SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN
***** *****
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỜ DẠY CỦA GIÁO VIÊN
TRƯỜNG THCS BẮC SƠN – BỈM SƠN
THÔNG QUA VIỆC DỰ GIỜ THĂM LỚP
Người thực hiện: Cao Thị Liên
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường THCS Bắc Sơn
Bỉm Sơn – Thanh Hóa
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý
THANH HÓA - NĂM 2013
ĐỀ TÀI: NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỜ DẠY CỦA GIÁO VIÊN TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ BẮC SƠN-BỈM SƠN THÔNG QUA VIỆC
DỰ GIỜ THĂM LỚP
A, LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 khóa XI đã nhấn mạnh: “Phát triển giáo dục - đào
tạo và khoa học – công nghệ là vấn đề đặc biệt quan trọng, được coi là quốc sách hàng đầu,
là động lực phát triển kinh tế”.
Để đáp ứng nhu cầu đổi mới của đất nước, để thực hiện Nghị quyết hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ 6 khóa XI, ngành giáo dục đã tiếp tục đặt ra cho hệ thống giáo dục toàn quốc là
phải nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục. Đây là một yêu cầu cấp thiết đối với các nhà
quản lý cũng như mỗi giáo viên trong các nhà trường. Chất lượng giảng dạy và giáo dục của
nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào giờ lên lớp của mỗi giáo viên. Chính vì vậy mà việc dự
giờ thăm lớp là một trong những việc làm hết sức quan trọng không những đối với mỗi giáo
viên mà còn đối với mỗi nhà quản lý chuyên môn trong mỗi nhà trường. Thông qua việc làm
này giúp giáo viên rất nhiều trong công tác phát triển chuyên môn và thực hiện đổi mới
phương pháp giảng dạy của mình, đồng thời giúp các nhà quản lý giáo dục có các biện pháp
phù hợp bồi dưỡng giáo viên, nâng cao chất lượng đội ngũ, từ đó nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện cho học sinh.
Vai trò của người quản lý chỉ đạo chuyên môn, ngoài việc bồi dưỡng giáo viên nắm chắc lý
luận để đổi mới PPDH, thì hoạt động dự giờ thăm lớp là một việc làm cấp thiết quan trọng,
tạo cơ hội thuận lợi cho giáo viên trực tiếp thể hiện những ý tưởng sáng tạo và phát huy tốt
năng lực tự học, tự bồi dưỡng của họ.
Trong những năm trước đây, để nâng cao chất lượng chuyên môn, để giáo viên thực
hiện tốt đổi mới PPDH và nắm chắc tình hình học tập của các lớp thì phó hiệu trưởng phụ
trách chuyên môn như tôi đã đi dự giờ thăm lớp thật nhiều, góp ý cho giáo viên thật nhiều,
thật kỹ thì họ sẽ vững vàng hơn về chuyên môn, nghiệp vụ và phương pháp lên lớp. Nhưng
trên thực tế, điều đó đúng nhưng chưa đủ, có những giáo viên đã được góp ý kỹ, đã chỉ ra
những sai sót của tiết dạy nhưng rồi lại lặp lại những sai sót ấy ở bài dạy sau. Hơn nữa đối với
CBQL như tôi và nhiều CBQL khác chỉ có chuyên môn của một vài môn học nhưng phải đi
dự giờ đánh giá tất cả các môn học trong nhà trường nên cũng gặp nhiều khó khăn về phần
đánh gíá kiến thức. Vì vậy, về phần đánh giá này chủ yếu dựa vào giáo viên cùng bộ môn
trong tổ. Nhưng trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ chưa có sự bàn luận, thảo luận
sôi nổi của giáo viên, họ ngại nhận xét đánh giá hoặc nhận xét qua loa, nhận xét còn chung
chung, sợ bạn mình cho là soi mói…, xếp loại còn cào bằng, nhìn chung, khâu đánh giá giờ
dự của người dự còn yếu, người dự chưa dám đánh giá đúng thực chất, chưa sâu sát và còn
lúng túng nên chưa có hiệu quả cao. Chất lượng giáo dục trong nhà trường không tăng, hoặc
2
tăng không đáng kể, nhà trường nhiều năm liên tục bị xếp thứ hạng về chất lượng giáo dục ở
tốp cuối trong thị xã.
Với lòng mong mỏi khắc phục được những vướng mắc trong công tác dự giờ thăm lớp để
nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường tôi đã chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả giờ
dạy của giáo viên trường trung học cơ sở Bắc Sơn-Bỉm Sơn thông qua việc dự giờ thăm
lớp”.
B, NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI:
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
DỰ GIỜ THĂM LỚP
I, CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1, Quan niệm về kiểm tra đánh giá giờ dạy trên lớp của giáo viên: Là một việc làm có tính hệ
thống nhằm xem xét sự thành công của GV trong giờ dạy về nội dung kiến thức bài dạy, về
phương pháp dạy học đã áp dụng và tác phong, thái độ của giáo viên trong giờ dạy, bao gồm
mô tả định tính và định lượng kết quả đạt được của giáo viên thông qua những nhận xét, so
sánh với các tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại.
2, Tác dụng của việc dự giờ thăm lớp:
2.1. Đối với cán bộ quản lý nhà trường:
Giúp CBQL nắm bắt được năng lực sư phạm của từng giáo viên trong trường, biết được thực
trạng dạy và học trong nhà trường, từ đó có biện pháp phù hợp để phát huy những ưu điểm,
hạn chế những nhược điểm của giờ dạy trên lớp, ngăn ngừa những biểu hiện sai lệch và sử
dụng đúng người, đúng việc, phát huy được năng lực sở trường của mỗi giáo viên.
2.2. Đối với giáo viên:
Thông qua việc dự giờ thăm lớp đã giúp cho giáo viên tự đánh giá được năng lực chuyên
môn của mình, đồng thời rút kinh nghiệm và học hỏi thêm từ đồng nghiệp, từ các nhà quản lý,
cách xác định mục tiêu bài học, về kiến thức, kỹ năng, phương pháp dạy học, cách tổ chức các
hoạt động của giáo viên và học sinh trên lớp, tổ chức hoạt động nhóm… sao cho phù hợp với
đơn vị kiến thức và có hiệu quả, kết hợp kiểm tra đánh giá của thầy với trò và của trò với trò
như thế nào cho tốt…từ đó thúc đẩy quá trình tự học tự bồi dưỡng, tự vươn lên của mỗi giáo
viên.
II, THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DỰ GIỜ THĂM LỚP CỦA GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG
THCS BẮC SƠN-BỈM SƠN:
Trong những năm trước năm học 2008-2009 hoạt động dự giờ thăm lớp của các giáo viên
nhà trường chưa thực sự đạt hiệu quả cũng như chưa đạt được mục đích yêu cầu của nó. Đa số
các GV trong nhà trường chưa tự giác, chưa tích cực dự giờ của đồng nghiệp bởi tâm lý e ngại
và cho rằng đi dự giờ là đi kiểm tra tiết dạy của người khác. Nói đến dự giờ là nói đến hoạt
động của hiệu trưởng, hiệu phó, tổ trưởng, tổ phó chuyên môn. Chính vì vậy mà đa số GV
không chịu đi dự giờ hoặc có đi thì đi dự chiếu lệ cho nó có, có người còn mượn vở dự giờ
của người khác chép lại cho đủ số tiết theo quy định, mang tính chất đối phó. Hầu hết các GV
chỉ tham gia dự giờ trong các giờ thao giảng GVG cấp trường, cấp thị xã… hoặc chào mừng
20-11, 8-3…
3
Đối với công tác quản lý của BGH về dự giờ thăm lớp thì chưa chặt chẽ, chưa sát sao, chưa
có kế hoạch lâu dài, đánh giá còn chung chung, chưa cụ thể, chưa có biểu dương khen thưởng
đối với cá nhân GV và tập thể tổ chuyên môn thực hiện tốt việc dự giờ thăm lớp…
Chính vì vậy, chất lượng về đội ngũ cán bộ giáo viên và chất lượng học sinh đại trà và học
sinh giỏi trong những năm này tăng lên không đáng kể.
1. Thực trạng trình độ đào tạo, năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ giáo viên trường
THCS Bắc Sơn - Bỉm sơn trong 2 năm 2006-2007 và 2007-2008:
Bảng thống kê trình độ đào tạo của đội ngũ CBGV:(bảng 1)
Năm học
Tổng số
CBGV
TĐ Cao
đẳng (đạt
chuẩn)
TĐ Đại học
(trên chuẩn)
TĐ Trung cấp
(dưới chuẩn)
Chứng chỉ
tin học
2006-
2007
37
28=75,7%
6 = 16,2 % 3 = 8,1% 5 = 13,5%
2007-
2008
35 26=74,3% 6 = 17,1 % 3 = 8,6% 5 = 14,3%
Qua thống kê (bảng 1) ta thấy: Trình độ giáo viên là Trung cấp (chưa đạt chuẩn) vẫn đang còn
từ 8,1% (năm 2007) đến 8,6% (năm 2008), trình độ Đại học (trên chuẩn) còn thấp, chỉ mới đạt
16,2% (năm 2007) đến 17,1% (năm 2008), do đó các GV có trình độ chuyên môn vững vàng,
các GV nòng cốt của các môn học chưa có nhiều. Về trình độ tin học của đội ngũ CBGV đang
còn thấp, nhiều GV còn chưa thông thạo nhiều về tin học, đây cũng là một trong những yếu tố
hạn chế tới việc thực hiện giờ dạy trên lớp đạt hiệu quả cao.
Bảng thống kê trình độ chuyên môn của đội ngũ CBGV:(bảng 2)
Năm học Tổng số CBGV
Xếp loại chung chuyên môn
Giỏi Khá TB Yếu
2006-2007 37 12=32,4% 15= 40,5% 8 = 21,7% 2 = 5,4%
2007-2008 35 12=34,3% 14= 40,0% 7 = 20,0% 2 = 5,7%
Qua bảng 2 ta thấy: trong những năm qua mặc dù nhà trường có nhiều cố gắng trong công tác
nâng cao chất lượng đội ngũ, song tỉ lệ GV chuyên môn TB, yếu vẫn còn tương đối cao, điều
này ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp trong các giờ
lên lớp của giáo viên, từ đó dẫn tới hiệu quả giờ dạy chưa cao.
Chất lượng giờ dạy của GV trong 2 năm 2006-2007 và 2007-2008:(bảng 3)
Năm học
T.số
GV
Số giờ
PGD dự
Số giờ tổ, Xếp loại
Giỏi Khá TB Yếu
2006-2007 32 12 110 15=12,3% 64=52,5% 37=30,3% 6= 4,9%
2007-2008 30 10 116 18=14,3% 73=57,9% 32=25,4% 3= 2,4%
Qua bảng 3 cho thấy tỉ lệ giờ dạy đạt khá giỏi chiếm từ 64,7% đến 72,2% chứng tỏ từng ấy
giờ dạy của GV đã thực hiện chỉ có từ 12,3% đến 14,3% thực hiện tương đối tốt các khâu trên
lớp. Tình hình thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy có sự chuyển biến đi lên nhưng còn
chậm, nhiều giờ còn chưa thực hiện sự đổi mới. Việc xác định mục tiêu bài giảng, thiết kế các
hoạt động, hệ thống câu hỏi bài tập còn đi theo lối mòn, chưa phát triển được năng lực tư duy,
độc lập sáng tạo ở HS. Còn nhiều giờ dạy chưa xác định đúng trọng tâm của bài, phân bố thời
gian chưa hợp lý, giáo viên còn bị động khi lên lớp. Việc tổ chức hoạt động nhóm cho HS ở
một số tiết chưa đạt hiệu quả do GV chưa biết cách sử lý kết quả của các nhóm sao cho hợp lý
4
đã gây mất thời gian. Nhiều GV ngại không tổ chức hoạt động nhóm vì sợ cháy giáo án. Ở
một số tiết dạy GV còn bỏ quên cả những HS trung bình, yếu của lớp. Nhiều giờ thực hành ở
các môn Lý, Hóa, Sinh …GV sử dụng đồ dùng chưa hiệu quả, thậm chí không sử dụng do
năng lực thực hành của GV còn yếu hoặc ĐDDH kém chất lượng. Việc sử dụng CNTT vào
giảng dạy ở nhiều GV còn chưa thạo. Những GV tuổi nghề cao vẫn mang nặng phương pháp
dạy cũ như thuyết trình, giảng giải, đọc chép Nhiều GV trẻ chưa có kinh nghiệm nên PPDH
chưa phù hợp mọi đối tượng HS. BGH khi dự giờ đột xuất nhiều giờ dạy của GV phần nhiều
xếp giờ TB và khá, rất ít giờ được xếp giỏi. Điều đó cho thấy việc nâng cao hiệu quả giờ dạy
trên lớp của GV còn gặp rất nhiều khó khăn.
2. Thực trạng đánh giá kết quả xếp loại Hạnh kiểm, Văn hóa của HS trường THCS Bắc
Sơn-Bỉm Sơn trong 2 năm 2006-2007 và 2007-2008:
Xếp loại Hạnh kiểm: (bảng 4)
Năm học Số HS Tốt Khá Trung bình Yếu
2006 - 2007 415 307=74% 77=18,6% 30=7,2% 1=0,2%
2007 - 2008 366 284=77,6% 71=19,4% 11=3% 0
Xếp loại Văn hóa: (bảng 5)
Năm học Số HS Giỏi Khá Trung bình Yếu
2006 - 2007 415 19=4,6% 164=39,5% 208=50,1% 24=5,8%
2007 - 2008 366 17=4,6% 142=38,8% 193=52,8% 14=3,8%
Chất lượng mũi nhọn: (bảng 6)
Năm học Số HS Cấp thị Cấp Tỉnh Cấp Quốc
gia
Thi đỗ
PTTH
2006 - 2007 415 50 = 12%
06=1,4% 0 32,1 %
2007 - 2008 366 49=13,4% 06=1,6% 0 31,0 %
Qua các bảng 4,5,6 cho thấy chất lượng GD hai mặt, kết quả HSG cấp thị và cấp tỉnh chưa có
chuyển biến, kết quả thi vào THPT công lập còn thấp.
3: Thực trạng của việc soạn bài và lên lớp của GV trường THCS Bắc Sơn-Bỉm Sơn trong
những năm 2006 – 2007, 2007-2008, 2008-2009:
Khi tìm hiểu thực trạng cụ thể về việc soạn bài và lên lớp của GV trong nhà trường ở những
năm 2006 – 2007, 2007-2008, 2008-2009, để phát hiện những hạn chế về nhận thức, năng lực,
mức độ thực hiện việc soạn bài và lên lớp của GV, tôi đã tiến hành khảo sát các tổ chuyên
môn, dự giờ thăm lớp, kiểm tra bài soạn, kiểm tra mức độ sử dụng TB ĐDDH, CNTT của
24 GV trong năm học 2008-2009:
Tổng hợp kết quả thực trạng từ khâu soạn bài đến khâu lên lớp của 24 GV
(bảng 7)
STT Nội dung
Mức độ thực hiện
Tốt, khá TB Yếu
Chuẩn bị bài soạn
1
Thể hiện được mức độ chuẩn kiến thức
kỹ năng và thái độ của HS
19 = 79,1% 4 = 16,7% 1 = 4,2%
2
Giải quyết tốt vấn đề kiến thức trọng
tâm và các kỹ năng cần thiết.
19 = 79,2% 5 = 20,8%
3 Thể hiện được các hoạt động của thầy và 10 = 41,7% 9=37,5% 5=20,8%
5
trò, có tổ chức hoạt động nhóm kết hợp
với hoạt động cá nhân.
4
Lựa chọn phương pháp phù hợp với loại
bài học và đối tượng học sinh
20 = 83,3% 3 = 12,5% 1 = 4,2%
5
Chuẩn bị chu đáo đồ dùng và thiết bị
dạy học
16 = 66,7% 3 = 12,5% 5 = 20,8%
Thông qua giờ lên lớp
6
Rèn luyện tư duy sáng tạo cho HS thể
hiện ở chỗ tạo ra những tình huống có
vấn đề.
14=58,3% 4=16,7% 6=2,5%
7
Tăng cường vấn đáp tìm tòi, tạo ra các
cuộc tranh luận, thảo luận.
15=62,5% 5= 20,8% 4=16,7%
8 Rèn luyện cho HS cách tự học 8=33,3% 12= 50% 4=16,7%
9 Gây hứng thú cho HS 16=66,7% 5= 20,8% 3=12,5%
10
Kết hợp hài hòa học tập cá nhân với học
tập hợp tác nhóm
6 = 25% 16=66,7% 2=8,3%
11
Rèn luyện các kỹ năng thực hành, kỹ
năng sống sống cho HS; tích hợp môi
trường,năng lượng vào bài dạy (nếu có)
7=33,3% 13=54,2% 3=12,5%
12
Kết hợp đánh giá của GV với tự đánh
giá của HS
5=20,8% 16=66,7% 3=12,5%
13
Sử dụng ĐDDH, CNTT, mạng Internet
nhuần nhuyễn, hợp lý vào bài dạy
8 = 33,3% 6 = 25% 10=41,7%
Qua bảng 7 cho thấy thực trạng của việc soạn bài và các giờ dạy trên lớp của GV tại thời điểm
khảo sát (năm học 2008 – 2009) thực hiện chưa tốt. Mức độ thực hiện chưa tốt ở các nội dung
3,5,6,7,8,9,11,12,13 còn khá cao.Thực tế đã cho thấy: Cần phải tổ chức tốt hơn việc bồi
dưỡng khả năng soạn bài và giảng bài cho GV, chính vì vậy phải đặc biệt tăng cường khâu dự
giờ trên lớp.
Từ thực tế về công tác dự giờ thăm lớp ở những năm học 2006-2007; 2007-2008; 2008-
2009, tôi thấy để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường thì phải nâng cao hiệu quả
giờ dạy trên lớp, do đó việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng của việc dự giờ thăm lớp là một
việc làm vô cùng quan trọng và cấp thiết .
Sau đây tôi xin được trình bày một số kinh nghiệm về nâng cao hiệu quả giờ dạy của giáo
viên thông qua việc dự giờ thăm lớp thể hiện qua một số giải pháp chỉ đạo mà trường chúng
tôi đã và đang thực hiện từ năm học 2009-2010 đến nay nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy
của đội ngũ giáo viên và từng bước nâng dần chất lượng giáo dục trong nhà trường, đáp ứng
yêu cầu chung của ngành, sự đổi mới của đất nước.
CHƯƠNG II: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỜ DẠY CỦA GIÁO
VIÊN THÔNG QUA VIỆC DỰ GIỜ THĂM LỚP
1. GIẢI PHÁP THỨ NHẤT: Nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên về tầm quan
trọng của việc dự giờ thăm lớp:
Một khi giáo viên có nhận thức đúng đắn, sâu sắc về tầm của quan trọng của việc dự giờ
thăm lớp thì họ có thể tự đánh giá được chính công việc giảng dạy của mình, tự nhận ra
6
những phần còn hạn chế để khắc phục, phát huy những mặt mạnh. Từ đó họ sẽ cố gắng vươn
lên, tự học tự bồi dưỡng thường xuyên để có nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, thúc đẩy quá
trình lên lớp đạt hiệu quả cao hơn.
Cách thực hiện: - Thông qua việc phổ biến, học tập các văn bản của ngành tại các buổi họp
hội đồng giáo dục…
- Thông qua các buổi hội thảo về “Đổi mới phương pháp dạy học”, “Đổi
mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục”…
- Thông qua những buổi tập huấn, bồi dưỡng về công tác dự giờ thăm lớp
cho các cán bộ cốt cán như tổ trưởng, tổ phó chuyên môn…để họ làm tốt việc đánh giá giờ
dạy trên lớp.
2. GIẢI PHÁP THỨ HAI: Nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ của CBQL
và các giáo viên cốt cán nhà trường.
Hiện nay ngành giáo dục và đào tạo cả nước đang từng bước thay đổi, điều chỉnh để hoàn
thiện nội dung, chương trình sách giáo khoa, đổi mới PPDH cho các bậc học, trong đó có bậc
THCS sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước, với tình hình thực tiễn của học
sinh và điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và vừa học tập được các nước tiên tiến
trên thế giới. Chính vì vậy người cán bộ quản lý (CBQL) phải có trình độ chuyên môn vững
vàng, có nghiệp vụ sư phạm vững chắc và phải gương mẫu trước tiên trong học tập, trau dồi,
rèn luyện bản thân để có được cái “tâm” và cái “tầm” để thực sự đưa sự đổi mới nền giáo dục
vào trong nhà trường; phải xây dựng cho mình một phong cách khoa học, sâu sát, bằng cách:
- Tham gia học các lớp nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ quản lý do cấp trên tổ chức.
- Tự học, tự bồi dưỡng, tự nghiên tài liệu để nắm bắt được xu hướng phát triển giáo dục trên
toàn cầu cũng như đổi mới của ngành giáo dục nước nhà.
- Tham dự tất cả các lớp tập huấn, chuyên đề về ĐMPPDH, đổi mới kiểm tra đánh giá giờ
dạy trên lớp… để có đủ kiến thức, kỹ năng, biện pháp chỉ đạo tốt hơn.
- Người CBQL phải tích đi đầu trong việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học và
quản lý, từ đó mới có trình độ đánh giá giáo viên trong việc áp dụng công nghệ thông tin
trong dạy học sao cho phù hợp.
- CBQL nhà trường phải tổ chức tập huấn, bồi dưỡng để nâng cao trình độ năng lực chuyên
môn, năng lực quản lý cho đội ngũ cốt cán trong nhà trường để họ làm tốt công việc kiểm tra
đánh giá giờ dạy trên lớp.
3. GIẢI PHÁP THỨ BA: Cán bộ quản lý xây dựng và thực hiện kế hoạch dự giờ, kiểm
tra đánh giá giờ dạy của giáo viên.
3.1: Xây dựng kế hoạch dự giờ của CBQL:
- Kế hoạch kiểm tra nội bộ trường học được xây dựng và công bố từ đầu năm học để toàn
thể cán bộ và giáo viên trong toàn trường đều biết.
- Xây dựng kế hoạch cụ thể chi tiết cho việc dự giờ thăm lớp theo từng tháng, từng đợt và
công bố từ đầu năm học để toàn thể giáo viên trong toàn trường đều biết.
- Kế hoạch dự giờ được xây dựng dưới nhiều hình thức như: thường xuyên, định kỳ, dự giờ
chuyên đề…Khi xây dựng kế hoạch dự giờ thì người CBQL cần phải bám sát vào phân phối
chương trình, vào thời khóa biểu và nên đi dự hết các kiểu bài dạy như bài lý thuyết, bài thực
hành, tiết chữa bài tập, định luật, định lý…
7
- Đối với những giáo viên có trình độ chuyên môn cứng thì dự những tiết dạy được nhiều
giáo viên bộ môn cho là khó dạy để xem GV đó tháo gỡ những chỗ vướng mắc như thế nào,
có sáng tạo gì trong khi dạy không. Còn đối với những giáo viên có tay nghề yếu thì cần dự
giờ thường xuyên hơn để GV đó luôn có ý thức đối với với nghề nghiệp hơn và buộc họ phải
cố gắng vươn lên trong công tác giảng dạy, trong chuyên môn để có uy tín với học sinh, phụ
huynh. Tới năm học sau lại tiếp tục dự đúng giờ dạy đó để xem sau khi được góp ý ở năm học
trước thì có tiến bộ hơn không, sự tiếp thu và chỉnh sửa chỗ sai sót như thế nào.
3.2:Thực hiện kế hoạch dự giờ kiểm tra đánh giá của CBQL đối với GV:
3.2.1: BGH chuẩn bị trước khi dự giờ, kiểm tra đánh giá GV:
- Bám sát kế hoạch đã đề ra xem dự giờ GV nào trong từng tuần của tháng, xem sổ báo bài
giảng của GV để định hướng dự dạng bài dạy nào?…giúp GV tháo gỡ vướng mắc về PPGD
hay kiến thức kỹ năng?
- Cần xem trước bài dự trong SGK và gợi ý hướng dẫn trong SGV để định hướng được
những vấn đề mà GV dễ mắc phải.
- Kiểm tra việc soạn bài: Kiểm tra xem GV soạn bài có đúng, đủ theo quy định không: Ngày
soạn, ngày giảng, tên môn, tên bài; mục đích yêu cầu; thực hiện theo phân phối chương trình
của BGD&ĐT và chương trình giảm tải (nếu có), các hoạt động của thầy và trò, trọng tâm
kiến thức; hệ thống câu hỏi , cần khắc sâu kiến thức nào? HS dễ mắc sai lầm ở chỗ nào?, liên
hệ thực tế (nếu có)….
3.2.2. Dự giờ thăm lớp kiểm tra đánh giá:
- Đối với việc chuẩn bị đồ dùng, phương tiện dạy học:
Đánh giá việc sử dụng các đồ dùng, phương tiện dạy học có thành thạo không?, tinh thần
chịu khó, tính sáng tạo của GV, phương tiện dạy học sử dụng trong bài có phù hợp không?
- Đối với việc giảng bài trên lớp của giáo viên:
Kiểm tra xem tiến trình dạy học có đúng theo quy định không?
Độ chính xác, khoa học của kiến thức ở mức độ nào ? Có đảm bảo tính hệ thống không? Có
phần kiến thức nào bị bỏ sót không? Có thể hiện rõ kiến thức trọng tâm hay không? Sử dụng
phương pháp dạy học có đắc trưng bộ môn không? Có phù hợp với đối tượng học sinh và kiểu
bài lên lớp không? Có kết hợp giữa hoạt động nhóm với hoạt động cá nhân HS không? Lời
nới của giáo viên có rõ ràng, chuẩn mực không? Hệ thống câu hỏi có hợp lô gic không? GV
có làm cho HS chủ động tích cực, hứng thú học không? Học sinh hiểu bài được bao nhiêu %?
Vận dụng kiến thức đã học vào bài tập và đời sống ở mức độ nào? GV thể hiện đổi mới
PPDH như thế nào? GV có đổi mới kiểm tra, đánh giá, kết hợp giữa đánh giá của thầy với trò
và của trò với trò không? Bài dạy này có phần tích hợp môi trường, tích hợp năng lượng…
không? Nếu có thì tích hợp ở chỗ nào trong bài? Rất nhiều nội dung mà người dự cần phải
xem xét trong quá trình dự để đánh giá, góp ý xây dựng. CBQL phải tập trung ghi chép đầy
đủ để rút ra những ưu điểm, những tồn tại của tiết dạy từ đó mới có được những điều cần
tham gia tư vấn về phương pháp; về kiến thức, kỹ năng; về cách thức tổ chức các hoạt động
của thầy và trò…
3.2.3: Nhận xét đánh giá tiết dạy:
- CBQL yêu cầu GV dạy tự nhận xét đánh giá trước những điều đã làm được và những điều
chưa làm được của mình.
8
- CBQL góp ý cho GV dạy từng nội dung một trong quá trình dạy học, chỉ ra cho GV thấy
được những mặt mạnh, mặt yếu…và tư vấn cho họ những điều mà họ cần.
Người CBQL cần nhẹ nhàng uốn nắn những suy nghĩ và cách làm chưa đảm bảo tính khoa
học của GV để họ nhận được bài học từ sự tư vấn của cán bộ quản lý về PPDH, về sử dụng
CNTT, về cách tổ chức hoạt động của học sinh…sao cho phù hợp.
Phần nhận xét đánh giá giờ dạy là phần quan trọng nhất bởi vì dự giờ phải có nhận xét đánh
giá mới có tác dụng. Hơn nữa việc nhận xét đánh giá chỉ có hiệu quả khi theo nguyên tắc đôi
bên cùng trao đổi, cùng tranh luận về chuyên môn và sự nhận xét tư vấn của CBQL nhận
được sự đồng thuận cao cùng hướng về mục tiêu là nâng cao hiệu quả giờ dạy để nâng cao
chất lượng giáo dục trong nhà trường.
3.3: Các hình thức dự giờ mà CBQL nên thực hiện khi dự giờ giáo viên:
3.3.1: Dự giờ thường xuyên: Là dự giờ nằm trong kế hoạch được xây dựng từ đầu năm học để
kiểm tra toàn diện và để đánh giá chuẩn nghề nghiệp giáo viên.
Thông qua hình thức dự giờ này CBQL biết được trình độ sư phạm của GV, các hoạt động sư
phạm mà GV đã làm được, biết chất lượng dạy và học, nề nếp của lớp…từ đó để có kế hoạch
bồi dưỡng năng lực chuyên môn, trình độ sư phạm cho mỗi GV.
Như vậy, thông qua việc dự giờ thường xuyên CBQL đã góp phần thúc đẩy sự nổ lực phấn
đấu không mệt mỏi về chuyên môn, về năng lực sư phạm của mỗi GV và trên cơ sở đó giờ dạy
của GV sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
3.3.2: Dự giờ đột xuất: Là việc dự giờ không báo trước chỉ nằm trong mục tiêu cần đạt của
CBQL. Mỗi GV lên lớp đều phải chấp hành việc dự giờ đột xuất bất kỳ của CBQL.
Tuy là dự giờ đột xuất nhưng nó phải nằm trong chủ định của CBQL: dự GV nào? Dự vào
thời điểm nào? Dự tiết nào, lớp nào? Kiểu bài dạy? Dự nhằm mục đích gì? Muốn làm được
điều đó CBQL phải căn cứ vào phân phối chương trình và sổ báo bài giảng của GV để dự giờ.
Chẳng hạn như ở hình thức dự giờ thường xuyên một GV đã dạy một tiết thực hành thì khi dự
giờ đột xuất GV này CBQL nên chọn bài dạy lý thuyết hoặc tiết chữa bài tập…
Thông qua việc dự giờ đột xuất CBQL đã góp phần thúc đẩy, kích thích hoạt động dạy học
của mỗi GV, họ luôn chuẩn bị tâm thế đón dự giờ đột xuất bất cứ tiết nào, từ đó GV luôn có ý
thức chuẩn bị bài tốt hơn trước khi lên lớp. Lâu dần thành thói quen, GV cảm thấy không bị
áp lực khi CBQL dự giờ đột xuất nữa mà thông qua cách dự giờ đột xuất này của CBQL
nhiều GV đã khẳng định được sự vững vàng về chuyên môn và sự cần cù, miệt mài bên giáo
án của họ trước tập thể. Chính vì vậy mà hiệu quả giờ dạy được nâng cao hơn.
3.3.3: Dự giờ thao giảng chọn giáo viên giỏi:
CBQL không những là một thành viên trong ban giám khảo mà còn phải tổ chức, chỉ đạo và
điều hành tốt đợt thao giảng này.
Hoạt động này hằng năm thực hiện theo quy định của BGD&ĐT nhằm tôn vinh những
người có năng lực sư phạm tốt, có chuyên môn vững vàng. Qua đó thúc đẩy được sự sáng tạo,
sự đột phá, sự đổi mới trong phương pháp giảng dạy, khích lệ được mọi GV cố gắng vươn lên
trong chuyên môn để khẳng định mình và tạo nên phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” trong
nhà trường. Chính vì vậy mà hiệu quả giờ dạy được nâng cao hơn.
3.3.4: Dự giờ song song: Là việc cùng một tiết dạy nhưng CBQL dự hai GV khác nhau thực
hiện ở hai lớp.
9
Với cùng một nội dung kiến thức của bài, mỗi GV có phương pháp dạy học, cách thức tổ
chức hoạt động của thầy và trò khác nhau…nên hiệu quả giờ dạy sẽ khác nhau. CBQL cho
người dạy tiết trước cùng dự giờ của người dạy tiết sau để rút kinh nghiệm cho việc dạy của
mình và bổ sung cho đồng nghiệp. Thông qua việc làm này mỗi GV thấy rõ mặt mạnh của
mình để phát huy, những mặt yếu của mình để khắc phục ở lần dạy sau. Còn CBQL sẽ tìm
được sự sáng tạo của mỗi GV trong mỗi tiết dạy và đem phổ biến cho những GV khác. Hiệu
quả giờ dạy chắc chắn sẽ được nâng cao hơn.
3.3.5: Dự giờ chuyên đề: Đây là một hoạt động sư phạm cấp trường hoặc cấp tổ nhằm cùng
nhau xây dựng những bài dạy được nhiều GV trong tổ cho là khó hoặc bài dạy chưa thống
nhất được phương pháp của một số GV hoặc tích hợp bảo vệ môi trường, tích hợp năng
lượng, tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh…vào trong bài dạy. CBQL không những dự
mà còn phải chỉ đạo tốt việc giảng bài theo chuyên đề của các tổ.
4. GIẢI PHÁP THỨ TƯ: Đẩy mạnh hoạt động dự giờ, thăm lớp và rút kinh nghiệm giờ
dạy của các giáo viên.
4.1: Đẩy mạnh hoạt động dự giờ thăm lớp của giáo viên:
Phải biến quá trình kiểm tra đánh giá giờ dạy của CBQL thành quá trình tự kiểm tra đáng
giá của GV, vì vậy:
- Vào mỗi đầu năm học BGH nhà trường yêu cầu mỗi GV tự xây dựng kế hoạch dự giờ thăm
lớp nằm trong kế hoạch cá nhân cả năm của mình, tổ chuyên môn dựa vào đó để lên kế hoạch
dự giờ thăm lớp chung của cả tổ theo sự chỉ đạo chung của nhà trường.
- Căn cứ vào kế hoạch từng tuần, từng tháng, từng đợt của BGH và thời khóa biểu, phó Hiệu
trưởng cùng với các tổ trưởng chuyên môn lên lịch dự giờ GV và yêu cầu tất cả các GV khác
trống giờ lên dự. Tất cả các GV đều được dự giờ dạy. Việc làm này dần dần đi vào nề nếp, đã
giúp GV tự giác, tích cực hơn rất nhiều trong hoạt động dự giờ, thậm chí có những GV muốn
học tập kinh nghiệm nhiều hơn nữa về đổi mới PPDH của đồng nghiệp ở tổ khác đã tự xin dự
giờ thêm ngoài lịch sắp xếp của BGH.
Đây là một hoạt động theo chúng tôi là rất có hiệu quả, người dạy luôn chủ động chuẩn bị
chu đáo về mọi mặt: từ chuẩn bị giáo án, đồ dùng dạy học, tiến trình lên lớp, tổ chức các hoạt
động của thầy và trò, sử dụng CNTT, tâm thế sư phạm… nên chất lượng tiết dạy sẽ cao hơn
rất nhiều; còn người dự thì không những dự được đủ số tiết theo quy định mà còn vượt chỉ
tiêu đặt ra, mà cái được hơn cả là cả hai cùng rút ra được kinh nghiệm cho bản thân để chủ
động dạy lần sau và các bài sau tốt hơn, vì vậy hiệu quả giờ dạy sẽ dần được nâng lên.
4.2: Hoạt động rút kinh nghiệm giờ dạy của các giáo viên.
Vì “Học thầy không tày học bạn” nên ngoài ý kiến tư vấn của CBQL cho GV dạy thì việc
góp ý giờ dạy của các giáo viên đi dự trong tổ, trong nhóm vô cùng quan trọng.
- Để tạo điều kiện cho GV mạnh dạn góp ý giờ dạy của đồng nghiệp, BGH chúng tôi yêu cầu
GV ghi lại những ý kiến đóng góp của mình vào phiếu dự giờ, sổ dự giờ hoặc sổ ghi chép để
khi sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn dựa vào đó mà phát biểu, xây dựng tiết dạy cho đồng
nghiệp. Nếu có các ý kiến đóng góp cho một tiết dạy trái ngược nhau thì tổ trưởng sẽ thống
nhất ý kiến để đi đến kết luận chung và cần lưu ý rằng mỗi GV đều có PPDH của mình sao
cho HS dễ hiểu bài, các thầy cô dự giờ không nên yêu cầu đồng nghiệp phải dạy theo cách
của mình, vì như thế chưa chắc HS sẽ tiếp thu bài tốt hơn.
10
Nếu có trường hợp xảy ra có những ý kiến đóng góp không chân tình cho đồng nghiệp mà
chỉ lợi dụng góp ý của mình để hạ thấp đồng nghiệp thì BGH chúng tôi sẽ xử lý nghiêm minh.
- Một điều đặc biệt nữa là chúng tôi đã bố trí cho các GV cùng đi dự một tiết dạy giống nhau
của các giáo viên khác nhau để khi rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy, họ sẽ học được ở mỗi
người dạy các kinh nghiệm hay, học được cách chủ động và sáng tạo trong việc giúp học sinh
tự lực, tích cực và hứng thú tiếp thu kiến thức.
Hơn nữa việc đánh giá xếp loại giờ dạy của GV được công khai trên Hội động sư phạm nhà
trường nên mỗi GV đều ý thức được danh dự nhà giáo mà cố gắng vươn lên để khẳng định
mình. Điều đó đã mang lại hiệu quả giờ dạy cao hơn.
5. GIẢI PHÁP THỨ NĂM: Đẩy mạnh hoạt động của tổ nhóm chuyên môn trong việc
dự giờ thăm lớp:
- Dựa vào kế hoạch dự giờ của GV, tổ chuyên môn họp và thống nhất kế hoạch dự giờ của tổ
để nhà trường thống nhất kế hoạch dự giờ.
- Các tổ chuyên môn tổ chức sinh hoạt đều đặn 2 lần/ tháng theo lịch (ngoài ra còn tổ chức
họp thêm khi có việc đột xuất hoặc chưa góp ý xong các giờ dự). Yêu cầu các tổ luôn đổi mới
hình thức sinh hoạt, đặc biệt đi sâu vào đổi mới PPDH; sử dụng đồ dùng dạy học và công
nghệ thông tin vào giảng dạy, góp ý các tiết dạy thật kỹ, thật sâu trên tinh thần xây dựng.
+ Thống nhất được mục tiêu của bài dạy, kiến thức trọng tâm của một số bài dạy trong tuần
hoặc tháng, đặc biệt là những bài dạy mà GV trong tổ cho là tương đối khó.
+ Những vấn đề thực tế cần được liên hệ và cần được tích hợp trong bài dạy như tích hợp
môi trường, tích hợp năng lượng, tích hợp tư tưởng đạo đức Hố Chí Minh…vào trong bài dạy
cần được đưa ra để bàn luận trong tổ và đi đến thống nhất
+ Tổ chức dạy theo chuyên đề, cả tổ cùng dự, góp ý để học tập sau đó rút kinh nghiệm và
dạy cho toàn trường dự theo sự chỉ đạo của BGH.
+ Mỗi tổ lập một chuyên đề bàn về những vướng mắc chung nhất đối với mỗi GV. Tổ
trưởng chuyên môn tổ nào thì trực tiếp chỉ đạo chuyên đề tổ đó, Hiệu phó chỉ đạo chung cho
các tổ. Trong mỗi tiết dạy chuyên đề chúng tôi đều chọn cử các GV có năng lực phù hợp và
lên lịch cụ thể để tạo điều kiện cho mỗi GV đều có cơ hội tham gia các chuyên đề một cách có
hiệu quả nhất. Hiệu phó, tổ trưởng, tổ phó chuyên môn cùng góp ý cho GV dạy chuyên đề từ
việc soạn bài và trao đổi về bài dạy trước khi tiến hành giảng bài; Hiệu phó trực tiếp chỉ đạo
các tổ rút kinh nghiệm sau mỗi giờ dạy chuyên đề.
Như vậy: Thông qua việc đẩy mạnh hoạt động của tổ nhóm chuyên môn trong việc dự giờ
thăm lớp, GV nắm bắt được phương pháp dạy của một dạng bài nào đó, tháo gỡ được các
khó khăn vướng mắc chuyên môn của khối của tổ, làm chỗ dựa vững chắc cho GV tuổi nghề
còn ít học tập chuyên môn. Cũng qua hoạt động này đã thúc đẩy phong trào đúc rút sáng kiến
kinh nghiệm trong quá trình dạy học của cán bộ, giáo viên nhà trường phát triển mạnh mẽ và
tôn vinh những nhà giáo có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy. Từ đó mới nâng cao hiệu quả
giờ dạy, nâng cao dần chất lượng giáo dục trong nhà trường.
6. GIẢI PHÁP THỨ SÁU: Đổi mới công tác thi đua khen thưởng đối với hoạt động dự
giờ thăm lớp.
Trong những năm trước đây, trường chúng tôi chưa để ý tới việc khen thưởng cho các cá
nhân GV và tập thể tổ chuyên môn thực hiện tốt việc dự giờ thăm lớp nên phong trào dự giờ
11
thăm lớp chưa phát triển, nhiều sáng kiến kinh nghiệm được đúc rút từ thực tế giảng dạy của
GV chưa có chất lượng cao, thậm chí có người còn sao chép sáng kiến kinh nghiệm của người
khác để đối phó. Chính vì thế mà chất lượng giáo dục của trường chúng tôi luôn đứng ở tốp
cuối trong các trường THCS trên địa bàn thị xã Bỉm Sơn.
Trước tình hình thực tế đó, trong những năm gần đây, trường chúng tôi đã đổi mới công tác
thi đua khen thưởng. Chúng tôi không chỉ khen thưởng cho các GV có học sinh giỏi các cấp,
các GV đạt danh hiệu CSTĐ các cấp, lao động tiên tiến…mà còn tuyên dương kịp thời đến
các GV và tập thể đi đầu trong phong trào dự giờ thăm lớp qua sơ kết mỗi đợt thi đua. Mặc dù
không có thưởng về vật chất (do kinh phí nhà trường quá hạn hẹp vì là trường miền núi của
thị xã) nhưng chúng tôi đã tặng thưởng về tinh thần; chính sự tôn vinh trước tập thể đó đã làm
cho họ-những cá nhân và tập thể được tuyên dương- ngày càng làm tốt hơn việc dự giờ thăm
lớp, từ đó đã kéo theo những cá nhân và tập thể GV làm chưa tốt việc này phải cố gắng làm
tốt hơn.
Như vậy: Một khi đã làm tốt công tác thi đua khen thưởng thì nó sẽ trở thành “động lực thúc
đẩy” mọi hoạt động, mọi phong trào, trong đó có phong trào dự giờ thăm lớp, phong trào
viết sáng kiến kinh nghiệm, từ đó sẽ nâng cao được hiệu quả giờ dạy, đưa chất lượng giáo
dục toàn diện của nhà trường ngày một tăng cao.
CHƯƠNG III: HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI:
Những giải pháp tôi trình bày ở trên chưa thể hiện hết được hoạt động của người CBQL-
hiệu phó phụ trách chuyên môn nhà trường - trong việc dự giờ thăm lớp, nhưng tôi nghĩ rằng
đó là những “cốt lõi” để tìm ra hướng đi mới, những “kim chỉ nam” quan trọng, quyết định sự
thắng lợi của việc nâng cao hiệu quả giờ dạy của GV thông qua dự giờ thăm lớp. Từ đó trình
độ đội ngũ, năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm của GV được nâng lên một cách rõ rệt,
dẫn tới chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường ngày một đi lên bền vững.
Tôi đã thực hiện đồng bộ những giải pháp trên trong thời gian 4 năm từ năm học 2009-2010
đến nay.
Kết quả trong 4 năm qua:
* Bảng thống kê trình độ và chất lượng đội ngũ giáo viên trường THCS
Bắc sơn-Bỉm Sơn từ năm học 2009-2010 đến nay (bảng 8)
Năm học T.số
CBGV
Trình độ
Đại học
Trình độ
Cao đẳng
Trình
độ
Tr.cấp
CST
Đ thị
xã
CSTĐ
tỉnh
Chứng
chỉ tin học
2009-2010 29 10=34,5% 19=65,5% 0 03 0 15=48,4%
2010-2011 25 12=48,0% 13=42,0% 0 03 0 22= 84,6%
2011-2012 23 16=69,6% 07=30,4% 0 04 2 23=100%
2012-2013 24 17=70,8%
2 GV đang
học ĐH
07=29,2% 0 04 24=100%
Qua bảng 8 thống kê trên ta thấy: Trình độ giáo viên đã được chuẩn hoá 100% tỉ lệ giáo viên
có trình độ đại học đạt từ 16,2% (2007) đến 68,0% (2013) đã tăng thêm đến 51,8%. Về TĐ tin
học của GV: đến 2013 đã có 100% CBGV có chứng chỉ tin học, nhiều GV đã đạt bằng B và
bằng trung cấp, đại học về tin học.
12
Sau 4 năm thực hiện, đề tài không những góp phần thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, mũi nhọn và năng lực sư phạm, năng lực CM của đội ngũ GV mà còn thúc đẩy
phong trào viết SKKN phát triển mạnh mẽ:
* Kết quả Sáng kiến kinh nghiệm trong 4 năm: (bảng 9)
Năm học Tổng số CBGV Xếp loại cấp thị Xếp loại cấp Tỉnh
2009 -2010 31 10 (1 loại A) =32,2% 1(B)
2010 - 2011 31 11 (2 loại A)=35,5% 2(1B,1C)
2011 - 2012 26 11 (1 loại A)= 42,3% 1(loại A)
2012 - 2013 24 11(3 loạiA)=45,8% 03 đang đề nghị
Qua bảng thống kê 9 cho thấy: Chất lượng các SKKN đã được nâng lên. Liên tục cứ mỗi năm
có từ 1 đến 2 SKKN được xếp loại cấp Tỉnh, đặc biệt trong năm học 2012-2013 đã có 01
SKKN được xếp loại A. Riêng năm học 2012-2013 đã có 03 SKKN đang đề nghị xét cấp tỉnh.
*Bảng thống kê trình độ chuyên môn của đội ngũ CBGV
(kết hợp với sự kiểm tra đánh giá của PGD&ĐT Bỉm Sơn): (bảng 10)
Năm học
Tổng
sốCBGV
Xếp loại chung chuyên môn
Giỏi Khá TB Yếu
2009-2010 31 18=58,1% 10= 32,3% 03 = 9,6% 0
2010-2011 26 17=65,4% 7 = 26,9% 02 = 7,7% 0
2011-2012 23 19=82,6% 3=13,0% 01 = 4,4% 0
2012-2013 24 22=91,7% 2 = 8,3% 0 0
Qua bảng thống kê 10 cho thấy: Đến năm học 2012-2013, trình độ CM của GV được nâng
cao rõ rệt. Đã không còn GV có trình độ CM yếu, và đến năm học 2012-2013 không còn GV
có trình độ TB, GV được xếp loại CM giỏi tăng từ 32,4% (năm 2006-2007) lên đến 91,7%
(năm 2012-2013) chứng tỏ việc nâng cao hiệu quả giờ dạy thông qua việc dự giờ thăm lớp đã
thúc đẩy trình độ chuyên môn của GV trong nhà trường tăng lên rõ rệt
* Chất lượng giờ dạy của GV trong 3 năm 2010-2011 và 2012-2013:
(bảng 11)
Năm học
T.số
GV
Số
giờ
Số giờ tổ, Xếp loại
Giỏi Khá TB Yếu
2010-2011 21 10 68 50=64.1% 23= 29.5% 5 = 6.4% 0
2011-2012 19 8 73 55=67.9% 23= 28.4% 3 = 3.7% 0
2012-2013 20 7 76 65=78.3% 17= 20.5% 1 = 1.2% 0
Qua bảng thống kê 11 ta thấy chất lượng giờ dạy của GV trong những năm thực hiện đề tài
tăng cao rõ rệt. Đã không còn giờ dạy yếu. Tỉ lệ giờ dạy đạt loại giỏi tăng lên rõ rệt từ 12.3%
(năm 2006-2007) đến 78.3% (năm 2012-2013); tỉ lệ giờ dạy khá giảm từ 52.5% (năm 2006-
2007) đến 20.5% (năm 2012-2013); và tỉ lệ giờ dạy trung bình giảm nhiều từ 30.3% (năm
2006-2007) xuống còn 1.2% (năm 2012-2013). Từ những số liệu thực tế trên cho thấy hiệu
quả của đề tài rất cao
* Bảng thống kê chất lượng xếp loại Hạnh kiểm, Xếp loại Văn hóa và Học sinh giỏi
trường THCS Bắc sơn-Bỉm Sơn từ năm học 2009-2010 đến nay:
Xếp loại Hạnh kiểm (bảng 12)
Năm học Số HS Tốt Khá Trung bình Yếu
2009 - 2010 271 226=83,5% 33=12,1% 12=4,4% 0
2010 - 2011 277 240=86,6% 31=11,2% 6=2,2% 0
13
2011 - 2012 248 225=90,8% 20=8,0% 3=1.2% 0
2012 - 2013 235 214=91,1% 18=7,7% 3=1,2% 0
Xếp loại Văn hóa (bảng 13)
Năm học Số HS Giỏi Khá Trung bình Yếu
2009 - 2010 271 28=10,3% 140=51,7% 100=36,9% 3=1,1%
2010 - 2011 277 34=12,3% 150=54,2% 91=32,8% 2=0,7%
2011 - 2012 248 31=12,5% 130=52,4% 84=33,9% 3=1,2%
2012 - 2013 235 30=12,8% 123=52,4% 80=34,0% 2=0,8%
Học sinh giỏi (bảng 14)
Năm học Tsố HS
T.trường
Số HSG cấp thị xã Số HSGcấp tỉnh Số HSG
Quốc gia
2009-2010 271 72(nhất:10)=26,6% 25=9,2% 0
2010-2011 277 70(nhất:07)=25,3% 09=3,3% 0
2011-2012 248 74 (nhất:29)=29,8% 32(nhất:3)=12,9% 06
2012-2013
Không tổ chức
thi môn TDTT
235 61(nhất 15)=26,0% 07=3,0% 0
Qua các bảng thống kê 12, 13, 14 trên ta thấy: Đối với HS:
- Hạnh kiểm tốt tăng, không có HS xếp hạnh kiểm yếu.
- Về chất lượng văn hoá: Loại Giỏi tăng, loại Yếu giảm
- Chất lượng học sinh giỏi cấp thị xã, cấp tỉnh được tăng lên rõ rệt mặc dù trường chúng tôi
là một trường THCS thuộc phường miền núi duy nhất của Thị xã Bỉm Sơn có cơ sở vật chất
vô cùng thiếu thốn.
Cụ thể: - Tỉ lệ học sinh giỏi cấp Thị xã trên tổng học sinh cả toàn trường đã tăng vượt bậc từ
12,0% (năm 2007-2008) đến 26,0% (2012-2013) tăng 14,0%
- Tỉ lệ học sinh giỏi cấp Tỉnh so với tổng học sinh toàn trường tăng từ 1,4% (2007-
2008) lên 12,9% (2011-2012) tăng 11,5%. Đặc biệt trong năm học 2011-2012 nhà trường đã
có tới 06 huy chương đồng cấp Quốc gia. Đây là tỉ lệ và con số mà nhiều trường chuẩn Quốc
gia, trên địa bàn thị xã Bỉm sơn có đầy đủ cơ sở vật chất đang còn phải phấn đấu nhiều mà
khó có thể đạt được. Riêng năm 2012-2013 thị xã và tỉnh không tổ chức thi HSG môn TDTT
nên số HSG cấp tỉnh nhà trường đạt được còn khiêm tốn.
Bốn năm qua, từ một đơn vị trung bình của thị xã Bỉm Sơn, trường THCS Bắc Sơn đã trở
thành một đơn vị mạnh toàn diện đã vươn lên đứng ở tốp đầu của các trường THCS trong
toàn thị xã và đã được cấp trên giao nhiệm vụ từng bước hoàn thiện các tiêu chí để xây dựng
trường chuẩn Quốc gia giai đoạn 2015-2020. Năm học 2012-2013 trường đang đề nghị công
nhận trường đạt danh hiệu Tập thể lao động xuất sắc.
Từ những số liệu thực tế trên cho thấy hiệu quả của đề tài rất cao.
C, KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
I, Kết luận:
Các giải pháp trong đề tài cần phải được thực hiện một cách đồng bộ nhằm hỗ trợ cho
nhau trong quá trình quản lý, chỉ đạo.
Với kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn của nhiều năm làm quản lý, đề tài này đã có hiệu
quả thiết thực đối với trường THCS Bắc Sơn-Thị xã Bỉm Sơn. Tôi nghĩ rằng nó ít nhiều cũng
14
có tác dụng đối với các trường THCS ở trong và ngoài tỉnh, đặc biệt đối với các CBQL nhà
trường, nếu được phổ biến rộng rãi.
Đề tài này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của các
đồng chí giàu kinh nghiệm để đề tài này được hoàn thiện hơn.
II, Kiến nghị:
1, Đối với Phòng giáo dục và đào tạo Bỉm Sơn:
- Đề xuất với SGD&ĐT có phương án bổ sung những đồ dùng dạy học không đảm bảo chất
lượng và hư hỏng do dùng lâu ngày ở các bộ môn Vật lý, Hóa học, Sinh học, Công nghệ…để
có đủ đồ dùng thí nghiệm, ĐDDH góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy của GV.
- Tiếp tục tổ chức các lớp bồi dưỡng về kỹ năng sử dụng đồ dùng thí nghiệm cho các GV
dạy các môn có đồ dùng thí nghiệm như Vật lý, Hóa học, Sinh học, Công nghệ…
- Đề xuất với các cấp có thẩm quyền biên chế thêm cho các nhà trường THCS Bỉm Sơn nói
chung và THCS Bắc Sơn nói riêng một GV phụ tá thí nghiệm để tạo điều kiện cho GV thực
hiện bài dạy trên lớp đạt hiệu quả cao hơn.
2, Đối với Sở giáo dục và đào tạo Thanh hóa:
Có phương án bổ sung những đồ dùng dạy học không đảm bảo chất lượng và hư hỏng do
dùng lâu ngày ở các bộ môn Vật lý, Hóa học, Sinh học, Công nghệ…để có đủ đồ dùng thí
nghiệm ở các trường THCS trong tỉnh nói chung và Bỉm sơn nói riêng (vì tôi được biết thông
qua dự giờ GV dự thi GVG các cấp) do nhà trường chỉ làm và mua được những đồ dùng dạy
học đơn giản.
Bỉm sơn, ngày 6/4/2013
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Tôi xin cam đoan đây là SKKN do mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
Người viết
Cao Thị Liên
MỘT SỐ CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
1, GV: Giáo viên
2, ĐDDH: Đồ dùng dạy học
3, PPDH: Phương pháp dạy học
4, THCS: Trung học cơ sở
5,CBQL: Cán bộ quản lý
6, PGD&ĐT : Phòng Giáo dục và đào tạo
7, SGD&ĐT: Sở giáo dục và đào tạo
8, CBGV: Cán bộ giáo viên
9, CM: Chuyên môn
10, SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm
11, CSTĐ: Chiến sĩ thi đua
12, BGH: Ban giám hiệu
13, CNTT: Công nghệ thông tin
15
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 khóa XI
2, Một số bài viết về hoạt động dự giờ thăm lớp.
3, Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc xây dựng nâng cao chất
lượng đội ngũ và cán bộ quản lý giáo dục.
4, Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo ban hành quy
định Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở, giáo viên trung học cơ sở.
16