Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

du lịch các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện phú vang- tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 66 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LỊCH SỬ
000
LÊ THỊ THẢO
DU LỊCH CÁC LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG
TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ VANG,
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
NGÀNH: VĂN HÓA DU LỊCH
KHÓA 34 (2010 – 2014)
HUẾ, 05/2014
Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành tốt bài báo cáo này, trước
tiên em xin được gởi lời cảm ơn sâu sắc đến
Thạc sĩ Trần Mai Phượng - Giáo viên hướng dẫn
đề tài báo cáo. Cảm ơn cô đã tận tình hướng
dẫn em trong suốt quá trình thực hiện bài báo
cáo này.
Tiếp đến, em xin chân thành cảm ơn quý
thầy cô trong khoa Lịch Sử trường Đại Học
Khoa Học Huế đã tận tình giảng dạy bổ sung
kiến thức cho em trong suốt bốn năm ngồi trên
ghế nhà trường.
Xin chân thành cảm ơn các cơ quan, các
trung tâm du lịch, sở Văn Hóa - Thể Thao - Du
lịch tỉnh Thừa Thiên Huế, phòng Văn Hóa
Thông Tin huyện Phú Vang, phòng Công
Thương - Ủy Ban Nhân Dân huyện Phú Vang đã
cung cấp cho em những tài liệu quý giá để
hoàn thiện bài viết của mình.


Tuy đã cố gắng rất nhiều nhưng bài viết
cũng còn nhiều hạn chế thiếu sót. Em rất mong
nhận được sự thông cảm và góp ý của quý thầy
cô và các bạn khi đọc bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn.

MỤC LỤC
[
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Đóng góp của đề tài 5
6. Bố cục đề tài 5
NỘI DUNG 6
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HUYỆN PHÚ VANG TỈNH THỪA THIÊN
HUẾ 6
1.1. Vài nét về huyện Phú Vang 6
1.1.1. Điều kiện tự nhiên 6
1.1.2. Điều kiện nhân văn 8
1.1.3. Các nguồn tài nguyên du lịch 10
1.2. Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài 12
1.2.1.Khái niệm du lịch 12
1.2.2. Khái niệm khách du lịch 14
1.2.3. Khái niệm về tài nguyên du lịch 14
1.2.4. Khái niệm về làng nghề truyền thống 15
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG 17
TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ VANG: ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG DU LỊCH. .17
2.1. Vai trò của làng nghề đối với hoạt động du lịch Phú Vang 17

2.2. Một số làng nghề tiêu biểu 19
2.2.1. Làng hoa giấy Thanh Tiên xã Phú Mậu 19
2.1.2. Tranh ảnh Làng Sình 21
2.1.3. Làng nghề chằm nón lá Mỹ Lam xã Phú Mỹ 26
2.3. Đánh giá chung 30
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC CÁC LÀNG NGHỀ
THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG PHỤC VỤ DU LỊCH HIỆN NAY TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN PHÚ VANG 33
3.1. Thực trạng phát triển các làng nghề truyền thống hiện nay 33
3.1.1. Tình hình phát triển các làng nghề truyền thống trong những năm qua 33
3.1.2. Thực trạng khai thác tour - tuyến làng nghề phục vụ du lịch 35
3.1.3. Đánh giá chung về thực trạng 36
3.2. Định hướng và giải pháp cho phát triển du lịch các làng nghề thủ công truyền thống
ở huyện Phú Vang 41
3.2.1. Định hướng phát triển du lịch các làng nghề thủ công truyền thống 41
3.2.2. Các giải pháp bảo tồn và phát triển 45
C. KẾT LUẬN 53
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 54
E.PHỤ LỤC ẢNH 56
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, khi đời sống vật chất của con người ngày càng được nâng
cao thì nhu cầu thoả mãn đời sống tinh thần của con người cũng trở nên quan
trọng. Vì vậy, du lịch trở thành một ngành kinh tế quan trọng của nhiều quốc
gia trên thế giới và theo nhận định thì ngành du lịch hiện nay chỉ đứng sau
ngành công nghiệp ô tô,công nghiệp dầu khí.
Những năm gần đây, hoạt động du lịch trên thế giới đang có sự thay đổi
khi số lượng khách du lịch ngày càng quan tâm nhiều hơn tới các loại hình du
lịch bền vững như: du lịch sinh thái, du lịch văn hoá. Trong đó du lịch văn
hoá được quan tâm nhiều nhất. Du khách muốn khám phá, tìm hiểu những giá

trị truyền thống của dân tộc mình cũng như của các dân tộc trên thế giới.
Việt Nam là một nước có ngành du lịch đang phát triển nhưng là nước có
nguồn tài nguyên du lịch hết sức phong phú. Ngoài những thế mạnh về cảnh
quan tự nhiên, những nét văn hoá truyền thống đặc sắc của dân tộc thì làng
nghề truyền thống cũng là một trong những thế mạnh cho Việt Nam phát triển
du lịch. Đến với làng nghề, du khách được chứng kiến tận mắt những công
đoạn tạo ra một sản phẩm thủ công mỹ nghệ qua bàn tay khéo léo của người
nghệ nhân dân gian để họ hiểu hơn về quá trình tạo ra sản phẩm, để được nghe
kể về lịch sử làng nghề, để từ đó trân trọng hơn những giá trị truyền thống của
dân tộc, góp phần trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị đó.
Các làng nghề truyền thống với các sản phẩm độc đáo thiết thực luôn
đem lại lợi ích kinh tế cho người lao động. Sản phẩm làng nghề không chỉ
phục vụ đắc lực cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân mà giờ đây
chúng đã trở thành những sản phẩm có giá trị xuất khẩu, mang lại thu nhập
cao hơn cho người lao động, mang lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hiện
nay, công việc khôi phục và bảo vệ các làng nghề là rất quan trọng. Đó không
1
phải là công việc riêng của từng cá nhân của từng làng nghề mà là công việc
chung của các cấp, các ngành có liên quan vì thực trạng làng nghề Việt Nam
nói chung đang gặp nhiều khó khăn, cần có sự quan tâm giúp đỡ để giữ gìn,
phát huy một nét đẹp văn hoá trong kho tàng văn hoá truyền thống của dân tộc.
Việt Nam có rất nhiều làng nghề truyền thống,những địa phương có
nhiều làng nghề truyền thống phải kể đến Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Ninh
Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Đã nẵng… trong đó các làng
nghề ở Thừa Thiên - Huế đã trải qua nhiều bước thăng trầm, gắn liền với
những biến động của lịch sử. Một số làng nghề và ngành nghề truyền thống
đã được bảo tồn, các làng nghề thủ công truyền thống đã lưu giữ lại những
bản sắc, dấu ấn của vùng văn hóa Huế, thể hiện sự khéo léo, tài hoa và óc
sáng tạo của những cư dân vùng đất giàu văn hóa.
Đặc biệt, với vị thế là một trong những trung tâm du lịch quan trọng

của quốc gia, là thành phố Festival của cả nước, sản phẩm thủ công nghiệp
truyền thống Huế có một vị trí quan trọng để tạo nên tính hấp dẫn và ấn tượng
đối với khách du lịch đến Huế. Những sản phẩm thủ công truyền thống Huế
thường tinh xảo, đẹp mắt và mang đậm tính thương hiệu Huế. Và các làng
nghề thủ công truyền thống ở Phú Vang là một trong những làng nghề mang
lại nhiều giá trị quan trọng trong quá trình phát triển du lịch đối với Huế nói
chung và Phú Vang nói riêng. Điển hình là làng nghề hoa giấy Thanh Tiên,
Tranh Làng Sình, làng chằm nón lá Mỹ Lam, mộc mỹ nghệ Phú
Thượng Trong tình hình hiện nay vị trí của nhiều mặt hàng thủ công đã có
sự hồi sinh và cải biến rất hợp lí nhưng cũng có những mặt hàng thủ công dần
dần bị mai một.
Tuy có lịch sử phát triển lâu đời cùng với lợi ích mà nghề sẽ đem lại
kinh tế cho cá nhân, cho địa phương và cho đất nước nhưng các làng nghề vẫn
chưa được quan tâm đúng mức để phát triển và phục vụ cho hoạt động du lịch
của tỉnh.
2
Việc khôi phục và phát triển các làng nghề sẽ tạo công ăn việc làm cho
người dân địa phương, giải quyết khó khăn cho địa phương trong việc giảm
thiểu thất nghiệp, giảm thiểu tệ nạn xã hội. Phát triển du lịch làng nghề là một
loại hình du lịch phát triển bền vững thúc đẩy làng nghề phát triển, góp phần
bảo lưu những giá trị văn hoá vốn có của làng nghề truyền thống. Trong
những năm gần đây, sở Văn Hoá - Thể Thao - Du Lịch Huế và phòng Văn
Hóa Thông Tin huyện Phú Vang đă quan tâm tới sự phát triển của các làng
nghề, phục vụ cho hoạt động du lịch của tỉnh: nghiên cứu, xây dựng các tour,
các tuyến du lịch đưa du khách về với làng nghề. Đây là bước mở đầu có ý
nghĩa đối với các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Phú Vang.
Với hy vọng các làng nghề truyền thống không bị mai một và phát
triển, vừa là ngành kinh tế quan trọng của dân địa phương, vừa là sản phẩm
du lịch độc đáo của ngành du lịch Huế chúng tôi đã chọn đề tài báo cáo tôt
nghiệp của mình là "Du lịch các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Phú

Vang- tỉnh Thừa Thiên Huế".Với đề tài này tôi hy vọng các làng nghề truyền
thống ở Phú vang sẽ được mọi người sẽ biết đến nhiều hơn nữa, các cấp chính
quyền có sự quan tâm hơn nữa để các làng nghề phát triển hơn nữa hòa nhịp
với tốc độ phát triển chung của du lịch Huế.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu chung về làng nghề thủ công truyền thống đã có nhiều tác
giả quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến một số bài viết như: " Bảo tồn giá trị
nghề thủ công truyền thống" của tác giả Đặng Văn Bài, "Nghề thủ công cổ
truyền của dân tộc Việt Nam" của tác giả Lâm Bá Nam, "Tổng tập nghề và
làng nghề truyền thống Việt Nam" của PGS.TS.Trương Minh Hằng
Nghiên cứu chung về du lịch làng nghề có các bài viết như: "Khôi phục
những làng nghề thủ công truyền thống Huế phục vụ du lịch" của tác giả
Domonique Bouchart. Tiếp đến là luận văn: "Nghiên cứu phát triển du lịch Làng
Gốm Phù Lãng ở Bắc Ninh" ( Vũ Thị Thúy, khoa du lịch,DHKHXH & NV).
3
Nghiên cứu về du lịch các làng nghề thủ công truyền thống ở tỉnh Thừa
Thiên Huế có các bài viết được quan tâm như: "Nghề và làng nghề thủ công
truyền thống ở Thừa Thiên - Huế" của tác giả Huỳnh Đình Kết, "Huế - Nghề
và làng nghề thủ công truyền thống" của tác giả Bùi Hữu Thông, "Tranh thờ
dân gian làng Sình quá khứ và hiện tại nhu cầu" tác giả Tôn Thất Bình trong
Tạp chí Huế xưa và nay, số 06/1994
Nhưng nhìn chung những bài viết và các công trình trên chỉ tập trung
nghiên cứu về khảo cổ và văn hóa làng nghề. Riêng lĩnh vực nghiên cứu: Du
lịch các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Phú Vang - tỉnh Thừa Thiên
Huế, gần đây mới được các cơ quan, trung tâm quan tâm nghiên cứu như: "Đề
án phát triển ngành nghề thủ công truyền thống huyện Phú Vang giai đoạn
2006 - 2010" của UBND huyện Phú Vang, "Khôi phục làng nghề thủ công
truyền thống" của phòng Công Thương - huyện Phú Vang
Những công trình này mới chỉ khái quát được tiềm năng, thực trạng và
đưa ra một vài giải pháp phát triển du lịch của huyện Phú Vang nói riêng và

tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung. Báo cáo này được thực hiện sẽ đưa ra những
định hướng giải pháp phát triển du lịch làng nghề thủ công truyền thống ở
huyện Phú Vang một cách thiết thực và hiệu quả, đồng thời xây dựng những
tour du lịch chuyên đề có mặt ở huyện Phú Vang. Đó chính là nội dung mà
những công trình khoa học đi trước chưa đi sâu nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
+Đối tượng nghiên cứu: du lịch các làng nghề thủ công truyền thống ở
huyện Phú Vang-Thừa Thiên Huế.
+Phạm vi nghiên cứu: các làng nghề thủ công truyền thống trên địa bàn
huyện Phú Vang,tỉnh Thừa Thiên Huế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình làm báo cáo, các phương pháp nghiên cứu đã được sử
dụng:
4
Phương pháp khảo sát thực địa và thu thập tài liệu.
Phương pháp thống kê, phân tích.
Phương pháp phỏng vấn trực tiếp.
5. Đóng góp của đề tài
Báo cáo đi sâu tìm hiểu giá trị của làng nghề truyền thống góp phần
thúc đẩy sự phát triển du lịch của Phú Vang bằng cách tạo ra sản phẩm du lịch
mới cho du lịch trên địa bàn huyện đó là sản phẩm du lịch làng nghề thủ công
truyền thống.
Bằng hệ thống hóa các cơ sở lý luận về làng nghề thủ công truyền
thống phục vụ du lịch. Nghiên cứu thực trạng các làng nghề thủ công truyền
thống ở huyện Phú Vang - tỉnh Thừa Thiên Huế từ đó đưa ra các định hướng
và giải pháp khôi phục và phát triển các làng nghề phục vụ du lịch trên địa
bàn huyện Phú Vang nói riêng tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung.
Với đề tài này tôi hy vọng các làng nghề truyền thống ở Phú vang sẽ
được mọi người sẽ biết đến nhiều hơn nữa, các cấp chính quyền có sự quan
tâm hơn nữa để các làng nghề phát triển hơn nữa hòa nhịp với tốc độ phát

triển chung của du lịch Huế.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung bài báo cáo gồm có ba chương
+ Chương 1: Giới thiệu chung về huyện Phú Vang-tỉnh Thừa Thiên
Huế
+ Chương 2: Một số làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Phú Vang:
Đánh giá tiềm năng du lịch
+ Chương 3: Thực trạng và giải pháp khai thác các làng nghề thủ công
truyền thống phục vụ du lịch hiện nay trên địa bàn huyện Phú Vang
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HUYỆN PHÚ VANG
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
1.1. Vài nét về huyện Phú Vang
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
a.Vị trí địa - Đặc điểm địa hình:
Phú vang là huyện vùng đầm phá ven biển, địa hình bị chia cắt bởi
nhiều sông đầm, gò cát. Phia bắc giáp biển Đông, phía Tây giáp huyện Hương
Trà và thành phố Huế, phía Nam giáp huyện Hương Thủy và phía Đông giáp
huyện Phú Lộc.
Toàn huyện có diện tích đất tự nhiên 28,031ha, chiếm 5,6% diện tích
đất tự nhiên cả Tỉnh.[16,tr 2] Phú Vang thuộc vùng địa đình đất trũng, diện
tích đầm phá lớn, đất đai bị chia cắt mạnh bởi hệ thống sông ngòi, doi cát.
Đất đai thổ nhưỡng Phú Vang đa dạng, mặt nước chưa sử dụng còn nhiều.
Với chiều dài 45km bờ biển và Cảng biển Thuận An; 8,626ha diện tích
mặt nước đầm phá nước sẽ rất thuận lợi cho việc phát triển tiềm năng du lịch
sinh thái biển và đầm phá trên địa bàn toàn Huyện [16; tr. 2].
b.Đặc điểm khí hậu và thời tiết:
Phú Vang nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nóng ẩm của vùng ven biển,
có hai mùa mưa nắng rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 8 năm trước đến tháng giêng

năm sau; Lượng mưa hàng năm khá lớn, trung bình khoảng 3000mm. Mưa
phân bố không đồng đều trong năm, tập trung chủ yếu vào các tháng 9, 10, 11
và 12 chiếm 75-80% lượng mưa cả năm gây úng lụt.
Mùa nắng gió Tây Nam khô nóng oi bức, bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8,
lượng bốc hơi cao nhất từ tháng 2 đến tháng 4( đúng lúc nước thủy triều thấp).
6
Nhiệt độ không khí trung bình năm tương đối cao, dao động từ 24,9
o
C
đến 26,4
o
C, ít thay đổi theo mùa. Thủy triều có hai chế độ, từ bán nhật triều
đều đến bán nhật triều không đều, biên độ thủy triều dưới 0,5m-2m. Tại
Thuận An có độ cao thủy Triều trung bình khoảng 0,4m-0,5m. Vùng Bắc và
Nam Thuận An có độ cao thủy triều trung bình 0,6m-1,2m. Độ cao thủy triều
trong các đầm, phá vũng, vịnh thường nhỏ hơn các vùng biển [16; tr.3].
Là huyện ven biển, đầm phá nên Phú Vang còn có đặc thù của hệ sinh
thái ven bờ, hàng năm có mưa to, gió bão nên cần chú ý khai thác Du lịch ở
mùa nắng khô.
c.Đặc điểm thủy văn:
Trong phạm vi huyện Phú Vang, hệ thống sông ngòi trải dài và ôm kín
khắp địa bàn của Huyện, bắt nguồn từ sông Hương, sông Như ý, sông Phổ Lợi
chảy qua các xã Phú Thượng, Phú Dương, Phú Mậu, Phú Thanh và Thị trấn
Thuận An đỗ ra biển. Sông An Cựu, Lợi Nông, Thiệu Hóa và sông Đại Giang
chảy qua các xã Phú Mỹ, Phú Hồ, Phú Lương, Phú Đa, Vinh Thái, Vinh Hà,
xuôi về đầm Cầu Hai trước khi tưới mát cho các đồng ruộng của các xã.
Ngoài hệ thống sông ngòi, Phú Vang còn có nhiều đầm phá nước lợ
như: Đầm Hà Trung, đầm Thủy Tú, đầm Sam, đầm Chuồng và một phần phía
Bắc đầm Cầu Hai nối liền nhau thông qua Phá Tam Giang rộng lớn.
d.Tài nguyên khoáng sản:

Phú Vang tài nguyên khoáng sản không nhiều, một số loại điển hình
như Titan ở xã Phú Diên, có chất lượng tốt đang được khai thác, xong quy mô
không được lớn.
Ngoài ra, ở xã Phú Đa – Phú Thứ, huyện Phú Vang còn có cát trắng và
đặc biệt là nguồn tài nguyên nước khoáng nóng Mỹ An là nguồn tiềm năng
cho việc phát triển dịch vụ du lịch nghỉ dưỡng và chữa bệnh.
7
e.Điều kiện môi trường sinh thái:
Huyện Phú Vang là huyện giáp biển, có diện tích đầm phá lớn, mức độ
khai thác và quy mô sản xuất còn nhỏ, chủ yếu là sản xuất lúa, hoa màu, đánh
bắt, nuôi trồng thủy hải sản; Việc khai thác các ngành công nghiệp khác còn
rất hạn chế nên môi trường tự nhiên của Phú Vang rất trong sạch, ô nhiễm
không khí ít, môi trường sống còn rất trong lành, phù hợp cho việc khai thác
tiềm năng phát triển du lịch tự nhiên, đặc biệt là loại hình du lịch nghỉ dưỡng,
du lich sinh thái biển và đầm phá.
Tuy vậy, Phú Vang cũng là một vùng đất hội tụ nhiều điều kiện bất lợi
như bão lụt, hậu quả của chiến tranh tàn phá, là điểm cuối của các con sông
đổ về nên môi trường có phần bị ảnh hưởng xấu. Chính vì vậy, vấn đề khai
thác tiềm năng du lịch biển và đầm phá cần phải được quy hoạch để bảo vệ
môi trường và môi sinh.
*Đánh giá chung về tài nguyên tự nhiên:
Phú Vang là mảnh đất còn hoang sơ: các bãi biển và đầm phá còn nhiều
tiềm năng chưa được khai thác, đây là một hạn chế, song dưới góc độ môi
trường du lịch thì đây lại là một lợi thế vì tất cả tài nguyên thiên nhiên còn ở
dạng nguyên sơ. Tài nguyên thiên nhiên của Phú Vang tuy không đặc sắc
nhưng khá dầy đặc và nói chung tương đối dễ tiếp cận, dễ khai thác cho tuyến
du lịch Huế và vùng phụ cận.
1.1.2. Điều kiện nhân văn
Để đánh giá nguồn tài nguyên du lịch nhân văn của Phú Vang, cần xem
xét một số vấn đề sau:

a.Dân số và nguồn nhân lực:
Dân số trung bình toàn huyện năm 2006 là 186.000 người ( chiếm
khoảng 16,6% dân số toàn tỉnh ). Tỷ lệ tăng dân số bình quân là 1,3%. Dân số
thành thị chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 11,2% dân số toàn huyện. Mật độ dân số
8
trung bình là 650 người/km
2

, nhưng phân bố không đồng đều giữa các xã, dân
cư tập trung đông nhất là ở thị trấn Thuận An, Xã Phú Thượng, Phú Mỹ, Phú
Diên, Phú Đa; thấp nhất là ở Vinh Phú, Vinh Thái, Phú Lương, Phú Hồ và
Phú Thanh.
Năm 2006, nguồn lao động của huyện có khoảng người chiếm
khoảng % dân số. Trong đó lao động chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực
nông, lâm nghiệp chiếm khoảng %, dịch vụ chiếm khoảng % còn lại là
hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng [16; tr. 20].
Nhìn chung, huyện có nguồn nhân lực dồi dào, tuy nhiên trình độ
chuyên môn kỹ thuật, tay nghề cao còn hạn chế. Trình độ dân trí còn thấp, số
lượng lao động được đào tạo ngành nghề chính qui còn it. Nhưng hạn chế trên
đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của toàn huyện trong đó có
phát triển du lịch.
b.Đặc điểm kinh tế xã hội:
Trong báo cáo rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế dự thảo lần 3 vào tháng 3-2001;
phương hướng phát triển ngành Dịch vụ Du lịch là phát triển bền vững ngành
Du lịch nhằm đạt được các mục tiêu cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi
trường, đưa du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Tỉnh.
Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, xây dựng chiến
lược phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch theo nhu cầu thị trường
vùng đầm phá định hướng 2001-2010 phát huy mọi tiềm lực và lợi thế, tập

trung xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội vùng biển và đầm phá trở thành
vùng phát triển năng động toàn diện bao gồm thủy sản, du lịch, nông lâm
công nghiệp chế biến.
Mặc dù còn có nhiều khó khăn về vốn đầu tư, song sau khi Quy hoạch
Tổng thể phát triển Kinh tế - Xã hội Huyện Phú Vang thời kỳ 2001 – 2010
được phê duyệt, huyện Phú Vang dần dần có được những thành tựu quan
9
trọng trong phát triển kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng kỹ thuật không ngừng được
củng cố, đời sống xã hội được nâng cao là cơ hội để nhân dân tham gia du
lịch, trực tiếp đầu tư phát triển du lịch.
Nền kinh tế của huyện đã phát triển với tốc độ khá cao, bình quân giai
đoạn 2000 – 2005 đạt 11,7%, cao hơn mức tăng 4,5% của 5 năm trước. Trong
đó, khu vực công nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp– Xây dựng đạt 14,4% năm;
Các ngành Dịch vụ đạt 9,5%/năm và khu vực Nông – Lâm – Ngư nghiệp đạt
12,2%/năm.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tỷ trọng khu vực công nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp - xây dựng trong GDP
tăng từ 16,77% ( năm 2000 ) lên 23,8% ( năm 2005 ); Các ngành Dịch vụ duy
trì mức đóng góp 25,2% ( trong đó, du lịch đóng góp 6% ); Khu vực Nông -
Lâm – Ngư nghiệp giảm tương ứng 56% xuống còn 51% nhưng tổng số sản
phẩm vẫn tăng cao.
Cơ cấu ngành nghề trong nông thôn có những thay đổi cơ bản, phát
triển đa dạng, sản phẩm nông nghiệp đang có bước phát triển theo hướng sản
xuất hàng hóa, số hộ thuần nông giảm từ 63,8% ( năm 2000 ) xuống còn
59,1% ( năm 2005 ); Hộ Thương nghiệp – Dịch vụ tăng từ 8,95% lên 15,1%.
Đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, ưu tiên đầu tư cho giao thông,
thủy lợi, điện, nước sinh hoạt, trường học, bệnh viện quá trình đô thị hóa
diễn ra nhanh ở Phú Thượng, thị trấn Thuận An, Phú Đa đáp ứng ngay
càng tốt hơn nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống cho nhân dân [16].
1.1.3. Các nguồn tài nguyên du lịch

* Tài nguyên du lịch tự nhiên
- Khu nước khoáng chữa bệnh Mỹ An:
Mạch suối khoáng Mỹ An nằm cách thành phố Huế 6km về phía Đông,
tại Làng Mỹ An, thuộc xã Phú Tân, huyện Phú Vang. Suối nằm ngay cạnh
đường Quốc lộ, trong một vùng đất khá bằng phẳng và rộng. Đặc điểm địa
10
chất của khu vực và tính chất lý hóa của nước khoáng ở đây có công dụng
chữa các bệnh về khớp, cột sống, viêm dây thần kinh Nước khoáng Mỹ An
được xác định đạt tiêu chuẩn quy định quốc tế về chữa bệnh.
Con suối này đã có từ rất lâu, hiện nay đang được Công ty Du lịch
Hương Giang khai thác cho người dân để tắm và chữa bệnh rất hiệu quả.
- Bãi biển Thuận An thuộc thị trấn Thuận An là nơi nghỉ mát lý tưởng
cho các du khách trong và ngoài nước. Ngoài ra, còn có các bãi tắm thuộc xã
Phú Thuận và Phú Diên đã và đang được khai thác có hiệu quả.
Bãi tắm Thuận An nằm cách thành phố Huế 13km. Đây là một nơi tắm
biển thú vị cho mọi du khách sau một ngà tham quan lăng tẩm, chùa chiền,
phong cảnh ở Huế. Từ trung tâm thành phố Huế khách chỉ mất 15 phút là đến
được bãi tắm Thuận An. Mùa hoạt động của bãi tắm từ tháng 4 đến tháng 8.
* Tài nguyên du lịch nhân văn:
- Khu Đình Làng Dương Nỗ: Khu này thuộc Làng Dương Nổ, Xã Phú
Dương, huyện Phú Vang.
Trong hệ thống di tích Đình Làng Dương Nổ có cụm di tích lưu niệm
Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Làng Dương Nổ, cụm di tích bao gồm Nhà lưu niệm.
Đình Làng, Bến Đá, Am Bà trong đó có 2 di tích được công nhận là di
tích quốc gia:
- Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh nơi người đã sống và học tập
những năm 1898 - 1990; Đình Làng Dương Nổ, ngoài ý nghĩa là nơi lưu niệm
dấu ấn danh nhân còn là công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo của thiết chế
làng xã Việt Nam.
Với vai trò vị trí đó, nhiều năm qua cụm di tích này đã được từng bước

quan tâm đầu tư và phát huy tác dụng. Hằng năm, cụm di tích này đã thu hút
hàng vạn lượt khách trong và ngoài nước, góp phần tích cực trong việc tuyên
truyền giáo dục tư tưởng, thân thế sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Nhà lưu niệm Nguyễn Chí Diễu thuộc Làng Thanh Tiên Xã Phú Mậu,
nơi đây lưu niệm những dấu tích của cụ Nguyễn Chí Diễu.
11
Trấn Hải Đài, nằm ở thị trấn Thuận An, là một di tích văn hóa lịch sử
trong thời gian khách chiến. Hiện nay, Trấn Hải Đài không được bảo vệ và
gìn giữ nên đã xuống cấp nhiều, cần được quan tâm tu bổ tôn tạo và bảo vệ.
Tháp Chàm ở xã Phú Diên.
- Căn cứ địa Cách mạng Thanh Lam Bồ, nằm ở xã Vinh Thái, là nơi
xảy ra những cuộc chiến ác liệt của quân dân ta trong thời kỳ kháng chiến
chống xâm lược.
- Căn cứ địa Cách mạng Phú Thứ, nằm ở xã Phú Đa, huyện Phú Vang,
nay quy hoạch là trung tâm huyện lỵ Phú Đa, là nơi xảy ra những cuộc chiến
ác liệt của quân dân ta trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược.
Làng chài Thuận An nằm thôn Hải Tiến; Làng chài Đồng Miệu ở xã
Phú An và Làng chài Phú Mỹ.
- Khu Đình Làng An Tuyền: Nằm trên đương Tỉnh lộ10A thuộc xã Phú
An, đây là Di tích Văn Hóa Lịch sử Quốc gia, nơi diễn ra Lễ hội Thu tế Làng
Chuồng hàng năm vaò ngày 15/8 âm lịch [16].
1.2. Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài
1.2.1.Khái niệm du lịch
Khái niệm du lịch:Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại du lịch đã được ghi
nhận là một sở thích, một hoạt động tích cực nghỉ ngơi của con người. Ngày
nay trên phạm vi toàn thế giới du lịch trở thành một nhu cầu không thể thiếu
được trong đời sống văn hóa – xã hội của nhiều nước, hoạt động du lịch đang
phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng ở
nhiều nước trên thế giới.
Ngày nay thuật ngữ "Du Lịch " đã trở nên rất thông dụng, nó được bắt

nguồn từ tiếng Hy Lạp , có nghĩa là đi một vòng, trong tiếng việt thuật ngữ
này được dịch thông qua tiếng Hán: "Du "có nghĩa là đi chơi," Lịch": có
nghĩa là từng trải. Tuy nhiên người Trung Quốc gọi du lịch là du lãm với
nghĩa là đi chơi để nâng cao nhận thức.Du lịch là một hoạt động kinh tế mang
12
tính xã hội cao thu hút hàng tỷ người trên thế gới, bản chất kinh tế của du lịch
là ở chỗ sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu vật
chất tinh thần cho khách. Bên cạnh đó du lịch còn góp phần vào việc chuyển
đổi cơ cấu các nghành kinh tế như: giao thông, công nghiệp, nông nghiệp, xây
dựng… theo hướng tăng tỷ trọng của khối dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân.
Hoạt động du lịch thường gắn liền với đi chơi, giải trí nhằm phục hồi nâng
cao sức khỏe và khả năng lao động của con người, nhưng các chuyến đi du
lịch không chỉ dừng lại ở việc nghỉ ngơi, giải trí mà còn thỏa mãn rất lớn nhu
cầu về tinh thần. Bởi mỗi vùng, mỗi quốc gia lại cho những đăc trưng riêng
về tự nhiên, lịch sử, văn hóa truyền thống, nhưng trước hết hoạt động du lịch
liên quan mật thiết đến việc di chuyển chỗ tạm thời của khách du lịch. Trong
lịch sử xã hội loài người có rất nhiều hoạt động, nhiều chuyến đi mà người ta
còn gọi là các hoạt động sơ khai như các cuộc hành hương tôn giáo,các cuộc
thám hiểmChritopher,Colombo,Termand Majillan…. Cho đến nay có rất
nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch, do hoàn cảnh ( thời gian, khu vực)
dưới góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người lại có cách hiểu khác nhau về
du lịch.
Năm 1963, tại hội nghị Liên Hiệp Quốc về du lịch ở RoMa các chuyên
gia đã đưa ra định nghĩa về du lịch:" Du lịch là tổng hợp các mối liên hệ hiện
tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú
của cá nhân hay tập thể bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước
họ với mục đích hòa bình. Nơi đến lưu trú không phải là nơi ở thường xuyên
của họ".
Theo quan điểm của tổ chức du lịch thế giới ( WTO – 1999):" Du lịch
là một tập hợp các hoạt động và các dịch vụ đa dạng liên quan đến việc di

chuyển tạm thời của con người ra khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ nhằm
mục đích tiêu khiển, nghỉ ngơi văn hóa, nghỉ dưỡng và nhìn chung là nhiều lý
13
do không phải kiếm sống".
Luật Du lịch của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành
ngày 01 tháng 01 năm 2006, tại chương 1, điều 10 định nghĩa:" Du lịch là
hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ nhằm đáp ứng
nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong thời gian nhất định ".
1.2.2. Khái niệm khách du lịch
Có nhiều khái niệm về khách du lịch. Tuy nhiên do hoàn cảnh thực tế
mỗi nước, theo quan điểm khác nhau của các tác giả nên các khái niệm đưa ra
không hoàn toàn như nhau. Nhưng hầu như tất cả các khái niệm, khách du
lịch đều được coi là người đi khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình.
Ở nước ta theo luật du lịch Việt Nam thì khách du lịch được định nghĩa
như sau: " Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ
trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập từ nơi đến".
Cũng theo luật du lịch Việt Nam 2006 về khách du lịch: Bao gồm khách du
lịch nội địa và khách du lịch quốc tế được hiểu như sau: " Khách du lịch nội
địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du
lịch trong lãnh thổ Việt Nam". " Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch, công dân Việt
Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt nam ra nước ngoài đi du lịch".
1.2.3. Khái niệm về tài nguyên du lịch
* Tài nguyên du lịch
Theo Luật Du lịch( 2006): " Tài nguyên du lịch là cảnh quan tự nhiên,
yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con
người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu
cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch,
tuyến du lịch, đô thị du lịch."
* Tài nguyên du lịch nhân văn

14
Theo luật du lịch Việt Nam, tại điều 13 đưa ra: “ Tài nguyên du lịch
nhân văn bao gồm truyền thống, các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di
tích lịch sử cách mạng, các công trình lao động nghệ thuật sáng tạo của con
người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể sử dụng phục vụ
cho mục đích du lịch”. Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm di sản văn hóa
vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Theo Luật di sản văn hóa Việt Nam có
hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2002 tại điều 4 giải thích từ ngữ: Di sản văn
hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm
di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật cổ vật, bảo vật quốc gia.
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa
khoa học được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền
miệng, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng
nói, chưc viết, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền
miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ
công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về trang phục truyền
thống dân tộc và những tri thức dân gian khác. Di tích lịch sử văn hóa là công
trình xây dựng, địa điểm có giá trị lịch sử,văn hóa khoa học.
* Tài nguyên du lịch tự nhiên
Theo Luật Du Lịch Việt Nam: “Tài nguyên du lịch tự nhiên là hiện
tượng trong môi trường tự nhiên được phục vụ cho mục đích du lịch”. Tài
nguyên du lịch tự nhiên bao gồm: Các thành phần tự nhiên: địa hình, khí hậu,
thủy văn, sinh vật… Các cảnh quan tự nhiên. Các di sản thiên nhiên thế giới
1.2.4. Khái niệm về làng nghề truyền thống
Theo tiến sỹ Phạm Côn Sơn trong cuốn“ Làng nghề truyền thống
ViệtNam” làng nghề được định nghĩa như sau" Làng là một đơn vị hành chính
cổ xưa mà cũng có nghĩa là một đơn vị quần cư đông người, sinh hoạt có tổ
chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là
một làng sống chuyên nghề mà cũng hàm ý là những người cùng nghề sống
hợp quần để phát triển công ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề

15
là sự vừa làm ăn tập thể vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và
cá biệt của địa phương".
Xem xét định nghĩa ở dưới góc độ kinh tế theo Dương Bá Phượng
trong: "Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa” thì " làng nghề là làng ở nông thôn có một hoặc một số nghề thủ
công tách ra khỏi thủ công nghiệp và kinh doanh độc lập". Thu nhập từ các
nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị của toàn làng” Làng nghề theo
cách phân loại về thời gian gồm có: Làng nghề truyền thống và làng nghề
mới.
Theo tiến sỹ Phạm Côn Sơn trong cuốn "Làng nghề truyền thống Việt
Nam" thì làng nghề được định nghĩa như sau: Làng nghề truyền thống là làng
nghề cổ truyền làm nghề thủ công truyền thống. Ở đây không nhất thiết dân
làng đều sản xuất thủ công. Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng là
nông dân. Nhưng yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ
chuyên sản xuất hàng truyền thống ngay tại làng quê của mình.
Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì “làng nghề là một làng tuy vẫn còn
trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ
khác như đan lát, gốm sứ, làm tương song đã nổi trội một nghề cổ truyền,
tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp,
có phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông cả cùng một số thợ và phó
nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư
nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và
sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ
nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là
vùng rộng xung quanh và với thị trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước
rồi có thể xuất khẩu ra cả nước ngoài”.
Báo cáo xin được đi sâu vào tìm hiểu các làng nghề truyền thống Phú
Vang - Thừa Thiên Huế.
16

CHƯƠNG 2: MỘT SỐ LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG
TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ VANG: ĐÁNH GIÁ TIỀM
NĂNG DU LỊCH
2.1. Vai trò của làng nghề đối với hoạt động du lịch Phú Vang
Giữa hoạt động du lịch và làng nghề có mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ
tác động qua lại lẫn nhau. Phát triển du lịch tại các làng nghề truyền thống là
một giải pháp hữu hiệu để phát triển kinh tế xã hội làng nghề truyền thống nói
chung theo hướng tích cực và bền vững. Ngược lại làng nghề truyền thống
cũng là trung tâm thu hút khách du lịch và có tác động mạnh mẽ trở lại khách
du lịch trong mục tiêu phát triển chung. Làng nghề truyền thống là một không
gian văn hóa – kinh tế - xã hội lâu đời, nó bảo lưu tinh hoa văn hóa từ đời này
sang đời khác đúc kết bởi nghệ nhân tài hoa. Môi trường văn hóa làng quê với
cây đa bến nước sân đình, các hoạt động lễ hội và phường hội, phong tục tập
quán nếp sống đậm nét văn hoá truyền thống. Tất cả những điều đó luôn luôn
gắn kết với sự hình thành và phát triển của làng nghề truyền thống. Và tạo ra
nét văn hóa rất riêng của mỗi làng nghề truyền thống. Phong cảnh làng nghề
cùng với những giá trị chứa đựng bên trong làng nghề truyền thống sẽ là điểm
du lịch lý tưởng cho du khách, đặc biệt là khách quốc tế đến tham quan, tìm
hiểu, mua sắm tại các làng nghề. Làng nghề truyền thống còn là nơi sản xuất
ra những hàng thủ công mỹ nghệ có giá trị nghệ thuật cao, tiêu biểu độc đáo
cho mỗi vùng miền, địa phương. Vì vậy du khách đến với các điểm du lịch
làng nghề truyền thống còn mong muốn chiêm ngưỡng, mua sắm các sản
phẩm thủ công làm vật kỷ niệm trong chuyến đi của mình. Thực tế nhu cầu
mua sắm của du khách là rất lớn, làng nghề truyền thống sẽ đảm bảo đáp ứng
đầy đủ nhu cầu tinh tế và đa dạng của du khách.Với sự đa dạng các làng nghề
đã góp phần quan trọng trong việc giữ gìn các giá trị truyền thống văn hóa,
17
đồng thời là cơ sở để phát triển ngành du lịch vốn thừa hưởng những thế
mạnh về văn hóa.Vùng đất Phú Vang như nhiều miền quê khác trong cả nước,
trải qua nhiều thế hệ dựng nước và giữ nước, thông qua quá trình lao động sản

xuất phục vụ cho đời sống hàng ngày của người dân, làm nảy sinh nhu cầu
tiêu dùng về các sản phẩm thủ công. Làng nghề ra đời nhằm đáp ứng những
nhu cầu trước đó của con người. Các sản phẩm thủ công truyền thống của mỗi
làng nghề luôn tạo ra sự hấp dẫn đối với du khách khi họ tới thăm mỗi làng
nghề truyền thống của Phú Vang. Đến với làng nghề, du khách có thể cảm
nhận một cách thực thụ về các sản phẩm truyền thống. Có thể tận mắt chứng
kiến quá trình tạo ra mỗi sản phẩm. Từ đó du khách sẽ tìm thấy cảm giác
thích thú, thích khám phá sự mới mẻ và có thể trực tiếp trải nghiệm, tham gia
vào hoạt động sản xuất cùng với mỗi người dân, người thợ thủ công. Và có
thể mua về những sản phẩm đặc trưng làm quà tặng cho mỗi người thân trong
gia đình. Chính vì vậy, du lịch thăm quan làng nghề truyền thống là một trong
những loại hình du lịch mới đang được đưa vào khai thác cho các tour du lịch.
Bởi vậy làng nghề truyền thống có một ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng
đối với hoạt động du lịch của Phú Vang. Du lịch làng nghề truyền thống đã
góp phần phát triển loại hình du lịch “Du khảo đồng quê”. Đây là một loại
hình du lịch có thể giúp cho du khách có được sự khám phá mới mẻ, sự trải
nghiệm và sự gần gũi với thiên nhiên hoang sơ. Đặc biệt trong loại hình du
lịch “ du khảo đồng quê” thì làng nghề truyền thống cũng góp phần quan
trọng trong việc giúp cho du khách trải nghiệm, tham gia vào hoạt động sản
xuất. Mỗi làng nghề truyền thống đều chứa đựng trong đó những yếu tố văn
hoá của mỗi làng nghề. Và chỉ khi tham gia vào những tour du lịch như vậy
thì du khách mới có thể cảm nhận được những yếu tố văn hoá của mỗi vùng
miền . Làng nghề truyền thống Phú Vang còn góp phần làm tăng doanh thu
không chỉ cho nhân dân mỗi làng nghề thông qua tiêu thụ sản phẩm mà nó
còn góp phần làm tăng doanh thu cho ngành du lịch Phú Vang khi mà khách
18
du lịch mua tour, tham gia vào hoạt động du lịch tại các làng nghề truyền
thống. Phát triển làng nghề truyền thống không chỉ mang lại lợi ích kinh tế
góp phần phát triển hoạt động du lịch mà còn là cơ hội để quảng bá hình ảnh
con người và đất nước Việt Nam trong đó có Phú Vang - Huế.

2.2. Một số làng nghề tiêu biểu
2.2.1. Làng hoa giấy Thanh Tiên xã Phú Mậu
a.Nguồn gốc và quá trình phát triển
Theo Gia phả họ Trần (Phụng tu ngày 4-5 năm Tự Đức 33), ngài khai
canh của làng là Võ Đình Tiên, từ Sơn Tây phò chúa Nguyễn đến đóng đô ở
Phú Xuân, đã có công khai canh 83 mẫu ruộng tại làng. Vì vậy làng vốn có
truyền thống làm nghề nông, tuy nhiên, vào tháng chạp, Thanh Tiên lại rộn rã
với nghề làm hoa giấy. Nghề hoa giấy Thanh Tiên có danh mục thống kê của
các nghề thủ công từ thế kỷ XVI-XIX của Đại Nam nhất thống chí.
Làng Thanh Tiên thuộc tổng Mậu Tài, huyện Phú Vang, phủ Triệu
Phong. Nay thuộc xã Phú Mậu, Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Làng Thanh
Tiên nằm vào một vị trí khá đặc biệt bên bờ nam hạ lưu sông Hương, phía bắc
giáp thôn Mậu Tài, nam giáp Thế Vinh, đông giáp Vọng Trì, đông tây giáp
sông Hương.
Nghề hoa giấy của Phú Mậu đã có khá lâu, xuất phát từ thôn Thanh
Tiên và Tiên Nộn sau đó lan rộng ra các vùng lân cận, tuy nhiên trước đây
người dân chỉ dùng các loại giấy ca rô để nhuộm màu, khác với hiện nay còn
dùng thêm một số giấy màu thủ công khác. So với các loại hoa mà người ta
dùng các nguyên liệu khác giấy bóng, nhựa thì nét đẹp của loại hoa này vẫn
trội hơn, đó là tính thủ công tạo cho loại hoa này mang vẻ đẹp tự nhiên.
Điểm thuận lợi khác của Phú Mậu là giáp ranh với thành phố Huế nên
sớm nhận được nhiều tác động tích cực về kinh tế, xã hội, khoa học - công
nghệ tạo cơ hội phát triển nhanh và toàn diện hơn. Hiện nay, Phú Mậu đã xây
dựng được kết cấu hạ tầng khá hợp lý giúp cho việc giao thương trong nội bộ xã
19
và với bên ngoài dễ dàng hơn. Nhu cầu phát triển các ngành sản xuất của Phú
Mậu còn lớn, là điều kiện tốt để thu hút nguồn vốn của các nhà đầu tư.
Nhân dân Phú Mậu nói riêng và huyện Phú Vang nói chung vốn có truyền
thống yêu nước và cách mạng, cần cù, hiếu học, yêu quê hương đất nước, yêu
lao động, luôn biết vươn lên làm giàu, không cam chịu đói nghèo. Nếu được đào

tạo, đây sẽ là một trong những yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế cũng
như sự khởi sắc trong lĩnh vực văn hóa - xã hội của xã Nhà.
b.Chức năng và ý nghĩa
Ngành nghề sản xuất hoa giấy ở làng Thanh Tiên là một trong những
nghề truyền thống lâu đời của địa phương chiếm một bộ phận lao động khá lớn.
Đây là một bộ phận lao động chiếm tỷ lệ khá lớn và tận dụng được lao động
nhàn rỗi, đã tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần
tăng thu nhập cho hộ gia đình.
Nghề sản xuất hoa giấy là một trong những nghề thủ công, dễ tiếp thu và
học tập nên nhiều người trong độ tuổi từ 10 đến 70 tuổi có thể tham gia làm được,
nhiều hộ có trên 05 lao động cùng sản xuất, với đặc điểm lấy công làm lãi, chí phí
sản xuất ít nên cũng mang lại thu nhập đáng kể cho người lao động, bình quân thu
nhập từ 300.000 đồng - 1.000.000 đồng/lao động/tháng [18]. Tuy nhiên thời gian
sản xuất chủ yếu trong khoảng 03 tháng giáp tết, hoa giấy truyền thống chỉ chủ
yếu phục vụ cho thờ cúng góp phần tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập cải thiện
đời sống góp phần xoá đói giảm nghèo, đồng thời khắc phục sự mai một của các
Làng nghề truyền thống, góp phần bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.
Sản phẩm hoa giấy thường được trang trí ở những nơi thờ tự trong nhà, các
miếu, trang bà, am, bàn thờ ông địa, táo quân, thần bếp Ưu điểm của hoa giấy
Thanh Tiên chính là sự phong phú về màu sắc và có nhiều loại hoa khác nhau trên
một cây bông, hình thức đẹp, để được lâu lại thể hiện sự trang nghiêm, một năm
chỉ thay một lần vào dịp tết nên nó dễ được chấp nhận và tồn tại dài lâu. Cũng
chính những đặc điểm đó mà thời gian sản xuất chính thức của nghề thủ công này
chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn vào cuối năm, chủ yếu vào tháng Chạp.
20

×