Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

khảo sát thực trạng và nhu cầu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên trên địa bàn tỉnh bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.61 KB, 39 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người được nâng cao cả về vật
chất lẫn tinh thần. Tuy vậy, cùng với đó là rất nhiều những vấn đề mang tính cấp
thiết mà một trong số đó, đặc biệt đối với sinh viên là vấn đề thiếu kỹ năng sống,
thiếu tính tự tin, tự lập, sống ích kỉ vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình và bản
thân làm cản trở sự phát triển của mình. Chính điều đó làm không ít các bậc cha
mẹ phiền lòng vì con trong một xã hội phát triển năng động như hiện nay.
Cùng với việc đó là bạo lực học đường đang có xu hướng gia tăng. Nhiều
người có cuộc sống khép kín với thực tại, sống chìm trong thế giới ảo ảnh
Internet,… Quên đi những cơ hội giao lưu kết bạn, sống khép mình, ít tham gia
vào các hoạt động tập thể, ít khám phá và thể hiện khả năng tiềm ẩn của mình.
Lo sợ, rụt rè khi đứng trước đám đông, với cộng đồng xã hội. Có không ít sinh
viên rơi vào tình trạng như trên, hoạt động và cơ hội việc làm của sinh viên là
một thách thức rất lớn quyết định sự thành công của bản thân và việc giáo dục
kỹ năng sống là một điều hết sức cần thiết.
Trong xã hội hiện đại, có sự thay đổi toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội
và lối sống với tốc độ nhanh đã làm nảy sinh những vấn đề mà trước đây con
người chưa gặp, chưa trải nghiệm, chưa phải ứng phó, đương đầu. Hoặc có
những vấn đề đã xuất hiện nhưng nó chưa phức tạp, khó khăn và đầy thử thách
như trong xã hội hiện đại nên con người dễ hành động cảm tính và không tránh
khỏi rủi ro. Lewis.L.Dunnington đã khẳng định: “Ý nghĩa cuộc sống không phải
nó đem đến ta điều gì, mà ở chỗ ta có thái độ với nó ra sao; Không phải ở chỗ
điều gì xảy ra với ta mà ở chỗ ta phản ứng với những điều đó như thế nào”. Nếu
con người có kiến thức, có thái độ tích cực mới đảm bảo 50% sự thành công,
50% còn lại là những kỹ năng cần cho cuộc sống mà ta thường gọi là kỹ năng
sống. Kỹ năng sống giúp biến kiến thức thành hành động cụ thể, những thói
quen lành mạnh.
1
Trong những năm gần đây, giáo dục kỹ năng sống được cả thế giới quan
tâm và bàn luận. Trong Diễn đàn thế giới về giáo dục cho mọi người họp tại


Senegan (2000), Chương trình hành động Dakar đã đề ra 6 mục tiêu, trong đó
mục tiêu 3 nói rằng “Mỗi quốc gia phải đảm bảo cho người học được tiếp cận
chương trình giáo dục kỹ năng sống phù hợp”, còn trong mục tiêu 6 yêu cầu
“Khi đánh giá chất lượng giáo dục cần phải đánh giá kỹ năng sống của người
học”. Như vậy, giáo dục kỹ năng sống cho người học đang trở thành một nhiệm
vụ quan trọng đối với giáo dục các nước.
Chính vì lẽ đó, ngoài việc đào tạo kiến thức chuyên môn, nhà trường cũng
cần phải trang bị cho sinh viên một số kỹ năng sống để không chỉ tạo ra nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, mà còn phát triển đầy đủ và
tự do giá trị của mỗi cá nhân, giúp cho con người có năng lực để cống hiến, góp
phần vào thực hiện mục tiêu giáo dục con người phát triển toàn diện về đức, trí,
thể, mỹ trên cơ sở tiếp thu được các kỹ năng sống, hội nhập xã hội đầy đủ, đồng
thời có năng lực để sống một cuộc sống có chất lượng và hạnh phúc.
Có nhiều con đường để giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên như: tổ chức
các hoạt động ngoại khóa, mở trung tâm tham vấn Trong đó, việc tích hợp
giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên qua môn học cũng là một trong những con
đường hữu hiệu để sinh viên có được kỹ năng sống cần thiết, đồng thời nó cũng
góp phần làm cho giờ học thêm sinh động, cuốn hút, giúp sinh viên tiếp thu bài
nhanh chóng, dễ dàng và hiệu quả hơn.
Đối với bộ môn Triết học Mác- Lênin là một trong các bộ môn có ưu thế
trong việc giáo dục các kỹ năng sống cho sinh viên. Trong quá trình học tập
chúng em thấy đây là một môn học khó nhưng hết sức thiết thực. Triết học là hệ
thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của
con người trong thế giới ấy nên nó thực hiện chức năng thế giới quan, phương
pháp luận chung nhất. Hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa duy vật Mácxit,
tính đúng đắn và triệt để của nó đem lại đã trở thành nhân tố định hướng cho hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, trở thành nguyên tắc xuất
2
phát của phương pháp luận, đặc biệt là phép biện chứng duy vật trong triết học.
Nắm vững lý luận phép biện chứng, biết vận dụng các nguyên tắc phương pháp

luận của nó một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, biết lấy “cái bất
biến” ứng vào “cái vạn biến” – như Chủ tịch Hồ Chi Minh nói thì vai trò và hiệu
lực cải tạo tự nhiên, biến đổi xã hội được tăng cường. Ngược lại, cách nghĩ, cách
làm chủ quan duy ý chí, siêu hình sẽ dẫn đến sai lầm, thất bại trong cuộc sống.
Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ mỗi nguyên lý, phạm trù, quy luật của
phép biện chứng duy vật cung cấp cho chúng ta những cách nhìn nhận, đánh giá
những kỹ năng – đặc biệt là những kỹ năng trong cuộc sống, trong đó có những
kỹ năng rất quan trọng như: kỹ năng đạt mục tiêu, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
xác định giá trị, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng kiên
định,… Sẽ giúp mỗi cá nhân có thể định hướng tới cuộc sống lành mạnh phù
hợp với các quá trình sống của xã hội để có những hành vi tích cực trong giải
quyết các vấn đề của cuộc sống giúp thúc đẩy phát triển bền vững của cá nhân
và tập thể.
Ngoài ra, vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng duy
vật còn xác định cho con người những kỹ năng chung như: Tư duy phê phán, tư
duy sáng tạo, thiện chí, suy nghĩ tích cực,… Còn được áp dụng vào giải quyết
các nội dung cụ thể để tạo ra sự phát triển bền vững, nó không chỉ cung cấp tri
thức khoa học đúng đắn mà còn định hướng hoạt động của con người vào các
mục tiêu xây dựng làm thay đổi hành vi theo hướng tích cực mang tính xây
dựng đối với các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Đặc biệt là đối với sinh viên,
việc thiếu kỹ năng sống là một việc hết sức nghiêm trọng. Rất nhiều sinh viên
tích lũy được nhiều kiến thức nhưng ra đời không có được những kỹ năng dù chỉ
là những kỹ năng cơ bản nhất nên nguy cơ thất bại trong cuộc sống là rất cao.
Như vậy, từ những điều trên ta thấy được rằng ý nghĩa phương pháp luận
của phép biện chứng duy vật và kỹ năng sống có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Nó là cơ sở, nền tảng để con người học tập và tìm ra giá trị đích thực của
3
bản thân và của cuộc sống. Cho nên việc vận dụng ý nghĩa phương pháp luận
của phép biện chứng duy vật để giáo dục kỹ năng sống là hết sức cần thiết.
Với những lý do trên chúng em quyết định chọn đề tài “Ý nghĩa phương

pháp luận của phép biện chứng duy vật đối với việc giáo dục kỹ năng sống cho
sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay” để làm
nghiên cứu khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Bàn về Giáo dục kỹ năng sống cũng như Phép biện chứng duy vật, ý nghĩa
của phép biện chứng được xem là những vấn đề không mới, đã được nhiều người
nghiên cứu, bàn đến trên nhiều phương diện và cách thức khác nhau.
Khi nghiên cứu về thực trạng giáo dục kỹ năng sống đã có rất nhiều tác
giả bàn tới trên những khía cạnh sau:
Đề tài nghiên cứu “Khảo sát thực trạng và nhu cầu giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh, sinh viên trên địa bàn tỉnh Bình Dương” do Trung tâm tư vấn và
dịch vụ khoa học và công nghệ chủ trì thực hiện với sự phối hợp của Công ty
Edtech đã khẳng định: không chỉ với Bình Dương mà hiện nay, phong trào xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực đang được triển khai trên các nhà
trường toàn quốc cũng đang rất chú trọng công tác giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh, sinh viên.
Trong cuốn “Tập bài giảng đại cương về kỹ năng sống” do thạc sĩ
Nguyễn Duy Nhiên và thạc sĩ Phạm Văn Tư biên soạn của trường Đại học Sư
phạm Hà Nội năm 2009, đã trình bày một cách rất chi tiết về kỹ năng sống, các
cách phân loại, ý nghĩa của việc giáo dục kỹ năng sống cũng như nêu ra những
kỹ năng quan trọng và hết sức cần thiết cho con người.
Cơ sở pháp lí của giáo dục kỹ năng sống cũng đã được trình bày rất nhiều
trong các nghị quyết về đổi mới giáo dục. Trong Nghị quyết hội nghị Trung
ương VIII có nêu: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người
học, …”.
4
Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần thứ IX (4/ 2001) đã đề ra nhiệm
vụ: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung,
phương pháp dạy học, …”.

Tiếp theo trong các kế hoạch hành động quốc gia giáo dục cho mọi người
2003 - 2015 cũng đã xác định các nhóm mục tiêu về: Giáo dục mầm non, giáo
dục tiểu học, giáo dục THCS, giáo dục thường xuyên, …
Trong Luật giáo dục năm 2005, điều 44: “ Giáo dục thường xuyên giúp
mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân
cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để
cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với
đời sống xã hội”.
Tất cả những vấn đề trên mới chỉ phản ánh cơ sở chính trị, pháp lý, văn
hóa - xã hội và khoa học cho việc tiếp cận kỹ năng sống trong giáo dục. Có thể
nói vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho người học chưa được thể chế hóa trong
chính sách giáo dục ở Việt Nam, và sự gắn kết nội dung của những môn học vào
giáo dục kỹ năng sống còn hết sức hạn chế.
Việc khai thác ý nghĩa của phép biện chứng duy vật cũng như sự ảnh
hưởng của nó trong giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên (đặc biệt là sinh viên
Đại học Sư phạm Hà Nội) là một việc khá mới mẻ, tưởng chừng như đơn giản
mà ẩn chứa cả một ý nghĩa và tác dụng to lớn. Tuy vậy, tới nay vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu về vấn đề này.
Với sự thôi thúc, tìm tòi nghiên cứu khoa học, chúng em lựa chọn đề tài
“Ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng duy vật đối với việc giáo dục
kỹ năng sống cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện
hiện nay” để làm đề tài nghiên cứu của mình, nhằm góp phần làm rõ hơn ý
nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng duy vật với việc giáo dục kỹ năng
sống.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
 Đối tượng nghiên cứu: Ý nghĩa phương pháp luận của phép biện
chứng duy vật đối với việc giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên trường Đại học
Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay.
5
 Phạm vi nghiên cứu: Sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
 Mục đích: Trên cơ sở làm rõ nội dung phép biện chứng duy vật để chỉ
ra ý nghĩa của nó trong giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên Đại học Sư phạm
Hà Nội trong điều kiện hiện nay.
 Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
Làm rõ nội dung phép biện chứng duy vật. Chỉ ra việc vận dụng ý nghĩa phương
pháp luận của phép biện chứng duy vật vào giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên
trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, bên cạnh đó có sử dụng một số biện
pháp cụ thể như: Phương pháp thu thập thông tin; phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp; phương pháp lôgíc kết hợp với lịch sử.
6. Đóng góp của đề tài
- Đóng góp về mặt lý luận
Làm rõ hơn nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng
duy vật và vận dụng nó vào giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên Đại học Sư
phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay.
- Đóng góp về mặt thực tiễn
Từ việc chỉ ra ý nghĩa của phép biện chứng duy vật trong việc giáo dục kỹ
năng sống cho sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội, thông qua đó góp phần nâng
cao nhận thức cho mỗi người để có thể áp dụng những tri thức đó vào trong thực
tiễn. Đặc biệt là khẳng định ý nghĩa to lớn của nó đối với cuộc sống. Đồng thời
góp phần nâng cao hiệu quả học tập, giảng dạy các môn khoa học của chủ nghĩa
Mác – Lênin nói chung.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của đề tài gồm 2 chương, 4 tiết
6
Chương 1. Phép biện chứng duy vật

1.1Khái niệm và các hình thức phát triển của phép biện chứng
1.2Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
Chương 2. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng duy
vật vào giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên Sư phạm Hà Nội trong điều kiện
hiện nay
2.1. Kỹ năng sống và thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên
trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay
2.2. Vận dụng nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử - cụ thể, nguyên
tắc phát triển của phép biện chứng duy vật vào việc giáo dục kỹ năng sống cho
sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay
7
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1.1 Khái niệm và các hình thức phát triển của phép biện chứng
Phép biện chứng duy vật là một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành thế giới
quan và phương pháp luận Triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Ph. Ăngghen
định nghĩa “Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến” và cũng là
“khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự
nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”. (2; t20, tr445, 201 )
1.1.1. Khái niệm phép biện chứng
Biện chứng (hay phương pháp biện chứng) là một phương pháp luận, đây
là phương pháp chủ yếu của cả nền triết học phương Đông và phương Tây trong
thời cổ đại. Từ biện chứng ("dialectic") có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ, và trở
nên phổ biến qua những cuộc đối thoại kiểu Socrates của Platon. Phương pháp
biện chứng có nền tảng từ những cuộc đối thoại giữa hai hay nhiều người với
những ý kiến, tư tưởng khác nhau và cùng mong muốn thuyết phục người khác.
Theo nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý
bằng cách phát triển các mâu thuẫn trong lập luận của đối phương và nghệ thuật
bảo vệ những lập luận của mình. Người Hy Lạp cổ đại cho rằng, đã là tri thức
đúng thì không thể có mâu thuẫn trong tri thức đó và quá trình đi tới chân lý là

quá trình giải quyết những mâu thuẫn trong lập luận.
Trong triết học Mác, thuật ngữ “biện chứng” được dùng đối lập với “siêu
hình”. Đó là lí luận đồng thời là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái
liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau và trong quá trình vận
động, phát triển không ngừng. Phương pháp đó không chỉ thấy những sự vật cá
biệt, mà còn thấy mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng; không chỉ thấy sự tồn tại
của sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành và tiêu vong của sự vật; không chỉ thấy
“cây” mà còn thấy cả “ rừng”.
8
Như vậy, phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng
của thế giới bằng các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các
nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn.
Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại và từ đó đến nay, lịch sử phát
triển của nó đã trải qua nhều giai đoạn khác nhau, gắn liền với sự phát triển của
khoa học và thực tiễn. Hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong lịch sử triết
học là phép biện chứng mộc mạc, chất phác thời Cổ đại. Nó là một nội dung cơ
bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn độ và Hy lạp cổ đại. Và
đạt tới đỉnh cao là phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức (cuối thế kỷ XVIII –
đầu thế kỷ XIX) được khởi đầu từ Cantơ hoàn thiện ở Hêghen. Lần đầu tiên
trong lịch sử nhân loại, Hêghen đã hệ thống phép biện chứng dưới dạng các
nguyên lý, các cặp phạm trù. Tuy nhiên, thế giới quan của Hêghen là thế giới
quan duy tâm.
Mác và Ăngghen đã khắc phục hạn chế đó để sáng tạo nên phép biện
chứng duy vật.
1.1.2. Phép biện chứng duy vật - hình thức phát triển cao nhất của
phép biện chứng
Phép biện chứng duy vật là khoa học về những quy luật phổ biến của sự
vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. V.I.Lênin viết: “phép
biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu
sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của

con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng”
(7; t23, tr53).
Phép biện chứng duy vật có hai đặc trưng cơ bản: Một là, phép biện
chứng duy vật được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy vật khoa học, lấy
chính thế giới vật chất để giải thích thế giới vật chất bằng phương pháp biện
chứng mà không viện đến thượng đế. Hai là, trong phép biện chứng duy vật có
sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp
9
luận biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật không dừng lại ở sự giải thích
thế giới mà còn là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
Với những đặc trưng cơ bản đó, phép biện chứng duy vật giữ vai trò là
một nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận, tạo
nên tính khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời nó cũng
là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong
các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
1.2. Nội dung cơ bản bản của phép biện chứng duy vật
1.2.1. Hai nguyên lý cơ bản và ý nghĩa phương pháp luận của nó
Sự phong phú, đa dạng của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội,
tư duy quy định nội dung phép biện chứng duy vật, bao gồm nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Đây là hai nguyên lý có ý nghĩa
khái quát nhất.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong những nội dung cơ bản
của phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ sự quy định sự
tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa
các mặt của một sự vật, của một hiện tượng. Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là
tính thống nhất vật chất của thế giới, theo đó, các sự vật, hiện tượng trong thế
giới dù có đa dạng, dù có khác nhau như thế nào đi nữa, thì cũng chỉ là những
dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất. Nó có tính khách
quan, phổ biến và đa dạng, phong phú, chúng giữ những vai trò khác nhau quy
định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

Vì chúng có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau nên trong nhận thức và
thực tiễn chúng ta phải quán triệt nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử - cụ
thể. Nguyên tắc toàn diện có nghĩa là nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua
lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự
tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và
mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
Chúng ta càng biết được nhiều mối liên hệ thì càng tránh được sự thất bại. Đồng
10
thời, phải biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên
trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên Còn
nguyên tắc lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động
vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, phải đặt chúng vào
đúng không gian, thời gian, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra tồn tại và
phát triển.
Phép biện chứng không những xác định mọi sự vật luôn tồn tại trong mối
liên hệ, tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng mà còn thể
hiện rất rõ khuynh hướng phát triển của chúng. Trong phép biện chứng duy vật,
đó chính là nguyên lý về sự phát triển. Phát triển dùng để chỉ quá trình vận động
theo khuynh hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần vừa
nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Phát triển trước hết là sự
tự phát triển. Động lực của quá trình phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập
bên trong sự vật, hiện tượng. Phát triển theo đường “xoáy ốc”, cái mới dường
như lặp lại một số đặc trưng, đặc tính của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn; thể
hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những thụt lùi tương đối trong sự phát
triển. Phát triển có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú. Phát triển
là một trường hợp đặc biệt của vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật, hiện
tượng chuyển hóa sang chất mới, cao hơn, phức tạp hơn, làm cho cơ cấu tổ
chức, phương thức vận động và chức năng của sự vật ngày càng hoàn thiện hơn.
Vì sự vật, hiện tượng không ngừng vận động và phát triển nên trong hoạt

động nhận thức và thực tiễn chúng ta phải quán triệt nguyên tắc phát triển.
Nguyên tắc phát triển có nghĩa là khi xem xét bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng
phải đặt chúng trong sự vận động, sự phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi,
chuyển hoá của chúng.
Xem xét sự vật theo nguyên tắc phát triển còn phải biết phân chia quá
trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra
phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến
11
triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tuỳ theo sự phát triển đó có
lợi hay có hại đối với đời sống của con người.
Nguyên tắc phát triển cũng góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta.
1.2.2 Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và ý nghĩa
phương pháp luận của nó
Bên cạnh hai nguyên lý, phép biện chứng duy vật còn bao hàm ba quy
luật phổ biến khái quát nguồn gốc, cách thức, khuynh hướng về sự vận động,
phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đó là quy luật chuyển hóa từ những sự
thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, quy luật thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định.
Là một trong những quy luật trọng yếu nhất về sự phát triển và biến đổi của
thế giới khách quan, quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức của sự vận động và phát
triển của sự vật, hiện tượng. Bất kì sự vật nào cũng đều là thể thống nhất của hai
mặt chất và lượng. Chúng gắn bó hữu cơ với nhau, quy định lẫn nhau, trong đó
lượng là cái thường xuyên biến đổi, chất là cái tương đối ổn định. Sự thay đổi dần
dần về lượng đến một mức độ nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất, sự
vật chuyển hóa, chất mới ra đời thay thế chất cũ. Đồng thời, khi chất mới ra đời,
sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất và
lượng, biểu hiện ở quy mô, nhịp điệu và mức độ phát triển mới của lượng.
Nắm được nội dung quy luật này, sẽ tránh nôn nóng, chủ quan, đốt cháy

giai đoạn tích lũy về lượng; đồng thời tránh tư tưởng tuyệt đối hóa sự thay đổi
về lượng không kịp thời chuyển những thay đổi về lượng sang những thay đổi
về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hóa sang những thay đổi mang tính
cách mạng và ngược lại, không biết sử dụng chất mới để thúc đẩy lượng tiếp tục
phát triển.
Nếu như quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức vận động và phát triển của sự vật,
12
hiện tượng thì quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ ra
nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển. Quy luật này là “hạt nhân” của
phép biện chứng duy vật, cho ta chiếc chìa khóa để hiểu được mọi mặt và mọi
yếu tố của sự phát triển.
Theo phép biện chứng duy vật, mọi sự vật đều có mặt đối lập. Sự tác động
giữa chúng tạo thành mâu thuẫn bên trong của sự vật. Mâu thuẫn biện chứng là
phổ biến, khách quan, vốn có của sự vật. Các mặt đối lập vừa thống nhất vừa
đấu tranh với nhau. Trong đó thống nhất là tạm thời, đấu tranh là tuyệt đối. Sự
thống nhất, đấu tranh đó là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng.
Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến nên trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn cần phải phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật bằng cách phân
tích sự vật, tìm ra những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau và mối liên
hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng.
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và
giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể, tức là phải biết
phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và tìm cách giải quyết cụ thể đối với từng
mâu thuẫn.
Đồng thời, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn phù hợp với
từng loại mâu thuẫn, trình độ phát triển của mâu thuẫn. Không được điều hòa
mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết
mâu thuẫn khi điều kiện đã chín muồi.

Không chỉ dừng lại ở đó, phép biện chứng duy vật còn chỉ ra khuynh
hướng phát triển của sự vật, hiện tượng qua quy luật phủ định của phủ định. Phủ
định biện chứng là quá trình khách quan, tự thân, là quá trình kế thừa cái tích
cực đã đạt được từ cái cũ, là mắt khâu của quá trình dẫn đến ra đời sự vật mới,
tiến bộ hơn. Quá trình phủ định của phủ định tạo thành sự vận động, phát triển
không ngừng mang tính chu kì của thế giới khách quan. Trải qua một số lần phủ
định, sự vật, hiện tượng dường như lặp lại những giai đoạn đã qua trên cơ sở
13
mới, cao hơn và như vậy, sự phát triển không đi theo đường thẳng mà theo
đường “xoáy ốc”.
Quy luật này có một ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong quá trình thay
thế cái cũ bởi cái mới. Nó đòi hỏi phải xuất phát từ những điều kiện khách quan,
cho phép, phải tạo điều kiện, tạo tiền đề cho cái mới chiến thắng cái cũ, phải biết
kế thừa và phát triển sáng tạo những cái tích cực đã đạt được từ cái cũ; đồng thời
phải thấy được tính chất quanh co, phức tạp trong quá trình ra đời cái mới.
Như vậy, ta thấy quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại giải thích rõ nhờ những quá trình nào và
bằng cách nào, các vật thể có những thay đổi và biến hóa về chất lượng; nó chỉ
rõ rằng ngoài hình thức thay đổi về số lượng một cách dần dần, bằng phẳng, khó
nhận thấy, sự phát triển còn bao gồm hình thức: tính liên tục bị gián đoạn, nhảy
vọt từ một trạng thái chất lượng cũ sang một trạng thái chất lượng mới. Quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập vạch ra những nguồn gốc của mọi
sự phát triển, chỉ rõ sự thôi thúc bên trong cuộc đấu tranh giữa các mặt, các lực
lượng và các khuynh hướng đối lập của các vật thể. Quy luật phủ định của phủ
định phản ánh và nói lên mối liên hệ kế thừa giữa các giai đoạn khác nhau cả sự
phát triển, chiều hướng chủ yếu, khuynh hướng chủ yếu của sự phát triển nằm
trong sự vận động tiến lên từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, tức là phản
ánh và nói lên hình thức “xoáy trôn ốc” phức tạp của sự vận động đó.
Những quy luật trên chỉ là những quy luật quan trọng nhất, chủ yếu nhất
và căn bản nhất của phép biện chứng chứ chưa nói hết được về phép biện chứng.

Ngoài những quy luật ấy còn có các mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện
tượng được phép biện chứng duy vật khái quát thành các phạm trù cơ bản như:
cái riêng, cái chung, cái đơn nhất; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện
tượng; nguyên nhân và kết quả; khả năng và hiện thực; nội dung và hình thức…
Chúng được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức, hoạt
động cải tạo tự nhiên, xã hội. Các phạm trù cái riêng, cái chung, cái đơn nhất; tất
nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng là cơ sở phương pháp luận của các
14
phương pháp phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, khái quát hóa và trừu
tượng hóa để từ đó nhận thứu được toàn bộ các mối liên hệ theo hệ thống. Các
phạm trù nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực là cơ sở phương pháp
luận chỉ ra các mối liên hệ và sự phát triển giữa các sự vật, hiện tượng là một
quá trình. Các phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây
dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa
dạng của các phương pháp nhận thức và thực tiễn.
Như vậy thông qua nội dung ý nghĩa phương pháp luận của phép biện
chứng duy vật với hai nguyên lý, ba quy luật và sáu cặp phạm trù, trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn khi xem xét các sự vật, hiện tượng, chúng ta phải có
cách nhìn toàn diện, phát triển, khách quan, cụ thể. Phương pháp luận của phép
biện chứng duy vật có ý nghĩa quan trọng trong việc trang bị thế giới quan,
phương pháp luận khoa học đúng đắn để giải quyết những vấn đề mà cuộc sống
đặt ra, trong đó đặc biệt là vận dụng vào việc giáo dục kỹ năng sống cho sinh
viên Sư phạm trong điều kiện hiện nay.
15
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA PHÉP
BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀO GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI TRONG ĐIỀU KIỆN
HIỆN NAY
2.1. Kỹ năng sống và thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên
trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay

2.1.1. Kỹ năng sống
2.1.1.1. Khái niệm kỹ năng sống
Kỹ năng sống là một khái niệm không mới và đã có nhiều quan niệm diễn
đạt theo những cách khác nhau.
Quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc UNICEF quan niệm : Kỹ năng sống là
cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu
ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng.
Theo tổ chức UNESCO coi: “Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực
hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày”.
Theo tổ chức y tế thế giới WHO: “Kỹ năng sống là những kỹ năng mang
tính tâm lý xã hội và kỹ năng về giao tiếp được vận dụng trong những tình
huống hằng ngày để tương tác một cách hiệu quả với người khác và giải quyết
có hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hằng ngày”.
Tương đồng với quan niệm của tổ chức y tế thế giới, có quan niệm cho
rằng: “Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri
thức, những giá trị và những thái độ, cuối cùng được thể hiện ra bằng những
hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu
cầu và thách thức của cuộc sống”.
Như vậy kỹ năng sống nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức - “cái
chúng ta đã biết” và thái độ, giá trị - “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng”
thành hành động thực tế - “làm gì và làm cách nào” là tích cực nhất và mang
tính chất xây dựng.
16
Khái niệm kỹ năng sống được hiểu khác nhau ở từng quốc gia. Ở một số
nước kỹ năng sống được hướng vào giáo dục vệ sinh, dinh dưỡng và phòng
bệnh. Ở một nước khác lại hướng vào giáo dục hành vi, cách ứng xử, giáo dục
an toàn giao thông, bảo vệ môi trường hay giáo dục lòng yêu hòa bình.
Kỹ năng sống thường gắn với một bối cảnh để người ta có thể hiểu và
hành động một cách cụ thể. Nó thường gắn với một nội dung giáo dục cụ thể.
Kỹ năng sống vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội. Nó mang tính

cá nhân vì đó là năng lực của cá nhân, mang tính xã hội vì mỗi giai đoạn phát
triển của lịch sử xã hội, ở mỗi vùng miền lại đòi hỏi từng cá nhân có những kỹ
năng sống thích hợp.
2.1.1.2. Phân loại kỹ năng sống
Kỹ năng sống có nhiều cách để phân loại. Tổ chức y tế thế giới (WHO)
phân kỹ năng sống làm ba nhóm: Nhóm kỹ năng nhận thức, nhóm kỹ năng
đương đầu với xúc cảm, nhóm kỹ năng tương tác. Còn theo Tổ chức văn hóa,
khoa học và giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO) kỹ năng sống gắn với bốn
trụ cột giáo dục: Học để biết, học để làm, học để chung sống với người khác,
học để làm người. Giáo dục ở nước ta trong những năm qua, kỹ năng sống được
phân loại theo các mối quan hệ gồm có những cách phân loại sau:
- Cách phân loại xuất phát hoạt động nhận thức và hành động:
+ Kỹ năng nhận thức
+ Kỹ năng đương đầu với cảm xúc
+ Kỹ năng xã hội hay kỹ năng tương tác.
- Cách phân loại dựa trên sự tác động đến sức khỏe:
+ Vệ sinh, vệ sinh thực phẩm, sức khỏe, dinh dưỡng.
+ Các vấn đề giới tính, sức khỏe sinh sản
+ Ngăn ngừa và chăm sóc người bệnh có HIV/AIDS
+ Phòng tránh rượu, thuốc lá và ma túy
+ Ngăn ngừa thiên tai, bạo lực và rủi ro
+ Hòa bình và giải quyết xung đột
17
+ Gia đình và cộng đồng
+ Giáo dục công dân
+ Bảo vệ thiên nhiên và môi trường
+ Phòng tránh buôn bán trẻ em và phụ nữ.
- Cách phân loại dựa trên mối quan hệ cá nhân và xã hội:
+ Kỹ năng nhận biết và sống với chính mình
+ Những kỹ năng nhận biết và sống với người khác

+ Các kỹ năng ra quyết định một cách hiệu quả.
2.1.2. Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên trường Đại học
Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay
Ở các nước phát triển, việc giáo dục kỹ năng sống cho tất cả các bậc học
được tiến hành từ lâu. Còn ở nước ta, thực trạng vấn đề này còn nhiều hạn chế.
Theo PGS.TS Nguyễn Thanh Bình, giáo dục hiện nay đã quan tâm đến việc giáo
dục kỹ năng sống cho người học. Tuy nhiên, giáo dục kỹ năng sống với ý nghĩa
để đáp ứng với những thách thức của cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc
sống còn phân tán, mang tính sơ khai, tập trung vào một số đối tượng được lựa
chọn ưu tiên với những nội dung còn hạn hẹp. Do đó, giáo dục kỹ năng sống ở
Việt nam chưa đảm bảo quyền được hưởng giáo dục có chất lượng của trẻ em,
quyền được tiếp cận chương trình giáo dục kỹ năng sống phù hợp đã đề ra trong
mục tiêu 3 của chương trình hành động Dakar về giáo dục cho mọi người.
Cụ thể hơn, kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu môi trường và các vấn
đề xã hội, tiến hành đối với hơn 1.000 học sinh, sinh viên thuộc 10 trường Đại
học, Cao đẳng và phổ thông trên toàn quốc năm 2009 cho thấy: “Có trên 95%
các em chưa nhận thức đúng đắn về kỹ năng sống, 77,7% chưa bao giờ được đào
tạo, tập huấn kiến thức về kỹ năng sống và hầu hết các em lúng túng khi trả lời
hoặc chưa biết cách xử lý các tình huống thường gặp trong cuộc sống”. Kết quả
trên đã chứng minh việc giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên rõ ràng còn nhiều
hạn chế.
18
Còn việc giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội đã được đưa vào giảng dạy ở một số khoa: công tác xã hội, giáo dục
chính trị, triết học,… với 2 tín chỉ (40 tiết), bao gồm dạy một số kỹ năng quan
trọng: kỹ năng tự nhận thức bản thân, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng ra quyết
định và giải quyết nan đề, kỹ năng ứng phó với căng thẳng, kỹ năng xác định giá
trị, kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ …Và theo kết quả khảo sát, kỹ năng sống của
sinh viên có phát triển. Tuy nhiên, khi xem xét các biểu hiện cụ thể vẫn còn có
những sinh viên ngại ngùng, e dè, thiếu tự tin khi giao tiếp với người khác, trình

bày vấn đề chưa mạch lạc, chưa sáng tạo trong việc giải quyết vấn đề và cũng
chưa biết các phân phối, sắp xếp thời gian để thực hiện công việc hiệu quả. Đặc
biệt, còn bộc lộ rất nhiều hạn chế về những kỹ năng: tư duy sáng tạo, tư duy phê
phán, lắng nghe tích cực, quản lý thời gian… Chính những hạn chế này đã, đang
và sẽ ảnh hưởng đến công việc và cuộc sống của các bạn sau này nên cần được
quan tâm và giáo dục.
Trước thực trạng trên, việc giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên trường
Đại học Sư phạm Hà Nội là điều hết sức cần thiết.
2.2. Vận dụng các phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy
vật vào việc giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên trường Đại học Sư phạm
Hà Nội trong điều kiện hiện nay
Không phải ngẫu nhiên mà tất cả các trường trung cấp, chuyên nghiệp đều
đưa lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin vào giảng dạy bắt buộc. Bởi lẽ môn khoa
học này giúp trang bị thế giới quan và phương pháp luận chung nhất cho mỗi cá
nhân. Xưa nay việc vận dụng môn học này vào các lĩnh vực của lý luận và thực
tiễn đã đem lại nhiều ý nghĩa to lớn. Việc vận dụng nó vào một lĩnh vực khá mới
trong giáo dục là giáo dục kỹ năng sống cũng không phải ngoại lệ.
Trên cở sở lí luận về kỹ năng sống và thực tiễn kỹ năng sống của sinh
viên, cùng với đặc trưng hoạt động nghề nghiệp của ngành Sư phạm, sinh
viên Sư phạm cần được trang bị các kỹ năng sống cơ bản sau: tự nhận thức,
xác định mục tiêu cho cuộc sống, xác định giá trị, giao tiếp, ra quyết định và
19
giải quyết vấn đề, kiên định theo đuổi và đạt mục đích đề ra, ứng phó với
căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, kiểm soát cảm
xúc, hợp tác, lắng nghe tích cực, thể hiện sự cảm thông, giao tiếp.
Dựa vào lý luận về phép biện chứng duy vật, đặc trưng hoạt động của sinh
viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội, trong giáo dục kỹ năng sống có thể vận
dụng nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử - cụ thể, nguyên tắc phát triển của
phép biện chứng duy vật vào việc giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên trường
Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay.

2.2.1. Vận dụng nguyên tắc toàn diện vào giáo dục kỹ năng sống cho
sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay
Vận dụng nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật vào giáo dục
kỹ năng sống là một trong những phương pháp tích hợp môn học khá mới và
đem lại hiệu quả không nhỏ, góp phần làm sống động, tăng tính hấp dẫn và khơi
dậy được hứng thú học tập của sinh viên. Đặc biệt, đối với sinh viên Sư phạm,
những người sau này làm nghề truyền đạt kiến thức cho người khác thì lại
càng có ý nghĩa sâu sắc.
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và thực tiễn là một trong
những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng nhất của phép biện
chứng duy vật. Cơ sở lí luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lí về mối liên
hệ phổ biến. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của
sự vật, hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua
lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự
vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng ấy với sự
vật, hiện tượng khác, tránh cách xem xét phiếm diện, một chiều. Nguyên tắc
toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải
nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất, quy định sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng; tránh chủ nghĩa chiết trung, kết hợp vô
nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm của thuật ngụy biện, coi cái cơ
20
bản thành cái không cơ bản, dẫn đến sự nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản
chất sự vật, hiện tượng.
Chúng ta có thể vận dụng vào kỹ năng tự nhận thức bản thân. Như trong
Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội”, bởi vậy khi tự nhận
thức về bản thân mình, cần phải xem xét bản thân một cách toàn diện về những
yếu tố cá nhân, như mình là ai, sống trong hoàn cảnh nào, yêu thích điều gì, ghét
điều gì, điểm mạnh và điểm yếu của mình ra sao, mình có thể thành công ở
những lĩnh vực nào…. Đồng thời, phải đặt mình trong mối quan hệ với những cá

nhân và tập thể khác để có cái nhìn đúng đắn và đầy đủ nhất về bản thân như:
gia đình, bạn bè, thầy cô, … để biết người khác đánh giá về bạn ra sao, sự đánh
giá của bạn về bản thân mình và sự đánh giá của người khác về bạn có trùng hợp
nhau không… Nhờ có một cái nhìn toàn diện, sẽ giúp bạn nhận thức được đầy
đủ nhất về bản thân mình, để từ đó có chiến lược phát triển bản thân tốt nhất.
Phép biện chứng cũng khẳng định, khi xem xét toàn diện tất cả các mặt
của những mối quan hệ của sự vật, hiện tượng phải chú ý đến sự phát triển
cụ thể của các quan hệ đó. Chỉ như vậy mới thấy được vai trò của các mặt
trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ quá trình vận động, phát triển
của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng. Như đối với việc giáo
dục kỹ năng làm việc nhóm, trong khi xem xét toàn diện các yếu tố ảnh hưởng
tới quá trình hoạt động của nhóm, đồng thời, ta phải chú ý đến sự phát triển cụ
thể của từng cá nhân trong nhóm và các mối quan hệ giữa các thành viên của
nhóm, nhằm thúc đẩy hiệu quả công việc chung của nhóm và phát triển tiềm
năng của tất cả các thành viên.
Từ quan điểm toàn diện trong nhận thức, chúng ta rút ra cách nhìn đồng
bộ trong hoạt động thực tiễn. Theo đó, muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải áp
dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác
động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật, hiện
21
tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng
tâm, then chốt để tập trung lực lượng giải quyết.
Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận trên của nguyên tắc toàn diện vào
giải quyết vấn đề, ta phải tìm kiếm và vạch ra mọi biện pháp và phương tiện có
thể giúp giải quyết vấn đề đang được đặt ra. Từ đó, lựa chọn giải pháp tối ưu
nhất phù hợp với điều kiện cụ thể của bản thân để thực hiện và giải quyết vấn
đề. Nhờ có việc áp dụng một cách đồng bộ, toàn diện và linh hoạt các giải pháp
sẽ giúp ta giải quyết được vấn đề của mình một cách hiệu quả nhất, ngày càng
nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân.
Hay vận dụng nguyên tắc toàn diện trong việc giáo dục kỹ năng giao tiếp,

ta thấy trong quá trình giao tiếp chúng ta phải chú ý một cách toàn diện tới tất cả
những yếu tố chi phối tới sự thành công của quá trình giao tiếp, như đối tượng
giao tiếp, trang phục, thái độ, cử chỉ, cách sử dụng ngôn ngữ,…
2.2.2. Vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể vào việc giáo dục kỹ năng
sống cho sinh viên Sư phạm trong điều kiện hiện nay
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể là một trong những nguyên tắc phương pháp
luận cơ bản, quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đặc
trưng cơ bản của nguyên tắc này là xem xét sự hình thành, tồn tại và phát triển
của sự vật, hiện tượng trong điều kiện môi trường cụ thể, hoàn cảnh lịch sử cụ
thể. Điểm xuất phát của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là sự tồn tại, vận động, phát
triển của sự vật diễn ra trong không gian, thời gian cụ thể. Trong những điều kiện,
hoàn cảnh khác nhau thì các mối liên hệ và hình thức phát triển của sự vật, hiện
tượng cũng khác nhau. Thực tiễn cho thấy, trong giai đoạn hiện nay, đất nước
đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập với nền kinh tế thế
giới thì việc vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể vào việc giáo dục kỹ năng sống
cho sinh viên, đặc biệt là sinh viên Sư phạm là một việc hết sức cần thiết.
Ở mỗi độ tuổi khác nhau thì tâm sinh lý của mỗi người có sự thay đổi và
xã hội cũng vậy; luôn có những sự phát triển khác nhau vì vậy đòi hỏi con người
cần phải kip thời thay đổi để thích nghi và tồn tại. Xã hội hiện đại luôn luôn đặt
22
ra những yêu cầu mới buộc chúng ta phải kịp thời trang bị cho mình đầy đủ
những kỹ năng sống thích hợp. Nhưng để có được đầy đủ những kỹ năng sống
thì đó không phải là chuyện một sớm một chiều, mà đó là cả một quá trình tu
dưỡng rèn luyện cả trong trường học lẫn trong trường đời. Một thực tế đã chỉ ra
rằng, sinh viên Sư phạm nhiều người có thành tích cao trong học tập nhưng lại
thiếu những kiến thức kỹ năng sống mà do vậy khi đứng trước những tình huống
có vấn đề đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc đưa ra cách giải quyết hợp lý
nhất. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể đã chỉ rõ để nhận thức đầy đủ về sự vật, hiện
tượng, chúng ta phải xem xét chúng trong sự phát sinh, phát triển, chuyển hóa
trong các hình thức biểu hiện với những bước quanh co phức tạp với những

ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng trong
không gian và thời gian cụ thể mà trong đó chúng tồn tại. Điều đó cho thấy khi
chúng ta gặp bất cứ khó khăn, thất bại nào trong cuộc sống thì phải tìm hiểu rõ
nguyên nhân của sự việc. Bởi con đường đời mà mỗi nguời đang đi không phải
lúc nào cũng được trải bằng những tấm thảm nhung mà ngược lại có rất nhiều
những ngã rẽ, những chông gai. Cho nên khi gặp phải những vấn đề khó khăn
ấy, chúng ta phải bình tĩnh, tự tin, đưa ra những quyết định hợp lý. Sự chủ động
trong mọi hoàn cảnh là kỹ năng cần thiết đối với bất kỳ một sinh viên nào.
Xã hội luôn vận động, biến đổi và phát triển, cùng với đó là những đòi hỏi
đối với mỗi con người. Vì vậy đối với mỗi sinh viên chúng ta cần phải luôn
nhận thức được sự vận động là có tính phổ biến để kịp thời thích ứng với mọi
biến đổi của cuộc sống. Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế của đất nước
đang trong quá trình phát triển, yêu cầu đặt ra đối với mỗi sinh viên ngày một
cao hơn, đặc biệt là sinh viên Sư phạm, những nhà giáo tương lai của đất nước.
Bởi vậy mỗi sinh viên Sư phạm cần phải biết phân tích, đánh giá tình hình cụ
thể trong hoạt động nhận thức và thực tiễn để có thể sống và thích nghi tốt nhất.
Để mỗi sinh viên Sư phạm có được sự năng động, nhạy bén, luôn cập
nhật, tiếp thu những cái mới phù hợp với quy luật thì việc tích cực học hỏi, nâng
cao kỹ năng giao tiếp là một việc làm rất cần thiết. Bởi nhờ có giao tiếp, con
23
người xây dựng được những mối quan hệ, giải quyết các vấn đề một cách hiệu
quả, sống hòa mình vào với nhịp đập chung của cộng đồng, để nâng cao chất
lượng cuộc sống của cá nhân và góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Cuộc sống sinh viên cũng chịu rất nhiều áp lực, khiến cho không ít bạn
rơi vào trạng thái tâm lý tiêu cực, căng thẳng hay khủng hoảng về mặt tinh thần.
Vì vậy khi gặp phải vấn đề hay tình huống khó khăn trong cuộc sống, chúng ta
cần phải suy nghĩ, lựa chọn và đưa ra các quyết định để giải quyết vấn đề, tình
huống đó một cách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân. Như nguyên
tắc lịch sử - cụ thể đã chỉ rõ: cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối
liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ thể của sự

vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong của
chúng cho phép nhận thức đúng đắn bản chất của sự vật, hiện tượng, từ đó mới
có thể định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn. Trong cuộc sống, chúng
ta thường xuyên phải đưa ra các quyết định của bản thân. Quyết định có thể sẽ rất
đơn giản, chỉ cần một "tích tắc" là chúng ta đã có thể cho "ra đời" một quyết định
đúng. Nhưng cũng có những quyết định rất phức tạp đòi hỏi chúng ta phải suy
nghĩ, có thể hàng ngày hàng giờ và đôi khi còn cần phải tham khảo các ý kiến từ
những người khác. Vậy với những quyết định phức tạp thì bạn sẽ làm gì để đưa
ra một quyết định chín chắn cho mình? Trong trường hợp này, bạn hãy tham
khảo và làm theo những "nấc bước" sau đây:
Bước 1: Hiểu vấn đề
- Bạn phải quyết định điều gì?
- Đảm bảo là bạn phải tập trung chính xác vào vấn đề mà gây ra sự rắc rối
Bước 2: Nhận định các giải pháp
- Những lựa chọn của bạn là gì?
- Nghĩ đến các cách mà bạn có thể giải quyết được vấn đề
- Tham khảo ý kiến từ những người khác, có thể là bố mẹ, thầy cô, bạn bè
hoặc những người mà bạn cảm thấy tin tưởng
- Lắng nghe những ý kiến góp ý và phân tích trên cơ sở thực tế của bản thân
24
Bước 3: Đưa ra các lý lẽ tán thành và phản đối của mỗi lựa chọn
- Lựa chọn một số giải pháp thực thi
- Suy nghĩ và so sánh đến ưu điểm, nhược điểm của từng giải pháp
- Xác định hậu quả tiềm tàng và các kết quả có thể đạt được cho mỗi lựa
chọn và ảnh hưởng của nó đối với người khác
Bước 4: Quyết định đâu là giải pháp tốt nhất, sau đó làm theo giải pháp đó
- Kết hợp tất cả các thông tin để quyết định đâu là sự lựa chọn tốt nhất
- Quyết định và thực hiện
- Chịu trách nhiệm về quyết định và hành động của mình.
Từ cơ sở đó khi chúng ta nhìn nhận, đánh giá hay đưa ra quyết định về

một vấn đề nào đó thì trước hết cần phải tìm hiểu vấn đề đó một cách toàn diện,
thấu đáo, xem nguyên nhân của vấn đề nằm ở đâu, đồng thời xác định các
phương án giải quyết vấn đề. Ta phải căn cứ vào điều kiện cụ thể về không gian,
thời gian, đối tượng, mối quan hệ,…để so sánh các phương án dự kiến, từ đó tìm
ra phương án tối ưu nhất rồi có quyết định phù hợp.
Việc hội nhập với nền kinh tế thế giới bên cạnh việc mang lại những
nguồn lợi phát triển về mặt kinh tế thì cũng kéo theo nhiều hạn chế về mặt văn
hóa. Những truyền thống văn hóa tốt đẹp từ bao đời nay cha ông ta dựng lên giờ
đây đã mai một đi rất nhiều trong tâm hồn của thế hệ trẻ. Mặc dù xã hội đã phát
triển, có nhiều phong tục từ xa xưa đến xã hội hiện nay đã trở nên quá lỗi thời,
quá lạc hậu. Nhưng như nguyên tắc lịch sử - cụ thể đã chỉ ra thông qua phủ định
của phủ định sự vật, hiện tượng mới là sự vật hiện tượng cũ trong dạng đã được
lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng. Vì việc tiếp thu nền văn hóa
bên ngoài cần phải tiếp thu có chọn lọc, hòa nhập nhưng không hòa tan. Điều
này càng có ý nghĩa sâu sắc hơn với những sinh viên Sư phạm, bởi chúng ta sẽ
trở thành những nhà giáo không chỉ là chuẩn mực về nghề nghiệp mà còn là
chuẩn mực về nhân cách. Việc phân định đâu là yếu tố tích cực của truyền thống
để tiếp thu và đâu là hạn chế để loại bỏ cũng chính là việc chúng ta đang tìm
kiếm và xác định những giá trị riêng cho bản thân. Xác định giá trị cũng là một
25

×