Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

công tác quản lý, bố trí sử dụng cán bộ đoàn trên địa bàn tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.64 KB, 58 trang )

TRUNG ƯƠNG ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài:
Công tác quản lý, bố trí sử dụng cán bộ đoàn
trên địa bàn tỉnh bắc kạn
Giảng viên: Thạc sĩ Trần Hoàng Trung
Người thực hiện: Phạm Bắc Hà
Líp: K41B
Niên khoá: 2005- 2007
BẮC KẠN, THÁNG 12 NĂM 2007
LỜI CẢM ƠN !
Quản lí, bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ Đoàn là một nội dung quan trọng
được đề cập đến trong Nghị quyết số 02 NQ/TƯĐTN ngày 17- 9- 2003 Hội nghị
lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đoàn khoá VIII về công tác cán bộ Đoàn
trong thời kì mới. Thực hiện phương châm “ học đi đôi với hành”, lí luận gắn
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
liền với thực tiễn, nhà trường gắn với xã hội. Từ thực trạng công tác cán bộ
Đoàn nói chung và công tác quản lí, bố trí sử dụng cán bộ Đoàn nói riêng trong
giai đoạn hiện nay. Em lựa chọn nghiên cứu đề tài: “ Công tác quản lí, bố trí
sử dụng đội ngũ cán bộ Đoàn trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn” với mong muốn
những nội dung trình bày trong chuyên đề sẽ góp phần bổ xung và nâng cao
chất lượng công tác này.
Chuyên đề: “ Công tác quản lí, bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ Đoàn trên
địa bàn tỉnh Bắc Kạn” được hoàn thiện nhờ sự giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất
về tinh thần, vật chất của Ban chấp hành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc
Kạn mà trực tiếp là các đồng chí trong Ban Kiểm tra- Tổ chức tỉnh Đoàn; sự
hướng dẫn tận tình, chu đáo, cụ thể, trách nhiệm của Thạc sĩ Trần Hoàng
Trung- Giảng viên Khoa Công tác Thanh Thiếu niên, Học viện Thanh Thiếu
niên Việt Nam.
Em xin được chân thành cảm ơn các đồng chí trong Ban Chấp hành, Ban


Thường vụ tỉnh Đoàn Bắc Kạn, các đồng chí Ban Kiểm tra- Tổ chức tỉnh Đoàn;
trân trọng cảm ơn sự quan tâm thường xuyên về mọi mặt của Đảng uỷ, Ban
Giám đốc Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam trong thời gian em học tập, rèn
luyện tại học viện. Đặc biệt, xin được trân trọng cảm ơn Thạc sĩ Trần Hoàng
Trung với tinh thần, thái độ và trách nhiệm cao nhất đã tận tình hướng dẫn em
hoàn thiện toàn bộ nội dung chuyên đề.
Do điều kiện trình độ, kiến thức cũng như năng lực bản thân còn nhiều
hạn chế cộng với cách nhìn nhận đánh giá vấn đề còn nặng tính chủ quan nên
những nội dung nêu ra trong chuyên đề có thể còn chưa hoàn chỉnh. Vì vậy em
rất mong được sù xem xét, đóng góp của các thầy cô giảng viên trong học viện
để chuyên đề của em được hoàn thiện và có ý nghĩa trong thực tiễn công tác.
Em xin chân thành cảm ơn!
Phạm Bắc Hà
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
2
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
MỤC LỤC
STT NỘI DUNG TRANG
01 Lời cảm ơn 2
02 Mục lục 4
03 Phần mở đầu 5
04 Phần thứ hai: Kết quả nghiên cứu của đề tài 9
05 Chương 1: Cơ sở lí luận 9
06 1.1 Hệ thống khái niệm 9
07 1.2 Một số quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về Thanh niên và cán bộ làm công tác thanh niên
19
08 1.3 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ và cán
bộ làm công tác thanh niên
25

09 Chương 2: Thực trạng công tác quản lí, bố trí, sử dụng đội ngũ
cán bộ Đoàn trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
28
10 2.1 Đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội tỉnh
Bắc Kạn
29
11 2.2 Tình hình chung về Thanh niên tỉnh Bắc Kạn 31
12 2.3 Thực trạng công tác cán bộ Đoàn trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn 32
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
3
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
13 2.4 Một số phong trào cách mạng của tuổi trẻ tỉnh Bắc Kạn 39
14 2.5 Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác Đoàn và
phong trào thanh thiếu niên trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
43
15 Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp cơ bản về đổi mới và
nâng cao chất lượng công tác quản lí, bố trí, sử dụng đội ngũ
cán bộ Đoàn trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
45
16 3.1 Kiến nghị 45
17 3.2 Giải pháp 48
18 Phần thứ ba: Kết luận 54
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng, Nhà nước ta khởi xướng, lãnh đạo tiến hành
từ năm 1986 đến nay đã đem lại những thành tựu vô cùng to lớn trên tất cả các
lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hoá- xã hội, giáo dục, y tế, an ninh quốc
phòng… và mọi mặt của đời sống xã hội.Sự nghiệp đổi mới của Đảng đã và
đang tiếp tục khẳng định một chân lí: Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
đối với Cách mạng nước ta trong bất kì hoàn cảnh nào cũng là tuyệt đối đúng

đắn. Công cuộc đổi mới đặt ra một yêu cầu cấp thiết đó là phải không ngừng đổi
mới hệ thống cán bộ các cấp từ Trung ương đến cơ sở đáp ứng với nhiệm vụ
hiện nay.
Cán bộ Đoàn có vị trí quan trọng trong công tác dân vận của Đảng và là
nguồn cung cấp cán bộ cho Hệ thống chính trị. Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ
VIII xác định cán bộ là nhân tố then chốt, công tác cán bộ Đoàn là bộ phận quan
trọng của công tác cán bộ Đảng. Có thể khẳng định, yêu cầu đổi mới, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn đang là một đòi hỏi mang tính cấp thiết ở tất cả
các cấp bộ Đoàn trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, đòi hỏi phải đào tạo ra những con người mới có năng lực chuyên môn cao,
thành thạo chuyên môn của mình đáơ ứng với yêu cầu nhiệm vụ. Xây dựng đội
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
4
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
ngũ cán bộ Đoàn nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác của của Đoàn và
phong trào Thanh Thiếu nhi trong giai đoạn mới, nhân tố có tính quyết định xây
dựng tổ chức Đoàn, Hội, Đội vững mạnh, tham gia xây dựng Đảng và chính
quyền; đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước
từng bước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Xã hội chủ
nghĩa.
Xuất phát từ tình hình nhận thức của Đoàn viên, Thanh niên ngày càng
cao, nhu cầu của thanh niên có nhiều thay đổi. Đòi hỏi người cán bộ Đoàn phải
không ngừng hoàn thiện, có đủ năng lực đáp ứng được với sự phát triển về trình
độ của đối tượng vận động.
Chuyên đề này được nghiên cứu dựa trên những Nghị quyết, Chỉ thị của
Đảng về công tác cán bộ trong thời kì đổi mới và một số Nghị quyết của Trung
ương Đoàn:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VII về công tác thanh niên trong thời kì mới

Chỉ thị số 66-CT/TW của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh việc
thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VII về “Công tác thanh niên trong thời kì mới”
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
Nghị quyết số 02 NQ/TWĐTN ngày 17-9-2003 tại Hội nghị lần thứ 3
Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khoá VIII về công tác cán bộ Đoàn trong thời
kì mới.
Nghị quyết số 07 NQ/TWĐTN ngày 20-5-2005 tại Hội nghị lần thứ 11
Ban Thường vô Trung ương Đoàn khoá VIII về đổi mới công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ của Đoàn , Hội, Đội trong tình hình mới.
Em lựa chọn nghiên cứu vấn đề trên không phải là một lĩnh vực mới mà
trước đó cũng đã có nhiều nghiên cứu, hội thảo xung quanh nội dung này. Tuy
nhiên các công trình nghiên cứu, các hội thảo đó chưa đi sâu và chưa phân tích
mang tính hệ thống. Vì vậy em lựa chọn đề tài: “ Công tác quản lí, bố trí sử
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
5
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
dụng đội ngũ cán bộ Đoàn trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn” làm chuyên đề tốt
nghiệp chương trình trung cấp lí luận chính trị và nghiệp vụ Đoàn, Hội, Đội tại
Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam.
2. Mục đích của chuyên đề
Nhằm nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng công tác quản lí, bố trí sử
dụng đội ngũ cán bộ Đoàn về: số lượng, độ tuổi, giới tính, dân tộc, tôn giáo,
trình độ chính trị, trình độ chuyên môn, trình độ văn hoá, trình độ quản lí Nhà
nước, thực trạng công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kĩ năng nghiệp vụ
công tác Thanh ThiÕu niên đối với cán bộ Đoàn. Tìm hiểu về hiệu quả chính trị
xã hội của một số phong trào do Đoàn Thanh niên tỉnh Bắc Kạn phát động và tổ
chức thực hiện trong 3 năm gần đây,
Từ đó xác định những nguyên nhân cơ bản tác động đến hiệu quả công tác
Đoàn và Phong trào Thanh Thiếu niên của tỉnh Đoàn cũng như công tác lãnh

đạo, chỉ đạo của cán bộ Đoàn tỉnh Bắc Kạn. Đề xuất những giải pháp và kiến
nghị với tổ chức Đoàn, cấp uỷ, chính quyền địa phương và Đoàn cấp trên nhằm
tiếp tục nâng cao chất lượng công tác cán bộ, chất lượng, hiệu quả công tác
Đoàn và phong trào Thanh Thiếu niên trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
3. Nhiệm vụ của chuyên đề
3.1 Khảo sát, đánh giá, tập hợp số liệu vÒ chất lượng cán bộ Đoàn trong
tỉnh Bắc Kạn
3.2 Đánh giá về thực trạng chất lượng cán bộ Đoàn
3.3 Xác định những nguyên nhân khách quan, chủ quan tác động đến
chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn
3.4 Đề xuất một số giải pháp về nâng cao hiệu quả công tác của cán bộ
Đoàn trong tình hình mới đối với tỉnh Đoàn Bắc Kạn
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
6
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
3.5 Đề xuất một số kiến nghị với cấp uỷ Đảng, chính quyền tỉnh Bắc
Kạn và Trung ương Đoàn TNCS Hồ CHí Minh về công tác cán bộ
Đoàn trong tình hình mới.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1 Không gian:
Tỉnh Bắc Kạn
4.2 Thời gian:
Từ năm 2004 đến năm 2007
5. Khách thể nghiên cứu
Cán bộ Đoàn (từ tỉnh Đoàn đến các chi đoàn) trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
6. Đối tượng khoa học
Chất lượng tổng hợp về mọi mặt của cán bộ Đoàn trên địa bàn tỉnh Bắc
Kạn trong giai đoạn hiện nay- Thực trạng và giải pháp.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đọc và nghiên cứu tài liệu

Lấy ý kiến chuyên gia
Thâm nhập thực tế cơ sở Đoàn để thu thập thông tin
Xử lí và phân tích số liệu
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
7
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
PHẦN THỨ HAI
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1 HỆ THỐNG KHÁI NIỆM
1.1.1 Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Điều lệ hiện hành của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị xã hội của thanh niên Việt Nam
do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lí tưởng
của Đảng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Được xây dựng, rèn luyện và trưởng thành qua các thời kì đấu tranh cách
mạng. Đoàn đã tập hợp đông đảo thanh niên phát huy chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bước vào thời kì mới, Đoàn tiếp tục phát huy
những truyền thống quý báu của dân tộc và bản chất tốt đẹp của mình, kế tục
trung thành, xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh; thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng; tập hợp đoàn viên
thanh niên cả nước đi đầu trong sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
8
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng Cộng sản Việt

Nam, là đội xung kích cách mạng, là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh
niên, đại diện bảo vệ chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tuổi trẻ; phụ
trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt chính trị
trong phong trào thanh niên và trong các tổ chức thanh niên Việt Nam.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Đoàn phối hợp với các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể, tổ chức xã hội,
các tập thể và gia đình chăm lo giáo dục, đào tạo, bảo vệ Thanh Thiếu nhi; tổ
chức Đoàn viên, Thanh niên tích cực tham gia vào việc quản lÝ Nhà nước và xã
hội.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đoàn kết, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác
bình đẳng với các tổ chức Thanh niên tiến bộ và nhân dân các nước trong cộng
đồng quốc tế phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì
tương lai, hạnh phúc của tuổi trẻ.
1.1.2 Thanh niên
Thực tế Thanh niên là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học khác nhau, tuỳ theo nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ đánh
giá mà người ta đưa ra các định nghĩa khác nhau về Thanh niên. Theo Từ điển
Tiếng Việt: “Thanh niên là người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành”. Khái
niệm này bao gồm 2 ý: Thanh niên là người có độ tuổi còn trẻ và đang trưởng
thành. Theo tác giả Vũ Trọng Kim thì: “Thanh niên là một nhóm nhân khẩu- xã
hội đặc thù, bao gồm những người trong một độ tuổi nhất định, có quan hệ gắn
bó với mọi giai cấp, tầng lớp xã hội, có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội,
có vai trò to lớn trong hiện tại và giữ vai trò quyết định sự phát triển trong tương
lai của xã hội”.
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
9
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam

Theo tác giả Đoàn Văn Thái thì: Thanh niên là một phạm trù triết
học, chỉ một nhóm nhân khẩu, xã hội đặc thù, ở độ tuổi nhất định ( từ 16 đến 30
tuổi ), có mặt trong tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, các lĩnh vực
hoạt động của đời sống xã hội, có những đặc điểm chung đặc trưng tâm lí, sinh
lÝ, nhận thức xã hội, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia, dân tộc trong cả hiện tại và tương lai. Khác với mét số đối tượng xã hội
khác Thanh niên cần được hỗ trợ, định hướng, giáo dục để tự làm chủ bản thân,
tham gia quản lí và đóng góp cho xã hội. Từ những khái niệm này, có thể rót ra
một số đặc điểm chung của thanh niên nh sau:
Thanh niên không phải là một giai cấp mà là một nhóm nhân khẩu,
xã hội; có độ tuổi nhất định, từ 16 đến 30 tuổi; có những đặc điểm đặc trưng
khác với các lứa tuổi khác về tâm lí, sinh lÝ; có tâm tư, nguyện vọng, có nhu
cầu và hoài bão, khát vọng phù hợp với lứa tuổi và giới.
Thanh niên có mặt trong tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội: Thanh
niên nông dân, Thanh niên công nhân, Thanh niên viên chức, Thanh niên học
sinh, sinh viên, Thanh niên các lực lượng vũ trang; có mặt trong tất cả 54 dân
tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam.
Thanh niên có mặt và giữ vai trò quan trọng trong các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước.
1.1.3 Cán bé ( Cader )
Đây là một từ du nhập, xuất phát từ Pháp, được người Nhật sử dụng
đầu tiên ở phương Đông, du nhập vào Việt Nam trong thời kì Kháng chiến
chống Pháp của nhân dân ta. Lúc đầu Khái niệm “ Cader” được dùng để phân
biệt giữa lãnh đạo, chỉ huy với chiến sĩ trong quân đội. Sau đó, nó được dùng
phổ biến để phân biệt giữa tất cả những người tham gia kháng chiến với nhân
dân. Hiện nay, khái niệm “cán bộ” được dùng trong các cơ quan hành chính sự
nghiệp.
Cán bé- theo cả nghĩa Tiếng Anh, tiếng Pháp- Gồm hai nghĩa sau:
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
10

Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
Cader- Là cái khung, cái khuôn.
Cader- là những người nòng cốt, người chỉ huy.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Cán bộ là những người có chức vụ, có vai
trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động ảnh hưởng đến tổ chức
đó và có mối quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lí, điều hành.
1.1.4 Lãnh đạo và chỉ đạo
Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng và tác động tới con người, tổ
chức thông qua những chủ trương, phương hướng phát triển tổ chức nhằm thực
hiện những mục tiêu nhất định được đặt ra cho từng giai đoạn. Nói cách khác,
lãnh đạo là tầm nhìn, những cân nhắc về đạo đức, lập kế hoạch chiến lược và các
quá trình ra quyết định mà tổ chức cần thực hiện để đạt được thành công.
Theo David Brewer thuộc nhóm Tư vấn lãnh đạo ở San Fracisco,
lãnh đạo là nghệ thuật giúp mọi người có được tầm nhìn, mục tiêu của tổ chức,
sau đó khuyến khích, động viên để họ có những cam kết, những hành động và
sáng kiến biến mục tiêu thành hiện thực.
Người lãnh đạo thành công có thể làm tăng tính hiệu quả của họ
bằng cách kì vọng những gì tốt nhất từ mọi người, duy trì thái độ tích cực, xây
dựng khát vọng đạt được mục tiêu cho toàn bộ nhóm và tạo được sự tin tưởng,
quý trọng với nhân viên. Bởi vì lãnh đạo là thuyết phục chứ không phải thống
trị. Những người có thể buộc người khác làm theo ý mình chỉ bởi vì quyền lực
của họ thì chưa phải là nhà lãnh đạo.
Theo Ngôn ngữ học, lãnh đạo được hiểu theo ba nghĩa sau:
Theo nghĩa danh từ: Lãnh đạo là một cá nhân hoặc một tổ chức
lãnh đạo. Ví dụ: Bí thư Chi bộ, Bí thư Đảng bộ, Bí thư huyện uỷ, tỉnh uỷ; Ban
Chấp hành Chi bộ, Đảng bộ…
Theo nghĩa động từ: Được hiểu là ai lãnh đạo ai? Tức là chỉ sự lãnh
đạo. Ví dụ: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh.
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B

11
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
Theo nghĩa tính từ: Chỉ tài lãnh đạo, nghệ thuật lãnh đạo.
Như vậy, lãnh đạo là quá trình đề ra đường lối, chủ trương (với
nghĩa động từ) xây dựng tổ chức bộ máy cán bộ, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra
thực hiện chủ trương, đường lối, nhằm biến chủ trương, đường lối thành thực tế
sinh động trong cuộc sống. Còn chỉ đạo là việc tổ chức thực hiện chủ trương Êy;
là một khâu trong công tác lãnh đạo, là quá trình cấp trên hướng dẫn cấp dưới
thực hiện một chủ trương, một nhiệm vụ nào đó.
1.1.5 Cán bộ Đoàn
Cán bé Đoàn là cán bộ Chính trị- xã hội hay nói cách khác, là loại
cán bộ vừa hoạt động chính trị, vừa hoạt động xã hội. Vì đối tương Thanh Thiếu
niên trong xã hội rất phong phú mà Đoàn Thanh niên là tổ chức tiên tiến nhất
của Thanh niên, là đội dự bị tin cậy của Đảng, đồng thời Đoàn Thanh niên cũng
lãnh đạo nhiều tổ chức xã hội khác của Thanh Thiếu niên.
Cán bộ Đoàn phải là những người trẻ tuổi hoặc là những người có
“cái đầu trẻ”; là những người hành động có tính năng động, linh hoạt cao nên
tuổi của cán bộ Đoàn không thể quá xa so với tuổi của Đoàn viên, Thanh niên
( trừ một số Ýt cán bộ nghiên cứu, giảng dạy hoặc một số chuyên gia ). Nếu tuổi
của cán bộ Đoàn cách biệt so với tuổi Đoàn viên Thanh niên sẽ giảm tính “xông
pha”, “lăn lộn”, nhạy bén trong hoạt động.
Cán bộ Đoàn Thanh niên là những người ưu tú, có giác ngộ chính trị,
hiểu biết thanh niên và có kĩ năng thành thạo trong việc tổ chức các hoạt động
thanh niên, có uy tín và có sức thu hút quần chúng trẻ tuổi; biết nói, biết viÕt và
biết tổ chức chỉ đạo các hoạt động Thanh Thiếu niên.
Cán bộ Đoàn là cán bộ làm công tác chính trị- xã hội, nhưng do tính
đặc thù của đối tượng, vì vậy ngoài những yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ
cán bộ Đoàn còn phải có nhiệt tình, năng khiếu, kĩ năng nghiệp vụ và phương
pháp công tác Thanh Thiếu nhi.
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B

12
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
1.1.6 Công tác Đoàn
Công tác Đoàn là tổng thể các mặt hoặt động của Đoàn, do cấp bộ
Đoàn tổ chức, có tác động đến các đối tượng Thanh Thiếu niên, nhằm mục tiêu
là hình thành lí tưởng chính trị cho thanh niên ( tức là mục tiêu chính trị ) và
tham gia giải quyết các vấn đề xã hội của thanh niên, đáp ứng nhu cầu xã hội
của xã hội ( tức là mục đích xã hội ), góp phần giáo dục thanh niên trở thành
những công dân tốt, những người Đoàn viên Thanh niên Cộng sản, đoàn viên ưu
tú và Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Công tác Đoàn do Đảng lãnh đạo, là
một bộ phận quan trọng của công tác Đảng.
1.1.7 Công tác Thanh niên
Theo Từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý làm chủ biên thì công
tác được hiểu là “Công việc của Nhà nước, của đoàn thể”. Như vậy, công tác
thanh niên có thể được hiểu là công việc của Nhà nước, của đoàn thể hay thực
hiện công việc của Nhà nước, đoàn thể. Khái niệm này đúng, tuy nhiên chưa
phản ánh được tính mục đích của công tác thanh niên. Tại Việt Nam, công tác
thanh niên là một bộ phận quan trọng trong công tác quần chúng, bao gồm toàn
bộ những hoạt động của Đảng, Nhà nước, Đoàn Thanh niên và xã hội nhằm giáo
dục, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho Thanh niên phát triển, trưởng thành, phát
huy mọi tiềm năng của lực lượng Thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Do vậy cũng có thể hiểu, công tác thanh niên là sự tác động tổng
hợp của các chủ thể xã hội vào một đối tượng cụ thể là Thanh niên theo những
mục tiêu xác định.
Kể từ khi có Đảng, công tác thanh niên là hoạt động tự giác, trở
thành hoạt động chính trị xã hội, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của
Đảng; Đảng luôn coi trọng công tác thanh niên là một hoạt động hữu cơ trong
hoạt động của mình; là quá trình giáo dục, thuyết phục và vận động thanh niên
tham gia thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng, đồng thời góp phần giải quyết
các vấn đề xã hội vốn có của thanh niên; là quá trình tạo ra môi trường kinh tế,

Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
13
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
văn hoá, xã hội và là trường học cộng sản cho thanh niên học tập, rèn luyện và
trưởng thành.
Từ những phân tích trên đây, công tác thanh niên được hiểu là hoạt
động có mục đích của tổ chức tác động vào đối tượng thanh niên nhằm giáo dục,
bồi dưỡng, định hướng và phát huy thanh niên, đáp ứng những đòi hỏi nào đó
của thanh niên và của xã hội.
1.1.8 Công tác cán bộ Đoàn
Là bộ phận quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ Đoàn đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ công tác Đoàn và
phong trào Thanh Thiếu nhi trong giai đoạn mới, nhân tố quyết định sự vững
mạnh của các tổ chức Đoàn, Hội, Đội, đồng thời tích cực tham gia xây dựng
Đảng và chính quyền trong thời kì mới. Công tác cán bộ Đoàn là một hệ thống
bao gồm các nội dung:
Công tác đánh giá cán bộ
Công tác quy hoặch, tuyển chọn cán bộ
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Công tác quản lí, bố trí sử dụng cán bộ
Công tác luân chuyển, điều động cán bộ
Công tác chính sách cán bộ
Mục tiêu chung của công tác cán bộ Đoàn được đề cập đến trong
Nghị quyết số 02 NQ/TWĐTN ngày 17-9-2003 Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp
hành Trung ương Đoàn khoá VIII về công tác cán bộ Đoàn trong thời kì mới là:
“Nâng cao chất lượng, đảm bảo đủ số lượng và từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ
Đoàn. Với việc tăng cường đầu tư cho công tác cán bộ nhằm tạo sự chuyển biến
mới trong công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi. Góp phần tạo nguồn cán
bộ cho Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân.”
1.1.9 Công tác quản lí, bố trí sử dụng cán bộ Đoàn

Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
14
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
Công tác quản lí, bố trí sử dụng cán bộ Đoàn là bộ phận quan
trọng trong toàn bộ công tác cán bộ Đoàn. Việc quản lí, sử dụng cán bộ được
thực hiện theo Pháp lệnh cán bộ công chức, đồng thời đảm bảo nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể quyết định đi đôi với thực hiện đầy đủ trách nhiệm cá
nhân trong công tác quản lí cán bộ. Đoàn cấp trên phối hợp với cấp uỷ cấp dưới
quản lí và quy hoạch tới chức danh uỷ viên Ban Thường vụ và trưởng các đơn vị
bộ phận thuộc đoàn cấp dưới trực tiếp.
Quản lí cán bộ Đoàn là toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc
nắm bắt về tình hình mọi mặt của người cán bộ Đoàn; trong đó cán bộ Đoàn vừa
là chủ thể quản lí, vừa là khách thể quản lí. Quản lí cán bộ Đoàn được thực hiện
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp trên quản lí cấp dưới, cán bộ chủ chèt
quản lí các cán bộ dưới quyền.
Trong công tác cán bộ nói chung, quản lí cán bộ có thể được xem
nh là một nghệ thuật về việc giải quyết mối quan hệ giữa lãnh đạo với cấp dưới
thuộc quyền và không thuộc quyền. Thể hiện rõ nét nhất trong công tác này là
phương pháp hành chính. Tuy nhiên, trong hoạt động Đoàn, một “thủ lĩnh thanh
niên” thực sự không chỉ sử dụng duy nhất biện pháp “mệnh lệnh hành chính”.
Nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà tình hình tư tưởng, đạo đức, lối sống,
quan niệm sống của mỗi cá nhân luôn chịu sự tác động to lớn của điều kiện xã
hội. Trong quản lí cán bộ thì việc quản lí về tư tưởng chính trị là quan trọng nhất
mà không phải bất kì người cán bộ nào cũng dễ dàng làm được.
Quản lí cán bộ được thực hiện thông qua nhiều biện pháp khác nhau,
có thể quản lí bằng hồ sơ cán bộ, bằng hình thức quan sát, giao nhiệm vụ thử
thách; thông qua trao đổi, chất vấn; thông qua tìm hiểu các mối quan hệ như: gia
đình, đồng nghiệp, bạn bè và các mối quan hệ xã hội khác để quản lí. Mỗi con
người có rất nhiều mối quan hệ ngang dọc, trên dưới, trong ngoài. Cán bộ là một
thành viên của tập thể, một cộng đồng, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với nhau,

nên cũng có rất nhiều mối liên hệ. Công việc mà cán bộ phụ trách thường liên
quan đến nhiều việc, nhiều người. Những đồng nghiệp từng làm việc với cán bộ,
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
15
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
từng thường xuyên cộng tác, gánh vác, chia sẻ trách nhiệm với nhau, gần gũi,
trao đổi với nhau nhiều việc, nhiều vấn đề cho nên họ hiểu nhau hơn là giữa cán
bộ lãnh đạo với cấp dưới. Mỗi cán bộ cũng có nhiều mối quan hệ với quần
chúng qua công tác, qua sinh hoạt và nhiều hoạt động khác. Quần chúng là đối
tượng mà cán bộ hướng tới phục vụ. Vì vậy, trong quản lí cán bộ cần biÕt coi
trọng quản lí thông qua các đối tượng này để nắm và hiểu rõ hơn về đối tượng
mà mình quản lí.
Quản lí cán bộ phải được tiến hành một cách có hệ thống từ công tác
tuyển chọn, bố trí, phân công, phân cấp nhiệm vụ đến khâu quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỉ luật. Trong quản
lí cán bộ cần chú trọng hai hình thức cơ bản là: Tập thể quản lí và cá nhân quản
lí. Nhưng đồng thời cũng cần đề cao, tránh buông lỏng và xem nhẹ hình thức “tự
quản lí”. Một người cán bộ tuỳ theo vị trí công tác có thể có rất nhiều tiêu chuẩn
do tổ chức đặt ra và chịu sự ràng buộc của nhiều yếu tố nh: các quy phạm pháp
luật, chuẩn mực đạo đức xã hội, vị trí mình đảm nhiệm Vì vậy, cần đặc biệt
coi trọng hình thức “tự quản lí”- tức là luôn làm chủ được chính mình để chiến
thắng trước những cám dỗ tiêu cực của xã hội.
Quản lí cán bộ được thực hiện tốt sẽ giúp người cán bộ Đoàn hiểu
được chính mình và hiểu được cấp dưới, biết được rõ “sở trường”, “sở đoản”
của mỗi đối tượng khác nhau. Từ đó sẽ thuận lợi rất nhiều trong việc tham mưu
cho cấp uỷ Đảng về việc bố trí, sử dụng người cán bộ Đoàn vào những vị trí phù
hợp với khả năng, phát huy được năng lực của họ. Đây sẽ là nền tảng vững chắc
nhất cho yêu cầu không ngừng đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động công tác
Đoàn, phong trào Thanh Thiếu niên trong điều kiện hiện nay.
Hàng năm và từng thời kì, căn cứ theo yêu cầu, nhiệm vụ, chương

trình công tác Đoàn và phong trào Thanh Thiếu nhi, các cấp bộ Đoàn cần sắp
xếp, điều chỉnh bộ máy và đội ngũ cán bộ cho phù hợp. Tăng cường công tác
quản lí cán bộ, đảm bảo nắm chắc cán bộ về đức, tài, lập trường quan điểm, ý
thức tổ chức kỉ luật và uy tín trong thanh thiếu nhi; quản lí cán bộ phải đi liền
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
16
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
với việc hoàn thiện hồ sơ, bổ sung, lưu trữ và sử dụng, khai thác hồ sơ một cách
thuận lợi.
Bố trí những cán bộ có đủ tiêu chuẩn, đảm đương tốt nhiệm vụ và
phát triển lâu dài vào cơ quan lãnh đạo của Đoàn. Trong bố trí, sử dụng cán bộ
đảm bảo tính ổn định, kế thừa và phát triển cũng như sự bổ sung hỗ trợ lẫn nhau
và tính đại diện giữa các đối tượng, lĩnh vực, vùng, miền. Mạnh dạn đề bạt
những cán bộ trẻ, có triển vọng, đã qua thử thách, rèn luyện trong thực tiễn
phong trào Thanh Thiếu niên đảm nhận các chức vụ chủ chốt của Đoàn. Chủ
động sắp xếp, bố trí lại vị trí công tác cho phù hợp năng lực, sở trường của từng
cán bộ, có kế hoạch cử đi đào tạo, đào tạo lại hoặc bồi dưỡng nâng cao trình độ
đối với những cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt song về kiến thức, trình độ
chuyên môn còn hạn chế.
Có thể khẳng định, đội ngũ cán bộ nói chung là lực lượng chủ chốt
của cách mạng, là tài sản quý báu của đất nước theo tư tưởng “Hiền tài là
nguyên khí quốc gia” của dân tộc ta. Nhưng trong thực tế không phải người
người đều tốt, mọi việc đều hay, đều đúng, không Ýt trường hợp “trắng- đen,
vàng- thau” lẫn lộn; kẻ gian giảo lại quá khéo léo tinh vi che đậy những suy
nghĩ, hành vi chưa đúng của mình, người chính trực lại thật thà, bộc trực dễ làm
mất lòng người khác…Thực tế muôn vàn phức tạp đó làm cho người lãnh đạo
dễ bị nhầm lẫn, khó có thể xác định người tốt, kẻ xấu để mà bố trí sử dụng vào
những công việc cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Dụng nhân như dụng
mộc”. Có nhiều cách thức, kinh nghiệm khác nhau khi bố trí sử dụng con người.
Những ai đã từng trải nghiệm, lăn lộn với cuộc sống, từng công tác, tiếp xúc, va

chạm với nhiều hạng người…thường tích luỹ những kinh nghiệm hay về nhìn
nhận con người. Từ đó sẽ tìm ra được phương pháp hợp lí, khoa học nhất trong
việc quản lí, bố trí sử dụng cán bộ. Vốn là người đã từng bôn ba khắp năm châu
bốn biển, rất có kinh nghiệm về việc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp chúng
ta nhận diện những tính cách, hành vi của từng loại cán bộ, của người tốt, kẻ
xấu:
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
17
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
“Ai mà hay khoe khoang công việc, hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm,
trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay công kích người
khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế, tuy họ làm được việc, cũng
không phải cán bộ tốt”.
“Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay
thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình, không ham việc dễ, tránh việc
khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của Đảng, vô luận hoàn cảnh
thế nào, lòng họ cũng không thay đổi, những người như thế dù công tác kém
một chút cũng là cán bộ tốt”.
Hoặc là, khi nói chữ Chính trong các đức tính con người Việt Nam
thời đại mới, Người cũng giải thích rõ rằng, trên quả đất có hàng muôn triệu
người và có thể chia làm hai hạng người là người thiện và kẻ ác; trong xã hội tuy
có trăm công nghìn việc, song những công việc Êy có thể chia làm hai thứ là
việc chính và việc tà. “Làm việc chính, là người thiện. Làm việc tà, là người ác”,
“Siêng năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm) chính là thiện. Lười biếng,
xa xỉ, tham lam, là tà, là ác”. Sự hiểu biết, óc quan sát tinh tường về con người,
về cán bộ như vậy, chắc chắn sẽ giúp cho việc nhận xét, phân định và bố trí sử
dụng cán bộ chính xác, rõ ràng, khoa học hơn.
Tóm lại, nếu nói cán bộ là một trong những khâu quan trọng trong
quyết định thành công hay thất bại của công tác, thì quản lí, bố trí, sử dụng cán
bộ lại là khâu trực tiếp ảnh hưởng đến mọi hoạt động và hiệu quả, chất lượng

của nhiệm vụ. Đây cũng là cơ sở chính xác cho việc tìm ra những người cán bộ
thực đức, thực tài để trọng dụng.
1.2 MỘT SÈ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MAC- LÊNIN VÀ TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THANH NIÊN VÀ CÁN BỘ LÀM CÔNG
TÁC THANH NIÊN
1.2.1 Một sè quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về thanh niên và
cán bộ làm công tác thanh niên
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
18
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, vấn đề thanh niên
được tất cả các quốc gia, các thời đại coi là một vấn đề có tầm quan trọng đặc
biệt. Trong kho tàng tri thức của loài người đã lưu giữ lại những tư tưởng, quan
điểm, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà sư phạm, các danh
nhân văn hoá về thanh niên. Trong kho tàng tri thức đó, học thuyết Mác- Lênin
với bản chất cách mạng đã có những quan điểm lí luận mẫu mực về nhiều vấn
đề của thanh niên.
Mét trong những phát hiện vĩ đại nhất của Các Mác là học thuyết về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Theo Mác: giai cấp vô sản chỉ được hình
thành với tư cách mét giai cấp khi nã ý thức được địa vị và tương lai của nó “…
Những công nhân tiên tiến nhất hoàn toàn hiểu rõ rằng, tương lai của giai cấp
công nhân và do đó tương lai của cả loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc
giáo dục thế hệ công nhân trẻ đang lớn lên”. Trong bối cảnh xã hội tư bản đương
thời (cuối thế kỉ XIX), Mác cho rằng: “Cần phải giải thoát cho thanh thiếu niên
khỏi sự tác động có tính chất phá hoại của hệ thống hiện tại”.
Chính Mác đã gọi “thanh niên là cội nguồn sự sống của dân tộc” và “giai
cấp công nhân là bộ xương của mỗi cơ thể dân tộc”.
Ăng- ghen đã đề xướng tư tưởng: Thanh niên không thể đứng ngoài chính
trị, chính hiện thực của cuộc sống đã, đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống
chính trị. Ông khẳng định: Thanh niên không bao giờ thoả mãn với lí tưởng

trước đây, họ muốn được tự do hơn trong hành động, họ khát khao lập chiến
công và vì sự đổi mới, họ sẵn sàng hiến dâng cả máu và cuộc đời mình.
Vào năm 1845, Ăng- ghen đã viết rằng: Chính thanh niên nước Đức đòi
hỏi phải thực hiện được cuộc cách mạng trong tương lai ở nước này.
Mác và Ăng- ghen luôn gắn thanh niên với giai cấp công nhân và đội tiên phong
chiến đấu của nó là Đảng Cộng sản. Ăng- ghen là người đầu tiên đưa ra các
quan niệm như: “Đội quân xung kích quyết định của đạo quân vô sản quốc tế”,
“Đội quân dự bị của Đảng” để nói về thanh niên. Vào năm 1853, khi “Đảng của
Mác” đã khẳng định vị trí của mình trên vũ đài lịch sử trong cuộc đấu tranh
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
19
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
quyết liệt chống lại những đạo luật đặc biệt của Bít- xmắc, Ăng- ghen đã viết:
“Chính thế hệ trẻ sẽ là nguồn bổ sung dồi dào nhất cho Đảng”.
Bàn về vị trí, vai trò của người “thủ lĩnh”, người cán bộ, Mác đã viết:
“Từng người kéo đàn Vi-ô-lông riền rẽ thì điều khiển lấy mình, còn dàn nhạc thì
cần phải có nhạc trưởng”. Người còn khẳng định: “Mỗi thời đại đều cần có
những người vĩ đại, nếu không có những người như thế thì thời đại sẽ sáng tạo
ra nó”.
Phát triển sáng tạo những luận điểm của Mác, Ăng- ghen, trong điều kiện
lịch sử mới, V.I.Lênin đã coi thanh niên là: “Nguồn sinh lực chiến đấu của cách
mạng”. Ông đã luận giải những nguyên nhân xuất hiện phong trào thanh niên,
phát hiện ra những đặc điểm của nó và xác định mối quan hệ, sự tác động qua lại
giữa các tổ chức thanh niên với các Đảng Cộng sản. Đánh giá rất cao tiềm năng
sáng tạo của tuổi trẻ, Lênin không nghi ngờ về khả năng hoàn thành xuất sắc
những nhiệm vụ của cách mạng mà các thế hệ trước kia chưa kịp hoàn thành.
Ngay cuối thế kỉ XIX Người đã viết: “Người ta quan sát thấy trong thanh niên,
công nhân một khát vọng nồng cháy không gì kìm hãm được tới lí tưởng của
dân chủ và Chủ nghĩa xã hội” và: “Thanh niên sớm muộn sẽ đến với Chủ nghĩa
xã hội… nhưng bằng những cách thức, con đường khác với cha anh họ”.

Bàn về công tác cán bộ, Lênin cho rằng: “Chú ý tìm ra và thử thách hết
sức nhẫn nại, hết sức thận trọng những người có bộ óc sáng suốt và có bản lĩnh
tháo vát trong thực tiễn, những người vừa trung thành với chủ nghĩa xã hội, vừa
có khả năng lặng lẽ (và bất chấp sự ồn ào, hỗn loạn) tổ chức một cách vững
vàng và nhịp nhàng công việc chung một khối người to lớn, trong phạm vi tổ
chức, Xô Viết và chỉ những người như thế mới đề bạt lên chức vụ lãnh đạo lao
động của nhân dân, lên chức vụ quản lí”.
Lênin đã coi trọng thanh niên trong phong trào cộng sản. Ngay từ cuối thế
kỉ XIX, trước khi có những hoạt động mạnh mẽ mang tính giai cấp của giai cấp
vô sản Nga, Lênin đã chỉ rõ: “Trong thanh niên bộc lộ rõ nguyện vọng tha thiết
không thể kìm lại được. Nguyện vọng vươn tới dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
20
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
Trong bức thư gửi Gu- xép, Lênin đã viết: “Tôi bảo đảm với đồng chí rằng,
trong chóng ta có một sự e ngại đối với thanh niên, một sự e ngại ngu ngốc, tầm
thường và lệch lạc. Tôi đề nghị phải tập trung sức đấu tranh chống lại sự e ngại
đó”. Và Người nhấn mạnh vai trò của cán bộ trẻ: “Phải nhanh chóng đề bạt
những người giúp việc trẻ tuổi vào các chức vụ cao hơn và các đồng chí hãy tin
tưởng rằng, nhìn chung và nhìn toàn bộ, công việc sẽ có lợi rất nhiều khi đảm
nhiệm công việc nặng nề hơn’.
Học thuyết Mác- Lênin là một khoa học đúng đắn và sáng tạo có tính chất
soi đường cho nhân loại trong quá trình đấu tranh, xây dựng và phát triển xã hội
loài người để tiến tới một xã hội văn minh, tốt đẹp. Với bản chất cách mạng và
khoa học của nó, học thuyết Mác- Lênin đã có những quan điểm hết sức đúng
đắn về thanh niên và công tác cán bộ nói chung, công tác cán bộ Đoàn nói riêng.
Những quan điểm Êy đã vượt qua thời gian và vẫn còn nguyên giá trị cho chóng
ta vận dụng, phát triển.
1.2.2 Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán
bộ

Lóc sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ
vững mạnh. Người đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muôn việc
thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Người đã cho ra nhiều chỉ
dẫn có ý nghĩa phương pháp luận khoa học để xây dựng đội ngũ cán bộ vững
mạnh.
Điều quan trọng trước tiên, theo Bác là phải hiểu biết đúng cán bộ. Muốn
vậy, phải chí công vô tư trong việc xem xét cán bộ. Người nói: “Biết người cố
nhiên là khó.Tự biết mình cũng không phải là dễ. Đã không tự biết mình thì khó
mà biết người. Vì vậy, muốn biết đúng sự phải- trái ở người ta, thì phải biết sự
phải- trái của mình. Nếu không biết sự phải- trái ở mình, thì chắc không thể
nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu”.
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
21
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
Bác thấy rằng, người lãnh đạo thường phạm 4 bệnh khi xem xét cán bộ: tự
cao, tự đại; ưa nịnh hót; do yêu ghét mà xem xét con người; đem một khuôn
cứng nhắc để đánh giá cán bộ. Bác ví người lãnh đạo nếu mắc một trong 4 bệnh
Êy cũng như một người mang kính có màu, không bao giờ thấy được màu sắc
thực sự của sự vật. Bác khuyên người lãnh đạo phải bỏ kính màu đỏ, sửa chữa
những bệnh Êy, mới có thể hiểu biết đúng cán bộ.
Người dạy chúng ta phải có phương pháp khách quan toàn diện trong việc
xem xét đánh giá cán bộ. Chống lối “duy ngã” siêu cứng nhắc, hời hợt. Khi xem
xét cán bộ, không nên chỉ nhìn bề ngoài, xem trong một lúc, một việc mà phải
xem xét một cách toàn diện, cả quá trình phát triển của họ, những lúc gặp khó
khăn, cũng như lúc thuận lợi.
Theo Bác, cách tốt nhất để đánh giá đúng cán bộ, tránh thiên vị, là để cho
quần chúng nhận xét cán bộ. Người nói: ‘Cán bộ nào tốt, cán bộ nào xấu, cán bộ
nào có lỗi lầm mà có thể sửa đổi, ai làm việc hay hay, việc gì quậy, dân chúng
cũng do cách so sánh đó mà hộ biết rõ ràng. Vì vậy để cho dân chúng phê bình
cán bộ, dựa theo ý kiến họ mà cân nhắc cán bộ, nhất định không xảy ra thiên vị,

nhất định hợp lí và công bằng.
Người chỉ rõ, sử dụng cán bộ, cũng nh khi đánh giá cán bộ phải rất “vô
tư”. Người phê phán gay gắt những người hám dùng người bà con, anh em quen
biết, hám dùng người nịnh hót, ghét người chính trực, hám dùng những người
hợp tính với mình, tránh những người không hợp ý mình.
Bác căn dặn: “Phải có độ lượng vĩ đại mới có thể đối với cán bộ một cách
chí công vô tư, không có thành kiến, khiến cho cán bộ khỏi bị bỏ rơi. Phải chịu
khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ.
Phải vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình”.
Bác đã nêu rõ 4 tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ lãnh đạo:
Những người đã tỏ ra rất trung thành, hăng hái trong công việc, trong
lúc đấu tranh.
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
22
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng, luôn
luôn chú ý đến lợi Ých của dân chúng. Nh thế thì dân chúng mới tin cậy cán bộ
và nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ.
Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn
cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải người lãnh
đạo. Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại không hoang mang, khi
thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết thì kiên quyết, gan góc,
không sợ khó khăn.
Những người luôn luôn giữ đúng kỉ luật.
Đó là khuôn khổ để lựa chọn cán bộ lãnh đạo. Chúng ta phải theo đúng.
Trong công tác cán bộ, Người luôn luôn coi trọng cả đức và tài của người cán
bộ. Người nói: “Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô, hủ hoá có hại
cho nước. Có đức không có tài nh “ông bụt” ngồi trong chùa không giúp Ých gì
được ai”.
Đối với cán bộ làm công tác thanh niên, Người nhắc nhở: “Cán bộ lãnh

đạo cần phải tránh quan liêu, chống lãnh đạo chung chung, cần phải khuyến
khích, quyên góp, bổ sung và phổ biến rộng rãi những ý kiến hay, những kinh
nghiệm tốt của quần chúng, cần phải lãnh đạo toàn diện, cụ thể. Cần phải đi sâu
đi sát vào đời sống của thanh niên, hiểu rõ tâm lí thanh niên và giúp họ giải
quyết mọi vấn đề một cách thiết thực nhất”.
Trong công tác cán bộ, Bác chỉ rõ những khuyết điểm cần sửa: “Có những
nơi thường dùng những người văn hay nói khéo, nhưng không làm được việc,
không ra tranh đấu. Mà những đồng chí làm việc tốt mà nói không thạo, nhưng
rất trung thành, hăng hái, rất gần gũi quần chúng, thì bị dìm xuống. Chúng ta
phải sửa chữa ngay những khuyết điểm đó”.
Bác còn chỉ rõ: Khi giao trách nhiệm cho cán bộ, phải làm cho họ yên tâm
công tác, hứng thú trong công việc. Muốn thế, người lãnh đạo phải làm sao cho
cán bộ “cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến, cả gan phụ trách, cả gan làm việc”.
Người căn dặn: Người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải có thái độ và
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
23
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
cách làm việc thật sự dân chủ, để mọi người xung quanh mạnh dạn, thẳng thắn
nói những ưu khuyết điểm của mình. Người lãnh đạo thật sự dân chủ, ý kiến của
cán bộ được thật sự tôn trọng, thì khối đoàn kết nội bộ được củng cố, những
sáng kiến được nảy nở, công việc nhất định sẽ được hoàn thành tốt đẹp.
Người nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với
nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những
sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và người
khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc thì
những khuyết điểm lặt vặt cũng tự sửa chữa được nhiều”. Người cho rằng: Điều
mấu chốt trong cách lãnh đạo là làm sao cho cấp dưới có tinh thần chủ động,
sáng tạo trong công việc, có tinh thần, trách nhiệm cao, dám tìm tòi suy nghĩ và
dám quuyết định.
Bác căn dặn: “Khi giao trách nhiệm cho cán bộ, cần phải chỉ đạo rõ ràng,

sắp đặt đầy đủ. Vạch ra những điểm chính và những khó khăn có thể xảy ra.
Những vấn đề đã được quyết định rồi thì giao cho họ làm, khuyên họ cứ cả gan
mà làm. Cũng nh trong quân đội, khi chiến lược, chiến thuật đã quyết định rồi,
thì Tổng tư lệnh không cần nhúng vào những vấn đề lặt vặt. Thà để cho các cấp
chỉ huy có quyền “tuỳ cơ ứng biến” mới có thể phát triển tài năng của họ. Việc
gì cấp trên cũng nhúng vào, cán bộ cũng nh một cái máy, việc gì cũng chờ mệnh
lệnh, sinh ra ỷ lại, mất hết sáng kiến”.
1.3 QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT Nam VỀ CÁN BỘ VÀ
CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC THANH NIÊN
Kế thừa và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác- Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác cán bộ và cán bộ làm công tác thanh niên. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ là một trong những
vấn đề có vị trí đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Tại
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3 khoá VIII đã vạch ra chiến
lược cán bộ của thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
24
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam
nhiệm vụ, nhu cầu hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đảng đã chỉ ra một
số điểm cơ bản về xây dựng đội ngũ cán bộ trong chiến lược cán bộ.
Một là: Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ đường lối chính trị
của Đảng, từ yêu cầu của nhiệm vụ trong thời kì công nghệp hoá, hiện đại hoá
đất nước nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đường lối chính trị quyết định nhiệm vụ tổ chức trong đó công tác cán
bộ có tầm quan trọng đặc biệt.
Đội ngũ cán bộ có chất lượng cao, số lượng đủ, cơ cấu đồng bộ sẽ đảm
bảo cho tổ chức phát huy được hiệu lực và đường lối chính sách của Đảng được
thực hiện thắng lợi.
Đường lối chính trị và công tác cán bộ có mối quan hệ mật thiết với

nhau, công tác cán bộ phải gắn chặt phục vụ đường lối chính trị, nhiệm vụ chính
trị.
Hai là: Phải quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng để phát
huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc trong xây dựng đội ngũ cán bộ.
Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân là vấn đề thuộc bản chất
giai cấp một đảng kiểu mới, phải được quán triệt trong công tác xây dựng Đảng
mà trước hết là công tác cán bộ. Đảng phải kế thừa và phát huy truyền thống tốt
đẹp của đội ngũ cán bộ cách mạng, đồng thời phải thường xuyên quan tâm trẻ
hoá đội ngũ cán bộ và tập hợp được những trí thức giỏi, có tâm đức bổ sung họ
vào đội ngũ cán bộ của Đảng.
Ba là: Xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn liền với việc xây dựng tổ
chức, đổi mới cơ chế chính sách. Xây dựng đội ngũ cán bộ và xây dựng tổ chức
với những phương thức, lề lối làm việc có mối quan hệ chặt chẽ tác động qua lại
lẫn nhau.
Trong một tổ chức mạnh, cán bộ được rèn luyện và trưởng thành, năng
lực, phẩm chất của từng người được phát huy, toàn bộ tổ chức sẽ tạo được sức
mạnh mới, sức mạnh của tập thể. Mặt khác, cán bộ cũng có tac động tích cực trở
Học viên Phạm Bắc Hà - K41B
25

×