngạc nhiên: Quái lạ, sao hôm nay chân mình một bên dài,
một bên ngắn? Hay là tại đường khấp khểnh? (“Đổi giày”, TV2 T1, tr.68). Thỉnh
thoảng, câu nghi vấn thể hiện sự hoài nghi, phán đoán, chờ đợi một lời khẳng định:
Em bán được thật ư? Giá bao nhiêu? (“Bán chó”, TV2 T1, tr.125). Câu nghi vấn
-12-

được sử dụng trong SGK góp phần tạo điều kiện để HS rèn kĩ năng phán đoán, nhận
xét, trả lời câu hỏi một cách hoàn chỉnh về cấu trúc và chính xác về nội dung.
3.2.3.3. Về câu cảm thán (câu cảm)
Trong SGK TV TH, câu cảm thán chiếm tỉ lệ 3.0%. Trong toàn bộ hai tập
sách lớp 1, câu cảm thán chỉ xuất hiện một lần duy nhất: “Chị ơi, bà chưa trông thấy
con ngựa bao giờ đâu!” (“Vẽ ngựa”, TV1 T2, tr.61). Câu cảm thán được dùng ở lớp
2, 3 thường nhằm mục đích biểu lộ tình cảm, thái độ khen chê hoặc khẳng định một
vấn đề với nội dung rõ ràng, không mang tính phủ định ngầm. Ở lớp 4 và lớp 5, câu
cảm thán không được sử dụng nhiều.
3.2.3.4. Về câu mệnh lệnh (cầu khiến)
Câu mệnh lệnh có tỉ lệ thấp nhất so với các kiểu câu được sử dụng theo mục
đích nói (1.8%). Câu mệnh lệnh trong SGK thường được dùng để bày tỏ ý muốn nhờ

hay yêu cầu thực hiện một nội dung nào đó. Đa số câu chỉ dừng lại ở mức độ đề nghị
lịch sự, nhẹ nhàng. Những câu biểu thị sự ra lệnh ít thấy xuất hiện trong SGK.

3.3. VĂN BẢN TRONG SGK MÔN TIẾNG VIỆT
3.3.1. Yêu cầu thụ đắc văn bản trong SGK
Theo SHD về chuẩn kiến kiến thức, kĩ năng, yêu cầu thụ đắc văn bản sẽ thực
hiện ở cả 5 lớp học đối với HS TH. Tùy theo lứa tuổi, mức độ tiếp thu của HS và phụ
thuộc vào nội dung chủ điểm của đơn vị học trong từng tuần lễ, các văn bản giới
thiệu trong SGK được chọn lọc với nhiều loại khác nhau: văn bản hành chính, văn
bản khoa học, văn bản báo chí, văn bản nghệ thuật; trong đó, văn bản nghệ thuật
chiếm đa số.
3.3.2. Mô tả và nhận xét về văn bản
3.3.2.1. Về chủ đề và độ dài của văn bản
- Trong SGK TV, các văn bản được sắp xếp theo nội dung từng chủ đề, phù
hợp với đối tượng HS TH: Em là học sinh, Măng mọc thẳng, Ngôi nhà chung, Bầu
trời và mặt đất, Trên đôi cánh ước mơ, Tiếng sáo diều,… . Sự đa dạng về chủ đề của
các loại văn bản tập đọc tạo cơ hội cho HS được tiếp xúc với nhiều mảng hiện thực,
mở rộng tầm nhìn trong cuộc sống.
- Về độ dài, ngoài một số bài có số lượng từ quá nhiều so với mức độ đọc của
HS lớp 1 và lớp 2 (trên 170 từ đối với lớp 1 và trên 250 từ ở lớp 2) như: “Không nên
phá tổ chim”(TV1 T2, tr.151), “Tìm ngọc” (TV2 T1, tr.138), “Chuyện bốn mùa”
(TV2 T2, tr.4), “Tôm Càng và Cá Con” (TV2 T2, tr.68), … các bài còn lại có độ dài
vừa phải, phù hợp với khả năng tiếp thu của HS.
3.3.2.2. Về thể loại văn bản
Hầu hết các văn bản được sử dụng trong SGK TV TH thuộc thể loại văn bản
văn học. Ở lớp 5, SGK có sử dụng văn bản hội thoại, được trích từ một vở kịch để
HS thực hành phân vai, đọc diễn cảm. Các văn bản khác (văn bản thuộc phong cách
báo chí, khoa học, hành chính,…) có nội dung về thiên nhiên, môi trường, văn hóa,
khoa học; là cơ sở giúp HS làm quen với nhiều phong cách tạo lập văn bản, ứng dụng
-13-


được nhiều kiểu văn bản đã học trong thực hành giao tiếp.
3.3.2.3. Về tính mạch lạc và liên kết trong văn bản
Tính mạch lạc và mức độ đơn giản về bố cục cũng như sự liên kết trong văn
bản được quan tâm đúng mức. Mạch lạc trong quan hệ giữa chủ đề của các câu được
thể hiện ở cả hai dạng: duy trì chủ đề và triển khai chủ đề. Các văn bản trong SGK
TV thường sử dụng phép nối, phép lặp và phép thế nhiều hơn các phép liên kết còn
lại. Thỉnh thoảng, SGK TV cũng xuất hiện hiện một số văn bản có sử dụng phép liên
tưởng. Vị trí của câu trong văn bản được các tác giả quan tâm và đảm bảo được điều
kiện về giao tiếp - nghĩa. Từng câu, từng đoạn trong văn bản được liên kết chặt chẽ,
mạch lạc, tạo nên những bài văn, bài thơ đầy hình ảnh, giàu nhịp điệu và phong phú
về từ ngữ. Đây là ưu điểm nổi bật của các tác giả trong việc lựa chọn văn bản để đưa
vào SGK môn TV bậc TH.

3.4. TIỂU KẾT
Qua kết quả khảo sát đối tượng nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các đơn vị ngôn
ngữ thuộc cấp độ ngữ pháp trong SGK, về nguyên tắc, được cung cấp một cách hệ
thống, phù hợp với chủ đề trong từng giai đoạn học tập của HS, phù hợp với thực tế
tiếng Việt hiện nay. Nhờ đó, chúng đáp ứng tốt yêu cầu thụ đắc ngôn ngữ của HS
TH. Câu đơn có mặt thường xuyên trong các văn bản và chiếm tỉ lệ cao hơn câu
ghép. Với tỉ lệ 89.8%, câu tường thuật trở thành điểm tựa vững chắc để HS luyện nói
và luyện viết trong giai đoạn đầu hết sức quan trọng của bậc học phổ thông. Ở cấp độ
văn bản, chúng tôi thấy còn một số bài có số lượng từ quá nhiều so với mức độ đọc
của HS lớp 1 và lớp 2. Đối với những bài như thế, khi có dịp biên soạn lại SGK, các
tác giả cần chú ý cân nhắc thêm.

CHƯƠNG 4
SO SÁNH CÁC ĐƠN VỊ NGÔN NGỮ ĐƯỢC SỬ DỤNG
TRONG SGK MÔN TIẾNG VIỆT BẬC TIỂU HỌC
Ở VIỆT NAM VÀ SGK MÔN TIẾNG ANH

CÙNG BẬC Ở SINGAPORE

4.1. CÁC ĐƠN VỊ NGÔN NGỮ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG SGK MÔN TIẾNG
ANH BẬC TIỂU HỌC Ở SINGAPORE
4.1.1. Những yếu tố ngữ âm trong SGK Tiếng Anh
4.1.1.1. Về âm vị (phoneme)
a. Về hệ thống âm đầu
SGK môn TA TH của Singapore thiết kế các bài học về nhận biết âm vị
(Phonemic Awareness) ở cuối mỗi unit (đơn vị bài học). Hệ thống âm đầu được giới
thiệu trong SGK lớp 1 và lớp 2. Xét về trật tự các âm được giới thiệu trong từng bài
học, chúng tôi nhận thấy hầu hết các âm mũi /m, n, ŋ/, âm bật /p, t, k, b, d, g/ được
-14-

giới thiệu trước các âm xát /f, v,
θ
,
δ
, s, z/

và âm tắc xát /t, d/. Phần lớn những âm vị
có cấu tạo từ 2 phụ âm được đưa vào sách lớp 2 theo từng nhóm có nét cấu tạo tương
đồng (ví dụ: br, cr, dr; bl, cl, fl). Những âm còn lại (âm đầu được tạo thành từ 3 phụ
âm) được sử dụng trong những bộ sách từ lớp 3 trở lên. Điều này phù hợp với khả
năng tiếp nhận ngôn ngữ của HS.
b. Về hệ thống nguyên âm
SGK TA sử dụng hệ thống nguyên âm làm âm chính trong các bài học về âm
vị và các bài tập đọc. Ở lớp 1, chỉ có 2 nguyên âm ngắn (short vowels): a, e được giới
thiệu cho HS. Sang lớp 2, SGK tiếp tục giới thiệu 5 cặp nguyên âm dài (long vowels):
a-e, e-e, i-e, o-e, u-e và 11 nguyên âm đôi (vowel sounds): ai, au, aw, ay, ea, ee, ie,
oa, oo, ou, ow. Loại nguyên âm phức tạp trong tiếng Anh là nguyên âm ba /eɪə, aiə,

ɔɪə, ɔʊə, aʊə/ cũng được SGK sử dụng trong giai đoạn này nhưng được giới thiệu
thông qua các từ trong bài đọc, không thiết kế thành bài học riêng về âm như các âm
khác.
c. Về hệ thống âm cuối
SGK sử dụng 12 âm cuối (ending sounds): d, s, t, x, f, b, p, g, n, m, k, l để
giới thiệu ở lớp 1 và 12 âm cuối kết hợp từ 2 phụ âm (ending blends): nk, nd, ng, nt,
mp, sk, sp, st, ld, lt, lk, lp được đưa vào SGK lớp 2. Các nguyên âm dài, nguyên âm
ngắn, phụ âm kép (long and short vowel, double consonant) còn lại được SGK sử
dụng ở các lớp trên. Những từ có âm cuối là những cụm phụ âm từ 3 âm trở lên rất ít
được sử dụng trong sách lớp 1, 2, 3, và lớp 4. Riêng những từ có âm cuối là cụm 4
phụ âm thì chỉ sử dụng hạn chế ở SGK lớp 5 và lớp 6. Như vậy, HS sẽ rất thuận lợi
trong quá trình tiếp nhận và phát triển ngôn ngữ.
4.1.1.2. Về việc giới thiệu âm tiết (syllable)
Khái niệm về âm tiết được giới thiệu chính thức trong SGK lớp 3. Thông qua
các từ ngữ trong bài tập đọc, HS biết được mỗi từ có một, hai hay nhiều âm tiết. Ví
dụ: hamster, banana, animal, caterpillar,… Các âm tiết giống nhau được lặp đi lặp
lại trong cùng một bài học giúp HS dễ nhận diện và dễ nhớ.

4.1.2. Từ trong SGK Tiếng Anh
4.1.2.1. Về các kiểu từ xét theo góc độ cấu tạo
a. Về từ đơn (simple word)
SGK TA TH ở Singapore có sự chênh lệch khá lớn về tần số sử dụng giữa các
kiểu từ. Từ đơn chiếm đến 96.82%, từ ghép chỉ có 3.15%, từ phái sinh có số lượng
không đáng kể (0,03%). Các kiểu từ trong SGK TA được giới thiệu trong các bài tập
đọc theo từng chủ đề. Số lượng từ trong một bài tập đọc không giới hạn theo một tỉ lệ
nhất định. Trong cùng một quyển sách, có những bài rất dài nhưng cũng có những bài
thật ngắn. Ví dụ: bài “Thank you” (English 3A, tr.2) có 96 từ nhưng bài “A World of
Books” (English 3A, tr.14) có đến 366 từ.
HS lớp 1 được tiếp xúc với từ đơn ngay từ bài học đầu tiên. Những từ đơn
-15-


được sử dụng nhiều lần trong các tập sách thường là những từ ngữ quen thuộc chỉ
hoạt động, trạng thái, sự vật, hiện tượng. Những từ ngữ được giới thiệu trong SGK
lớp dưới được lặp lại và bổ sung ở các lớp trên theo từng chủ đề và có độ khó tăng
dần về ngữ nghĩa.
b. Về từ ghép (compound word)
Ở lớp 1,2,3, chúng tôi rất khó tìm từ ghép trong các bài tập đọc bởi tần số sử
dụng kiểu từ này rất thấp so với từ đơn. Thông thường, trong một bài văn, từ ghép chỉ
chiếm tỉ lệ từ 1 đến 4% trong tổng số từ ngữ được sử dụng. HS không gặp trở ngại
khi tiếp xúc với từ ghép do hầu hết những từ được dùng trong SGK có yếu tố gốc là
từ đơn đã học. Từ ghép rút gọn (clipped word) cũng được sử dụng trong SGK. Ví dụ:
grandfather = grandpa; grandmother = grandma; bicycle = bike. SGK có sử dụng từ
ghép tổng hợp (blended words) nhưng loại từ này không xuất hiện nhiều trong các
bài tập đọc. Ví dụ: smoke + fog = smog, lunch + breakfast = brunch. Hầu hết từ ngữ
trong SGK đều có nghĩa đơn giản, cụ thể. SGK hầu như không có phần giải nghĩa từ.
c. Về từ phái sinh (derivative)
Từ phái sinh được sử dụng trong SGK TA không nhiều (0.51%). Những từ này
có cấu tạo đơn giản, đa số được hình thành bằng phương thức thêm phụ tố (affix) vào
trước hoặc sau từ gốc có sẵn. Từ phái sinh có hậu tố (suffix) được giới thiệu trong
SGK nhiều hơn từ có tiền tố (prefix), chiếm tỉ lệ 66.5% trong tổng số lượt từ phái
sinh được sử dụng trong SGK. Điều này hợp lí vì phần lớn hậu tố làm thay đổi nghĩa
của từ mới so với từ gốc ở mức độ không đáng kể. Trong khi đó, tiền tố có thể thay
đổi nghĩa của từ mới trái ngược với nghĩa của từ gốc. Tuy được sử dụng không nhiều
nhưng từ phái sinh đã góp phần bổ sung vốn từ cho HS, đồng thời giúp HS biết cách
tạo lập từ mới theo hệ thống.

4.1.2.2. Các loại từ xét theo nguồn gốc và phạm vi sử dụng
a. Về các loại từ xét theo góc độ nguồn gốc
Từ vay mượn được sử dụng trong SGK TA thường là những từ có nguồn gốc
Hi Lạp hoặc Latin. Những từ vay mượn gốc Hi lạp thường bắt đầu là holo, micro,

photo, seismo, thermo, tele,… và kết thúc với: -gram, -meter, -graph, -scope,…. .Ví
dụ: hologram, holograph, micrometer, seismograph, telescop, … . Những từ vay
mượn gốc Latin thường bắt đầu bằng para, ultra, hyper, mega và kết thúc với -chute.
Ví dụ: hyperactive, parachute, ….
b. Về các loại từ xét theo góc độ phạm vi sử dụng
“Singlish” là ngôn ngữ đặc trưng cho nhiều người Singapore. Họ chuyển đổi
thông suốt giữa Singlish và tiếng Anh chuẩn. Tuy vậy, Singlish và các từ ngữ địa
phương khác không có mặt trong SGK TA TH của Singapore. Các bài tập đọc trong
SGK được biên soạn theo hệ thống tiếng Anh chuẩn.
4.1.2.3. Về thành ngữ (idiom)
-16-

Thành ngữ TA được giới thiệu trong SGK có nghĩa đơn giản, dễ hiểu. Một số
thành ngữ được sắp xếp theo trường nghĩa, chẳng hạn:
- Trường nghĩa về màu sắc: as blue as the sky, as white as snow, as black as
charcoal, as green as grass, as red as cherry, as yellow as a lemon,…
- Trường nghĩa về các bộ phận cơ thể: a pain in the neck, mouth the words,
toe the line, splits hairs,…
Thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng có kết cấu là danh ngữ, động ngữ, tính
ngữ cũng được sử dụng trong SGK nhiều hơn thành ngữ so sánh. Thành ngữ so sánh
đôi lúc đứng độc lập, không nằm trong đoạn văn nhưng bao giờ cũng kèm theo hình
ảnh minh họa sinh động.
4.1.3. Về ngữ tự do (phrase)
SGK TA đã khai thác triệt để vốn từ vựng, đặc biệt là ngữ. Có lúc, nó đứng
riêng lẻ, có lúc được dùng trong các câu văn có độ dài ngắn khác nhau. Ở lớp 1, ngữ
danh từ thường đứng ngoài văn bản, có hình ảnh minh họa. Ví dụ: a tin of soup, a
loaf of bread, a packet of sugar, a cartoon of juice, …
4.1.4. Về đơn vị câu
4.1.4.1. Về các loại câu xét theo góc độ cấu tạo
a. Về câu đơn (simple sentence)

Trong SGK lớp 1 và lớp 2, câu đơn được sử dụng nhiều hơn câu ghép với tỉ lệ
chênh lệch khá lớn (câu đơn chiếm 70.6%). Ở các lớp trên, tỉ lệ câu đơn cao nhất là
55%. HS lớp 1 được tiếp xúc với câu trước khi học âm và vần. Ở những bài học đầu
chương trình, câu đơn được sắp xếp theo trật tự từ đơn giản đến phức tạp: I draw. I
read. I write. I count. I play. I use the computer. I love school. (English 1A, tr.10).
HS được tiếp xúc với câu đơn ở nhiều thì (tense) khác nhau, trong đó thì hiện tại
(present tense) và thì quá khứ (past tense) được sử dụng nhiều hơn. Câu đơn ở thì quá
khứ đơn (simple past tense) thường hiện diện trong những câu chuyện kể.
b. Về câu ghép (compound sentence)
Cũng như câu đơn, câu ghép được sử dụng trong bài tập đọc thường có cấu
trúc đơn giản. Câu có trạng ngữ chỉ thời gian và trạng ngữ nơi chốn được sử dụng
thường xuyên, nhiều câu có từ 2 trạng ngữ trở lên. Tuy câu ghép được sử dụng trong
SGK có cấu trúc đơn giản, không khó về nghĩa nhưng có nhiều bài tập đọc với những
câu văn rất dài, thỉnh thoảng có một số câu chứa trên 50 chữ. Các kết từ và cặp kết từ
and, then, but, shall/willl if, unless, although, however, … được sử dụng nhiều hơn
các cặp phụ từ liên kết so/such that, but only… that also,…. Xét về đặc điểm cấu
tạo, ngoài câu đơn và câu ghép, tiếng Anh còn có câu phức (complex sentence). Kiểu
câu này thường khó phân biệt với câu ghép, đặc biệt là câu có sử dụng liên từ. Do đó,
câu phức không xuất hiện nhiều trong SGK là hợp lí.
4.1.4.2. Về các loại câu xét theo mục đích phát ngôn
a. Về câu tường thuật (declarative sentence)
-17-

Câu tường thuật chiếm ưu thế (89.7%) so với câu hỏi, câu cảm và câu cầu
khiến. SGK đã sử dụng nguồn ngữ liệu phong phú được trích từ các câu chuyện cổ
tích, các bài thơ, câu chuyện ngụ ngôn, các bản tin thời sự trên tạp chí, với những
câu văn đơn giản, dễ hiểu. SGK lớp 5 và lớp 6 có tỉ lệ câu tường thuật rất cao (95.6%
đối với lớp 5 và 93.5% trong sách lớp 6) do phần lớn các bài tập đọc trong SGK ở
giai đoạn này là các văn bản được trích từ các tác phẩm văn học, các bài báo đã đăng
tải trên tạp chí, các bài viết theo chủ đề về khoa học, thời sự. Ví dụ: “A voyage to

Lilliput” (English 5A, tr.42), “Moving to the Moon” (English 5B, tr.40), …
b. Về câu nghi vấn (interrogative sentence)
Câu nghi vấn được dùng không nhiều. Tuy nhiên, mục đích hỏi được xác
định rõ ràng qua nội dung của câu. Các từ dùng để hỏi được lặp đi lặp lại một cách
thường xuyên, giúp học sinh có điều kiện luyện tập thực hành đặt câu hỏi và vận
dụng trong giao tiếp: what, when, where, why, who, whose, which, how. Bên cạnh
những từ chuyên dùng để hỏi như trên, tiếng Anh còn có những từ dùng để hỏi trong
các trường hợp người hỏi chờ đợi câu trả lời là “Yes” hoặc “No”, chẳng hạn: is/are,
will/shall, Câu hỏi tu từ cũng có mặt trong SGK.
c. Về câu cảm thán (exclamative sentence)
Câu cảm thán được dùng trong SGK TA thường nhằm mục đích biểu lộ tình
cảm, thái độ khen chê hoặc khẳng định một vấn đề. Có những đoạn văn được tạo
thành bởi chuỗi câu cảm liên tiếp. Ví dụ: “But, Father!” I cried. “He is a scared cat!
When we played together as children, he would faint at the sight of a red ant! I can’t
marry him!”(“The Princess and the Bed Sheets!”, English 6A, 85). Thỉnh thoảng,
câu cảm được sử dụng trong SGK không đi kèm dấu chấm cảm, mặc dù đó là lời cảm
ơn hay xin lỗi. Chúng được giới thiệu trong đoạn văn cùng với câu tường thuật với
mục đích kể chuyện hay tự sự.
d. Về câu mệnh lệnh (imperative sentence)
Câu mệnh lệnh trong SGK thường được dùng để bày tỏ ý muốn nhờ hay yêu
cầu thực hiện một nội dung nào đó. Khảo sát các câu mệnh lệnh thể hiện yêu cầu,
chúng tôi nhận thấy đa số câu chỉ dừng lại ở mức độ đề nghị lịch sự, nhẹ nhàng.
Những câu biểu thị sự ra lệnh ít thấy xuất hiện trong SGK.

4.1.5. Về văn bản (text)
4.1.5.1. Về chủ đề và độ dài của văn bản (topic and length of the text)
- SGK TA được biên soạn theo hệ thống chủ đề. Mỗi chủ đề được thể hiện
qua một đơn vị bài học (unit). Ví dụ: Going to School; My Family and Friends;
Caring and Sharing; Whishes and Dreams; Save Our World!; … Các bài tập đọc là
cơ sở để HS khai thác thông tin và là “điểm tựa” để trẻ có thể dựa vào đó mà phát

triển kỹ năng viết trong từng giai đoạn học tập.
- Về độ dài, bên cạnh những bài tập đọc có số lượng từ và câu vừa phải, SGK
TA có nhiều văn bản rất dài; chẳng hạn: “I am special!” (English 4A, tr.20), “James
-18-

and the Giant Peach” (English 4B, tr.20), “A country childhood” (English 6A, tr.21),
“People near and dear” (English 6B, tr.38),…. Tuy nhiên, với cấu trúc hợp lí và
cách trình bày đa dạng nên HS không cảm thấy quá tải khi tiếp xúc và tìm hiểu về nó.
4.1.5.2. Về thể loại văn bản (genres)
Văn bản được đưa vào SGK TA rất phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều
loại khác nhau: văn bản nghệ thuật, văn bản báo chí, văn bản hành chính,… Văn bản
nghệ thuật được sử dụng nhiều hơn các loại văn bản khác. Văn bản báo chí, đặc biệt
là bài viết thuộc dạng phóng sự xuất hiện khá thường xuyên trong SGK TA lớp 4, 5,
6. Ở lớp 1 và lớp 2, các bài văn vần được đưa vào SGK nhiều hơn bài văn xuôi.
4.1.5.3. Mạch lạc và liên kết trong văn bản (coherence and cohesion)
Trong bộ SGK TA, tính mạch lạc và liên kết được thể hiện rõ nét trong từng
văn bản. Việc duy trì chủ đề và triển khai chủ đề trong các văn bản được các tác giả
biên soạn sách đặc biệt quan tâm. Các từ ngữ liên kết (and, with, but, so, because, if,
for, that, not only…but also, however, while, still, on the other hand, therefore,…)
thường xuyên được dùng để làm phương tiện liên kết, nối các bộ phận trong văn bản.
Có nhiều văn bản được thiết kế từng chương hay từng tiểu mục nhưng vẫn đảm bảo
tính liền mạch của chuỗi sự kiện và nội dung của toàn văn bản, giúp HS dễ dàng nắm
bắt nghĩa của từ trong văn bản.

4.2. SO SÁNH VIỆC SỬ DỤNG CÁC ĐƠN VỊ NGÔN NGỮ TRONG SGK
MÔN TIẾNG VIỆT VÀ SGK MÔN TIẾNG ANH
4.2.1. Nhận xét chung
Qua nghiên cứu hai bộ SGK bậc tiểu học của VN và Singpore, chúng tôi
nhận thấy sách TV và TA đều có điểm giống nhau trong việc xây dựng các bài tập
đọc làm cơ sở để rèn kĩ năng và học các phân môn khác. Cùng chung đối tượng là HS

tiểu học, SGK TV và SGK TA có những nét tương đồng về nội dung chủ điểm. Các
đơn vị từ vựng và ngữ pháp được sử dụng và khai thác triệt để trong từng bộ sách. Hệ
thống từ vựng là cơ sở để HS thực hành luyện tập về từ ngữ và câu; được lặp lại, bổ
sung và phát triển ở những lớp tiếp theo.
4.2.2. Nhận xét về việc sử dụng hệ thống âm vị
Qua kết quả khảo sát và so sánh cách thức cung cấp các đơn vị ngữ âm trong
SGK TV và TA, chúng tôi nhận thấy có những điểm giống và khác nhau trong việc
biên soạn ngôn ngữ SGK ở hai quốc gia. Theo đó, điểm giống nhau là SGK giới thiệu
hệ thống âm vị từ đơn giản đến phức tạp. Điều đó rất thuận lợi cho việc thụ đắc ngôn
ngữ của học sinh lớp 1. Điểm khác nhau là khi cung cấp các đơn vị ở bậc ngữ âm,
trong sách TV, các tác giả dồn cả việc nhận biết âm vị/chữ (thể hiện âm vị) chỉ trong
sách lớp 1, trong khi đó ở sách TA, nội dung này được rải đều cho đến lớp 3. Mặt
khác, việc cung cấp các đơn vị âm vị/chữ viết thể hiện âm vị và âm tiết nhất quán
xuất phát từ đơn vị “từ”, tức là đơn vị có nghĩa. Trong khi đó, có thể do đặc thù của
tiếng Việt, hầu như người biên soạn sách quá nhấn mạnh vào việc giới thiệu các đơn
-19-

vị thuần túy cấu trúc ngôn ngữ mà xem nhẹ việc gắn chúng với những đơn vị có
nghĩa.
4.2.3. Nhận xét về việc sử dụng các đơn vị từ
Điểm giống nhau của hai bộ sách được thể hiện qua cách sử dụng từ ngữ.
Những từ thông dụng thuộc lớp từ cơ bản được lặp đi lặp lại cùng với sự xuất hiện
của nhiều từ mới không gây trở ngại cho HS trong quá trình luyện tập, thực hành.
Tuy cả hai bộ sách cùng có nét giống nhau về nội dung chủ đề, đa dạng về thể loại ở
các bài tập đọc nhưng việc khai thác ngữ liệu và rèn kĩ năng cho HS thông qua các
bài học thì sách TA có nhiều ưu điểm hơn. Cách khai thác ngữ liệu từ các bài tập đọc
ở SGK TV tuy có nhiều đổi mới so với những bộ SGK trước đây nhưng vẫn mang
nặng tính hàn lâm, áp đặt đối với người học.
Đi vào chi tiết các kiểu từ được sử dụng trong SGK, chúng tôi nhận thấy:
- Trong cả hai bộ SGK, ở giai đoạn đầu của lớp 1, từ đơn được xuất hiện độc

lập nhiều hơn từ ghép. Đa số từ ngữ đều có nghĩa đơn giản, dễ hiểu. Bài tập đọc trong
SGK TA có nhiều từ ngữ hơn bài tập đọc trong SGK TV.
- Từ ghép được giới thiệu trong hai bộ SGK hầu hết đều có nghĩa cụ thể, dễ
hiểu. Bên cạnh đó, SGK cũng chú ý sử dụng các từ đã cung cấp ở lớp dưới được lặp
lại ở lớp trên. Cho nên, chúng tôi nhận thấy từ và nghĩa của từ không phải là vấn đề
khó đối với HS.
- Từ láy xuất hiện đều đặn trong SGK TV góp phần làm phong phú thêm vốn
từ, giúp HS có điều kiện để phát triển tư duy, rèn khả năng sử dụng ngôn ngữ trong
việc dùng từ đặt câu, làm văn miêu tả, Sách TA bị hạn chế điều này bởi tiếng Anh
hầu như không có từ láy, chủ yếu là từ mô phỏng âm thanh.
- Việc đưa thành ngữ vào SGK TA có hệ thống và rất khoa học. Thành ngữ so
sánh được minh họa bằng hình ảnh đi kèm. Thành ngữ ẩn dụ hóa được giới thiệu
trong văn bản cụ thể. Trong khi đó, SGK TV chưa thực hiện được điều này. Thành
ngữ trong SGK TV thường đứng riêng lẻ, không nằm trong văn bản, làm hạn chế sức
hấp dẫn của đơn vị ngôn ngữ đặc biệt này cũng như chưa tạo cho người học những
điều kiện cần thiết để tiếp cận và hiểu được lớp nghĩa thứ hai của thành ngữ.
Nhìn chung, hệ thống từ ngữ được giới thiệu trong SGK TV là hợp lí, phù
hợp với trình độ và năng lực học tập của HS. Tuy nhiên, nếu được khai thác triệt để
nguồn ngữ liệu trong các bài tập đọc, tạo điều kiện để HS rèn tư duy, phát triển khả
năng ngôn ngữ thì chắc hẳn bộ SGK TV sẽ mang đến cho người học sự hài lòng và
hứng thú hơn trong quá trình học tập.
4.2.4. Nhận xét về việc sử dụng đơn vị ngữ
Khi giới thiệu đơn vị ngữ trong SGK tiểu học môn TV và TA, các tác giả đã
chú ý đến khả năng thụ đắc ngôn ngữ và tâm sinh lí lứa tuổi của trẻ. Ngữ tự do được
cung cấp trong SGK thường có cấu trúc hết sức đơn giản, giúp HS tiểu học làm quen
với sự đa dạng trong việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp.
4.2.5. Nhận xét về việc sử dụng đơn vị câu
- Xét từ góc độ cấu tạo, câu được sử dụng trong hai bộ SGK không có sự
-20-


khác biệt nhiều về các kiểu câu. Câu đơn và câu ghép được xuất hiện thường xuyên
trong mỗi bài học. Câu đơn được dùng là nguyên liệu chính để tạo nên các bài văn,
bài thơ trong SGK. Tuy nhiên, câu trong SGK TA dài và chứa nhiều từ ngữ hơn câu
trong SGK TV.
- Những vấn đề về câu được đưa vào chương trình dạy HS tiểu học ở cả hai
bộ sách. Song, SGK TV chưa đi sâu vào việc rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS
thông qua ngữ liệu các bài tập đọc. Chỉ với những câu văn đơn giản, nhiều đoạn văn
trong sách TA nêu cụ thể những nội dung, những thông tin nổi bật trong bài học, đòi
hỏi học sinh phải chú ý và thực hành. Sách TV chưa thể hiện được điều này. Những
câu văn được sử dụng trong SGK TV thường biểu hiện nghệ thuật miêu tả rất cao.
Những âm điệu khác nhau của từng kiểu câu đã tạo nên những bài văn mượt mà,
trong sáng. Đây là nét nổi trội của những bài tập đọc trong SGK TV mà SGK TA
không có được. Song, nếu được bổ sung những bài đọc mang tính thời sự, gần gũi
với cuộc sống như sách TA đã có thì bộ SGK TVsẽ hoàn chỉnh hơn.
4.2.6. Nhận xét về việc sử dụng văn bản
Đối tượng của hai bộ SGK TV và TA là HS tiểu học, vì vậy những văn bản
được sử dụng trong sách được chọn lọc và sắp xếp theo từng chủ điểm thích hợp với
lứa tuổi. Xét về nội dung, mỗi bộ sách đều hướng người học đến những nội dung gần
gũi với bản thân, gia đình, nhà trường, quê hương, đất nước và thế giới xung quanh.
Song, SGK TA chú trọng đến những suy nghĩ cá nhân, khuyến khích HS khám phá
và bộc lộ suy nghĩ của mình trong từng vấn đề cụ thể. Trong khi đó, SGK TV chỉ
thực hiện tốt việc cung cấp ngữ liệu, chưa tạo điều kiện để người học khai thác hết
nguồn ngữ liệu phong phú trong sách để vận dụng vào thực hành, luyện tập và rèn kĩ
năng tư duy ngôn ngữ.
Các bài tập đọc trong hai bộ SGK đều thể hiện được tính mạch lạc và liên kết
trong văn bản. Những bài văn miêu tả, tường thuật được sử dụng như một công cụ
chủ lực để giới thiệu với HS về cấu trúc, nội dung và hình thức của văn bản; giúp trẻ
nhận diện được một cách cụ thể về một văn bản hoàn chỉnh và phát triển tốt kĩ năng
xây dựng văn bản trong quá trình luyện viết, đặc biệt đối với phân môn Tập làm văn.
4.3. MỘT SỐ Ý KIẾN CÓ TÍNH CHẤT TRAO ĐỔI VỀ VIỆC CHỈNH LÍ,

BIÊN SOẠN SGK TIẾNG VIỆT MỚI TRONG VẤN ĐỀ SỬ SỤNG CÁC ĐƠN
VỊ NGÔN NGỮ

Bên cạnh việc miêu tả, phân tích và so sánh về đặc điểm các đơn vị ngôn ngữ
được sử dụng trong SGK môn TV bậc tiểu học ở VN và SGK môn TA cùng bậc ở
Singapore, luận án còn có nhiệm vụ đưa ra một số ý kiến trao đổi có tính đề xuất về
việc biên soạn, chỉnh lí SGK môn TV bậc tiểu học trong giai đoạn mới về nội dung
ngôn ngữ. Dựa vào kết quả khảo sát cũng như các nội dung được trình bày trong luận
án, với khả năng và theo suy nghĩ của mình, chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến cụ
thể như sau:
4.3.1. Về hệ thống âm vị
-21-

Chương trình TV bậc tiểu học có hướng đến việc dạy cho HS viết đúng chính
tả và thực hiện được các bài tập về âm, vần. Thế nhưng với cách trình bày các bài
học như trong SGK TV hiện nay, HS chưa phân biệt được âm đệm và âm chính, chưa
nhận diện đúng âm và vần do cách thiết kế bài học về âm, vần trong SGK chưa thật
sự khoa học. Theo chúng tôi, cần có sự sắp xếp lại các bài học trong SGK TV lớp 1
cho hợp lí hơn, đảm bảo tính khoa học và phù hợp với khả năng tư duy của HS. Theo
chương trình TV, trong khoảng thời gian chưa đầy một năm học, HS lớp 1 phải tiếp
nhận một lượng kiến thức khá lớn về ngữ âm. Điều này chưa phù hợp với tâm lí và
khả năng tri nhận của trẻ. Trên thực tế, HS không theo kịp chương trình, trẻ chưa kịp
nhớ những âm, những chữ đã học ngày hôm trước thì phải nhận tiếp một loạt âm/chữ
mới của bài học hôm sau.
4.3.2. Về từ
- Trong SGK TV, ở giai đoạn học vần, các bài học không sắp xếp theo chủ
điểm như trong phần tập đọc, vì vậy nghĩa của từ không được chú ý đến. Tuỳ theo
chủ điểm của từng đơn vị học, các kiểu từ được xuất hiện độc lập hay đứng trong văn
bản đều được chọn lọc về mặt ngữ nghĩa để phù hợp với nội dung chủ điểm. Điều
này giúp HS tiếp thu kiến thức một cách có hệ thống và gặp nhiều thuận lợi trong

việc thực hành về mở rộng vốn từ theo chủ đề ở phân môn Luyện từ và câu. Đây là
ưu điểm cần được duy trì và tiếp tục phát triển.
- Trong chương trình tiểu học chưa thấy đề cập đến việc đưa từ Hán Việt vào
SGK để giới thiệu với HS lớp 1. Như vậy, những từ Hán Việt đã đưa vào sách TV
lớp 1 như hiện nay là không phù hợp với chuẩn kĩ năng, kiến thức của chương trình
tiểu học. Điều này cần được xem lại để có giải pháp khắc phục một cách có hiệu quả.
Trước mắt, cần thay thế những từ như: vạn tuế, tuyên ngôn, độc lập, cổ kính, thanh
khiết, uỷ ban, kế hoạch, huỳnh quang, nghệ thuật, khai hoang,….bằng những từ khác,
có nghĩa đơn giản hơn.
- Những từ ngữ địa phương được đưa vào SGK chưa được cân đối theo đặc
điểm vùng miền. Những từ thuộc phương ngữ miền Bắc được sử dụng rất nhiều. Tác
giả biên soạn sách cần chú ý đến số lượng, tần suất và nghĩa của từ để người dạy và
người học không gặp trở ngại khi tiếp xúc với loại từ này.
- Việc đưa thành ngữ vào SGK TV ở bậc tiểu học là điều cần thiết. Tuy
nhiên, với số lượng thành ngữ trong SGK như hiện nay là quá ít, cần bổ sung thêm.
Bên cạnh đó, các tác giả cần quan tâm hơn về việc giới thiệu thành ngữ trong ngữ
cảnh phù hợp và giải thích nghĩa của thành ngữ. Chương trình TV không dạy cho HS
về thành ngữ nhưng lại yêu cầu các em giải nghĩa, phân loại thành ngữ. Điều này cần
được khắc phục và điều chỉnh hợp lí hơn.
4.3.3. Về câu
Nhìn chung, các kiểu câu xét từ góc độ cấu trúc và góc độ mục đích nói được
sử dụng trong bộ SGK TV tiểu học là hợp lí. Chúng tôi chỉ xin nêu một số vấn đề cụ
thể liên quan đến phương diện ngữ dụng và sư phạm:
- SGK TV lớp 1, ở 27 bài đầu, chưa thể hiện đúng quy tắc viết hoa tên riêng.
-22-

Các kiểu câu được giới thiệu trong các bài học ở những tuần đầu tiên chưa trình bày
đúng chuẩn mực hình thức ngữ pháp của câu. Chúng tôi đề nghị SGK cần được chỉnh
sửa về các lỗi thuộc phạm vi quy tắc ngữ pháp, nhằm đảm bảo tính tương thích giữa
lí thuyết với thực tiễn sử dụng.

- HS lớp 3 đã được học về dấu chấm hỏi, dấu chấm than, do đó SGK TV lớp
3 cần được bổ sung thêm các câu thuộc kiểu câu nghi vấn, câu cảm thán và câu mệnh
lệnh. Có như thế, HS sẽ có nhiều điều kiện để tiếp xúc và phát triển kĩ năng vận dụng
các loại câu theo đúng mục đích nói trong thực hành và giao tiếp hàng ngày, tiến đến
việc sử dụng dấu câu thành thạo khi viết đoạn văn, bài văn.
- HS lớp 3 được làm quen với dạng bài tập đặt câu hỏi và trả lời cho câu hỏi
“ở đâu?”, “khi nào?”, “vì sao?”, “để làm gì?”, “bằng gì?”. Lên lớp 4, các em
chính thức học về trạng ngữ thông qua các bài luyện tập “thêm trạng ngữ cho câu”
(trạng ngữ chỉ nơi chốn, trạng ngữ chỉ thời gian, trạng ngữ chỉ nguyên nhân, trạng
ngữ chỉ mục đích và trạng ngữ chỉ phương tiện). Xét về tính hệ thống, chúng tôi nhận
thấy chương trình được cấu trúc như thế là hợp lí. Tuy nhiên, một số bài tập đọc
trong SGK chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kĩ năng cho HS sau khi học xong
phần lí thuyết. Các câu có trạng ngữ trong các bài tập đọc do phải tuân thủ theo yêu
cầu nội dung chủ đề mà chưa đảm đương được nhiệm vụ minh họa cho phần ngữ
pháp trước đó. HS có điều kiện luyện tập về câu đơn có trạng ngữ chỉ thời gian, nơi
chốn vì chúng thường xuyên xuất hiện trong bài tập đọc, trong khi đó, các kiểu trạng
ngữ khác được sử dụng hạn chế. Điều này thật đáng tiếc vì nếu tận dụng được ngữ
liệu từ các bài tập đọc thì việc rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS sẽ có nhiều
thuận lợi hơn.
4.3.4. Về văn bản
Các ngữ liệu trong SGK đảm bảo tính giáo dục, phù hợp với từng chủ điểm của
từng khối lớp. Một số bài tập đọc có nội dung giáo dục rất cao về tình cảm gia đình,
tình yêu thiên nhiên, đất nước, Chẳng hạn: Bàn tay mẹ (TV1 T2, tr.55), Đầm sen
(TV1 T2, tr.91), Mùa xuân đến (TV2 T2, tr.15), Đường vào bản (TV3, T1, tr.151),
Truyện cổ nước mình (TV4 T1, tr.19), Mùa thảo quả (TV5 T1, tr.1130),… Các bài
tập đọc có vai trò rất quan trọng; có thể coi đó là bộ xương của các chủ điểm trong
từng quyển sách. Việc chọn lựa và đưa vào sử dụng các loại câu trong văn bản được
các nhà biên soạn chú ý nhưng chưa khai thác triệt để. Nếu thiết kế lại các câu hỏi,
các bài tập thực hành trong SGK dựa trên nguồn ngữ liệu đã có, đồng thời tăng
cường rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS thông qua các bài tập thực hành thì các

bài tập đọc sẽ có giá trị cao hơn.
4.4. TIỂU KẾT
Với những nội dung được trình bày trên đây, chúng tôi nhận thấy SGK môn
TV bậc tiểu học ở Việt Nam và SGK môn Tiếng Anh cùng bậc ở Singapore có nhiều
nét tương đồng. Cả hai bộ sách đều hướng đến người học là trẻ em trong độ tuổi tiểu
học, do đó các đơn vị ngôn ngữ được giới thiệu trong SGK hầu hết được chọn lọc
-23-

phù hợp với khả năng thụ đắc ngôn ngữ của trẻ. Các ngữ liệu được sử dụng trong
SGK có nội dung phong phú, gần gũi và dễ hiểu, tạo điều kiện thuận lợi cho HS
trong quá trình tiếp nhận và phát triển tư duy. Tuy nhiên, xét về mức độ vận dụng và
phát triển ngôn ngữ cho HS tiểu học thông qua các bài tập đọc, SGK TVchưa đạt yêu
cầu cao như SGK TA.
KẾT LUẬN
1. Nhận xét về các đơn vị ngôn ngữ và cách thức sử dụng chúng trong SGK, trước
hết chúng tôi xin nói về các đơn vị ngôn ngữ thuộc cấp độ ngữ âm. Bộ SGK TV có
ưu điểm là đã tôn trọng đặc trưng âm tiết tính của ngôn ngữ để giới thiệu hệ thống
âm vị và chữ viết có liên quan. Ưu điểm thứ hai là SGK đã trình bày các đơn vị ngữ
âm và chữ viết từ đơn giản đến phức tạp. Tuy nhiên, ở cấp độ ngữ âm, SGK còn có
những chi tiết giới thiệu chưa hợp lí. Theo chúng tôi, các tác giả đã chưa tận dụng
đặc trưng nhận diện chính của các thanh điệu tiếng Việt là âm vực và đường nét để
giúp cho HS TH dễ nắm bắt. Các âm tiết/từ minh họa chữ viết cho các đơn vị ngữ âm
còn chưa được chọn lọc kĩ về nghĩa để “dễ nhận biết” đối với HS tiểu học.
2. Về từ ngữ trong SGK, các tác giả đã sử dụng hợp lí đơn vị này đối với việc thụ đắc
ngôn ngữ xét ở mặt cấu tạo từ. Tuy nhiên, ở phương diện này có hai điều cần được
xem lại khi chỉnh lí SGK. Đó là tỉ lệ dùng từ ghép và từ láy ở ngay lớp 1 so với
những lớp trên còn cao; trong một vài trường hợp, việc dùng nhiều từ láy có nghĩa
quá trừu tượng là khó đối với việc tiếp thu và phát triển ngôn ngữ của HS lớp đầu
cấp. Tỉ lệ từ thuần Việt và từ toàn dân (95.6% và 99.8% trên tổng số lượt từ) trong
SGK là phù hợp với tâm lí thụ đắc ngôn ngữ của HS tiểu học. Nhưng việc sử dụng từ

vay mượn cũng như từ địa phương phần nào còn chưa hợp lí. Theo đó, tình trạng
phân bố từ Hán Việt (nhất là ở lớp 2 và lớp 3) có nghĩa quá trừu tượng là chưa phù
hợp với độ tuổi của HS. Hơn nữa, cách ghi chính tả từ Ấn - Âu còn chưa thống nhất
làm ảnh hưởng lâu dài đến việc học tập của HS ở những cấp tiếp theo. Việc dùng từ
địa phương trong SGK cũng cần phải cân nhắc và lựa chọn hợp lí hơn.
Các thành ngữ với nghĩa biểu trưng như xuôi chèo mát mái, mua dây buộc
mình, chuột gặm chân mèo, rất khó tiếp nhận so với trình độ HS. Nên chăng trong
SGK TH, cần cân nhắc và lựa chọn những thành ngữ có cấu trúc so sánh đơn giản,
như vậy sẽ phù hợp với lứa tuổi TH hơn.
3. Các đơn vị ngôn ngữ thuộc cấp độ ngữ pháp trong SGK TV, về nguyên tắc, được
cung cấp một cách hệ thống, phù hợp với từng giai đoạn học tập của HS. Tỉ lệ câu
đơn cao hơn câu ghép là hợp lí. Câu tường thuật là “lực lượng nòng cốt” trong các
bài tập (chiếm tỉ lệ 89.8%). Nhờ đó, học sinh dễ dàng trong việc luyện nói, luyện viết
những đoạn văn miêu tả trong giai đoạn đầu của bậc học phổ thông. Tuy nhiên, SGK
TV tiểu học vẫn còn có điểm chưa phù hợp với đối tượng HS. Vẫn có những câu đơn
quá dài so với học sinh lớp 3. Trong việc tổ chức văn bản, chúng ta vẫn thấy tính đơn
điệu của các thể loại văn bản; ngoài ra vẫn còn một số bài có số lượng từ quá nhiều

×