Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh bạc liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.28 MB, 102 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA THƯƠNG MẠI – DU LỊCH
Môn: Tuyên truyền và quảng bá du lịch
Đề tài
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Ân
MSSV: 08107921
Lớp : DHKD4
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Thầy Hồ Vĩnh Tường
Mục lục

LỜI MỞ ĐẦU 4
PHẦN MỞ ĐẦU: MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN 6
4. Tài nguyên du lịch 9
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ TỈNH BẠC LIÊU 11
1.1.Vị trí địa lý 11
1.2. Lịch sử hình thành 11
1.3. Xuất xứ tên gọi 14
1.4. Dân số 14
1.5. Đơn vị hành chính 15
1.6. Đất đai, địa hình 15
1.7.Khí hậu 16
1.8.Tài nguyên 16
1.9. Kinh tế 18
1.10. Công thương nghiệp 18
1.11. Nông nghiệp 18
1.12. Du lịch 19
1.13. Văn hóa 19
1.14. Tính cách con người Bạc Liêu 21
PHẦN 2: TÀI NGUYÊN DU LỊCH VẬT THỂ CỦA TỈNH BẠC LIÊU 23


2.1. Danh sách các di tích văn hóa-lịch sử được xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh của tỉnh Bạc Liêu. 23
2.2. Tài nguyên du lịch vật thể được xếp hạng của tỉnh Bạc Liêu 25
2.2.1. Đồng Nọc Nạng 25
2.2.2. Tháp cổ Vĩnh Hưng 27
2.2.3.Đền thờ chủ tịch Hồ Chí Minh 31
2.2.4. Khu lưu niệm cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu 32
2.2.5. Di tích lịch sử Nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng Sản đầu tiên của tỉnh Bạc Liêu 36
2.2.6. Thành Hoàng Cổ Miếu ( Chùa Minh) 38
2.2.7. Chùa Giác Hoa (Chùa cô Hai Ngó) 39
2.2.8. Chùa Xiêm Cán ( Chùa Komphir Sakor Prêchru) 47
2.2.9.Đình An Trạch 52
Tuyên truyền và quảng bá du lịch Trang 2
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
2.2.10. Chùa Vĩnh Đức 54
2.2.11. Đồng hồ mặt trời 55
2.2.12. Thiên hậu Cổ Miếu 56
2.2.13. Phước Đức Cổ Miếu ( còn gọi là Chùa Bang) 57
2.2.14. Chùa Kro Pum Mean Chey Kos Thum (chùa Cỏ Thum) 59
2.2.15. Tiên sư Cổ Miếu 61
2.2.16. Chùa Long Phước (chùa Cô Bảy) 65
2.2.17. Phủ thờ dòng họ Cao Triều 73
2.3. Các công trình du lịch vật thể chưa được xếp hạng của tỉnh Bạc Liêu 78
3.1 Thực trạng du lịch của tỉnh bạc Liêu 92
3.2 . Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch Bạc Liêu 97
KẾT LUẬN 102
Tuyên truyền và quảng bá du lịch Trang 3
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
LỜI MỞ ĐẦU
Bạc Liêu là một trong những đô thị lâu đời của miền Tây Nam Bộ có những nét
độc đáo về văn hóa - xã hội được nhiều nơi biết đến, nhất là các giai thoại về công tử Bạc

Liêu, nhiều công trình nhà ở, đình chùa mang kiến trúc cổ, cụm nhà Công tử Bạc Liêu,
đồng hồ đá; là nơi sản sinh bài Dạ cổ Hoài lang, tiền thân của vọng cổ ngày nay; có sân
chim, vườn nhãn, có 15 km bờ biển, có 700 ha rừng ngập mặn với nhiều loài sinh vật
sống ven biển và dưới tán rừng; có nền văn hóa đặc trưng của sự giao thoa 03 dân tộc:
Kinh, Hoa, Khmer Với những đặc điểm trên, thành phố Bạc Liêu là một trong những
địa phương có tiềm năng du lịch phong phú và hấp dẫn du khách.
Việc đầu tư khai thác tiềm năng để du lịch Bạc Liêu phát triển mạnh sẽ có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của địa
phương, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống cho
nhân dân.
Từ khi tỉnh Bạc Liêu được tái lập, ngành du lịch được chú ý đầu tư và đã có bước
phát triển nhất định. Một số dự án du lịch đang được xây dựng, bước đầu đã hình thành
được một số cơ sở du lịch; thu hút được du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan du
lịch đã mang lại giá trị doanh thu cho ngành dịch vụ - du lịch chiếm tỷ trọng cao trong
nền kinh tế của thành phố Bạc Liêu.
Ngoài những tiềm năng du lịch của tỉnh và thành phố Bạc Liêu phong phú, nhưng
thiếu sự đầu tư đúng mức của nhà nước và nhân dân, nên chưa có nhiều cơ sở đủ chuẩn,
hấp dẫn du khách; hoạt động du lịch còn tự phát. Loại hình du lịch còn nghèo nàn, cả về
du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, sông nước, du lịch vườn. Hoạt động du lịch còn rời rạc,
chưa tạo được tour, tuyến trong thị xã và giữa thị xã với các huyện trong và ngoài tỉnh.
Lượng khách đến đông, nhưng thời gian lưu trú không nhiều, chủ yếu là do dịch vụ phục
vụ du lịch chậm phát triển, hệ thống nhà hàng, khách sạn chưa đáp ứng yêu cầu. Dịch vụ
chăm sóc sức khỏe, các sản phẩm lưu niệm và tiêu dùng phục vụ nhu cầu mua sắm của
du khách đơn điệu, ẩm thực chưa được đầu tư đúng mức. Tính văn minh trong phục vụ
khách, tính chuyên nghiệp trong tổ chức các hoạt động du lịch còn hạn chế. Vì Vậy, việc
Tuyên truyền và quảng bá du lịch Trang 4
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
nghiên cứu những thế mạnh về di tích văn hóa vật thể của tỉnh Bạc Liêu sẽ góp phần đưa
ra những giải pháp cho sự phát triển của tỉnh nói chung và du lịch nói riêng, từ đó đề xuất
những biện pháp hữu ích và hiệu quả cho tỉnh.

Tuyên truyền và quảng bá du lịch Trang 5
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
PHẦN MỞ ĐẦU: MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1- Văn hóa
Văn hóa là toàn bộ những thứ do con người tạo ra nhằm phục vụ cuộc sống tốt đẹp hơn
Có rất nhiều những khái niệm và định nghĩa liên quan tới văn hóa nhưng nhìn
chung , văn hóa được thống nhất và biểu hiện ở những đặc điểm sau:
Thứ nhất, văn hoá là sáng tạo của con người, thuộc về con người, những gì không
do con người làm nên không thuộc về khái niệm văn hoá. Từ đó, văn hoá là đặc trưng căn
bản phân biệt con người với động vật, đồng thời cũng là tiêu chí căn bản phân biệt sản
phẩm nhân tạo với sản phẩm tự nhiên. Văn hoá xuất hiện do sự thích nghi một cách chủ
động và có ý thức của con người với tự nhiên, nên văn hoá cũng là kết quả của sự thích
nghi ấy.
Thứ hai, sự thích nghi này là sự thích nghi có ý thức và chủ động nên nó không phải
là sự thích nghi máy móc mà thường là sự thích nghi có sáng tạo, phù hợp với giá trị chân
- thiện - mỹ.
Thứ ba, văn hoá bao gồm cả những sản phẩm vật chất và tinh thần, chứ không chỉ
riêng tinh thần mà thôi.
Thứ tư, văn hoá không chỉ có nghĩa chỉ là văn học nghệ thuật như thông thường
người ta hay nói. Văn học nghệ thuật chỉ là bộ phận cao nhất trong lĩnh vực văn hoá mà
thôi.
Trên cơ sở phân tích các quan niệm trên có thể kết luận:Văn hóa là sản phẩm của
loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã
hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững
và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình
xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã
hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu
hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như
trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Tuyên truyền và quảng bá du lịch Trang 6

Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
2- Văn hóa vật thể
Văn hóa vật thể là một bộ phận của văn hóa nhân loại, thể hiện đời số
ng tinh thần của con người dưới dạng vật chất, là kết quả của hoạt động sáng tạo
biến những vật và chât liệu trong thiên nhiên thành những đồ vật, công trình có giá trị
sử dụng và thẫm mỹ nhằm phục vụ cuộc sống tốt hơn
3- Di tích lịch sử văn hóa
Di tích lịch sử tích lịch sử – văn hoá là tài sản quý giá của mỗi địa phương, mỗi
dân tộc, đất nước và cả nhân loại.Nó là bằng chứng trung thành, xác thực, cụ thể về đặc
điểm văn hoá mỗi nước.Ở đó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp,
những tinh hoa, trí tuệ, tài năng, giá trị văn hoá nghệ thuật của mỗi quốc gia.Di tích lịch
sử – văn hoá có khả năng rất lớn góp phần vào việc phát triển trí tuệ, tài năng của con
người; góp phần vào việc phát triển khoa học nhân văn, khoa học lịch sử.Đó chính là bộ
mặt quá khứ của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, theo pháp luật bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử – văn hoá và danh lam
thắng cảnh (04/04/1984), di tích lịch sử – văn hoá được quy định như sau:
“Di tích lịch sử – văn hoá là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu
và các tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật, cũng như các giá trị văn hoá
khác, hoặc liên quan đến các sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá – xã hội”.
Từ những quy định về di tích lịch sử – văn hoá các nước trên thế giới và ở nước ta
có thể rút ra những quy định chung có ý nghĩa khoa học và hệ thống như sau:
• Di tích lịch sử – văn hoá là những nơi ẩn dấu một bộ phận giá trị văn hoá khảo cổ.
• Những điểm khung cảnh ghi dấu về một dân tộc học.
• Những nơi diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng có ý nghĩa thúc đẩy lịch sử
đất nước, lịch sử địa phương phát triển .
• Những địa điểm ghi dấu chiến công chống xâm lược, áp bức.
• Những nơi ghi dấu giá trị lưu niệm về nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc, danh
nhân văn hoá, khoa học.
• Những công trình kiến trúc, nghệ thuật có giá trị toàn quốc hoặc khu vực.
Tuyên truyền và quảng bá du lịch Trang 7

Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
• Những danh lam thắng cảnh do thiên nhiên bài trí sẵn và có bàn tay con người tạo
dựng thêm vào, được xếp vào một loại hình trong các loại hình di tích lịch sử –
văn hoá.
Di tích lịch sử – văn hoá là những không gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó
chứa dựng những giá trị điển hình lịch sử, do tập thể hoặc do cá nhân con người hoạt
động sáng tạo trong lịch sử để lại.
*Phân loại di tích lịch sử – văn hoá
Di tích lịch sử – văn hoá chứa dựng nhiều nội dung lịch sử khác nhau.Mỗi di tích có
nội dung, giá trị văn hoá, lượng thông tin riêng biệt. Cần phải phân biệt các loại di tích để
xác định tên gọi đúng với nội dung của nó và khai thác, sử dụng và bảo vệ di tích một
cách có hiệu quả.
Có 4 loại di tích lịch sử – văn hoá:
+ Loại hình di tích văn hoá khảo cổ: là những địa điểm ẩn dấu một bộ phận giá trị
văn hoá, thuộc về một thời kỳ lịch sử – xã hội loài người chưa có văn tự và thời gian nào
đó trong lịch sử cổ đại.
+ Loại di tích lịch sử.
Di tích lịch sử là những di tích ghi nhận các sự kiện lịch sử hoặc các đặc điểm lịch sử
tiêu biểu của các dân tộc trong quá trình phát triển lịch sử của mình.Lịch sử của mỗi quốc
gia là một quá trình lâu dài với nhiều sự kiện được ghi dấu, do vậy những di tích nào gắn
với các sự kiện tiêu biểu mới được coi là di tích lịch sử.
Loại hình di tích lịch sử bao gồm:
• Di tích ghi dấu về dân tộc học: Sự ăn ở, sinh hoạt của các tộc người.
• Di tích ghi dấu những sự kiện lịch sử chính trị quan trọng, tiêu biểu có ý nghĩa
quyết định chiều hướng của đất nước, của địa phương .
• Di tích ghi dấu chiến công xâm lược.
• Di tích ghi dấu những kỷ niệm.
• Di tích ghi dấu sự vinh quang lao động.
• Di tích ghi dấu tội ác của đế quốc, phong kiến.
Tuyên truyền và quảng bá du lịch Trang 8

Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
4. Tài nguyên du lịch
a) Khái niệm
Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng
lượng và thông tin trên Trái Đất và trong không gian vũ trụ mà con người có thể sử dụng
phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình.
Tài nguyên được phân loại thành tài nguyên thiên nhiên gắn liền với các nhân tố
tự nhiên và tài nguyên nhân văn gắn liền với các nhân tố con người và xã hội.
Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung.
Khái niệm tài nguyên du lịch luôn gắn liền với khái niệm du lịch. Tại điều 10 của
Pháp lệnh Du lịch Việt Nam (1999): “Tài nguyên du lịch được hiểu là cảnh quan thiên
nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình sáng tạo của con
người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để hình
thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sức hấp dẫn du lịch”.
Như vậy, tài nguyên du lịch được xem như tiền đề để phát triển du lịch.Thực tế cho thấy,
tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu thì sức hấp dẫn và hiệu quả
hoạt động du lịch càng cao bấy nhiêu.
b) Đặc điểm tài nguyên du lịch.
Để khai thác và sử dụng tốt nhất các tài nguyên du lịch, trước hết cần phải tìm
hiểu và nghiên cứu các đặc điểm nguồn tài nguyên này. Tài nguyên du lịch có những đặc
điểm chính sau:
- Khối lượng các nguồn tài nguyên và diện tích phân bổ các nguồn tài nguyên là
cơ sở cần thiết để xác định khả năng khai thác và tiềm năng của hệ thống lãnh thổ nghỉ
ngơi, du lịch.
- Thời gian khai thác xác định tính mùa của du lịch, nhịp điệu của dòng khách.
- Tính bất biến về mặt lãnh thổ của đa số các loại tài nguyên tạo nên lực hút cơ sở
hạ tầng va dòng du lịch tới nơi tập trung các loại tài nguyên đó.
Tuyên truyền và quảng bá du lịch Trang 9
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
- Vốn đầu tư tương đối thấp và giá thành chi phí sản xuất không cao cho phép xây

dựng tương đối nhanh chóng cơ sở hạ tầng và mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cũng
như khả năng sử dụng độc lập từng loại tài nguyên.
- Tài nguyên du lịch có khả năng sử dụng nhiều lần nếu tuân theo các qui định về
sử dụng tự nhiên một cách hợp lý, thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ chung.
Muốn đánh giá tài nguyên du lịch cần phải tổng hợp nhiều chi thức của các lĩnh
vực khoa học: sinh lý học, tâm lý học, thuỷ lý học, địa lí tự nhiên và địa lí kinh tế, lịch sử
văn hoá và nghệ thuật, kiến trúc và đô thị, kế hoạch hoá lãnh thổ và kinh tế du lịch. Khía
cạnh lãnh thổ của các đánh giá tài nguyên du lịch là nhiệm vụ của địa lí du lịch.
c) Phân loại tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch có thể chia làm 2 nhóm:
- Tài nguyên du lịch tự nhiên:
+ Địa hình.
+ Khí hậu.
+Nguồn nước.
+ Sinh vật.
- Tài nguyên du lịch nhân văn:
+ Các di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc.
+ Các lễ hội.
+ Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc
học.
+ Các đối tượng văn hoá thể thao và hoạt
động nhận thức khác.
Tuyên truyền và quảng bá du lịch Trang 10
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ TỈNH BẠC LIÊU
1.1.Vị trí địa lý
Tỉnh Bạc Liêu nằm ở miền Tây Nam Bộ, thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu
Long, có toạ độ từ 9
0
00’00’’ đến 9

0
37’30’’ vĩ độ bắc và từ 105
0
15’00” đến 105
0
52’30”
kinh độ đông, cách thành phố Hồ Chí Minh 280 km (về phía bắc). Phía bắc giáp tỉnh Hậu
Giang và Kiên Giang, phía đông và đông bắc giáp tỉnh Sóc Trăng, phía tây và tây nam
giáp tỉnh Cà Mau, phía đông và đông nam giáp biển Đông.
1.2. Lịch sử hình thành
Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, vùng đất Bạc Liêu vẫn ngày càng trù
phú do phù sa bồi lấn ra biển và hơn hết là nhờ sự “chung sức, đồng lòng” dựng xây quê
Trang 11
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
hương của ba dân tộc Kinh, Khơme và Hoa.
Năm 1680, Mạc Cửu, một di thần nhà Minh ở Trung Quốc đến vùng Mang Khảm chiêu
tập một số lưu dân người Việt, người Hoa cư trú ở Mang Khảm, Phú Quốc, Rạch Giá,
Long Xuyên (Cà Mau), Luống Cày (Lũng Kỳ), Hưng úc (tức Vũng Thơm hay Kompong
som), Cần Bột (Campốt) lập ra những thôn xóm đầu tiên trên vùng đất Bạc Liêu.
Năm 1708, Mạc Cửu dâng vùng đất Mang Khảm cho chúa Nguyễn Phúc Chu. Chúa
Nguyễn Phúc Chu đặt tên toàn bộ thôn xóm vùng này là trấn Hà Tiên, phong Mạc Cửu là
Tổng binh trấn Hà Tiên, với tước Cửu Ngọc Hầu. Mạc Cửu lập dinh trại đồn trú tại
Phương Thành, nhân dân quy tụ ngày càng đông.
Năm 1757, chúa Nguyễn Phúc Khoát thu nhập thêm vùng đất Ba Thắc, lập ra Trấn
Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Sóc Trăng, Bạc Liêu). Toàn bộ vùng đất phương Nam thuộc
về chúa Nguyễn. Đến năm 1777, Trấn Giang, Trấn Di được bãi bỏ.
Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi. Năm 1808, trấn Gia Định đổi là thành Gia Định cai
quản 5 trấn: Phiên An, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Thanh (tức Vĩnh Long), Hà Tiên.
Năm 1832, vua Minh Mạng bỏ thành Gia Định, chia Nam Kỳ thành lục tỉnh: Biên Hoà,
Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, bao gồm đất từ Hà Tiên đến Cà

Mau. Phần đất tỉnh An Giang, tính từ Châu Đốc đến Sóc Trăng và Bạc Liêu tính đến cửa
biển Gành Hào.
Ngày 5-1-1867, thực dân Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ. Đến ngày 5-6-1876, Pháp
chia Nam Kỳ thành 24 khu tham biện (inspection - có người dịch là khu thanh tra) do các
viên thanh tra hành chính (inspecteur) đảm nhiệm.
Năm 1877, Pháp điều chỉnh Nam Kỳ còn 20 khu tham biện. Đến ngày 18-12-1882, Pháp
cắt 3 tổng: Quảng Long, Quảng Xuyên, Long Thuỷ của đại lý (Dlégation) Cà Mau thuộc
địa hạt Rạch Giá (Arrondissement de Rach Gia) và hai tổng Thạnh Hoà, Thạnh Hưng của
đại lý Châu Thành thuộc địa hạt Sóc Trăng và thành lập địa hạt Bạc Liêu
(Arrondissement de Bạc Liêu). Địa hạt Bạc Liêu là địa hạt thứ 21 của Nam Kỳ, lúc đầu
có 2 đại lý: Vĩnh Lợi và Vĩnh Châu.
Ngày 20-12-1899, toàn quyền Đông Dương ký sắc lệnh bỏ xưng danh địa hạt, đổi
thành tỉnh, đại lý đổi thành quận. Ngày 1-1-1900, sắc lệnh trên được áp dụng cho toàn
Trang 12
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
Nam Kỳ.
Năm 1904, quận Vĩnh Lợi cắt một phần đất phía bắc nhập thêm vào quận Vĩnh Châu.
Diện tích của tỉnh Bạc Liêu lúc này là 740 nghìn ha.
Năm 1918, chính quyền thực dân Pháp cắt một phần đất phía nam quận Vĩnh Lợi
và một phần đất phía bắc quận Cà Mau thành lập quận Giá Rai.
Ngày 25-10-1955, Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh số 143/NV phân định lại địa phận hành
chính các tỉnh miền Nam, sáp nhập các quận Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu vào Sóc
Trăng, thành lập tỉnh Ba Xuyên. Toàn bộ vùng đất quận Cà Mau lập thành tỉnh An
Xuyên.
Ngày 8-9-1964, Ngụy quyền Sài Gòn ký Sắc lệnh số 254/NV tái lập tỉnh Bạc Liêu
gồm các quận: Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu và Phước Long (Rạch Giá). Địa phận này
tồn tại cho đến ngày 30-4-1975.
Về phía chính quyền cách mạng: việc phân chia địa giới hành chính tỉnh Bạc Liêu
trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ khác hẳn chính quyền Sài Gòn.
Năm 1947, quận Hồng Dân thuộc tỉnh Rạch Giá giao hai làng Vĩnh Hưng, Vĩnh Phú về

quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Năm 1948, tỉnh Bạc Liêu giao quận Vĩnh Châu và làng Hưng Hội về tỉnh Sóc Trăng,
đồng thời thành lập thêm quận mới lấy tên là quận Ngọc Hiển.
Ngày 13-11-1948, cắt 2 làng Vĩnh Trạch, Vĩnh Lợi để thành lập thị xã Bạc Liêu.
Cùng thời điểm này, tỉnh Sóc Trăng giao làng Châu Thới về Bạc Liêu. Làng Châu Thới
hợp nhất với làng Long Thạnh thành làng Thạnh Thới.
Năm 1951, thành lập thêm huyện Trần Văn Thời, gồm các xã: Khánh Bình Đông, Khánh
Bình Tây, Trần Hợi, Hưng Mỹ, Khánh An, Khánh Lâm. Đồng thời, tỉnh Bạc Liêu tiếp
nhận hai huyện An Biên, Hồng Dân của tỉnh Rạch Giá.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, năm 1955, huyện Vĩnh Châu được đưa về tỉnh Bạc Liêu,
huyện An Biên và huyện Hồng Dân đưa về tỉnh Rạch Giá. Huyện Vĩnh Lợi và thị xã Bạc
Liêu được tái lập.
Năm 1957, Liên Tỉnh uỷ miền Tây chia các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu,
Hồng Dân, thị xã Bạc Liêu về tỉnh Sóc Trăng. Tỉnh uỷ Sóc Trăng quyết định hợp nhất
Trang 13
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi, thành huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu.
Năm 1962, huyện Giá Rai sáp nhập vào tỉnh Cà Mau. Năm 1963, Tỉnh uỷ Sóc Trăng
quyết định tách huyện Vĩnh Châu khỏi huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu, thành lập huyện
Vĩnh Châu.
Tháng 11-1973, Khu uỷ Tây Nam Bộ quyết định tái lập tỉnh Bạc Liêu, gồm 4 đơn
vị hành chính cấp huyện: Vĩnh Lợi, Giá Rai, Hồng Dân và thị xã Bạc Liêu.
Vào đầu năm 1976, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam hợp
nhất hai tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau thành tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau, đến gần giữa năm 1976
tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau đổi tên thành tỉnh Minh Hải.
Ngày 1-1-1997, tỉnh Bạc Liêu được tái lập lần thứ hai và giữ nguyên cho đến ngày nay.
1.3. Xuất xứ tên gọi
Danh xưng “Bạc Liêu”, đọc theo tiếng Trung, giọng Triều Châu là Pô Léo, có
nghĩa là xóm nghèo, làm nghề hạ bạc, tức nghề chài lưới, đánh cá, đi biển. Pô phát âm
theo tiếng Hán Việt là “Bạc” và Léo phát âm là “Liêu”.

Một giả thuyết khác cho rằng: Pô là bót, đồn. Liêu là Lào (Ai Lao) theo tiếng
Khơme, vì trước khi người Hoa kiều đến sinh sống, nơi đó có một đồn binh của người
Lào.
Còn người Pháp, họ căn cứ vào tên Pô Léo theo tiếng Triều Châu nên gọi vùng đất
này là Phêcheri - chaume (đánh cá và cỏ tranh). Ngoài ra còn một số giả thuyết khác.
1.4. Dân số
Dân số tỉnh Bạc Liêu là 856.250 người (01/4/2009), ba dân tộc chủ yếu là dân tộc
Kinh (chiếm khoảng 90% dân số) – dân tộc Khmer (chiếm khoảng 7% dân số) và dân tộc
Hoa (chiếm khoảng 3% dân số), với mật độ dân số 339 người/km². Nếu so với 63 tỉnh,
thành phố thì Bạc Liêu đứng thứ 40 về diện tích và thứ 48 về dân số.
Trên địa bàn Bạc Liêu có 3 dân tộc sinh sống, người Kinh chiếm phần lớn, tiếp đến
là người Khmer và người Hoa. Theo tài liệu tổng điều tra dân số (1999) thì trong tổng số
Trang 14
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
dân trên địa bàn Bạc Liêu, người Kinh chiếm gần 90,0%; người Khmer chiếm 7,9%;
người Hoa chiếm 3,1%; các dân tộc còn lại, mỗi dân tộc chỉ có dưới 100 người, thậm chí
chỉ có trên dưới một chục người.
Diện tích, dân cư qua các thời kỳ:
 1971: 2.559 km², 352.230 người
1
 1996 (số liệu Tổng cục Thống kê): 2.487,1 km², 768.900 người
 1997: 2.485 km², 768.900 người
 1998: 2.485 km², 800.100 người
 1999 (Tổng điều tra dân số 1-4): 2.521 km², 736.325 người; (Tổng cục Thống kê)
738.200 người (trung bình năm)
 2000 (Tổng cục Thống kê): 744.300 người
 2001: 2.485 km², 756.800 người
 2002: 768.300 người
 2003 (TĐBKQSVN): 2.520,63 km², 770.000 người
 2004 (Tổng cục Thống kê): 2525,7 km², 786.200 người

 2009 (Tổng cục Thống kê): 2525,7 km², 856.250 người
1.5. Đơn vị hành chính
Ngày 1-1-1997, Bạc Liêu được tái lập với 4 đơn vị hành chính gồm: 3 huyện
(Hồng Dân, Vĩnh Lợi, Giá Rai) và thị xã Bạc Liêu, trong đó thị xã Bạc Liêu là thị xã tỉnh
lỵ của tỉnh. Đến cuối năm 2005, tỉnh Bạc Liêu có 6 huyện (chia tách từ 3 huyện cũ) là
Phước Long, Hồng Dân, Vĩnh Lợi, Hoà Bình, Giá Rai, Đông Hải và thị xã Bạc Liêu.
1.6. Đất đai, địa hình
Bạc Liêu là vùng đất trẻ, được hình thành chủ yếu do sự bồi lắng phù sa ở các cửa
biển tạo nên. Phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh là đất bằng nằm ở độ cao trên dưới 1,2
Trang 15
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
m so với mặt biển, còn lại là những giồng cát và một số khu vực trũng ngập nước quanh
năm. Địa hình có xu hướng thấp dần từ đông bắc xuống tây nam và khu vực nội đồng
thấp hơn vùng gần bờ biển. Trên địa bàn tỉnh có nhiều kênh rạch lớn như kênh Quản Lộ-
Phụng Hiệp, kênh Cạnh Đền, kênh Phó Sinh, kênh Giá Rai. Hệ thống sông ngòi, kênh
rạch của Bạc Liêu nối với biển bằng cửa Gành Hào, cửa Nhà Mát và cửa Cái Cùng.
Ngoài phần đất liền còn có vùng biển rộng 40.000 km². Biển Bạc Liêu có tiềm năng hải
sản tương đối lớn với 661 loài cá và 33 loài tôm, cho phép đánh bắt mỗi năm 24-30 vạn
tấn cá và khoảng 1 vạn tấn tôm.
Đất đai: Bạc Liêu có diện tích đất tự nhiên 2.594 km
2
.
Địa hình: khá bằng phẳng, không có đồi, núi nên không có các chấn động địa chất lớn.
Địa hình cơ bản là đồng bằng với các cánh đồng rộng mênh mông, sông rạch và kênh đào
chằng chịt.
1.7.Khí hậu
Bạc Liêu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết chia thành hai mùa
rõ rệt: mùa khô (mùa nắng) bắt đầu từ tháng 10-11 năm trước đến tháng 4 - 5 năm sau;
mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 - 5 đến tháng 10 - 11 Nhiệt độ trung bình năm 28,5
0

C, nhiệt
độ thấp nhất trong năm là 21
0
C (vào mùa mưa), nhiệt độ cao nhất trong năm là 36
0
C (vào
mùa nắng).
1.8.Tài nguyên
- Tài nguyên rừng và động - thực vật: rừng Bạc Liêu thuộc hệ sinh thái rừng ngập mặn
như: tràm, chà là, giá, cóc, lâm vồ, Bên dưới là thảm thực vật gồm cỏ và các loài dây
leo. Theo Viện sinh học nhiệt đới, rừng Bạc Liêu có 104 loài thực vật, 10 loài thú nhỏ, 8
loài bò sát,
Ngoài ra, Bạc Liêu có 01 vườn chim hoang dã (diện tích hơn 30 ha) ở xã Hiệp Thành,
cách thị xã Bạc Liêu khoảng 3 km (về phía đông); hai vườn cò ở thị trấn Phước Long và
Trang 16
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
Vĩnh Phú Tây (huyện Phước Long); một vườn chim với loài giang sen quý hiếm ở huyện
Đông Hải. Đặc biệt, vườn chim Bạc Liêu là
vườn chim lớn nhất trong tỉnh với khoảng hơn 40 loài chim, số lượng hơn 60 nghìn con,
gồm nhiều loại như: điên điển, quắm trắng, quắm đen, chằn bè, cò lông bông, le le, vịt
nước, còng cộc, vạc, cò ngà, cò trắng, giang sen, mỏ thác, ốc cao, thằng chài, diệc
Sunatra, Vườn chim Bạc Liêu là một trong những khu vực được đưa vào hệ thống khu
bảo tồn thiên nhiên quốc gia của Việt Nam.
- Hệ thống sông ngòi: Bạc Liêu có hệ thống sông ngòi, kênh đào chằng chịt, cơ bản chia
làm hai nhóm:
Nhóm 1: chảy ra hải lưu phía nam, gồm: sông Gành Hào (dài 55 km) có các nhánh là rạch
Giồng Ké, rạch Lộ, rạch Nhà Thờ, rạch Cái Keo, rạch Gốc, ; sông Mỹ Thanh (70 km) có
các nhánh là rạch Lé, rạch Bạc Liêu, rạch Trò Nho, rạch Trà Niêu, rạch Trà Teo, trong đó
rạch Bạc Liêu dài 35 km.
Nhóm 2: chảy ra sông Ba Thắc (thường gọi là sông Hậu, tức Hậu Giang). Nhóm này gồm

rạch Ba Xuyên và các nhánh nhỏ của rạch Ba Xuyên.
Về kênh đào: để tháo phèn phục vụ sản xuất và phục vụ nhu cầu giao thông, giai
đoạn 1901 - 1903, chính quyền thực dân đã đào kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp dài 140 km,
đoạn Bạc Liêu - Cà Mau dài 48, 5 km. Đến năm 1915, chính quyền thực dân lại dùng
xáng nạo vét mở rộng kênh đào Bạc Liêu - Cà Mau (dài 66 km) và đào thêm kênh Bạc
Liêu - Cổ Cò (dài 18 km). Sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), chính quyền
thực dân tiếp tục khai thác vùng đất Bạc Liêu với quy mô lớn hơn: năm 1920, đào kênh
xáng Hộ Phòng - Chủ Chí - Chợ Hội (dài 29 km) và kênh Giá Rai - Phó Sinh - Cạnh Đền
(dài 33 km); năm 1925, đào kênh xáng Lộ Bẻ - Gành Hào dài 18 km; năm 1931 đào kênh
xáng Xóm Lung - Cống Cái Cùng (dài 13 km), kênh xáng cầu số II - Phước Long (dài 24
km) và kênh xáng Cầu Sập - ngã tư Vĩnh Phú - Ngan Dừa (dài 49,5 km).
- Biển: Bạc Liêu có bờ biển dài 56 km. Biển Bạc Liêu có nhiều loài tôm, cá, ốc, sò
huyết, Hàng năm, sản lượng khai thác đạt gần 100 nghìn tấn cá, tôm. Trong đó, sản
lượng tôm gần 10 nghìn tấn.
Trang 17
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
Bờ biển thấp và phẳng rất thích hợp để phát triển nghề làm muối, trồng trọt hoặc nuôi
tôm, cá. Hàng năm, sự bồi lấn biển ở Bạc Liêu ngày một tăng. Đây là điều kiện lý tưởng
cho Bạc Liêu phát triển thêm quỹ đất, đồng thời là yếu tố quan trọng đưa kinh tế biển của
Bạc Liêu phát triển
1.9. Kinh tế
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2011 đạt 9.826 tỷ đồng, tăng 12% so với
năm 2010. Thu nhập bình quân đầu người năm 2011 đạt gần 25 triệu đồng (tương đương
1.123 USD)
Cơ cấu kinh tế: khu vực nông nghiệp chiếm 51,7%; công nghiệp - xây dựng chiếm
24,52% và dịch vụ chiếm 23,78% trong GDP. Tổng vốn đầu tư phát triển năm 2011 thực
hiện 5.603 tỷ đồng, tăng 18,36% so năm 2010 (chiếm khoảng 25,83% GDP)
1.10. Công thương nghiệp
Theo số liệu năm 2011, giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh lên 4.356 tỷ đồng,
tăng 20,5%

Kim ngạch xuất khẩu thực hiện 260 triệu USD, tăng 18,7% so với năm 2010. Song
song với việc đẩy mạnh sản xuất, UBND tỉnh đã triển khai thực hiện tốt các giải pháp
theo tinh thần Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ, nên tình hình cung - cầu hàng
hoá trên thị trường Bạc Liêu tương đối ổn định; Chỉ số giá cả năm tăng 16,5% (chỉ số giá
cả nước trên 18%); tổng mức lưu chuyển hàng hoá đạt 18.060 tỷ đồng, tăng 25,74% so
năm 2010
1.11. Nông nghiệp
Năm 2011, Giá trị sản xuất nông nghiệp (Giá cố định 1994) đạt 9.958 tỷ đồng,
tăng 7,8% so với cùng kỳ; sản lượng lương thực 900 ngàn tấn, tăng 11,2% so năm 2010.
Với ngành thủy sản, sản lượng thuỷ sản khai thác và nuôi trồng năm 2011 lên trên 250
ngàn tấn, tăng 4,18% so năm 2010
Trang 18
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
1.12. Du lịch
Với nguồn tài nguyên biển và hệ sinh thái ven biển đa dạng, tỉnh đang chú trọng
phát triển du lịch sinh thái, kết hợp với du lịch tâm linh.
Hoạt động du lịch tiếp tục phát triển; UBND tỉnh đã xây dựng kế hoạch cụ thể và
chỉ đạo các sở, ngành, địa phương tập trung triển khai Nghị quyết 02-NQ/TU của Tỉnh ủy
về đẩy mạnh phát triển du lịch; nhiều dự án du lịch đã được chủ trương đầu tư và đang
triển khai tích cực. Doanh thu du lịch năm 2011 đạt gần 470 tỷ đồng, tăng gần 17%, với
khoảng 530 ngàn lượt du khách, tăng 18% so với năm 2010 (Trong đó có khoảng 17.000
lượt khách Quốc tế).
Một số điểm du lịch của tỉnh như: Biển Nhà Mát, Khu du lịch vườn nhãn, Quán
Âm Phật đài, nhà công tử Bạc Liêu, khu lưu niệm cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu (Thành phố
Bạc Liêu). Tháp cổ Vĩnh Hưng (Vĩnh Lợi). Khu di tích Đồng Nọc Nạn (Giá Rai). Khu di
tích nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên Tỉnh Bạc Liêu (Đông Hải)
1.13. Văn hóa
Bạc Liêu xưa kia nổi tiếng là đất ăn chơi với nhiều giai thoại về "công tử Bạc
Liêu", bởi người dân xứ này có tư duy khoáng đạt, thích giao lưu tìm bạn qua hội hè và
qua sinh hoạt văn hoá cộng đồng. Do cởi mở và có phần sành điệu nên đất Bạc Liêu

không chỉ giữ được đôi chân phiêu lãng của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, tác giả bài Dạ cổ
hoài lang bất hủ, mà còn có sức hút mạnh mẽ đối với tầng lớp đại điền chủ Nam Kỳ lục
tỉnh vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, buộc họ phải đến đây xả túi xây cất
dinh thự. Bởi thế, nhiều người tới thành phố Bạc Liêu ngày nay đã không khỏi ngỡ ngàng
khi nhìn thấy tại nơi đất chua phèn ngập mặn, nơi tận cùng của đất nước này, lại có
những dãy nhà Tây sang trọng và đường bệ, khác hẳn những biệt thự Pháp ở Hà Nội, Sài
Gòn, Đà Lạt. Đáng chú ý là những vật liệu chủ yếu trang trí nội thất các biệt thự này như
cửa và chấn song cửa, gạch và đá cẩm thạch ốp tường hoặc lát nền đều được các đại điền
chủ bỏ công tốn của sang tận Paris mua về.
*Những giai thoại và đặc sản
Trang 19
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
Nhắc đến Bạc Liêu, chúng ta không quên nhắc về 2 giai thoại, Công tử Bạc
Liêu và Bác sáu Lầu
Công tử Bạc Liêu người từng đi thăm ruộng bằng máy bay, và cũng là chiếc máy
bay riêng đầu tiên ở Đông Dương, hay việc thuê người Pháp làm công cho mình, bấy
nhiêu thôi cũng đủ nói rõ về khả năng ăn chơi có thứ hạng của vị công tử lừng danh
đất Nam kỳ. ngày nay, nép mình bên dòng sông Bạc Liêu, trên đường Điện Biên Phủ, vẫn
còn lưu giữ ngôi biệt thự sang trọng ấy, nó vẫn còn đó như để hoài niệm về một quá khứ
hoàng kim, của một trong những dòng dõi sang trọng bật nhất sứ Nam Kỳ. Hãy thử một
lần đến đây, để hiểu nhiều hơn về cuộc sống của một đại điền chủ thời ấy, hay chỉ đơn
giản là thử một lần vào vai ông, bà hội đồng, được dùng những thứ vật chất xa hoa mà
phận tá điền hằng mơ ước.
Bạc Liêu, cái nôi của Vọng cổ. Bác Sáu Lầu, tức nhạc sĩ Cao Văn Lầu, người cho
ra đời bản Dạ cổ hoài lang vào những năm đầu thế kỷ XX, vốn được xem là tiền thân của
những bản Vọng cổngày nay. Mãnh đất đầy thơ văn ấy, đã thổi hồn lãng mạng cho người
nhạc sĩ tài hoa, để ông có thể viết lên một kiệt tác để đời. Ngày nay, cũng tọa lạc trên con
đường mang tên ông, là khu lưu niệm cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, nếu có diệp về Bạc Liêu,
mời bạn một lần ghé thăm để thấp lên nén hương tỏ lòng ngưỡng mộ và tưởng nhớ về
một bật thi sĩ tài hoa.

Đặc sản ẩm thực
Nằm ở vùng đồng bằng châu thổ Cửu Long, Bạc Liêu vốn được thiên nhiên ưu ái
cho những sản vật vô cùng trù phú.
Nếu vùng nam QL1A nổi tiếng với nguồn lợi thủy hải sản vô cùng dồi giàu và đa
dạng, như cá đồng, cá biển, mực, tôm, cua, nghiêu, sò, óc với sản lượng hơn 250000 tấn
thủy sản hằng năm, không chỉ tiêu thụ trong nội địa mà còn xuất khẩu thu ngoại tệ ,
Đặc biệt, muối Đông Hải nổi tiếng khấp Nam Kỳ Lục tỉnh, về cả sản lượng lẫn
chất lượng
Trang 20
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
Về nam QL1A là những cánh đồng lúa bạt ngàn, bất tận. Nơi cho ra đời gạo một
bụi đỏ Hồng Dân, vốn được xem là đặc sản Bạc Liêu, và luôn khẳng định được giá trị
trên bản đồ gạo Việt Nam.
Bên cạnh đó là những món ăn của người Bạc Liêu vốn đã làm ngất ngây bao du
khách như: Bánh xèo, Bánh canh, Bún nước lèo, các loại lẩu như lẩu cá kèo, lẩu mắm,
hay lẩu hải sản dĩ nhiên nó sẽ được chế biến theo một phong cách riêng biệt của ẩm
thực Bạc Liêu, mà không lẫn vào đâu được.
1.14. Tính cách con người Bạc Liêu
Về mặt lịch sử, vùng đất Bạc Liêu mới hình thành trên 200 năm. Do điều kiện đất
đai và cấu tạo dân cư buổi đầu, Bạc Liêu không giống các tỉnh miền Trung, miền Bắc.
Dân cư không hình thành từ “lũy tre làng”, “cha truyền con nối”. Dân cư Bạc Liêu đa số
là dân “xiêu tán”, nghèo khổ “tha phương cầu thực”. Họ định cư rải rác trên các gò đất
cao, trên các bờ sông, các kinh xáng. Người Kinh, người Khơ-me, người Hoa đã đan xen
nhau, luôn tương trợ, đoàn kết khi hoạn nạn, chân thành cởi mở, thích “làm ăn lớn”.
Phong cách ứng xử người dân Bạc Liêu mang tính cách nông dân thôn dã, chất phác, bộc
trực, dám phản kháng mạnh mẽ trước bất công xã hội.
Ở Bạc Liêu, có 3 dòng văn hóa đan xen nhau đó là: văn hóa Kinh, văn hóa Khơ-
me, văn hóa người Hoa, trong quá trình hội nhập, phát trển.Hàng năm trên vùng đất Bạc
Liêu có rất nhiều lễ hội. Người Kinh có lễ hội cúng đình, thờ thần hoàng bổn cảnh có
công với nước được triều đình nhà Nguyễn Sắc phong. Ngoài ra còn có đại lễ Kỳ Yên

còn gọi là lễ thượng điền giữa tháng 5 âm lịch, lễ thắp miếu còn gọi là lễ hạ điền vào giữa
tháng 12 âm lịch.Đồng bào Khơ-me có lễ hội vào năm mới (Chol-Chnam-Thmây) vào
giữa tháng 4 dương lịch, lễ hội chào mặt trăng (Oóc-Om-Boóc) vào ngày rằm tháng 10
âm lịch, lễ hội Đôn-ta nhằm thực hiện việc xá tội vong nhân theo đạo lý nhà Phật.
Đồng bào Hoa có lễ cúng Thanh Minh vào tháng 3 âm lịch, lễ thí giàng vào tháng 7 âm
lịch.
Trong giao tiếp, lớp người trung niên giữa Kinh và Khơ-me hay kết thân nhau làm
“ní” (người cùng tuổi). Trai, gái Kinh và Hoa thường gọi nhau là “hia”, “chế” thay cho từ
Trang 21
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
anh, chị.Về văn hóa nghệ thuật Bạc Liêu, có bản vọng cổ của bác Sáu Lầu, chuyện vui
bác Ba Phi, nói thơ điệu Bạc Liêu của ông Thái Đắc Hàn, vè của ông Bửu Trượng.
Tính cách người dân Bạc Liêu dưới thời Pháp thuộc in đậm tính cách lưu dân người Việt
“đủ tinh thần thực tiễn, nhưng thiếu chữ; đủ đạo đức làm dân mà ít thuộc kinh truyện”.
Trước đây một số ngươi giàu ở Bạc Liêu có quan niệm “lấy táu đong lúa chứ không ai
lấy táu đong chữ”. Điển hình là Ba Huy con ông Hội đồng Trần Trinh Trạch, một thời
tiêu xài “xả láng” để đồng bào cả nước mỉa mai sự xa xỉ đó bằng tên gọi “công tử Bạc
Liêu”.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ, vùng đất Bạc Liêu trở thành căn cứ kháng chiến của Nam bộ. Trường học mọc lên
đều khắp. Bộ mặt văn hóa khác hẳn xưa. Tuy vậy Bạc Liêu vẫn chưa có những công
trình, những tác phẩm nghệ thuật tương xứng với bề dầy lịch sử của nó.
Trang 22
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
PHẦN 2: TÀI NGUYÊN DU LỊCH VẬT THỂ CỦA TỈNH BẠC LIÊU
2.1. Danh sách các di tích văn hóa-lịch sử được xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh
của tỉnh Bạc Liêu
* Di tích cấp Quốc gia
1. Đồng Nọc Nạng, năm sự kiện 1928, địa điểm ấp 4 xã Phong Thạnh, huyện Giá Rai. Bộ
VHTT xếp hạng (nay là công nhận) là di tích Lịch sử năm 1991.

2. Tháp Vĩnh Hưng, thời điểm xây dựng khoảng thế kỷ IV – XIII, địa điểm ấp Trung
Hưng, xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lợi. Bộ VHTT xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật
năm 1992.
3. Đền thờ Chủ Tịch Hồ Chí Minh, xây dựng năm 1972, địa điểm ấp Bà Chăng, xã Châu
Thới, huyện Vĩnh Lợi. Bộ VHTT xếp hạng là di tích Lịch sử năm 1998.
4. Đình An Trạch, xây dựng năm 1877, địa điểm khóm 2, F5, TXBL. Bộ VHTT xếp hạng
là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2000.
5 Thành Hoàng Cổ Miếu (chùa Minh), xây dựng năm 1865, tại F3, TXBL. Bộ VHTT xếp
hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2000.
6. Phước Đức Cổ Miếu (Chùa Bang), xây dựng năm 1780, tại F3, TXBL. Bộ VHTT xếp
hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2000.
7. Phước Đức Cổ Miếu (Miếu Ông Bổn), xây dựng năm 1871, tại Trà Kha B, F8, TXBL.
Bộ VHTT xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2005.
8. Chùa Kro Pum Mean Chey Kos Thum (chùa Cỏ Thum), xây dựng năm 1832, địa điểm
ấp Cỏ Thum, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, Bộ VHTT xếp hạng là di tích Lịch sử
năm 2006
*Di tích cấp tỉnh
1. Đình Phong Thạnh, xây dựng đầu thế kỷ 19, tại ấp 4 thị trấn Giá Rai, huyện Giá Rai.
UBND tỉnh Minh Hải xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1996.
Trang 23
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
2. Đền Thờ Chủ Tịch Hồ Chí Minh, xây dựng năm 1972, tại xã Long Điền, huyện Đông
Hải, UBND tỉnh Minh Hải xếp hạng là di tích lịch sử năm 1996.
3. Tiên Sư Cổ Miếu, xây dựng năm 1855, tại phường 7, TXBL. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp
hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1997.
4. Khu Mộ cố Nhạc Sĩ Cao Văn Lầu, xây dựng năm 1976, tại F2, TXBL. UBND tỉnh Bạc
Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 1997.
5. Thiên Hậu Cổ Miếu (chùa Bà Thiên Hậu), xây dựng năm 1901, tại F1,TXBL. UBND
tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1997.
6. Đền Thờ Trần Quang Diệu, xây dựng năm 1917, tại xã Phong Thạnh Tây A, huyện

Phước Long. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2000.
7. Chùa Long Phước (chùa Cô Bảy), xây dựng năm 1840, tại F5, TXBL. UBND tỉnh Bạc
Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2001.
8. Chùa Vĩnh Đức, xây dựng năm 1890, tại F1, TXBL. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là
di tích Lịch sử năm 2001.
9. Chùa Giác Hoa ( Chùa Cô Hai Ngó), xây dựng năm 1919, tại xã Châu Thới, huyện
Vĩnh Lợi. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2001.
10. Chùa Kom Phi Sakor Prêkchou (chùa Xiêm Cán), xây dựng năm 1887, tại xã Vĩnh
Trạch Đông, thị xã Bạc Liêu. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ
thuật năm 2001.
11. Khu căn cứ Huyện ủy Vĩnh Lợi (1971 - 1975), xây dựng năm 1971, tại ấp Trà Hất xã
Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2005.
12. Khu căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu (1973 - 1975), xây dựng năm 1973, tại ấp Cây Cui, xã
Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm
2006.
13. Thành Hoàng Cổ Miếu, xây dựng năm 1870, tại Thị trấn Hòa Bình, huyện Hòa Bình.
UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2006.
14. Đình Nguyễn Trung Trực (đình An Trạch), xây dựng năm 1885, tại ấp Thành
Thưởng, xã An Trạch, huyện Đông Hải. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử
- Văn hóa năm 2006.
Trang 24
Tài nguyên du lịch vật thể của tỉnh Bạc Liêu
15. Sự kiện lịch sử Ninh Thạnh Lợi năm 1927, tại ấp Chủ Trọt, xã Ninh Thạnh Lợi,
huyện Hồng Dân. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa năm 2006.
16. Đồng Hồ Thái Dương (Đồng hồ Đá), xây dựng đầu TK 20, tại F3, TXBL. UBND tỉnh
Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa năm 2006.
17. Đình Bình An, xây dựng cuối TK 19, tại ấp Láng Giài, TT Hòa Bình, huyện Hòa
Bình. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa năm 2008.
18. Nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên tỉnh Bạc Liêu, tháng 2/1930, tại ấp Rạch Rắn, xã
Long Điền, huyện Đông Hải. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2008.

19. Miếu Bà Thiên Hậu, xây dựng trên 100 năm, tại xã Vĩnh Mỹ A, huyện Hòa Binh,
UBND tỉnh công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2008.
20. Bia kỷ niệm trận đánh Cầu Trâu, năm sự kiện 1962, tại xã Châu Hưng A, huyện Vĩnh
Lợi, ghi nhớ chiến công của anh hung liệt sĩ Mai Thanh Thế. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp
hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa năm 2009./.
2.2. Tài nguyên du lịch vật thể được xếp hạng của tỉnh Bạc Liêu
2.2.1. Đồng Nọc Nạng
Tọa lạc tại ấp 4, xã Phong Thạnh, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Khu di tích có diện tích
3 ha với nhiều hạng mục: Khu mộ gia đình Mười Chức, phủ thờ - nhà trưng bày hiện vật,
cụm tượng diễn tả lại sự kiện ngày 17/02/1928, (trận quyết tử đòi lại ruộng đất của anh
em Mười Chức với bọn địa chủ, quan lại cướp đất), nhà thủy tạ….
Trang 25

×