Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

hoàn thiện pháp luật để nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.87 KB, 13 trang )

Tài liệu: Docs.vn Hỗ trợ : Y!M minhu888
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Để bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội cũng như
đảm bảo sự khách quan và công bằng trong quá trình TTHS, Điều 11 bộ luật
TTHS năm 2003 đã quy định “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa…”. Vậy trong trường hợp người bị
buộc tội nhờ người khác bào chữa thì địa vị pháp lý của người bào chữa
được quy định như thế nào, hiệu quả của việc người bào chữa tham gia tố
tụng như thế nào? Trong bài viết dưới đây chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu, và
từ các vấn đề đó đưa ra các biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật để nâng
cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa:
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ:
1. Khái niệm người bào chữa:
Tuy Bộ luật TTHS năm 2003 không nêu khái niệm thế nào là người
bào chữa, nhưng căn cứ vào quy định tại các điều 56, 57 và 58 Bộ luật
TTHS thì, người bào chữa là người được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người đại diện hợp pháp của họ, những người khác được người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo ủy quyền mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu
đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử hoặc đề nghị Ủy ban mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận để cử người bào chữa
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý.
Một người có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong cùng một vụ án nếu quyền và lợi ích của những người được bào chữa
trong vụ án đó không đối lập nhau. Việc xác định quyền và lợi ích của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo có đối lập nhau hay không phải căn cứ vào tình tiết
của vụ án mà điều quan trọng nhất là phải đặt ra các giả thiết: nếu gỡ tội cho
người này thì có buộc tội cho người khác không? Hoặc nếu giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho bị cáo này thì có làm tăng nặng trách nhiệm hình sự đối
với bị cáo khác mà mình cùng bào chữa hay không?... Mặt khác, nhiều


người cũng có thể cùng bào chữa cho một bị can, bị cáo.
Để đảm bảo sự vô tư, khách quan khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa,
khoản 2 điều 56 bộ luật TTHS quy định những người sau không được bào
chữa: Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người
Tài liệu: Docs.vn Hỗ trợ : Y!M minhu888
đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; Người tham gia trong vụ án
đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào
chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, cơ quan điều tra, viện
kiểm sát, tòa án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa để
họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ
lí do. Đối với trường hợp tạm giữ người thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi
nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc
bào chữa, cơ quan điều tra phải xem xét, cấp giấy chứng nhận cho người bào
chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì
phải nêu rõ lí do. Giấy chứng nhận bào chữa phải được lưu trong hồ sơ vụ án
như một tài liệu chính thức để tòa án cấp trên kiểm tra tòa án cấp dưới. Đây
là điểm mới của bộ luật TTHS năm 2003, quy định về nghĩa vụ xem xét, cấp
giấy chứng nhận bào chữa của cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án; quy
định thời hạn cụ thể của việc xem xét cấp giấy chứng nhận người bào chữa.
Quy định này có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Theo quy định tại khoản 1 điều 56 Bộ luật TTHS thì người bào chữa
có thể là: Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo; Bào chữa viên nhân dân. Hiện nay, do tình hình dân trí và ý thức pháp
luật của nhân dân ta còn nhiều mặt hạn chế nên người bào chữa chủ yếu
trong các vụ án hình sự vẫn là Luật sư.
1.1. Luật sư:
Là người hoạt động chuyên nghiệp tham gia trong một đoàn luật sư theo quy
định của pháp luật. Điều 2 luật Luật sư năm 2006 cũng đưa định nghĩa:

“Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của
Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
chức (sau đây gọi chung là khách hàng)”. Để trở được công nhận là một luật
sư thì cá nhân phải đáp ứng các điều kiện như: là công dân Việt Nam trung
thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức
tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập
sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở
thành luật sư, đã được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một
đoàn luật sư.(Điều 10 và điều 11 luật Luật sư năm 2006)
Luật sư được lựa chọn hình thức để hành nghề theo một trong hai hình thức
là hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá
Tài liệu: Docs.vn Hỗ trợ : Y!M minhu888
nhân (Điều 23 luật Luật sư năm 2006), đây là quy định mới của luật Luật sư
năm 2006 so với quy định của pháp lệnh Luật sư năm 2001, quy định này là
sự mở rộng diện các luật sư được tham gia bào chữa trong các vụ án hình
sự, qua đó các luật sư không còn bị giới hạn bởi việc phải tham gia vào tổ
chức hành nghề luật sư mới có thể thực hiện vai trò người bào chữa trong vụ
án hình sự mà có thể thực hiện vai trò này ngay cả khi hoạt động dưới hình
thức cá nhân.
Theo quy định tại điều 32 và luật Luật sư năm 2006 thì hình thức tổ chức
hành nghề luật sư là văn phòng Luật sư và công ty luật, công ty luật phải
được tổ chức dưới một trong hai hình thức là công ty luật hợp danh hoặc
công ty luật TNHH. Tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề luật
này phải tuân theo các quy định của luật Luật sư năm 2006 và các luật khác
có liên quan. Một luật sư chỉ được thành lập hoặc tham gia thành lập một tổ
chức hành nghề luật sư tại địa phương nơi có Đoàn luật sư mà luật sư đó là
thành viên. Trong trường hợp luật sư ở các Đoàn luật sư khác nhau cùng
tham gia thành lập một công ty luật thì có thể lựa chọn thành lập và đăng ký
hoạt động tại địa phương nơi có Đoàn luật sư mà một trong các luật sư đó là
thành viên. Quy định này so với pháp lệnh luật sư năm 2001 thì có phạm vi

rộng hơn rất nhiều, pháp lệnh luật sư chỉ quy định hai hình thức tổ chức
hành nghề luật sư là văn phòng luật sư và công ty luật hợp danh là hạn chế
rất lớn cho việc hành nghề luật của các luật sư.
1.2. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo:
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là bố mẹ
đẻ, bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy
định của pháp luật đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Người đại diện hợp pháp của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không bào chữa cho bị cáo thì họ cũng có
những quyền như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ tham gia tố tụng với tư
cách là người đại diện hợp pháp, nếu họ tham gia tố tụng với tư cách là
người bào chữa thì họ có quyền và nghĩa vụ như đối với người bào chữa.
Thực tiễn xét xử cho thấy, việc xác định người đại diện hợp pháp của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo không khó nhưng lại khó ở chỗ: người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo là người đã thành niên không có nhược điểm về thể chất hoặc
tinh thần mà người thân thích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tuy không
phải là luật sư, bào chữa viên nhân dân nhưng lại yêu cầu được bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vì họ là người có trình độ pháp lý, đã từng
hoạt động trong các cơ quan pháp luật nay nghỉ hưu. Vậy những người này
có được bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay không? Về vấn đề
Tài liệu: Docs.vn Hỗ trợ : Y!M minhu888
này vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau nhưng thực tiễn xét xử đã có trường
hợp tòa án đã công nhận và cấp giấy chứng nhận cho họ để họ thực hiện việc
bào chữa cho bị cáo. Ví dụ: Ngày 5-4 vừa qua, TAND tỉnh Phú Yên đã cấp
giấy chứng nhận người bào chữa cho một trường hợp như trên(1), sau sự
công nhận này vẫn còn rất nhiều ý kiến trái chiều cả đồng ý và không đồng
ý, tuy nhiên tôi cho rằng sự công nhận này là hợp lý và cần được nhân rộng
hơn trong thực tiễn xét xử, nó giúp cho việc đảm bảo quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được tốt hơn, bởi lẽ với thực trạng kinh tế xã
hội nước ta hiện nay, đời sống nhân dân còn thấp nên việc mời luật sư bào

chữa là chuyện xa vời, nếu chỉ công nhận vai trò bào chữa của luật sư thì
khả năng tài chính của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay người thân của
họ khó có thể chi trả cho các dịch vụ pháp lý này, làm cho quyền được bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bị hạn chế.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhất
thiết phải là người đã thành niên; không bị tâm thần; có quốc tịch Việt Nam
và cư trú tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người có quốc tịch nước ngoài, người
không có quốc tịch hoặc người Việt Nam ở nước ngoài.
1.3. Bào chữa viên nhân dân:
Là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho bị cáo.
Hiện nay chưa có quy định cụ thể về bào chữa viên nhân dân và trong thực
tế hoạt động của bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức thành
một hệ thống. Theo khoản 3 điều 57 của Bộ luật TTHS năm 2003 thì: " Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có
quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là thành viên của tổ chức mình ".Trong thực tế bào chữa viên nhân
dân thường là người của các tổ chức đoàn thể đứng ra bào chữa cho thành
viên của tổ chức mình như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ.... Điều kiện để trở
thành bào chữa viên nhân dân tuy không được pháp luật quy định nhưng tối
thiểu cũng phải đáp ứng được một số điều kiện cơ bản như: là công dân Việt
Nam, có tư cách đạo đức tốt, đã thành niên, không bị nhược điểm về thể chất
và tâm thần, có năng lực hành vi đầy đủ, có trình độ hiểu biết…vv.


2. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa:
Tài liệu: Docs.vn Hỗ trợ : Y!M minhu888
Người bào chữa là người tham gia tố tụng, thực hiện chức năng bào
chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Để đảm bảo cho người bào chữa
được thực hiện chức năng của mình Bộ luật TTHS năm 2003 quy định cụ

thể các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Tất cả các quyền và nghĩa vụ
đó tạo thành địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
2.1. Quyền của người bào chữa:
Theo điều 19 Bộ luật TTHS năm 2003, người bào chữa có quyền bình
đẳng với kiểm sát viên trong một vụ án hình sự. Khoản 1 điều 58 Bộ luật
này thì: “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong
trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này
thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong
trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì
Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ
khi kết thúc điều tra”. Tại khoản 2 điều 58 Bộ luật TTHS quy định người
bào chữa có các quyền sau:
- Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và
nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt
trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng
có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà
mình bào chữa.
Việc người bào chữa được quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý
nghĩa quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo sẽ ổn định về mặt tâm lý hơn, những người tiến hành các hoạt động điều
tra thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa theo dõi được quá
trình điều tra và tình hình chứng cứ điều đó có ý nghĩa rất lớn cho việc
chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng của họ sau này tại phiên tòa.
Người bào chữa có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can khi điều tra viên đồng
ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi
tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có
sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà
mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có
quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.
- Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi

cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.

×