Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước cho bộ tư pháp đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.23 KB, 80 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, bản luận văn “Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước cho Bộ Tư pháp đến năm 2020 ” là công trình
nghiên cứu độc lập, do chính tôi hoàn thành. Các tài liệu tham khảo và trích dẫn
được sử dụng trong luận văn này đều nêu rõ xuất xứ tác giả và được ghi trong danh
mục tài liệu tham khảo.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan nêu trên!
Hà Nội, ngày 12 tháng 6 năm 2013
Tác giả
Vũ Hải Linh
LỜI CẢM ƠN
Với tất cả sự kính trọng biết ơn sâu sắc nhất, tác giả xin chân thành bày tỏ
lòng biết ơn của mình tới sự hướng dẫn tận tình và chu đáo của cô giáo hướng
dẫn khoa học là TS. Đinh Đào Ánh Thủy, các thầy cô trong Phòng Đào tạo
Đại học và Sau đại học, các thầy cô trong khoa Kinh tế Đầu tư cùng toàn thể
các thầy cô giáo Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, cùng với các đồng nghiệp
trong Vụ Đầu tư - Bộ Tài chính. Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình,
bạn bè đã động viên, tạo điều kiện giúp tác giả hoàn thành luận văn này.
Do thời gian và điều kiện chuyên môn còn hạn chế nên luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót. Với tinh thần cầu thị, tác giả mong nhận được sự
chỉ dẫn và đóng góp ý của các thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa học và toàn
thể các đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 12 tháng 6 năm 2013
Người viết luận văn
Vũ Hải Linh
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
LỜI CẢM ƠN 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Khối lượng hoàn thành: KLHT


Ngân sách nhà nước: NSNN
Nghiên cứu kĩ thuật: NCKT
Tổng dự toán: TDT
Thi hành án dân sự: THADS
Xây dựng cơ bản: XDCB
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
LỜI CAM ĐOAN 1
LỜI CẢM ƠN 2
Biểu đồ 3.1: Biểu đồ Kế hoạch vốn đầu tư thực hiện các năm 2008-2012 của
Bộ Tư pháp Error: Reference source not found
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng cơ bản và đầu tư xây dựng cơ bản là những hoạt động với
chức năng tạo ra tài sản cố định cho nền kinh tế thông qua các hình thức xây
dựng mới, mở rộng, hiện đại hóa hoặc khôi phục các tài sản cố định.
Bất cứ một ngành, một lĩnh vực nào để đi vào hoạt động đều phải thực
hiện đầu tư cơ sở vật chất, tài sản cố định, vì vậy đầu tư xây dựng cơ bản luôn
là vấn đề đặc biệt được quan tâm.
Đối với Bộ Tư pháp, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08/NQ-TW
ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp và Nghị quyết
số 49-NQ-TW ngày 2/6/2005 về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020,
trong đó chứa đựng nhiều nội dung, định hướng quan trọng liên quan đến việc
đổi mới và nâng cao chất lượng công tác Tư pháp. Cùng với yêu cầu về hoàn
thiện thể chế công tác, việc đầu tư xây dựng cơ bản (nâng cấp cơ sở vật chất kỹ
thuật, hiện đại hóa trang thiết bị trong cơ sở đào tạo pháp luận, đào tạo các
chức danh tư pháp…) phù hợp với vị thế mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được
giao cũng là một trong những nội dung quan trọng được thể hiện trong các
Nghị quyết của Đảng, Nghị định của Chính phủ.
Tuy nhiên, trên thực tế việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, trụ sở, trang thiết

bị, phương tiện làm việc vẫn còn thiếu về số lượng, chưa đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, hạn chế này,
trong đó có một nguyên nhân quan trọng là do công tác quản lý đầu tư XDCB
còn yếu kém. Vì vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu đánh giá hiện trạng trong
công tác đầu tư xây dựng cơ bản là hết sức cần thiết để nâng cao hiệu quả
quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của Bộ Tư pháp. Chính vì vậy, tác giả đã lựa
chọn đề tài: “Quản lý đầu tư XDCB bằng nguồn vốn NSNN cho Bộ Tư
pháp đến năm 2020” làm đề tài nghiên cứu bậc thạc sỹ.
1
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản trong quản lý nhà nước về hoạt
động đầu tư xây dựng cơ bản của các Bộ, ngành Trung ương nói chung và
quản lý đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước cho Bộ
Tư pháp nói riêng.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản và công tác
quản lý đầu tư xây dựng của Bộ Tư pháp để đề xuất một số giải pháp nâng
cao công tác quản lý hoàn thiện hoạt động đầu tư xây dựng, khắc phục những
hạn chế đáp ứng được yêu cầu công vệc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác quản lý hoạt động đầu
tư xây dựng cơ bản (XDCB) bằng nguồn vốn ngân sách cấp hàng năm để
xây dựng trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các cơ quan của Bộ
Tư pháp.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nội dung quản lý đầu tư XDCB của
Bộ Tư pháp từ năm 2008 đến hết năm 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp: duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, thống kê, mô tả, phân tích, so sánh…
5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,

luận văn sẽ được chia thành 4 chương:
Chương 1: Nghiên cứu tổng quan về đầu tư xây dựng cơ bản và quản lý
đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Chương 2: Lý luận chung về đầu tư xây dựng cơ bản và quản lý đầu tư xây
dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sác nhà nước tại các Bộ, ngành Trung ương.
2
Chương 3: Thực trạng công tác quản lý hoạt động đầu tư XDCB bằng
nguồn vốn NSNN tại Bộ Tư pháp giai đoạn 2008-2012.
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ
bản bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước cho Bộ Tư pháp đến năm 2020.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ
ĐẦU TƯ XDCB
Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) bằng nguồn vốn ngân sách nhà
nước (NSNN) là một nhiệm vụ không thể thiếu theo các quy định pháp luật
của Nhà nước ta. Đối với nguồn vốn đầu tư NSNN cấp cho các Bộ, ngành
Trung ương hàng năm, thì việc các Bộ, ngành sử dụng vốn để đầu tư XDCB,
và quản lý hoạt động đầu tư của mình là rất cần thiết và cũng là trách nhiệm
thuộc chức năng, nhiệm vụ của đơn vị.
Tại Bộ Tư pháp, nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý
đầu tư XDCB, bên cạnh việc ban hành những quy chế nội bộ về công tác
quản lý, lãnh đạo Bộ Tư pháp còn rất khuyến khích cán bộ làm công tác quản
lý nghiên cứu, tìm tòi, viết những báo cáo đề xuất sáng kiến quản lý trong
công việc, cao hơn nữa là những nghiên cứu khoa học, đề tài khoa học cấp
Vụ, cấp Bộ… để có những nghiên cứu thực tế, góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động đầu tư XDCB tại Bộ Tư pháp nói riêng, đồng thời cũng là một nội
dung tham khảo về công tác quản lý cho các đơn vị Bộ, ngành Trung ương
nói chung.
Những năm gần đây, các đề tài nghiên cứu khoa học về quản lý đầu tư

XDCB bằng nguồn vốn NSNN chỉ nghiên cứu ở những Bộ, ngành như Bộ
Giáo dục (Đề tài: Tăng cường quản lý vốn đầu tư XDCB cho ngành giáo
dục); Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (đề tài: Hoàn thiện quản lý vốn đầu tư
XDCB của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam); Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt
Nam (Đề tài: Tăng cường quản lý đầu tư XDCB của Tập đoàn Bưu chính
Viễn thông Việt Nam – Nguyễn Thanh Bình, Trường ĐHKTQ). Các đề tài
4
trên đã khái quát được nội dung và quy trình quản lý đầu tư XDCB bằng
nguồn vốn NSNN ở cấp quản lý các Bộ, ngành Trung ương. Tuy nhiên, chưa
có một đề tài nghiên cứu nào về quản lý đầu tư XDCB bằng nguồn vốn
NSNN tại Bộ Tư pháp- một trong những đơn vị có nhiều điểm đặc thù trong
hoạt động đầu tư XDCB. Mặt khác, hầu hết những nghiên cứu tại Bộ Tư pháp
đều chỉ dừng ở một mảng quản lý, thuộc chuyên môn của cán bộ quản lý phụ
trách, các nghiên cứu mới chỉ mang tính đề xuất sáng kiến công tác, báo cáo
đề xuất…Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu đề cập tổng quan tới
công tác quản lý hoạt động đầu tư XDCB của Bộ Tư pháp, nghiên cứu các
nhiệm vụ, nội dung quản lý đặt trong sự tương tác, hỗ trợ với nhau để đi tới
mục tiêu chung là đảm bảo nhu cầu về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho Bộ Tư
pháp thực hiện được các nhiệm vụ chính trị đã được giao. Vì vậy, việc nghiên
cứu hoạt động đầu tư XDCB và công tác quản lý đầu tư xây dựng của Bộ Tư
pháp để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý đầu tư xây dựng
là có ý nghĩa thực tiễn cao.
5
CHƯƠNG 2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN VÀ
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN BẰNG NGUỒN
VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI CÁC BỘ, NGÀNH
TRUNG ƯƠNG
2.1. Lý luận chung về đầu tư xây dựng cơ bản
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm XDCB và đầu tư XDCB

2.1.1.1. Khái niệm
XDCB là một ngành sản xuất vật chất nằm trong giai đoạn thực hiện đầu
tư có chức năng tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố
định có tính chất sản xuất và không sản xuất cho các ngành kinh tế thông qua
các hình thức: xây dựng mới, cải tạo mở rộng, xây dựng lại, hiện đại hóa hay
khôi phục các tài sản cố định.
Đầu tư XDCB là một bộ phận của hoạt động đầu tư phát triển, nằm
trong giai đoạn thực hiện đầu tư. Đó là việc bỏ vốn để tiến hành các hoạt
động XDCB (từ khảo sát quy hoạch đầu tư, thiết kế và sử dụng cho đến khi
lắp đặt thiết bị hoàn thiện việc tạo ra cơ sở vật chất) nhằm tái sản xuất giản
đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân.
Đối với các Bộ, ngành Trung ương, đầu tư XDCB chủ yếu là xây dựng
trụ sở, văn phòng làm việc, cơ sở đào tạo (nếu có), cùng với trang thiết bị
vận hành phục vụ cho hoạt động của đơn vị.
Để hiểu về khái niệm trên, ta cần làm rõ một số thuật ngữ sau:
Xây dựng mới là tạo ra những tài sản cố định chưa có trong nền kinh tế
quốc dân; Xây dựng mở rộng là những tài sản đã có trong nền kinh tế quốc
dân và được xây dựng tăng thêm.
6
Hiện đại hóa là hoạt động mang tính chất mở rộng, các máy móc thiết bị
lạc hậu về kỹ thuật đổi mới bằng cách mua sắm hàng loạt, thay đổi cơ bản các
yếu tố kỹ thuật.
Khôi phục là khi các tài sản cố định đã thuộc danh mục nền kinh tế quốc
dân nhưng do bị tàn phá, hư hỏng nên người ta tiến hành khôi phục lại.
Tái sản xuất giản đơn là thay đổi từng phần nhỏ, công dụng như cũ.
Tái sản xuất tài sản cố định là hoạt động có sự tham gia của rất nhiều ngành
kinh tế, tuy nhiên XDCB là hoạt động trực tiếp kết thúc quá trình tái sản xuất tài
sản cố định; trực tiếp chuyển sản phẩm của các ngành sản xuất khác thành tài
sản cố định cho nền kinh tế. Các tài sản cố định đó là: nhà cửa, cấu trúc hạ tầng,
máy móc thiết bị lắp đặt bên trong, các phương tiện vận chuyển và các thiết bị

không cần lắp khác để trang bị cho các ngành trong nền kinh tế.
2.1.1.2. Đặc điểm của đầu tư XDCB
Từ khái niệm trên, và thực tế hoạt động, đặc điểm của đầu tư XDCB của
các Bộ, ngành Trung ương được khái quát như sau:
Sản phẩm của đầu tư XDCB là đơn chiếc, cố định. Tùy vào nhu cầu trụ
sở làm việc, biên chế cán bộ từng huyện, từng tỉnh, thành phố mà việc đầu tư
xây dựng được thực hiện tại từng địa phương.
Sản phẩm của đầu tư XDCB có khối lượng lớn, thi công ngoài trời nên
phải chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên dễ hỏng hóc, mất mát.
Thời gian xây dựng lâu trong khi vốn đầu tư thường lớn dẫn tới nguy cơ
ứ đọng vốn. Mặt khác, những công trình lớn thường gặp phải tình trạng thiếu
vốn, thực hiện kéo dài, dẫn đến hiện trạng đầu tư dàn trải kém hiệu quả, gây
lãng phí.
2.1.2. Phân loại đầu tư XDCB
Thứ nhất: Dựa theo tính chất tái sản xuất tài sản cố định, đầu tư XDCB
được chia thành:
7
- Đầu tư xây dựng công trình mới:
Đây là khoản đầu tư để xây dựng mới các công trình mới, mua sắm tài
sản cố định mới đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian xây dựng kéo dài. Đối với
những dự án xây dựng công trình mới sử dụng vốn ngân sách nhà nước, phải
xem xét đầu tư vào những công trình, dự án mang tính chất cấp bách, trọng
điểm, tránh xảy ra tình trạng đầu tư phân tán dàn trải. Đây là khoản đầu tư
chủ yếu trong hoạt động đầu tư XDCB,
- Chi đầu tư cải tạo, mở rộng, nâng cấp các công trình hiện có:
Khoản chi này do thời gian sử dụng lâu dài nên các công trình xây dựng
thường là đã xuống cấp, do thiên tai, địch hoạ gây ra, trong khi đó nhu cầu sử
dụng lại không ngừng tăng lên (biên chế tuyển dụng tăng, nhu cầu đào tạo
tăng…) đòi hỏi phải đầu tư để nâng cấp, mở rộng và cải tạo lại., thay thế tài sản
đã hết niên hạn sử dụng, hiện đại hóa tài sản cố định.

Hiện nay các khoản chi này vẫn giữ một vị trí quan trọng, đảm bảo tiết
kiệm mà đáp ứng được một số nhu cầu đáng kể
Thứ hai: Dựa vào cơ cấu công nghệ của vốn đầu tư, đầu tư XDCB được
phân thành:
- Chi xây lắp: là các khoản chi để xây dựng, lắp đạt các thiết bị vào vị trí
như trong thiết kế. Trong hoạt động xây dựng cơ bản của các Bộ, ngành
Trung ương chủ yếu là phi sản xuất nên chi phí lắp đặt chiếm tỷ lệ ít, chỉ chủ
yếu là chi phí về xây dựng.
- Chi cho máy móc thiết bị: Là khoản chi để mua sắm máy móc thiết bị
phục vụ công tác của cán bộ công nhân viên Đối với các khoản chi này chỉ
chiếm một phần nhỏ trong tổng chi đầu tư XDCB.
- Chi cho XDCB khác: là các khoản chi có liên quan đến tất cả qúa trình
xây dựng như việc kiểm tra, kiểm soát để làm luận chứng kinh tế kỹ thuật và
các chi phí có liên quan đến việc chuẩn bị mặt bằng thi công, chi phí tháo dỡ
8
vật kiến trúc, chi phí đền bù hoa màu đất đai di chuyển nhà cửa khoản chi
này chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng rất cần thiết.
2.1.3. Các nguồn vốn đầu tư XDCB
Vốn đầu tư XDCB được hình thành từ những nguồn sau: Vốn ngân sách
nhà nước; vốn tín dụng đầu tư; vốn đầu tư XDCB tự có của các đơn vị sản
xuất kinh doanh; vốn hợp tác liên doanh với nước ngoài;Vốn viện trợ của các
tổ chức nước ngoài; Vốn huy động của nhân dân bằng tiền, vật liệu hoặc công
cụ lao động.
Đối với các Bộ, ngành Trung ương, nguồn vốn đầu tư XDCB chủ yếu là
nguồn vốn NSNN cấp; ngoài ra còn có vốn tín dụng đầu tư; vốn tự có khi
được phép bán đấu giá trụ sở cũ, chuyển nhượng đất, trụ sở cũ.
2.1.3.1.Vốn ngân sách nhà nước
Vốn NSNN cấp cho các Bộ, ngành là từ nguồn vốn ngân sách trung
ương. Vốn ngân sách được hình thành từ vốn tích luỹ của nền kinh tế và được
Nhà nước duy trì trong kế hoạch ngân sách để cấp cho đơn vị thực hiện các

công trình thuộc kế hoạch.
Nguồn hình thành vốn đầu tư XDCB từ NSNN:
+ Một phần tích luỹ trong nước từ thuế, phí, lệ phí
+ Vốn viện trợ theo dự án của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các
tổ chức liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác.
+ Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của tổ chức quốc tế và các
Chính phủ hỗ trợ cho Chính phủ Việt Nam.
+ Vốn thu hồi nợ của ngân sách đã cho vay ưu đãi các năm trước.
+ Vốn vay của Chính phủ dưới các hình thức trái phiếu kho bạc nhà
nước phát hành theo quyết định của Chính phủ.
+ Vốn thu từ tiền giao quyền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ,
+ Vốn thu từ tiền bán, cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước,
9
Vốn của NSNN chỉ được cấp phát cho các dự án đầu tư thuộc đối tượng
sử dụng vốn NSNN theo quy định của luật NSNN và quy chế quản lý đầu tư
và xây dựng. Cụ thể vốn NSNN chỉ được cấp phát cho các đối tượng sau:
- Các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh không
có khả năng thu hồi vốn và được quản lý sử dụng theo phân cấp về chi NSNN
cho đầu tư phát triển.
- Hỗ trợ các dự án của các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có
sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật
- Chi cho công tác điều tra, khảo sát, lập các dự án quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông
thôn khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép
- Các doanh nghiệp Nhà nước được sử dụng vốn khấu hao cơ bản và
các khoản thu của Nhà nước để lại để đầu tư (đầu tư mở rộng, trang bị lại
kỹ thuật).
Đầu tư XDCB bằng nguồn vốn NSNN là những khoản chi lớn của nhà
nước đầu tư vào việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội
không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và nó được thực hiện bằng chế độ

cấp phát không hoàn trả từ NSNN. Hiện nay quan điểm của Đảng ta là không
sử dụng tiền đi vay cho tiêu dùng mà chỉ dùng vào mục đích đầu tư phát triển
và phải có kế hoạch thu hồi vốn vay và chủ động trả nợ khi đến hạn, đồng
thời trước khi đầu tư cần phải nghiên cứu kỹ nhằm đẳm bảo mỗi đồng vốn
đầu tư bỏ ra đều mang lại hiệu quả cao.
Đối với các Bộ, ngành, vốn NSNN cấp là nguồn vốn đầu tư chính cho
mọi hoạt động XDCB.
2.1.3.2. Vốn tín dụng đầu tư
Vốn tín dụng đầu tư bao gồm: vốn của NSNN dùng để cho vay, vốn huy
động của các đơn vị kinh tế trong nước và các tầng lớp dân cư. Vốn vay dài
hạn của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế và kiều bào ở nước ngoài.
10
Vốn tín dụng đầu tư là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp
phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu
hồi vốn trực tiếp. Hình thức tín dụng tức là có vay có trả, và phải trả với một
lãi suất nhất định, thường là lãi suất ưu đãi khi vay vốn hay sau khi đầu tư
(đầu tư có hiệu quả mới được ưu đãi). Nguồn vốn này có vị trí quan trọng
trong chính sách đầu tư của Chính phủ.
Hiện nay ở nước ta, Chính phủ sử dụng vốn tín dụng đầu tư nhằm tập
trung hỗ trợ đầu tư cho những ngành, lĩnh vực hoặc sản phẩm quan trọng,
then chốt của nền kinh tế một cách có trọng tâm, trọng điểm; giảm sự bao cấp
và tách bạch tín dụng ngân sách và tín dụng thương mại trong lĩnh vực đầu tư
XDCB. Các dự án được cấp vốn tín dụng chủ yếu là các dự án giao thông
như: đường cao tốc, cầu, bến phà… do có khả năng thực hiện được việc thu
phí khi đưa vào vận hành để trả nợ tín dụng.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư có tác dụng trong việc giảm đáng kể sự bao
cấp vốn trực tiếp của Nhà nước.Với cơ chế tín dụng nhằm tránh sự thất thoát
và lãng phí nguồn vốn, các đơn vị vay vốn sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả
hơn do phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay.
2.1.3.3. Vốn từ bán đấu giá trụ sở cũ

Để thực hiện đầu tư xây dựng trụ sở mới đáp ứng được với nhu cầu làm
việc, các Bộ, ngành còn có thể huy động vốn từ việc bán đấu giá trụ sở cũ.
Tuy nhiên, thực hiện việc này phải được phép của cơ quan có thẩm quyền (Bộ
Tài chính), đồng thời đơn vị có trụ sở cũ phải thỏa thuận với địa phương nơi
xây dựng để thống nhất địa điểm xây dựng trụ sở mới phù hợp với quy hoạch
của tỉnh, đồng thời thỏa thuận bán lại cho tỉnh trụ sở cũ.
2.1.4 Đặc điểm hoạt động đầu tư XDCB bằng nguồn vốn NSNN
Hoạt động đầu tư XDCB bằng nguồn vốn NSNN ngoài những đặc điểm
chung về đầu tư XDCB còn có những đặc điểm riêng xuất phát từ tính chất sử
dụng nguồn vốn NSNN. Đó là:
11
Hoạt động đầu tư XDCB bằng nguồn vốn NSNN chịu sự ràng buộc chặt
chẽ của các quy định về quản lý ngân sách, quản lý đầu tư, quản lý chi phí…,
như Luật NSNN, các Nghị định của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư, quản
lý chi phí dự án, các quy định này sẽ chi phối cụ thể đến việc cấp phát vốn;
lập, thẩm định, phê duyệt dự án; thanh quyết toán vốn đầu tư; giám sát và
đánh giá đầu tư.
Nhà nước quản lý toàn bộ quá trình đầu tư XDCB sử dụng vốn NSNN,
cụ thể đối với dự án đầu tư sử dụng vốn NSNN từ việc xác định chủ trương
đầu tư, lập dự án, quyết định đầu tư, lập thiết kế, tổng dự toán, lựa chọn nhà
thầu, thi công xây dựng đến khi nghiệm thu bàn giao và đưa công trình vào
khai thác, sử dụng.
Trong hoạt động đầu tư XDCB, chủ đầu tư không phải là chủ sở hữu
vốn. Chủ đầu tư được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao quản lý,
sử dụng vốn. Đối với dự án đầu tư XDCB bằng nguồn vốn NSNN thì chủ đầu
tư do người quyết định đầu tư quyết định trước khi lập dự án và phải phù hợp
với quy định của Luật NSNN. Dự án do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu
tư: chủ đầu tư là cơ quan cấp Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và doanh nghiệp nhà nước; Dự án do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan cấp Bộ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp quyết định đầu tư: chủ đầu tư

là đơn vị quản lý, sử dụng công trình.
2.2. Tính cấp thiết việc quản lý nhà nước về đầu tư XDCB bằng nguồn
vốn NSNN tại các Bộ, ngành Trung ương.
Đầu tư XDCB từ NSNN chủ yếu là đầu tư xây dựng các công trình hạ
tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn, hiệu quả kinh tế - xã hội
do đầu tư những công trình này đem lại là rất lớn và có ý nghĩa quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước và mỗi địa
phương. Song những công trình này lại không có khả năng thu hồi vốn trực
12
tiếp nên việc tính toán hiệu quả đầu tư các công trình này là rất phức tạp và
nhiều khi hiệu quả chỉ thể hiện rõ sau một thời gian dài đưa công trình vào
khai thác, sử dụng.
Đầu tư XDCB từ NSNN thường chiếm tỷ trọng vốn lớn nhất trong tổng
vốn đầu tư phát triển từ NSNN. Đặc biệt đối với những nước mới bước vào
thời kỳ đầu công nghiệp hóa như Việt Nam, do hệ thống hạ tầng kinh tế - xã
hội còn ở mức thấp kém, lạc hậu, thiếu đồng bộ thì nhu cầu đầu tư XDCB từ
NSNN là rất lớn và khối lượng đầu tư thường chiếm tỷ trọng cao nhất trong
tổng vốn đầu tư phát triển của NSNN.
Xuất phát từ những đặc điểm trên, nên Nhà nước tham gia trực tiếp
quản lý toàn bộ quá trình đầu tư xây dựng các công trình thuộc nguồn vốn
NSNN từ việc xác định chủ trương đầu tư; lập, thẩm định và phê duyệt dự
án đầu tư; lập và quyết định kế hoạch thực hiện dự án; xây dựng công trình
và quyết toán dự án… nhằm đảm bảo sự phù hợp với chiến lược, quy hoạch
và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch xây dựng của Nhà
nước; đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn ngân sách của Nhà nước trong đầu tư
XDCB.
2.3. Nội dung quản lý nhà nước về đầu tư XDCB tại các Bộ,
ngành Trung ương
Đối với các Bộ, ngành Trung ương, nội dung quản lý hoạt động đầu tư
XDCB gồm:

+ Xây dựng chiến lược, quy hoạch đầu tư XDCB và xây dựng danh
mục các dự án đầu tư XDCB cho Bộ, ngành.
+ Xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn đầu tư XDCB.
+ Hướng dẫn các nhà đầu tư, các doanh nghiệp trực thuộc xây dựng dự
án đầu tư XDCB, lập dự án tiền khả thi, …
+ Trực tiếp giám sát quá trình hoạt động của các dự án đầu tư XDCB
13
theo chức năng được phân cấp.
+ Hỗ trợ và trực tiếp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình đầu tư
XDCB của các đơn vị trực thuộc, của các chủ đầu tư tại địa phương …
Theo đó, nội dung quản lý nhà nước về đầu tư XDCB của các Bộ, ngành
cụ thể như sau:
2.3.1. Lập và quản lý kế hoạch đầu tư XDCB
Việc quản lý đầu tư XDCB quan trọng nhất và là nhiệm vụ chủ chốt của
các Bộ, ngành là tổng hợp, đăng ký nhu cầu đầu tư XDCB theo năm kế hoạch
của các đơn vị trực thuộc Bộ gửi các cơ quan tổng hợp (Bộ KH&ĐT, Bộ Tài
Chính, Ngân hàng Nhà nước) để đăng ký vốn cho các dự án đầu tư. Để thực
hiện được việc này, các Bộ, ngành quản lý phải xây dựng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, 5 năm, hàng năm. Từ đó mới xác định
được nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất, trụ sở, trang thiết bị và phân kỳ đầu tư
hàng năm hợp lý để đáp ứng được yêu cầu của công việc và lộ trình phát triển
của đơn vị.
Sau khi đã có chỉ tiêu kế hoạch vốn Nhà nước giao hàng năm, các Bộ,
ngành thực hiện triển khai kế hoạch vốn, dựa trên cơ sở căn cứ tiến độ của
từng dự án cụ thể để phân bổ vốn cho hợp lý. Đây là nội dung quản lý xuyên
suốt một năm kế hoạch, do trên thực tế các dự án đầu tư có thể gặp phải
vướng mắc phát sinh nên không thực hiện được theo như kế hoạch đầu năm
đã đề ra, khi đó các Bộ, ngành phải kịp thời có giải pháp điều chuyển vốn từ
các dự án khó có khả năng thực hiện, để bổ sung vốn cho những dự án giải
ngân tốt, đang cần vốn để thực hiện, nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn

NSNN cấp, tránh được thất thoát, lãng phí và tồn đọng vốn.
Bên cạnh việc lập, quản lý kế hoạch đầu tư, các Bộ, ngành còn có nhiệm
vụ báo cáo việc thực hiện kế hoạch đầu tư XDCB hàng năm của các dự án
đầu tư bằng vốn ngân sách tập trung và các nguồn vốn khác lên Nhà nước (Bộ
14
Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính…). Việc báo cáo thực hiện hàng quý đã
kịp thời nêu lên những khó khăn, vướng mắc có thể có (về chế độ, về thủ tục
đầu tư, về thủ tục thanh toán…) mà đơn vị gặp phải, để Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Bộ Tài chính có giải pháp tháo gỡ, giúp cho các Bộ, ngành thực hiện tốt
được nhiệm vụ quản lý.
2.3.2. Thẩm định các dự án đầu tư XDCB
Thực hiện thẩm định dự án đầu tư, các Bộ, ngành phải tổ chức, xem xét
đánh giá một cách khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản có
ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thực hiện và hiệu quả của dự án để từ đó ra
quyết định đầu tư, cho phép đầu tư và bố trí kế hoạch vốn cho dự án. Thẩm
định dự án tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả.
2.3.3. Quản lý công tác đấu thầu các dự án
Các Bộ, ngành quản lý công tác đấu thầu theo quy định tại Luật liên
quan đến công tác đầu tư XDCB của Quốc hội khóa XII số 38/2009/QH12 và
Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính phủ hướng dẫn thi
hành Luật Theo đó, các Bộ, ngành có trách nhiệm phê duyệt kế hoạch đấu
thầu xây dựng do đơn vị quản lý, có thể thực hiện hoặc phân cấp cho các đơn
vị cấp dưới quản lý hoạt động đấu thầu từ khảo sát, thiết kế, quản lý dự án,
kiểm định chất lượng công trình…, đến kiểm toán dự án hoàn thành, phê
duyệt và chịu trách nhiệm trước Bộ về kết quả lựa chọn của mình.
2.3.4. Thẩm định và phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành
Tất cả các dự án đầu tư sử dụng vốn Ngân sách nhà nước, sau khi hoàn
thành đều phải thực hiện quyết toán dự án hoàn thành theo các quy định hiện
hành. Các Bộ, ngành có trách nhiệm phải thẩm định và phê duyệt quyết toán
dự án hoàn thành các dự án đầu tư XDCB do Bộ quản lý thông qua công tác

quyết toán dự án hoàn thành nhằm đánh giá kết quả quá trình đầu tư, xác
định năng lực sản xuất, giá trị tài sản mới tăng thêm do đầu tư mang lại; xác
15
định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư, các nhà thầu; đồng thời qua đó rút kinh
nghiệm trong thực hiện dự án, nâng cao hiệu quả công tác quản lý vốn đầu
tư tại đơn vị.
2.3.5. Quản lý chất lượng công trình
Các Bộ, ngành phải có trách nhiệm quản lý chất lượng các công trình
đầu tư XDCB của Bộ, theo đó trực tiếp theo dõi, tổ chức kiểm tra, phát hiện
và xử lý các vi phạm về chất lượng công trình; kiểm tra chủ đầu tư và nhà
thầu xây lắp trong công tác đảm bảo về chất lượng công trình; kiểm tra công
tác nghiệm thu của chủ đầu tư, thực hiện báo cáo định kỳ 6 tháng về chất
lượng công trình xây dựng do Bộ quản lý gửi Bộ Xây dựng.
2.3.6. Giám sát đầu tư
Nhiệm vụ của giám sát đầu tư tại các Bộ, ngành là theo dõi kiểm tra
việc chuẩn bị và ra quyết định đầu tư theo quy định hiện hành, phù hợp với
quy hoạch và chiến lược phát triển của Nhà nước; theo dõi, kiểm tra việc thực
hiện các chương trình, dự án đầu tư theo quyết định đầu tư; phân tích, đánh
giá tình hình thực hiện các chương trình, dự án đầu tư trong từng thời kỳ, từng
giai đoạn; kiến nghị các cấp có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung, hoặc sửa đổi,
huỷ bỏ quyết định đầu tư đã được phê duyệt cho phù hợp với tình hình thực
tế, đảm bảo đầu tư có hiệu quả.
2.4. Các công cụ, phương pháp quản lý hoạt động đầu tư XDCB tại
các Bộ, ngành Trung ương
* Các công cụ quản lý hoạt động đầu tư XDCB:
Các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước bao gồm: các chính sách kinh tế;
Hệ thống các cơ quan QLNN về ĐT&XD; Quy chế quản lý ĐT&XD và các luật
khác liên quan; Chiến lược kế hoạch ĐT&XD; các quyết định hành chính.
Các Bộ, ngành Trưng ương thực hiện việc quản lý hoạt động đầu tư
XDCB của đơn vị theo đúng các quy định pháp luật hiện hành về đầu tư

XDCB, ngoài ra phải tuân thủ các chính sách điều hành hoạt động đầu tư
16
trong từng giai đoạn của nhà nước.
* Phương pháp quản lý:
Phương pháp quản lý được coi là nội dung cơ bản của quá trình quản lý,
nó là tổng thể các phương pháp tiến hành hoạt động quản lý dựa trên cơ sở sử
dụng những phương thức kỹ thuật, biện pháp hành chính, biện pháp kỹ thuật
và các biện pháp khác. Những phương pháp này được tác động có định hướng
với khách thể quản lý, đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Có nhiều phương pháp quản lý khác nhau, tuy nhiên trên thực tế quản lý đặc
biệt lưu ý hai phương pháp: phương pháp kinh tế và phương pháp hành chính.
- Phương pháp hành chính: Phương pháp tác động của cơ quan quản lý
lên đối tượng quản lý thông qua những quyết định trực tiếp mang tính pháp
lệnh cao như văn bản, chỉ thị.
Phương pháp này có ưu điểm giải quyết dứt khoát và trực tiếp tuy nhiên
nếu không xác định đầy đủ, chính xác quyền hạn và trách nhiệm môĩ thành
viên, mỗi cấp trong hệ thống quản lý sẽ dẫn đến quan liêu, duy ý chí.
Tại các Bộ, ngành Trung ương đều thực hiện việc quản lý đầu tư XDCB
dựa trên cơ sở các chế độ, chính sách và tuân thủ các quy định pháp luật hiện
hành. Các Bộ, ngành có thể căn cứ vào tình hình đặc điểm của đơn vị, để ban
hành quy chế quản lý riêng hướng dẫn chi tiết hơn về chính sách chế độ hiện
hành để áp dụng trong việc quản lý tại đơn vị.
- Phương pháp kinh tế: chủ thể tác động gián tiếp vào đối tượng quản lý
bằng các chính sách và đòn bẩy kinh tế, tạo ra cơ chế hướng dẫn đối tượng
quản lý hoạt động mà không có sự tham gia trực tiếp của phương pháp hành
chính và cơ quan hành chính.
Phương pháp này dựa vào lợi ích kinh tế của đối tượng tham gia đầu tư,
lấy kinh tế làm cơ sở và đòn bẩy kinh tế làm công cụ, kết hợp hài hoà lợi ích
nhà nước, xã hội với lợi ích tập thể, các nhân người lao động trong đầu tư.
17

Tại các Bộ, ngành vận dụng phương pháp kinh tế để thực hiện việc quản
lý như tập trung bố trí vốn đầu tư dứt điểm cho những dự án triển khai tốt, trừ
tiền tư vấn quản lý dự án đối với những đơn vị tư vấn không hoàn thành tốt
nhiệm vụ tư vấn quản lý dự án giúp chủ đầu tư.
Ngoài ra còn có những phương pháp như:
Phương pháp giáo dục, Phương pháp toán học …
Việc vận dụng tổng hợp các phương pháp quản lý trên đây cho phép
nâng cao hiệu qủa QLNN về ĐT&XD. Mỗi phương pháp có vai trò riêng, khi
áp dụng đúng và linh hoạt các phương pháp sẽ tạo ra những tác động tổng
hợplên hoạt động đầu tư, khắc phục được nhược điểm và bổ sung ưu điểm lẫn
nhau giữa các phương pháp. Mặt khác, con người - đối tượng của quản lý là
tổng hoà các mối quan hệ xã hội; hoạt động quản lý đầu tư, quản lý kinh tế
cũng là sự tổng hợp các quan hệ kinh tế - xã hội - chính trị - pháp luật … Vì
vậy, không thể áp dụng riêng lẻ, cứng nhắc một phương pháp riêng biệt nào,
mà phải biết vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp để tạo hiệu quả quản lý
cao nhất.
Tuy nhiên, phương pháp kinh tế trong quản lý được coi là phương pháp
quan trọng nhất, có hiệu quả cao, tạo tiền đề để áp dụng các phương pháp
còn lại.
2.5. Các tiêu chí đánh giá công tác quản lý đầu tư XDCB bằng nguồn vốn
ngân sách nhà nước
Để đánh giá công tác quản lý đầu tư XDCB người ta có thể xét đến tính
khả thi, tính hiệu lực của các văn bản pháp quy ban hành; trình độ thực hiện
QLNN của cán bộ quản lý, chất lượng của bản mô tả dự án đầu tư; khả năng
phục vụ, tính phù hợp của công trình với nhu cầu của cá nhân, đơn vị, và xã
hội. Tuy nhiên, đây là những kết quả khó lập thành công thức, đòi hỏi thời
gian để kiểm chứng và nhận xét trên cơ sở thực tế khách quan.
18
Do vậy, để lượng hóa việc đánh giá công tác quản lý hoạt động đầu tư
xây dựng cơ bản có hiệu quả hay không, phải căn cứ trên những số liệu đánh

giá kết quả thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Dự án đầu tư có
chất lượng tốt không thể là kết quả của việc quản lý hoạt động đầu tư không
tốt, và ngược lại chất lượng dự án thấp không thể là kết quản của quản lý tốt.
Vì vậy, có thể thông qua chất lượng dự án đầu tư để đánh giá công tác quản
lý đầu tư XDCB.
Do dự án đầu tư nói chung và dự án đầu tư XDCB sử dụng nguồn vốn
NSNN nói riêng phải trải qua nhiều giai đoạn đầu tư khác nhau, trong mỗi
giai đoạn lại có nhiều công việc, nhóm công việc khác nhau, do vậy để đánh
giá tổng hợp chất lượng dự án phải là kết quả tổng hợp của từng công việc
trong dự án so với dự kiến hoặc so với các quy định của pháp luật.
Đối với hoạt động đầu tư XDCB của các Bộ, ngành, để đánh giá hoạt
động quản lý đầu tư dựa trên các chỉ tiêu đánh giá kết quả thực hiện đầu tư
XDCB như sau:
* Chỉ tiêu: Tỷ lệ số vốn đã giải ngân/ Tổng số kế hoạch vốn được giao
Được tính bằng số vốn đã giải ngân hàng năm chia cho tổng kế hoạch vốn
năm. Trong đó, số vốn đã giải ngân là tổng số vốn thực tế Bộ Tư pháp đã rút ra
khỏi ngân sách nhà nước (bao gồm cả vốn đã thanh toán vào khối lượng hoàn
thành, và phần vốn tạm ứng theo chế độ còn chưa có khối lượng thực hiện)
* Chỉ tiêu: Tỷ lệ thanh toán khối lượng hoàn thành (KLHT)/Tổng số vốn
đã thanh toán
Được tính bằng số vốn đã thanh toán KLHT/Tổng số vốn đã thanh toán.
Do hiện nay theo quy định trong việc giải ngân kế hoạch vốn, nhà thầu có thể
ký hợp đồng với chủ đầu tư, và ra thanh toán tạm ứng theo hợp đồng với kho
bạc để có vốn thực hiện dự án. Nhà thầu sau khi tạm ứng vốn, sẽ hoàn lại
bằng khối lượng hoàn thành. Nhà thầu thực hiện càng tốt thì tỷ lệ số vốn đã
19
thanh toán KLHT/Tổng số vốn đã thanh toán càng cao, vốn ngân sách ít bị
nhà thầu chiếm dụng. Tỷ lệ này thấp phản ánh việc nhà thầu thực hiện xây
dựng kém hiệu quả, tạm ứng vốn về không thực hiện, hoặc chiếm dụng vốn
để đầu tư xây dựng công trình khác của nhà thầu.

* Chỉ tiêu: Tỷ lệ kế hoạch vốn bố trí cho các dự án đã hoàn thành từ các
năm trước: Là số vốn Bộ Tư pháp hàng năm phải bố trí cho các dự án đã hoàn
thành từ các năm trước nhưng chưa được bố trí đủ tổng mức đầu tư dự án, vẫn
còn nợ các nhà thầu. Chỉ tiêu này phản ánh việc lập kế hoạch vốn hàng năm có
sát với tình hình thực tế hay không: việc lập kế hoạch tốt sẽ không gây ra tình
trạng kế hoạch vốn được cấp năm sau phải dành để bố trí lại các dự án đã hoàn
thành từ năm trước, điều này cho thấy việc đầu tư và bố trí vốn trong năm còn
chưa tập trung cho các dự án có khả năng hoàn thành ngay trong năm.
2.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý đầu tư XDCB tại các
Bộ, ngành Trung ương
2.6.1. Nhóm nhân tố bên ngoài
a) Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng
Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng là các quy định của Nhà nước thông
qua các cơ quan có thẩm quyền về các nội dung quản lý làm chế tài để quản
lý hoạt động đầu tư và xây dựng. Nếu cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng
mang tính đồng bộ cao sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy nhanh hoạt động đầu
tư xây dựng, tiết kiệm trong việc quản lý vốn đầu tư cho XDCB, ngược lại
nếu chủ trương đầu tư thường xuyên bị thay đổi sẽ gây ra những lãng phí to
lớn đối với nguồn vốn đầu tư cho XDCB.
Mặc dù Chính phủ và các Bộ, ngành đã có nhiều cố gắng nghiên cứu
sửa đổi bổ sung các cơ chế chính sách cho phù hợp hơn trong điều kiện nền
kinh tế thị trường song cơ chế, chính sách quản lý kinh tế nói chung, quản lý
đầu tư và xây dựng nói riêng vẫn chưa theo kịp thực tế cuộc sống. Việc điều
20

×