Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

nâng cao hiệu quả giờ dạy thông qua đổi mới kiểm tra miệng trong các tiết dạy chương i sinh học 12 cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.32 KB, 20 trang )

1
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT ĐINH CHƯƠNG DƯƠNG
*******************
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỜ DẠY THÔNG QUA ĐỔI
MỚI KIỂM TRA MIỆNG TRONG CÁC TIẾT DẠY
CHƯƠNG I SINH HỌC 12 CƠ BẢN
Người thực hiện : Đỗ Thị Sáng
Tổ : Hoá – Sinh
Trường : THPT Đinh Chương Dương
SKKN môn: Sinh học
Tháng 4- 2012
MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG
Phần I: Đặt vấn đề 1
Phần II. Gải quyết vấn đề 2
I.Cơ sở lý luận 2
II Cơ sở thực tiễn 3
III. Giải pháp tổ chức thực hiện 4
1. Chuẩn bị của giáo viên 4
2. Chuẩn bị của học sinh 5
3. Những yêu cầu sư phạm về cách tổ chức kiểm tra miệng 6
4 Các cách kiểm tra miệng 7 – 15
IV. Kết quả nghiên cứu 15
Phần III. Kết luận và kiến nghị 16
I. Kết luận 16
II. Kiến nghị 17
Tài liệu tham khảo 18
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ:


Trong những năm qua, việc thực hiện đổi mới ngành giáo dục nói chung,
giáo dục phổ thông nói riêng chúng ta đã thu được những kết quả đáng khích lệ.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại cần tiếp tục đổi mới, bổ sung. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 2 BCH TW Đảng khóa VIII đã chỉ rõ con đường đổi mới
giáo dục - đào tạo phải bằng “đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo,
2
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học”.
Điều đó đặt ra yêu cầu cho việc dạy học cần phải tăng cường nhiều hơn
nữa việc đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học, cần phải
nghiên cứu và triển khai việc áp dụng các phương pháp dạy học hiện đại để bồi
dưỡng cho HS sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực tự giải quyết vấn đề.
Cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp
giảng dạy thì vấn đề đổi mới kiểm tra đánh giá là khâu hết sức quan trọng trong
quá trình giảng dạy và học tập. Đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm
tra đánh giá là hai hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau. Đổi mới kiểm tra
đánh giá là động lực đổi mới phương pháp dạy học, góp phần thực hiện mục tiêu
giáo dục đào tạo. Đổi mới kiểm tra đánh giá bao gồm nhiều khâu, nhiều nội
dung, nhiều công đoạn trong đó việc đổi mới kiểm tra miệng là khâu hết sức
quan trọng vì đây là một hoạt động diễn ra thường xuyên liên tục. Kiểm tra
miệng không chỉ là kiểm tra ở đầu giờ mỗi tiết học mà cũng có thể diễn ra
xuyên suốt trong một tiết học. Nếu giáo viên lơ là không thực hiện tốt việc kiểm
tra miệng thì quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh sẽ bị gián đoạn, các em sẽ
bị hổng các kiến thức kỹ năng cần có trong mỗi tiết học. Điều này sẽ ảnh hưởng
đến kết quả của các bài kiểm tra định kỳ (1 tiết, học kỳ, ). Trên thực tế việc
kiểm tra miệng trong các tiết học Sinh học hiện nay còn nhiều bất cập do áp lực
của lượng kiến thức, kỹ năng cần phải tải trong mỗi tiết dạy nên thời gian dành
cho việc kiểm tra miệng hầu như rất ít. Bên cạnh đó phần lớn học sinh rất thụ
động, học vẹt để đối phó thậm chí một số em do mất căn bản nên lười nhác trong
việc học bài cũ và nghiên cứu tài liệu mới.

Trong chương trình Sinh học 12 THPT, di truyền học là một phần nội
dung quan trọng, đặc biệt chương I “Cơ chế di truyền và biến dị” có nhiều nội
dung vừa dài vừa khó. Tuy nhiên thời lượng dành cho phần này lại rất ngắn.
Việc chủ động hoạt động tích cực của học sinh cũng gặp khó khăn nếu giáo viên
không có phương pháp dẫn dắt học sinh học tập phù hợp. Nếu sử dụng phương
pháp cũ là giảng giải minh hoạ học sinh nhớ máy móc kiến thức, ít nghiên cứu
sách giáo khoa, kiến thức thụ động rời rạc không có hệ thống. Khi giáo viên nêu
những câu hỏi thì học sinh trả lời nhưng chỉ có một vài học sinh được hoạt động
vì thời gian có hạn, còn hầu hết học sinh khác ngồi nghe câu trả lời của bạn, của
giáo viên, vì vậy học sinh ít được hoạt động, không được rèn luyện kĩ năng,
không có điều kiện bộc lộ kĩ năng hoạt động của bản thân. Giáo viên chỉ đánh
giá thông qua gọi kiểm tra chỉ ở một số học sinh hay trả lời câu hỏi. Do đó, đa số
học sinh tiếp thu kiến thức dưới dạng chấp nhận, không biết vận dụng kiến thức
vào việc giải bài tập và thực tế. Giáo viên dễ gặp phải tình trang cháy giáo án,
học sinh tiếp thu kiến thức không chọn vẹn.
3
Trước thực tế đó, tôi đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “ Nâng cao hiệu
quả giờ dạy thông qua đổi mới kiểm tra miệng trong các tiết dạy chương I
Sinh học 12 cơ bản”. Dựa trên những thành tựu của các tác giả đi trước, qua
thực tế giảng dạy bộ môn sinh học, trong đề tài này tôi chỉ đưa ra một số cách
kiểm tra miệng, xây dựng một số ví dụ cho các cách kiểm tra đó giới hạn trong
các bài dạy ở chương I “Cơ chế di truyền và biến dị” sinh học 12 cơ bản. Kết quả
của đề tài sẽ góp phần làm phong phú hơn các cách kiểm tra miệng trong các tiết
học Sinh học ở trường THPT, giúp các em chủ động hơn trong học tập, tích luỹ
kiến thức, rèn luyện kỹ năng đồng thời tạo không khí sinh động trong các giờ
học, đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường hiện
nay.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Hoạt động dạy và học luôn cần có những thông tin phản hồi để điều chỉnh

kịp thời nhằm tạo ra hiệu quả ở mức cao nhất thể hiện ở chất lượng học tập của
học sinh. Kiểm tra thường xuyên giúp cho giáo viên điều chỉnh, bổ sung những
kiến thức, kỹ năng, thái độ mà môn học đề ra đồng thời sẽ giúp cho học sinh
hình thành được động cơ, thái độ học tập đúng đắn từ đó tích lũy được kiến thức,
kỹ năng cần thiết.
Kết hợp với kiểm tra thường xuyên nên dành một phần điểm vào kiểm tra
miệng để gắn liền quyền lợi và trách nhiệm cho học sinh. Bởi vì nếu giáo viên
không kiểm tra miệng thường xuyên học sinh sẽ nhanh chóng lãng quên việc
chuẩn bị bài gây khó khăn trong quá trình giảng dạy của giáo viên và quá trình
tiếp thu kiến thức của học sinh. Do đó, việc kiểm tra miệng thường xuyên hơn sẽ
giúp học sinh hình thành thói quen trong việc học bài cũ và chuẩn bị bài mới rất
có ích cho giáo viên và học sinh trong quá trình thực hiện tiết dạy.
Việc đổi mới kiểm tra miệng ngay tại lớp không những giúp không khí
học tập sinh động mà còn giúp học sinh tránh được lối học vẹt, học thụ động,
học đối phó từ đó phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh và đem lại
hiệu quả cao trong giảng dạy và học tập.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực trạng chung
Qua thực tế giảng dạy, học tập và rút kinh nghiệm, tôi nhận thấy rằng:
trong những năm trước đây, người giáo viên dạy theo cách truyền thống “thầy
đọc trò chép”. Mục đích là làm sao truyền thụ được nội dung thông tin đã định
4
sẵn theo ý muốn chủ quan của giáo viên. Nội dung cần truyền đạt cho học sinh
chỉ căn cứ vào nội dung bài học trong sách giáo khoa. Như vậy, lôgíc của bài học
chỉ dựa vào sách giáo khoa và lôgíc lập luận của giáo viên người trình bày mà
không tính đến lôgíc tiếp nhận kiến thức của học sinh vốn là nhân vật trung tâm
của giờ học. Việc kiểm miệng không được chú trọng và cơ bản là kiểm tra bài cũ
vừa tốn nhiều thời gian, lại gây tâm lý căng thẳng cho học sinh hơn nữa lại
không thể kiểm tra được nhiều em cùng một lúc. Vì vậy không thể đánh giá được
khả năng của học sinh. Mặt khác, trong suốt quá trình dạy bài mới giáo viên

thường chỉ đưa ra những câu hỏi phát vấn trao đổi với học sinh mà ít khi xem đó
là một hình thức kiểm tra miệng rất tích cực, do vậy thường không cho điểm để
khuyến khích học sinh. Dẫn đến tình trạng học sinh rất ngại xung phong lên
bảng, trả lời câu hỏi, lâu dần học sinh sẽ lười trả lời câu hỏi và nhác nghiên cứu
tài liệu mới, kiến thức cơ bản không được khắc sâu nên khi áp dụng vào kiểm tra
các em sẽ mau quên, kết quả làm bài thấp.
2. Đối với giáo viên
Đa số giáo viên trong trường nhiệt tình và có trách nhiệm cao trong công
việc giảng dạy và giáo dục học sinh. Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm giảng
dạy và chuyên môn nâng cao trình độ chuyên môn và kĩ năng sư phạm. Tuy
nhiên, nhiều giáo viên trẻ kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều, đa số giáo viên
thiếu kinh nghiệm trong việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực, có thực hiện nhưng hiệu quả chưa cao.
3. Đối với học sinh
Đối với học sinh công việc học bài cũ và chuẩn bị bài mới là thường
xuyên, liên tục trong cả quá trình học. Tuy nhiên, việc thực hiên công việc này
của đa số học sinh là rất chểnh mảng, điều này thể hiện ở việc các em rất ít xung
phong lên bảng, không chịu hoạt động trong việc chủ động tiếp thu bài mới, việc
các em trả lời câu hỏi kiểm tra bài cũ hầu như điểm rất thấp. Nhiều học sinh học
đối phó bằng cách học bài cũ xung phong lên bảng một hôm để lấy điểm cao sau
đó không bao giờ xung phong lên bảng nữa.
Trong các đề thi kiểm tra học kỳ (do Sở giáo dục hoặc trường ra) hoặc đề
thi tốt nghiệp (do Bộ giáo dục ra) bằng hình thức trắc nghiệm 100% nên nhiều
học sinh đã lơ là trong việc học bài cũ và thực hành các kỹ năng giải bài tập mà
chỉ trông mong vào sự may rủi trong việc làm bài trắc nghiệm.
Mặt khác, đa số học sinh trường tôi ở nông thôn, do hoàn cảnh gia đình
nên nhiều học sinh phải phụ giúp cha mẹ nên không có nhiều thời gian học tập,
tài liệu tham khảo hạn chế, kiến thức về bộ môn bị hổng nhiều nên nhiều em
chưa thật sự yêu thích bộ môn này. Điều này dẫn đến ý thức tự giác học tập của
nhiều em chưa cao. Nhiều em thụ động không học bài cũ, không chuẩn bị bài

5
trước khi đến lớp. Để đối phó với giáo viên các em thường dùng sách “Học tốt
Sinh học”, hoặc “Sách giải bài tập” mà không chịu khó học bài cũ, nghiên cứu
bài mới hay thực hành các kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Tất cả những yếu tố trên làm cho học sinh lười nhác, thụ động trong học
tập, chất lượng dạy và học không cao.
III. GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Như trên đã nói việc kiểm tra để lấy điểm miệng không chỉ thực hiện vào
đầu của mỗi tiết học mà tùy theo từng kỹ năng, kiến thức có thể thực hiện vào
đầu, giữa hay cuối của tiết học. Muốn thực hiện được việc kiểm tra miệng đạt kết
quả thì cần có những nội dung sau:
1. Chuẩn bị của giáo viên:
- Để nâng cao hiệu quả giờ day thông qua việc đổi mới phương pháp kiểm
tra miệng, công tác chuẩn bị của giáo viên rất quan trọng, đặc biệt là chuẩn bị bài
soạn. Bài soạn không phải là khuôn mẫu để giáo viên truyền đạt những hiểu biết
của bản thân mình, truyền đạt sự sáng tạo mà để khơi dậy sự sáng tạo của học
sinh. Giáo viên phải tiến hành lần lượt các bước tham khảo tài liệu, SGK đến
việc lựa chọn nội dung, tình huống có vấn đề. Có như vậy bài soạn của giáo viên
mới chặt chẽ hơn, đảm bảo cho học sinh tiếp thu tri thức chính xác, khoa học
hơn.
- Công việc chuẩn bị của giáo viên trước hết là phải xác định mục tiêu, nội
dung trọng tâm của bài học, từ đó xác định nội dung cần kiểm tra.
- Việc chọn những tình huống có vấn đề không chỉ dừng lại ở kiến thức có
trong SGK mà giáo viên phải lựa chọn những nội dung, tình huống nào cho phù
hợp với khả năng tự phát huy tính tích cực của học sinh. Điều quan trọng ở đây
là giáo viên phải biết cách sắp xếp các nội dung, tình huống đó như thế nào để
khi bắt gặp tình huống, qua quá trình nghiên cứu, học tập, trao đổi học sinh có
thể nắm được tri thức bài học một cách dễ dàng.
- Cùng với việc đưa ra tình huống có vấn đề, giáo viên đưa ra một hệ thống
các câu hỏi và cách giải quyết vấn đề làm sao buộc học sinh phải huy động vốn

tri thức đã có, vận dụng phương pháp tư duy lôgic để giải quyết vấn đề. Như
vậy, câu hỏi mà giáo viên đưa ra phải làm sao giải quyết được thực chất của vấn
đề đã nêu, đồng thời phải phù hợp với mức độ tối thiểu kiến thức và kỹ năng mà
học sinh đã thu nhận được trong quá trình học tập. Câu hỏi đặt ra cho học sinh
phải chính xác, rõ để học sinh không hiểu thành hai nghĩa khác nhau dẫn đến
việc trả lời lạc đề.
6
- Giáo viên có thể phải thiết kế lại các yêu cầu, bài tập trong sách giáo
khoa hay ra các bài tập tương tự để tránh việc các em sử dụng các đáp án trong
sách “Hướng dẫn học tốt” nhằm đối phó với giáo viên.
Mặc dù câu hỏi và cách giải quyết vấn đề đã được giáo viên chuẩn bị
trước, nhưng tùy theo tình hình học tập của học sinh trong buổi học, trong tiết
học mà giáo viên có thể thay đổi câu hỏi và cách giải quyết vấn đề cho phù hợp.
Trong giờ học, các câu trả lời của học sinh có thể không trả lời được nội dung tri
thức mà bài học đòi hỏi. Do vậy giáo viên phải chuẩn bị câu hỏi phụ hoặc chủ
động giảng giải cho học sinh hiểu được vấn đề.
- Cột điểm Miệng trong sổ điểm cá nhân được chia thành 2 cột : M1 và M2.
Cột M1 sẽ ghi điểm cho học sinh trực tiếp lên bảng để trả lời hoặc làm bài tập.
Cột M2 được ghi điểm cho học sinh ngồi dưới lớp để trả lời hoặc làm bài tập.
Điểm miệng chính thức của học sinh là điểm trung bình cộng của M1 và M2

Lớp 12A
2
( HKI / 2011 -2012)
Số
TT
Họ và tên học sinh
M
M1 M2
1 Nguyễn Trọng Anh 8

2 Phạm Văn Anh 3
3 Lê Thế Anh 6 7
4 Nguyễn Thị Bình 8 9
5 Nghuyễn Đình Cường 9, 9 8
6 Vũ Văn Chung 5
7 Nguyễn Văn Dậu 7
8 Phạm Văn Diện 2 7
9 Đỗ Thị Dung 7 7
10 Đinh Thị Dung 9


2. Chuẩn bị của học sinh:
Đây là khâu rất quan trọng và cực kì cần thiết cho chính bản thân học sinh
và đồng thời nếu học sinh làm tốt khâu này sẽ trợ giúp rất nhiều cho giáo viên
trong quá trình thực hiện tiết dạy - học.
Việc chuẩn bị của học sinh đã được giáo viên yêu cầu và hướng dẫn ngay
từ đầu năm học, học sinh sau mỗi bài học về nhà cần chuẩn bị:
+ Học bài cũ: nắm được trọng tâm bài học, làm bài tập SGK, sách bài tập,
và tài liệu tham khảo nếu có.
+ Chuẩn bị bài mới: trước hết các em đọc lướt qua nội dung bài mới, xác
định nội dung chính của bài và tập trả lời các câu hỏi lệnh trong các mục SGK.
7
Ngoài ra với những bài khó học sinh có thể lập dàn ý của bài theo hướng dẫn của
giáo viên trước đó thông qua hình thành hệ thống các câu hỏi và tự trả lời.
3. Những yêu cầu sư phạm về cách tổ chức kiểm tra miệng:

- Tạo điều kiện thuận lợi để học sinh có thể bộc lộ một cách tự nhiên đầy
đủ nhất những hiểu biết của các em.
- Dựa vào những câu trả lời miệng và hoạt động thực hành của học sinh
mà phát hiện được tình trạng thật của kiến thức và kỹ năng của các em.

- Thái độ và cách đối xử của giáo viên với học sinh có ý nghĩa to lớn trong
khi kiểm tra miệng. Giáo viên cần biết lắng nghe câu trả lời, biết theo dõi hoạt
động của học sinh và trên cơ sở đó rút ra kết luận về tình trạng kiến thức của học
sinh. Sự hiểu biết của giáo viên về cá tính học sinh, sự tế nhị và nhạy cảm sư
phạm trong nhiều trường hợp là những yếu tố cơ bản giúp thấy rõ thực chất trình
độ kiến thức và kỹ năng của học sinh được kiểm tra.
- Trong quá trình học sinh đang trả lời câu hỏi có thiếu sót hoặc sai, nếu
không có lí do gì cần thiết giáo viên cũng không nên ngắt lời của học sinh. Cùng
là một sai sót nhưng giáo viên phải biết sai sót nào nên sửa ngay và sai sót nào
thì nên đợi học sinh trả lời xong.
- Nên phối hợp các cách kiểm tra và cùng một lúc có thể kiểm tra được
nhiều học sinh: trong lúc gọi một số học sinh lên bảng thì giáo viên ra cho các
học sinh ở dưới lớp câu hỏi khác sau đó sẽ thu vở nháp của một số em để chấm.
- Khi tổ chức kiểm tra thì giáo viên phải giải quyết các khó khăn lớn sau
đây: khi một hay vài học sinh được chỉ định lên bảng thì các học sinh khác trong
lớp cần phải làm gì và làm như thế nào. Giáo viên gọi nhiều em cùng một lúc,
đưa ra yêu cầu khác nhau phù hợp với trình độ của mỗi học sinh sau đó đặt các
câu hỏi cho cả lớp sau khi các học sinh này hoàn thành xong nhiệm vụ của mình
như sau: “ Bạn trả lời như vậy có đúng không?”, “Các em có đồng ý với câu trả
lời đó của bạn không?”, “ Có điểm nào sai hoặc thiếu không ?”… Ngoài những
câu cơ bản, giáo viên có thể sử dụng các câu hỏi phụ trong quá trình kiểm tra
miệng. Nhờ những câu hỏi bổ sung đó mà giáo viên có thể hình dung được chất
lượng kiến thức của học sinh.
4. Các cách kiểm tra miệng:
Như ta đã biết, kiểm tra miệng là việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong
các tiết dạy. Vì vậy hoạt động này phải đa dạng để tránh sự nhàm chán đơn điệu,
tạo không khí sinh động trong lớp học và giúp học sinh học tập có hiệu quả hơn.
Tuỳ theo mỗi tiết học và tuỳ theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kỹ
năng mà giáo viên có thể áp dụng các cách kiểm tra miệng khác nhau.
8

4.1. Đối với kiểm tra đầu tiết dạy
a. Cách kiểm tra truyền thống:
Gọi 1 hoặc 2 học sinh lên bảng trả lời câu hỏi bài cũ, hoặc giáo viên nêu
câu hỏi sau đó lấy tinh thần xung phong của học sinh. Cách kiểm tra này hiệu
quả không cao vì:
+ Nhiều học sinh không học bài cũ vì em nghĩ rằng có thể không đến lượt
mình, một số em lại học kiểu đối phó bằng cách học bài cũ một hôm để xung
phong lên bảng lấy điểm cao sau đó có thể không cần học bài cũ nữa…
+ Mặt khác, cách kiểm tra này vừa tốn nhiều thời gian, lại gây tâm lí căng
thẳng cho học sinh hơn nữa không thể kiểm tra được nhiều em cùng một lúc.
Như vậy, với cách kiểm tra bài cũ truyền thống, học sinh ngày càng trở
nên lười biếng trong việc học bài cũ, kết quả học tập không cao, không thể phát
huy được tính tích cực học tập của các em.
b. Cách kiểm tra phát huy tính tích cực của học sinh:
Qua kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tôi xin đưa ra một số cách kiểm
tra nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học bài cũ như sau:
Cách 1:
Cách thực hiện : Gọi một lượt 4 học sinh lên bảng. Giáo viên đưa ra câu
hỏi chung cho tất cả, học sinh nào trả lời được trước thì giáo viên cho phép. Các
học sinh còn lại sẽ trả lời các câu hỏi phụ hoặc bổ sung cho bạn trả lời trước.
Ví dụ: Khi kiểm tra bài cũ kiến thức tiết 1, bài: Gen, mã di truyền và quá
trình nhân đôi ADN.
Câu hỏi: Gen là gì? Trình bày cấu trúc chung của một gen cấu trúc ?
HS 1: Gen là một đoạn của phân tử ADN. Cấu trúc gồm 3 vùng trình tự
nuclêôtit : vùng điều hoà, vùng mã hoá, vùng kết thúc.
HS 2: Gen là một đoạn của phân tử ADN mang thông tin mã hoá cho 1 chuỗi
pôlipeptit hay 1 phân tử ARN. Cấu trúc gồm 3 vùng trình tự nuclêôtit : vùng điều
hoà, vùng mã hoá, vùng kết thúc.
HS 3: Bổ sung cho ý kiến trả lời của HS 2 : về vị trí và chức năng của các vùng
trình tự nuclêôtit.

HS 4: có thể trả lời câu hỏi bổ sung của giáo viên đưa ra.
Sau khi học sinh trả lời xong, giáo viên nhận xét, bổ sung để khắc sâu kiến
thức cho học sinh, đồng thời cho điểm. Học sinh trả lời nhanh và hoàn chỉnh
nhất được cho điểm vào cột M1. Các học sinh khác được cho điểm vào cột M2.
Đây là hình thức kiểm tra đơn giản nhất, dễ thực hiện, có thể áp dụng cho
việc kiểm tra bài cũ hoặc củng cố bài. Với cách này học sinh sẽ bớt đi tâm lý lo
sợ, e ngại khi kiểm tra miệng và có được nhiều sự lựa chọn hơn.
Cách 2:
9
Cách thực hiện : Gọi học sinh để trả lời một câu hỏi mà các em đã được học
và củng cố rất kỹ trong tiết trước (5 điểm), câu thứ hai do một bạn (đang ngồi
dưới lớp) hỏi em một câu trong bài đã học ở tiết trước để em trả lời (2 điểm), câu
thứ 3 do chính em học sinh này hỏi một bạn khác (đang ngồi dưới lớp) (3 điểm).
Số điểm mà em học sinh này đạt được sẽ được ghi vào cột M1, số điểm mà 2 học
sinh khác do đặt câu hỏi đúng hoặc trả lời đúng sẽ được ghi vào cột M2. Sau một
thời gian quen dần cần nâng cao yêu cầu câu hỏi của học sinh đặt ra cho bạn
mình.
Ví dụ: Kiểm tra bài cũ kiến thức phần quá trình nhân đôi AND:
Câu hỏi: Trình bày diên biến của qua trình nhân đôi ADN?
HS: Trả lời
HS khác trong lớp đặt câu hỏi bổ sung:
Vì sao trên mỗi chạc chữ Y, một mạch được tổng hợp liên tục còn mạch kia
được tổng hợp ngắt quãng?
HS đó có thể ra câu hỏi cho một học sinh khác trong lớp:
Nguyên tắc bổ sung, nguyên tác bán bảo tồn là gì?
Lưu ý: Khi thực hiên cách kiểm này giáo viên cần phải linh hoạt gợi ý cho học
sinh đặt câu hỏi cho phù hợp với nội dung cần kiểm tra, để không bị lạc đề và đỡ
tốn thời gian vào bài mới.
Cách kiểm tra để tự học sinh đặt câu hỏi này không chỉ áp dụng cho kiểm
tra miệng mà còn có thể áp dụng với cả khi kiểm tra củng cố cuối bài. Để phát

huy hơn nữa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, giáo viên có thể ra
bài tập về nhà cho các em như sau: Dựa vào phần bài học mỗi em sẽ ra cho cô 5
câu tương tự: 2 câu trắc nghiệm khách quan, 3 câu tự luận vừa có vận dụng cả lý
thuyết vừa có liên hệ thực tế. Đến tiết học tiếp theo giáo viên sẽ thu toàn bộ các
bài của cả lớp và chọn ngẫu nhiên bài của một số em sau đó giáo viên gọi học
sinh cầm những câu hỏi đó để làm bài kiểm tra miệng của mình.
Cách 3:
Cách thực hiện : Gọi 5 - 6 học sinh lên ngồi các dãy bàn đầu, mỗi học sinh
mang theo 1 tờ giấy có đánh số thứ tự từ 1 đến 10, những học sinh trong lớp còn
lại sẽ cùng làm và dùng vở nháp để ghi các đáp án tương ứng.
Giáo viên đọc các câu hỏi lần lượt từ 1 đến 10 và yêu cầu học sinh ghi các
đáp án tương ứng. Sau đó thu bài của các em học sinh được gọi lên và 1 vài bài
của các em ngồi bên dưới để chấm điểm. Mỗi câu đúng tương ứng với 1 điểm.
Sau đó giáo viên có thể ra thêm câu hỏi phụ với nội dung kiến thức khó hơn,
khuyến khích học sinh xung phong trả lời lấy điểm cao hơn.
Bằng cách này, giáo viên có thể kiểm bài cũ hoặc kiểm tra miệng phần
củng cố bài bằng các câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn hoặc các câu hỏi có
phần trả lời ngắn gọn.
10
Ví dụ: Khi kiểm tra kiến thức bài Đột biến số lượng NST, giáo viên có thể
kiểm tra miệng bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm như sau:
1. Đột biến lệch bội là sự biến đổi số lượng nhiễm sắc thể liên quan tới
A. một số cặp nhiễm sắc thể.
B. một số hoặc toàn bộ các cặp nhiễm sắc thể.
C. một, một số hoặc toàn bộ các cặp NST.
D. một hoặc một số cặp nhiễm sắc thể.
2. Một loài sinh vật có bộ NST 2n = 14 và tất cả các cặp NST tương đồng đều
chứa nhiều cặp gen dị hợp. Nếu không xảy ra đột biến gen, đột biến cấu trúc
NST và không xảy ra hoán vị gen, thì loài này có thể hình thành bao nhiêu loại
thể ba khác nhau về bộ NST?

A. 7. B. 14. C. 35. D. 21.
3. Ở cà độc dược 2n = 24. Số dạng đột biến thể ba được phát hiện ở loài này là
A. 12. B. 24. C. 25. D. 23.
4. Cơ thể mà tế bào sinh dưỡng đều thừa 2 nhiễm sắc thể trên mỗi cặp tương
đồng được gọi là
A. thể ba. B. thể ba kép. C. thể bốn D. thể tứ bội
5. Cơ thể mà tế bào sinh dưỡng đều thừa 2 nhiễm sắc thể trên 1 cặp tương đồng
được gọi là
A. thể ba. B. thể ba kép. C. thể bốn. D. thể tứ bội
5. Ở người, một số bệnh di truyền do đột biến lệch bội được phát hiện là
A. ung thư máu, Tơcnơ, Claiphentơ. B. Claiphentơ, Đao, Tơcnơ.
C. Claiphentơ, máu khó đông, Đao. D. siêu nữ, Tơcnơ, ung thư máu.
6. Rối loạn phân li của nhiễm sắc thể ở kì sau trong phân bào là cơ chế làm phát
sinh đột biến
A. lệch bội. B. đa bội. C. cấu trúc NST. D. số lượng NST.
7. Sự không phân ly của một cặp nhiễm sắc thể tương đồng ở tế bào sinh dưỡng
sẽ
A. dẫn tới trong cơ thể có dòng tế bào bình thường và dòng mang đột biến.
B. dẫn tới tất cả các tế bào của cơ thể đều mang đột biến.
C. chỉ có cơ quan sinh dục mang đột biến.
D. chỉ các tế bào sinh dưỡng mang đột biến.
8. Ở cà chua 2n = 24. Khi quan sát tiêu bản của 1 tế bào sinh dưỡng ở loài này
người ta đếm được 22 nhiễm sắc thể ở trạng thái chưa nhân đôi. Bộ nhiễm sắc
thể trong tế bào này có kí hiệu là
A. 2n – 2 B. 2n – 1 – 1 C. 2n – 2 + 4 D. A, B đúng.
9. Cơ thể mà tế bào sinh dưỡng đều thừa 2 nhiễm sắc thể trên 2 cặp tương đồng
được gọi là
A. thể ba. B. thể ba kép. C. thể bốn. D. thể tứ bội
10. Phép lai AAaa x AAaa tạo kiểu gen AAaa ở thế hệ sau với tỉ lệ
11

A. 2/9 B. 1/4 C. 1/8 D. 1/2.
Rõ ràng với các cách kiểm tra trên học sinh không thể học theo kiểu đối
phó, mà xem việc học bài cũ là quan trọng, cần thiết, phải được thực hiện
nghiêm túc, thường xuyên sau mỗi bài học trên lớp. Các cách kiểm tra trên đã
theo hướng đổi mới kiểm tra đánh giá: phát huy tính chủ động sáng tạo của học
sinh, tạo điều kiện để kích thích tư duy, tính năng động về mọi hoạt động ở trên
lớp, giảm “người thầy là trung tâm” mà tăng cường “lấy học sinh là trung tâm”.

4.2. Đối với kiểm tra miệng trong tiết học
a. Cách kiểm tra truyền thống:
Thường trong các tiết học việc kiểm tra miệng và cho điểm khuyến khích
học sinh không được thực hiện liên tục, chưa phát huy được tính tích cực của học
sinh, đa số học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, chỉ có một số em
thường xuyên trả lời còn lại trở nên ỷ lại, không chịu suy nghĩ, hoạt động. Tiết
học trở nên nhàm chán, nhiều khi giáo viên cháy giáo án không thể thực hiện
được mục tiêu bài dạy của mình.
- Đối với cá nhân: Giáo viên thường chỉ đưa ra những câu hỏi phát vấn,
trao đổi với học sinh mà ít khi xem đó là một hình thức kiểm tra miệng rất tích
cực, không cho điểm khuyến khích học sinh. Học sinh trả lời câu hỏi lệnh trong
sách giáo khoa dựa theo sách hướng dẫn học tốt. Trong cả tiết học chỉ có một số
em chịu khó học xung phong lên bảng trả lời câu hỏi, còn lại đa số không chủ
động khi bị giáo viên gọi trả lời thì giống như bị bắt cóc lên bảng nên câu trả lời
lúng túng, không chính xác, gây mất thời gian của tiết học.
- Đối với nhóm: Thường chỉ có một vài học sinh trong nhóm tập trung làm
việc, làm đại diện báo cáo kết quả hoạt động của nhóm, các em khác không làm
gì hoặc thụ động trả lời theo bạn mà không có chính kiến của chính mình. Kết
quả hoạt động nhóm ít khi được giáo viên cho điểm do vậy không phát huy được
hoạt động nhóm, sức mạnh tập thể học tập, nhiều em trở nên lười nhác và thụ
động trong tiếp thu kiến thức.
- Với những cách kiểm tra tổ chức hoạt động học tập như trên không phát

huy được tính tích cực của học sinh.
b. Cách kiểm tra phát huy tính tích cực của học sinh:
Mặc dù theo cách dạy truyền thống có rất nhiều phương pháp rất tích cực
như vấn đáp, nêu vấn đề… Nhưng sinh học là môn học có rất nhiều tiết học
mang tính đặc thù riêng, không thể áp dụng một phương pháp giảng dạy cố hữu
nào. Để bài giảng thêm phong phú, tiết học sôi nổi, phát huy được tính tích cực
12
của học sinh, học sinh trở thành trung tâm của giờ học, tuỳ theo đặc trưng của
từng tiết học có thể áp dụng cách này hay cách khác hoặc áp dụng kết hợp nhiều
phương pháp khác nhau, tiết học mới có hiệu quả. Đặc biệt, việc kết hợp kiểm
tra miệng trong tiết học tôi đã áp dụng mang lại hiệu quả rất cao, có thể phát huy
tính tích cực của học sinh, các em có thể chủ động tiếp thu kiến thức, mạnh rạn
hơn trong việc trả lời các câu hỏi, thể hiện sự hiểu biết của bản thân, bộc lộ khả
năng của chính mình. Dưới đây là một số cách kết hợp kiểm tra miệng trong các
tiết dạy mà tôi đã thực hiện:
b.1. Trong tiết học lí thuyết:
* Đối với cá nhân:
Cách 1:
Cách thực hiện : Sau khi giáo viên nêu nội dung cần nghiên cứu, yêu cầu
học sinh nghiên cứu kĩ nội dung đó. Sau đó giáo viên gọi một học sinh đặt một
câu hỏi về vấn đề đó cho một bạn bất kì trong lớp trả lời, các học sinh khác chú ý
theo dõi, nhận xét câu hỏi và câu trả lời của 2 bạn, giáo viên nhận xét, bổ sung
thống nhất nội dung của vấn đề và cho điểm 2 học sinh vào cột M2.
Lưu ý: Với cách kiểm tra này, sẽ khó thực hiện khi đối tượng học sinh có
học lực yếu, kém. Do vậy, nội dung học sinh nghiên cứu cần được giới hạn cụ
thể, phù hợp với từng đối tượng học sinh. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh
chuẩn bị bài mới trước ở nhà bằng cách lập dàn ý cho bài mới bằng hệ thống câu
hỏi và tự trả lời.
Ví dụ: Khi dạy bài Đột biến gen, giáo viên có thể cho học sinh tự nghiên
cứu nội dung phần I.2. Các dạng đột biến gen trong thời gian 3 phút, sau đó một

em được giáo viên chỉ định tự đặt câu hỏi cho một bạn khác trong lớp trả lời,
sau khi bạn trả lời xong em học sinh đặt câu hỏi được nhận xét và bổ sung ý kiến
về vấn đề đó.
Cách 2:
Cách thực hiện : Sau khi đọc câu hỏi, giáo viên yêu cầu học sinh làm theo
cá nhân, đọc bài nghiên cứu nội dung sách giáo khoa rồi sau đó làm các bài tập,
câu hỏi này trong khoảng 5 phút. Trong khoảng thời gian này giáo viên đi vòng
quanh lớp để hỗ trợ cho các em và quan sát không cho các em nhìn nhau. Sau
khoảng thời gian qui định, giáo viên thu bài của một số em, sau đó yêu cầu cả
lớp trả lời và chấm điểm ngay tại lớp. Và cột điểm này sẽ cho vào cột M2.
Ví dụ: Khi dạy bài NST và đột biến cấu trúc NST, giáo viên yêu cầu học
sinh nghiên cứu mục II. Đột biến cấu trúc NST và trả lời câu hỏi: Phân biệt các
dạng đột biến cấu trúc NST theo các nội dung: khái niệm, hệ quả, hậu quả và
ứng dụng?
- Với cách kiểm tra này, yêu cầu tất cả học sinh đều phải làm việc, bất cứ
em nào cũng được đánh giá thành quả học tập của mình bằng con điểm cụ thể
13
trong từng tiết học. Để được điểm cao, học sinh phải nghiên cứu tài liệu, bài mới
trước ở nhà, hoặc ít nhất các em cũng phải chú ý, tích cực học tập trong tiết học.
* Đối với nhóm:
Cách thực hiện : Sau khi đọc câu hỏi hoặc phát phiếu học tập, giáo viên
yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm, hoàn thành nội dung yêu cầu trong thời
gian nhất định. Giáo viên gọi nhóm học sinh nào làm nhanh nhất cử đại diện
nhóm lên bảng sữa bài. Đồng thời giáo viên thu bài làm của một vài nhóm khác
bất kì để chấm điểm. Cuối cùng giáo viên gọi học sinh ở các nhóm khác nhận xét
bổ sung và cho điểm bài làm của bạn trên bảng, giáo viên là người nhận xét cuối
cùng và cho điểm các cá nhân và nhóm.
Ví dụ : Khi dạy quá trình dịch mã trong bài Phiên mã và dịch mã:
Giáo viên có thể định hướng cho học sinh bằng hệ thống câu hỏi như sau:
+ Giai đoạn mở đầu: 2 tiểu phần của ribôxom gắn vào mARN như thế nào?

+ Giai đoạn kéo dài chuỗi pôlipeptit:
- Các axit amin kế tiếp nhau được vận chuyển vào ribôxom như thế nào?
- Nguyên tắc bổ sung được thể hiện như thế nào?
- Khi nào ribôxom dịch chuyển trên mARN? Theo chiều nào? mỗi bước dịch
chuyển của ribôxom gồm mấy bộ ba?
+ Giai đoạn kết thúc: Khi nào ribôxom rời khỏi mARN?
Sau đó giáo viên cho học sinh xem đoạn phim minh hoạ. Yêu cầu học sinh thảo
luận trình bày quá trình dịch mã.
Lưu ý: Để phát huy tính tích cực của tất cả các nhóm và các thành viên
trong từng nhóm giáo viên cần: ghi nhận những nhóm thường xuyên có câu trả
lời đúng, hoạt động tích cực, cho điểm vào cột M2. Thường xuyên đổi vai trò
nhóm trưởng của các thành viên trong nhóm, tránh để cho một vài thành viên
luôn trả lời, còn các thành viên khác thì không có chính kiến của mình.
b.2. Trong tiết thực hành:
Cách thực hiện : Đây là một kỹ năng rất quan trọng, nếu thực hiện tốt thì
việc kiểm tra miệng học sinh kỹ năng này sẽ có tác dụng rất lớn đối việc khuyến
khích các em học môn sinh học. Tuy nhiên tùy theo trình độ của các em mà giáo
viên nên có những yêu cầu phù hợp nhằm khuyến khích và động viên các em
thực hành. Trong giờ thực hành tùy theo các nội dung mà tôi sẽ yêu cầu các em
thực hành theo cặp, nhóm hoặc cá nhân. Tôi cũng cho học sinh điểm thực hành
của kỹ năng này. Đối với kỹ năng này tôi chỉ áp dụng những nội dung vừa sức
với các em. Hoặc có thể cho điểm cộng cho các em xung phong thực hành trước
lớp theo cặp hoặc nhóm.
Sau khi hướng dẫn, gợi ý và làm mẫu với một học sinh khá trong lớp, tôi
yêu cầu học sinh thực hành theo cặp, hoặc nhóm học tập. Trong thời gian các em
14
đang thực hành, tôi có thể đi quanh để giúp đỡ các em nếu thấy cần thiết. Sau
khoảng 8- 10 phút tôi gọi một vài cặp hoặc nhóm đứng lên thực hành, báo cáo
kết quả sau đó nhận xét và cho điểm.
Ví dụ: Khi học Bài 7: Thực hành: Quan sát các dạng đột biến số lượng NST

trên tiêu bản cố định và trên tiêu bản tạm thời.
Sau khi hướng dẫn cho học sinh quan sát các dạng đột biến số lượng NST
trên tiêu bản cố định (bộ NST của người bình thường, người bị hội chứng Đao),
tôi yêu cầu 3 cặp học sinh quan sát và rút ra nhên xét về số lượng NST trong bộ
NST của người, đồng thời xác định số lượng NST trong từng cặp tương đồng
trên tiêu bản.
Sau đó để dễ quan sát hơn, tôi cho học sinh quan sát qua máy chiếu
projector, học sinh tập xác định các cặp NST tương đồng trên bản ảnh chụp bộ
NST người và tập nhận biết các dạng đột biến NST trên ảnh chụp.
Trong các tiết thực hành với nội dung khác nhau có thể tiến hành theo
những cách khác nhau. Tuy nhiên, kết hợp kiểm tra miệng trong tiết thực hành
như trên sẽ khuyến khích được các em hứng thú học môn sinh học đồng thời rèn
luyện cho các em có được các kĩ năng áp dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống
và sản xuất ở gia đình và địa phuơng.
b.3. Trong tiết Bài tập:
Cách thực hiện : Đây là kỹ năng khó vì kiến thức của các em còn hạn chế,
mặt khác trong các tiết lí thuyết nội dung rất nhiều nên thời gian để hướng dẫn
học sinh hình thành các công thức tổng quát là rất ít. Tôi thường thiết kế lại một
số bài tập trong sách giáo khoa (để tránh tình trạng học sinh dùng sách hướng
dẫn để trả lời) đồng thời ra thêm một số bài tập trắc nghiệm, sau đó gọi học sinh
lên bảng làm để lấy điểm hoặc thu bài của một số em để chấm.
Ví dụ : Khi dạy tiết 16, bài 15: Bài tập chương I và II.
- Bài 1, chương I: Dưới đây là một phần trình tự nuclêôtit của một mach trong
gen: 3

…TATGGGXATGTAATGGGX…5

Cũng với các yêu cầu như bài cho nhưng tôi có thể đổi bằng một trình tự
nuclêôtit khác về số lượng và thành phần.
Ví dụ: 5


GGXATATTTXGXTGGGGXATA…3

- Bài 2, chương II: Trong phép lai giữa hai cá thể có kiểu gen sau đây:
AaBbCcDdEe X aaBbccDdee
Tôi thường thay kiểu gen của cặp bố mẹ đem lai:
Ví dụ: AabbCcDdEe X AaBbCcddEe ……………….
b.4. Trong tiết học ôn tập:
Cách thực hiện : Áp lực thời gian trong tiết ôn tập là rất lớn vì vừa phải ôn
phần lí thuyết vừa phải tải phần bài tập nên thời gian dành cho việc kiểm tra học
15
sinh bị hạn chế. Với tiết này sẽ giúp cho học sinh có điều kiện ôn tập lí thuyết,
củng cố và rèn luyện kỹ năng giải bài tập (đây là phần được gặp rất nhiều trong
các đề thi, kiểm tra định kỳ).
Trong tiết này tôi sẽ phát bài tập gồm 10 câu trắc nghiệm khách quan cho cả
lớp làm trong 10 phút, đồng thời gọi 3 học sinh lên bảng, mỗi em làm 1 câu bài
tập tự luận. Sau 10 phút tôi thu bài của 5 em học sinh bất kỳ và giao cho 5 em
khác chấm, 2 em học sinh trên bảng vẫn tiếp tục giải trong khi giáo viên sửa 10
câu trắc nghiệm. Sau đó giáo viên thu lại bài của 5 em được chấm và kiểm tra
lại, ghi điểm vào cột M2. Tiếp tục hướng dẫn cách làm bài tự luận trên bảng và
yêu cầu 3 học sinh chấm chéo cho nhau, giáo viên vừa sửa cho cả lớp vừa quan
sát để cho điểm.
4.3. Đối với kiểm tra miệng cuối tiết học
Đây là khâu rất quan trọng giúp giáo viên có thể đánh giá được khả năng
tiếp thu kiến thức của học sinh trong tiết học. Tuy nhiên, thời gian dành cho khâu
củng cố lại rất ngắn, nhiều khi không còn thời gian. Do vậy không thể yêu cầu
học sinh trả lời nhiều câu hỏi hết toàn bộ nội dung của bài học.
a. Cách củng cố bài truyền thống:
Theo cách dạy truyền thống, giáo viên thường yêu cầu học sinh trả lời các
câu hỏi cuối bài, hoặc chỉ đơn giản là nhắc lại nội dung của bài học. Với cách

củng cố bài như vậy học sinh thường ỷ lại vào vở ghi, nội dung trên bảng hoặc
dựa vào tài liệu sách giải bài tập để trả lời câu hỏi. Như vậy, giáo viên không thể
đánh giá khả năng tiếp thu kiến thức thật sự của học sinh. xem nhẹ hoặc bỏ qua
khâu củng cố.
b. Đổi mới củng cố bài bằng kiểm tra miệng:
Đổi mới cách củng cố bài bằng kết hợp kiểm tra miệng có thể sử dụng hầu
hết các cách mà tôi đưa ra ở trên đây khi kiểm tra bài cũ. Tuy nhiên, nội dung cơ
bản của câu hỏi và trả lời chính là nội dung trọng tâm của bài học, đồng thời để
xác định được khả năng vận dụng kiến thức của học sinh giáo viên cần đưa
thêm một số câu hỏi bài tập vận dụng, liên hệ thực tế….Các câu hỏi có thể ở
dạng tự luận, hoặc có thể ở dạng trắc nghiệm, yêu cầu tư duy cao đối với học
sinh.
Ví dụ: Khi học xong Bài 3: Điều hoà hoạt động của gen. Giáo viên có thể
đặt câu hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu đột biến xảy ra ở gen điều hoà?
Khi học xong Bài 5: Đột biến cấu trúc NST. Giáo viên nêu câu hỏi: Trong
các dạng đột biến cấu trúc NST, dạng nào gây hậu quả lớn nhất? Vì sao?
Đây là hình thức kiểm tra phát huy được tính chủ động, tích cực của học
sinh, giảm bớt áp lực căng thẳng trong kiểm tra miệng vừa phát huy được việc
16
đổi mới kiểm tra đánh giá cả 2 hình thức tự luận và trắc nghiệm, vừa kiểm tra
miệng, vừa ôn tập.
Qua kinh nghiệm bản thân, tôi thấy rằng việc kết hợp kiểm tra miệng trong
khâu củng cố bài sẽ khuyến khích được học sinh chủ động tiếp thu, lĩnh hội kiến
thức hơn. Cuối giờ các em được thể hiện sự hiểu bài của mình trong cả tiết học,
khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn của bản thân. Qua đó, giáo viên đánh
giá được hiệu quả giờ dạy, và có những hướng điều chỉnh phương pháp giảng
dạy của bản thân cho phù hợp với nội dung bài học, phù hợp với đối tượng học
sinh, nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy của bản thân.
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Để đánh giá hiệu quả của việc áp dụng đề tài này, tôi đã so sánh và thống kê

kết quả như sau:
* Ở lớp không áp dụng đề tài trên:
+ Tình trạng học sinh nhác học vẫn phổ biến, nhiều em không chuẩn bị bài ở nhà
trước khi đến lớp, các em bị động trong các câu hỏi của giáo viên, không khí tiết
học trầm,……
+ Điểm kiểm tra miệng của các em không cao, có nhiều em bị điểm không (vì
các em lười học bài cũ).
+ Điểm trung bình học kỳ môn của các em thấp hơn.
* Ở lớp áp dụng đề tài trên:
- Sau một kì áp dụng phương pháp mới này, bản thân tôi cũng như học sinh gặp
rất nhiều khó khăn, tuy nhiên bước đầu chúng tôi đẫ làm quen dần với các cách
kiểm tra miệng trên lớp, một số biểu hiên tích cực như:
+ Không khí tiết học trở nên nhẹ nhàng hơn, sôi nổi hơn, các em chủ động hơn
trong việc trả lời câu hỏi, một số học sinh có thể tự tin đặt câu hỏi cho các bạn,
tự tin trình bày những hiểu biết của bản thân về vấn đề học tập, tham gia hoạt
động nhóm sôi nổi và có hiệu quả….
+ Học sinh tích cực học bài cũ và chuẩn bị bài mới trước ở nhà, tích cực nghiên
cứu bài mới trên lớp.
+ Hầu hết học sinh của tôi có điểm kiểm tra miệng cao hơn năm trước, số em bị
điểm kém rất thấp, không có em bị điểm 0.
+ Điểm trung bình môn học kỳ cũng được tăng lên rõ rệt.
* Cụ thể: Số liệu thống kê điểm kiểm tra miệng, và điểm trung bình môn học kì
I năm học 2011 – 2012 giữa lớp đối chứng (không áp dụng đổi mới kiểm tra
miệng) và lớp thực nghiệm (áp dụng các cách đổi mới kiểm tra miệng) như sau:
17
Số liệu thống kê điểm kiểm tra miệng học kỳ I năm học 2011-2012
Lớp Tổng số
học sinh
8-10
điểm

6-7
điểm
4-5
điểm
1-3
điểm
0
điểm
12A
11
Lớp đối chứng
40 3 5 15 13 4
7.5% 12.5% 37.5% 32.5% 10%
12A
2
Lớp thực nghiệm
42 7 9 17 9 0
16.7% 21.4% 40.5% 21.4% 0%
Số liệu thống kê điểm trung bình môn học kỳ I năm học 2011-2012:
Lớp Tổng số
học sinh
8.0 trở
lên
6.5
-7.9
5.0
-6.4
3.5
-4.9
0

-3.4
12A
11
Lớp đối chứng
40 1 3 23 10 3
2.5% 7.5% 57.5% 25% 7.5%
12A
2
Lớp thực nghiệm
42 6 10 21 5 0
14.3% 23.8% 50% 11.9% 0%
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Vấn đề đổi mới phương pháp giáo dục phải gắn liền với đổi mới kiểm tra
đánh giá trong đó đổi mới kiểm tra miệng là một khâu vô cùng quan trọng và
mang tính cấp bách mà giáo viên phải thực hiện thường xuyên để nâng cao chất
lượng giáo dục và phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong quá trình
lĩnh hội kiến thức. Rõ ràng qua một năm áp dụng đề tài này, tôi nhận thấy không
khí lớp học đã sinh động hẳn, thái độ học tập của các em mang tính tự giác cao,
các em không còn tư tưởng học chỉ để đối phó. Hơn nữa kết quả học tập của học
sinh cũng được cải thiện đáng kể. Chính điều đó cũng là động lực giúp giáo viên
nhiệt tình, phấn chấn hơn trong các giờ dạy. Thông qua các hình thức kiểm tra
miệng thường xuyên này, giáo viên sẽ phát hiện được khả năng của học sinh
cũng như biết được em nào còn yếu kém để kịp thời giúp đỡ các em bổ sung
kiến thức và kỹ năng. Ngoài ra còn giúp giáo viên điều chỉnh quá trình dạy học
của mình cho phù hợp với trình độ hiểu biết, nhận thức của học sinh.
Tuy nhiên để áp dụng những cải tiến này một cách hiệu quả, đòi hỏi sự
chuẩn bị rất chu đáo của giáo viên. Giáo viên phải thiết kế lại các câu hỏi, trong
sách giáo khoa và ra thêm các dạng bài tập sát với các đề kiểm tra, đề thi. Ngoài
ra giáo viên phải đánh giá thật công bằng, khách quan, thái độ cư xử phải tế nhị,

khuyến khích, động viên các em kịp thời. Trong khi kiểm tra bài của học sinh thì
giáo viên phải có cách để thu hút được các học sinh khác cùng tham gia để giải
18
quyết vấn đề, tránh tình trạng giáo viên hỏi đáp với một người. Giáo viên đặt hệ
thống câu hỏi để cho cả lớp cùng suy nghĩ và huy động kiến thức, như thế thì có
khả năng kiểm tra trình độ hiểu biết của các học sinh trong lớp.
II. KIẾN NGHỊ
Qua thực tế giảng dạy và thực hiện đề tài này tôi xin được kiến nghị một số
việc như sau:
- Chương trình sách giáo khoa nên được giảm tải để giáo viên có thời gian
hơn trong việc kiểm tra miệng học sinh.
- Hình thức đánh giá và thi cử nên được cải tiến, các đề kiểm tra không nên
100% trắc nghiệm, vì như vậy sẽ không đánh giá được các kỹ năng của học sinh.
Qua đó hạn chế tính ỷ lại, lười nhác của học sinh trong việc tích luỹ kiến thức,
kỹ năng, đồng thời giúp học sinh thấy được kết quả phản ánh đúng với khả năng
thực của các em.
- Thư viện nhà trường nên bổ sung thêm nhiều sách tham khảo cho học sinh
và giáo viên.
-Mở các cuộc hội thảo chuyên đề về phương pháp dạy học thường xuyên
hơn.
Trên đây là kinh nghiệm nhỏ bé của tôi trong việc đổi mới kiểm tra miệng
nhằm góp phần đổi mới kiểm tra, đánh giá. Rất mong nhận được nhiều ý kiến
đóng góp của các đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Hậu Lộc, ngày 15 tháng 4 năm 2012

Giáo viên viết SKKN:
Đỗ Thị Sáng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Phương Hoa – Lý luận dạy học hiện đại.
19

2. Thái Duy Tuyên – Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới. NXB Giáo
dục 2008.
20

×