Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Đánh giá hiệu quả các mô hình khuyến lâm tại Quảng Ninh giai đoạn 2005 đến 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 97 trang )



1


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




Nguyễn Văn Tuấn


ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CÁC MÔ HÌNH
KHUYẾN LÂM TẠI QUẢNG NINH GIAI
ĐOẠN 2005-2010


Chuyên ngành : Lâm học





Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp








Thái Nguyên, 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Quảng Ninh là một tỉnh biên giới, miền núi, hải đảo nằm ở vùng địa
đầu Đông Bắc của tổ quốc với tổng diện tích tự nhiên là 607.910 ha; trong đó
diện tích rừng và đất rừng chiếm tới 70% (427.206,6ha). Do đó rừng Quảng
Ninh chiếm một vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh,
ngoài chức năng phòng hộ đầu nguồn tạo nguồn sinh thủy cung cấp nước cho
sản xuất và đời sống, bảo tồn đa dạng sinh học, phòng hộ môi trường, giữ đất,
giữ nước, điều hòa khí hậu hạn chế thiên tai, làm đẹp cảnh quan cho Vịnh Hạ
Long; Bái Tử Long, mà rừng còn cung cấp một lượng gỗ lớn cho ngành than,
nguyên liệu giấy, công nghệ ván dăm và nhiều lâm đặc sản có giá trị kinh tế
khác và là một nhân tố không thể thiếu trong việc phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh. Nhận thức rõ nhiệm vụ bảo vệ và phát triển rừng, thực hiện theo tinh
thần nghị quyết khóa X kỳ họp thứ 2 về dự án 5 triệu ha rừng. Đựơc sự quan
tâm chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung Ương cũng như sự quan tâm
của tỉnh ủy, UBND tỉnh, sự cố gắng của các cấp chính quyền địa phương, sự
tham gia tích cực của các Doanh nghiệp và người dân sống trên địa bàn, tranh
thủ mọi nguồn lực để xây dựng và phát triển rừng. Từ năm 2005-2010 bằng
nhiều nguồn vốn khác nhau từ các chương trình mục tiêu Quốc gia, từ nguồn
ngân sách địa phương; Vốn tự có, vốn ODA, vốn hỗ trợ phát triển sản xuất
của tỉnh, hỗ trợ từ nguồn 661, vốn hỗ trợ xây dựng các mô hình khuyến

lâm…(Chủ yếu hỗ trợ nguồn cây giống) Quảng ninh đã trồng mới được
69.827 ha rừng góp phần nâng độ che phủ của rừng trong toàn tỉnh từ 11,9%
năm 1992 lên 47,8% năm 2008 và 50,2 % năm 2010 (Báo cáo diễn biến tài
nguyên rừng năm 2010).
Để có được kết quả đó bên cạnh sự vào cuộc của các cấp, các ngành, sự
tham gia tích cực của người dân và các doanh nghiệp thì công tác khuyến lâm
có vai trò hết sức quan trọng nó đóng vai trò là cầu nối giữa 4 nhà; nhà nông,
nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp. Đồng thời thông qua các mô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3


hình khuyến lâm người dân có điều kiện giao lưu học hỏi những cách làm
hay, những mô hình sản xuất tiêu biểu, nắm bắt những kiến thức khoa học kỹ
thuật mới, giống mới áp dụng vào thực tế sản xuất.
Mục tiêu của các mô hình khuyến lâm là “Tạo điều kiện cho nông dân
trong tỉnh học tập và làm theo những mô hình sản xuất tiêu biểu, tiếp cận
được những kiến thức khoa học mới, các giống cây trồng sinh trưởng phát
triển nhanh, kháng bệnh để quản lý bền vững nguồn tài nguyên rừng để bảo
vệ nguồn nước và đất cũng như cải thiện được nguồn thu nhập cho hộ gia
đình”. Trong 5 năm qua các chương trình khuyến lâm đã có những hoạt động
khá phong phú, phù hợp với mục tiêu đề ra và bước đầu đã giúp cho bà con
nông dân trong tỉnh nâng cao được hiểu biết về môi trường, kỹ thuật canh tác,
ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và nâng cao được thu nhập thông qua
việc trực tiếp tham gia xây dựng và phát triển rừng.
Hoạt động của các mô hình khuyến lâm đã tập trung giải quyết những
vấn đề cơ bản và mấu chốt nhất của ngành Lâm nghiệp hiện nay, của vùng
nông thôn miền núi phía Bắc nước ta nói chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng,

đó là bảo vệ, nâng cao chất lượng của rừng tự nhiên, trồng rừng mới để phủ
xanh đất trống đồi núi trọc và xây dựng các mô hình nông lâm kết hợp. Đặc
biệt là các mô hình khuyến lâm đã thiết lập được hệ thống các mô hình lâm
sinh ở nhiều thôn bản nhằm trình diễn kỹ thuật để người dân học tập, làm theo
và hàng loạt các thử nghiệm về trồng cây nguyên liệu, cây đặc sản, cây bản
địa có giá trị kinh tế cao với nhiều phương thức kỹ thuật khác nhau để từ đó
lựa chọn các loài cây trồng, phương thức kỹ thuật phù hợp cho các tiểu vùng
sinh thái. Bước đầu các hoạt động này cũng đã mang lại những kết quả rõ nét,
đáp ứng được phần nào nguyện vọng của người dân trong tỉnh. Tuy nhiên,
bên cạnh đó cũng còn nhiều vấn đề tồn tại cần được bổ sung, rút kinh nghiệm
như lựa chọn lập địa trồng rừng, kỹ thuật lâm sinh áp dụng, quy mô các mô
hình,…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4


Để có những nhận xét, đánh giá đầy đủ về các kết quả xây dựng các mô
hình khuyến lâm trong 5 năm qua 2005-2010, nhằm rút ra được những bài
học kinh nghiệm lựa chọn các mô hình có triển vọng ứng dụng cho phát triển
lâm nghiệp nói chung và các mô hình khuyến lâm nói riêng trong thời gian tới
trên địa bàn toàn tỉnh, cần thiết phải đánh giá lại các mô hình khuyến lâm và
trồng rừng mới một cách toàn diện và có hệ thống. Xuất phát từ yêu cầu đó,
đề tài: “Đánh giá kết quả xây dựng các mô hình khuyến lâm tại Quảng Ninh
giai đoạn 2005- 2010” là hết sức cần thiết.
2. Mục đích của đề tài
Trên cơ sở phân tích, đánh giá các mô hình khuyến lâm ở các địa
phương, góp phần lựa chọn các mô hình hiệu quả, phương pháp chuyển giao
tốt để nhân rộng cho người dân và giúp cho các nhà quản lý hoạch định chính

sách phù hợp cho chương trình xây dựng mô hình khuyến lâm.
















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở khoa học
- Khuyến lâm là công tác chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học
công nghệ ra thực tế, do vậy công tác khuyến lâm thường gắn liền với công
tác nghiên cứu khoa học và đào tạo, khoa học kỹ thuật lâm nghiệp cùng với

các ngành khoa học khác đang được phát triển mạnh mẽ trong và ngoài nước
như: công nghệ sinh học trong công tác giống, phương thức phối kết hợp,
trồng rừng thâm canh, trồng rừng lâm sản ngoài gỗ… hiệu quả kinh tế, môi
trường được nghiên cứu thử nghiệm. Đánh giá một cách đầy đủ ở các vùng
sinh thái khác nhau, vấn đề đặt ra là làm thế nào để có sự phối kết hợp hài hoà
phát huy hiệu quả, kiến thức khoa học kỹ thuật lâm nghiệp tiên tiến với kiến
thức bản địa của người dân.
- Kinh doanh lâm nghiệp từ đời này qua đời khác đã tích luỹ được
nhiều kinh nghiệm quý giá trong việc lựa chọn cây trồng, phương thức trồng
và kỹ thuật trồng. những kinh nghiệm đó cần được tổng kết, đánh giá, hoàn
thiện và phát triển.
1.2. Cơ sở pháp lý
Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã
được thủ tướng chính phủ phê duyệt ngày 5/2/2007, chương trình nghiên cứu,
giáo dục, đào tạo và khuyến lâm là một trong 5 chương trình để hoàn thành
mục tiêu và nhiệm vụ đến năm 2020.
Đề án phát triển khuyến lâm giai đoạn 2008-2010 và định hướng đến
năm 2020 đã được Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn phê duyệt tại
quyết định số 832/QĐ-BNN-KHCN ngày 17/3/2008.
Quyết định số 100/2007/ QĐ - TTg ngày 6/7/2007 của Thủ tướng
Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của quyết định 661/QĐ-TTg ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6


29/7/1998 của thủ tướng chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ
chức thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng.
Quyết định số 147/2007/QĐ-TTg ngày 10/9/2007 của Thủ tướng Chính

phủ về một số chính sách phát triển rừng sản xuất, đều đề cập đến phát triển
khuyến lâm. Ngày 26 tháng 4 năm 2005 thủ tướng chính phủ ban hành nghị định
số 56/2005/NĐ - CP nghị định của chính phủ về khuyến nông, khuyến ngư.
Ngày 10/10/2005 ban hành thông tư số 60/ TT- BNN về việc hướng
dẫn thực hiện một số nội dung của nghị định số 56/2005/ NĐ-CP.
Ngày 6/4/2006 ban hành thông tư liên tịch số 30/2006/ TTLT - BTC -
BNN &PTNT - BTS, ngày 21/5/2007 ban hành thông tư 50/TTLT về việc
hướng dẫn sử dụng kinh phí sự nghiệp đối với hoạt động khuyến nông,
khuyên ngư.
1.3. Lịch sử nghiên cứu khuyến nông
1.3.1. Trên thế giới
*
Mỹ
Hoạt động khuyến nông, khuyến lâm nước Mỹ được hình thành từ năm
1843 theo tác giả Alfred Charles True (1928) [22] viết trong cuốn Lịch sử
khuyến nông nước Mỹ Khởi đầu tại NewYork nhà nước cấp kinh phí cho
Hội đồng bang thuê những nhà khoa học nông nghiệp có kỹ năng thực hành
tốt làm giảng viên khuyến nông xuống các thôn xã đào tạo những kiến thức về
khoa học và thực hành nông lâm nghiệp cho nông dân.
- Từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước Nhà nước đã quan tâm đến
công tác đào tạo khuyến nông trong trường đại học. Năm 1891 bang
NewYork đã hỗ trợ 10.000 USD cho công tác đào tạo khuyến nông đại học.
Những năm sau đó nhiều nhiều trường đại học như Đại

học Chicago, Đại học
Wicosin …cũng đưa khuyến nông vào chương trình đào tạo. Bộ thương mại
cũng như ngân hàng và nhiều công ty công, nông, thương nghiệp tài trợ cho
các hoạt động khuyến nông. Đến năm 1907 ở Mỹ đã có 42 trường / 39 bang
có đào tạo khuyến nông. Năm 1910 có 35 trường có bộ môn khuyến nông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



7


- 1914, Mỹ ban hành đạo luật khuyến nông và thành lập Hệ thống
khuyến nông quốc gia. Giai đạn này đã có 8861 Hội nông dân, với khoảng
3.050.150 hội viên.
*
Ấn Đ


Hội khuyến nông Ấn độ được thành lập năm 1820 (William Carey khởi
sướng) và đề xuất cải tiến ngành Nông nghiệp. Cục Lâm nghiệp Hoàng gia
được thành lập ở Ấn Độ vào năm 1864. Lâm luật được thông qua năm 1865,
lúc đó Luật này chỉ đơn giản là thiết lập ranh giới chủ rừng, đến 1878 nó được
bổ sung và hoàn thiện. Hệ thống khuyến nông lâm Ấn Độ được thành lập
tương đối sớm vào năm 1960. Trong những năm 1970, Ấn Độ tuyên bố chiến
lược dài hạn cho phát triển lâm nghiệp với mục tiêu: giảm xói mòn đất và lũ
lụt, cung cấp cho nhu cầu ngày càng tăng của các sản phẩm ngành công
nghiệp gỗ trong nước và cung cấp các nhu cầu chất đốt của của dân cư nông
thôn, gỗ nhỏ, rừng sản xuất. Ủy ban Quốc gia về Lâm nghiệp được thành lập
năm 1976, các sở lâm nghiệp được tổ chức lại. Thành lập Ủy ban lâm nghiệp
xã hội, với mục tiêu thúc đẩy các hoạt động lâm nghiệp truyền thống và phát
triển rừng cộng đồng thông qua các hoạt động của cơ quan lâm nghiệp cộng
đồng chịu trách nhiệm các trang trại lâm nghiệp, quản lý gỗ, khuyến lâm,
trồng rừng.
Trong những năm 1980, lâm nghiệp xã hội được khuyến khích bởi các
cơ quan lâm nghiệp cộng đồng. Chính sách lâm nghiệp quốc gia được phê
duyệt năm 1988. một trong những chính sách đó là Chương trình quản lý

rừng, trong đó gắn trách nhiệm cụ thể cho Bộ Lâm nghiệp, từ quản lý các lô
rừng cụ thể. Đặc biệt, việc bảo vệ rừng là trách nhiệm của người dân. Đến
năm 1992, mười bảy tiểu bang của Ấn Độ tham gia vào quản lý rừng. Năm
2006, Luật chủ rừng được ban hành [26].
*
Thái Lan
Thái Lan là quốc gia nông nghiệp với trên 60% dân số sống bằng
nghề nông nghiệp. Điều kiện đất đai, khí hậu nóng ẩm gần tương đồng Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8


nam. Thái Lan là quốc gia hoạt động khuyến nông cũng khá tiêu biểu. Hệ
thống khuyến nông nhà nước được thành lập năm 1967. Về mặt thành tựu
của khuyến nông Thái Lan thể hiện ở mấy điểm sau:
- Hàng năm nguồn vốn cho khuyến nông khá lớn khoảng 120-150-và
thậm chí 200 triệu USD. Lượng kinh phí này gấp hơn 20 lần kinh phí
khuyến nông hàng năm của nước ta.
- Nhiều năm nay Thái Lan là quốc gia đứng hàng thứ nhất xuất khẩu
lương thực trên thế giới (xuất khẩu khoảng 7 triệu tấn gạo/năm).
- Hiện nay Thái Lan rất coi trọng chất lượng giống cây trồng, sản
xuất rau quả an toàn, phát triển nuôi trồng thủy sản .v.v
Hiện Thái lan có 3 tổ chức chính hoạt động có liên quan đến khuyến
lâm, đó là Cục lâm nghiệp Hoàng gia, Hội nông dân, Hội phát triển cộng
đồng. Hoạt động khuyến lâm được thực hiện và chỉ đạo bởi các Phòng lâm
nghiệp Quốc gia, bao gồm 21 cơ quan cấp vùng và 72 cơ quan cấp tỉnh [6].
*
Trung Quốc

Là quốc gia đất rộng thứ 4 thế giới nhưng dân số đông nhất thế giới
(Hiện nay có khoảng (1,2 tỷ người). Khí hậu Trung Quốc thuộc vùng vĩ độ
cao có ôn đới, á nhiệt đới và một phần nhiệt đới. Hệ thống khuyến nông
Trung Quốc được thành lập năm 1970 nhưng công tác đào tạo khuyến nông
Trung Quốc rất quan tâm:
Tác giả Phạm Kim Oanh (2004) [12] cho biết tính đến hết năm 1997,
trên toàn đất nước Trung Quốc, đã có tới hơn 48.500 tổ chức khuyến nông
khuyến lâm, với hơn 317 nghìn khuyến nông - khuyến lâm viên (từ trung
ương tới tỉnh, huyện xã và làng bản). Khuyến nông lâm viên phối hợp hoạt
động cùng khoảng 400 nghìn tổ chức nông dân (chiếm 20% số làng ở Trung
Quốc) với hơn một triệu nông dân là kỹ thuật viên và với 6,6 triệu mô hình
trình diễn của nông dân.
Từ năm 1995 trở đi, Trung Quốc quyết định áp dụng những chính sách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9


tập trung hỗ trợ nông nghiệp sản xuất sản phẩm chất lượng cao. Các chương
trình khuyến nông lâm chuyển giao giống cây rừng, lúa lai chất lượng cao.
Lâm nghiệp: Muốn duy trì được tính ổn định, bền vững của các mô
hình rừng thì các mô hình phải đạt được hiệu quả kinh tế, sản phẩm rừng
trồng phải có thị trường tiêu thụ, các loại sản phẩm lâm sản ngoài gỗ phải
phục vụ được mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của người dân, phương
thức canh tác phải gần với kiến thức bản địa và được người dân áp dụng. Về
vấn đề này nghiên cứu của Ianuskơ K. (1996) cho biết cần phải giải quyết vấn
đề thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các khu rừng trồng kinh tế, trong đó cần
có kế hoạch xây dựng và phát triển các nhà máy chế biến lâm sản với các quy
mô khác nhau trên cơ sở áp dụng các công cụ chính sách đòn bẩy để thu hút

các thành phần kinh tế tham gia vào phát triển rừng. Theo Thom R Waggener
(2000) để phát triển các mô hình trồng rừng theo hướng sản xuất hàng hoá với
hiệu quả kinh tế cao không chỉ đòi hỏi phải có sự đầu tư tập trung về kinh tế
và kỹ thuật mà còn phải nghiên cứu làm sáng tỏ hàng loạt vấn đề có liên quan
đến chính sách và thị trường. Chính vì vậy ở các nước phát triển như Mỹ,
Nhật, Canada, nghiên cứu về kinh tế lâm nghiệp ở cấp quốc gia hiện nay
được tập trung vào 2 vấn đề lớn và đóng vai trò quyết định đối với quá trình
sản xuất là thị trường và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Theo quan điểm
thị trường các nhà kinh tế Lâm nghiệp cho rằng thị trường sẽ là chìa khoá của
quá trình sản xuất, thị trường sẽ trả lời câu hỏi sản xuất cái gì? cho ai? Khi thị
trường có nhu cầu và lợi ích của người sản xuất được đảm bảo thì động cơ lợi
nhuận và thu nhập sẽ thúc đẩy họ tăng cường đầu tư vào sản xuất, thâm canh
tạo ra sản phẩm hàng hoá cho xã hội.
Liu Jinlong (2004) dựa trên việc phân tích và đánh giá tình hình thực tế
trong những năm qua đã đưa ra một số công cụ chủ đạo khuyến khích tư nhân
phát triển trồng rừng ở Trung Quốc là:
i) Rừng và đất rừng cần được tư nhân hoá;
ii) Ký hợp đồng hoặc cho tư nhân thuê đất lâm nghiệp của Nhà nước;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10


iii) Giảm thuế đánh vào các lâm sản;
iv) Đầu tư tài chính cho tư nhân trồng rừng.
v) Phát triển quan hệ hợp tác giữa các công ty với người dân để phát
triển trồng rừng [24].
Những công cụ mà tác giả đề xuất tương đối toàn diện từ quan điểm
chung về quản lý lâm nghiệp, vấn đề đất đai, thuế,… cho tới mối quan hệ

giữa các công ty và người dân. Đây có thể nói là những đòn bẩy thúc đẩy tư
nhân tham gia xây dựng các mô hình trồng rừng ở Trung Quốc nói riêng
trong những năm qua và là những định hướng quan trọng cho các nước đang
phát triển nói chung, trong đó có Việt Nam.
Các hình thức khuyến khích trồng rừng cũng được nhiều tác giả trên
thế giới quan tâm nghiên cứu như Narong Mahannop (2004)[25] ở Thái Lan,
Ashadi and Nina Mindawati (2004) [21] ở Indonesia, Các tác giả cho biết
hiện nay ở các nước Đông Nam á, 3 vấn đề được xem là quan trọng, khuyến
khích người dân tham gia trồng rừng là:
- Quy định rõ ràng về quyền sử dụng đất.
- Quy định rõ đối tượng hưởng lợi rừng trồng.
- Nâng cao hiểu biết và nắm bắt kỹ thuật của người dân.
Đây cũng là những vấn đề mà các nước trong khu vực, trong đó có Việt
Nam đã và đang giải quyết để thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào trồng rừng.
1.3.2. Trong nước
*
Trước 1993
- 4/1945, Hồ Chủ Tịch trong lễ bế giảng khóa chỉnh huấn cán bộ tại
Việt Bắc, Người đã căn dặn các cán bộ ta trước khi ra về: “Các chú ra về
phải làm tốt công tác khuyến nông, ra sức phát triển nông nghiệp, chống giặc
đói, diệt giặc dốt”, người người thực hiện “Hũ gạo tiết kiệm”. [20]
Từ năm 1950-1957, chủ yếu năm 1955-1956 chúng ta thực hiện cải
cách ruộng đất (CCRĐ), thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Đây là
cuộc cách mạng lớn chưa từng có trong lịch sử nông nghiệp nước ta. Chúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


11



ta đã tịch thu hơn 81 vạn ha ruộng đất của địa chủ…, 106.448 trâu bò
cùng với 1.846.000 nông cụ chia cho 2.104.158 hộ nông dân và nhân dân
lao động (72,8% hộ nông thôn miền Bắc). Kết quả này đã tạo điều kiện và
khích lệ nông dân ra sức tăng gia sản xuất.
Từ năm 1956-1958, kế tiếp ngay sau CCRĐ

nông dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Chính phủ thực hiện “đổi công, vần công”, nông dân tương
thân tương ái giúp nhau trong sản xuất nông nghiệp.
Năm 1960 ở miền Bắc thành lập các Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp
(HTX) bậc thấp-1968 HTX bậc cao.
Năm 1974 HTX toàn xã. Tổ chức HTX sản xuất nông nghiệp vào giai
đoạn này có một ý nghĩa lịch sử lớn lao. Tổ chức HTX sản xuất nông nghiệp
nông dân “Cùng làm cùng hưởng” đã tạo điều kiện cực kỳ quan trọng giúp
cho đảng và Nhà nước huy động được mức độ tối đa sức người, sức của
phục vụ cho tiền tuyến, phục vụ cho công cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu
nước giải phóng miền Nam, thống nhất Đất

nước.
Công tác khuyến nông giai đoạn này chủ yếu triển khai đến HTX. Phương
pháp khuyến nông chủ yếu đưa TBKT nào sản xuất, xây dựng các mô hình HTX
sản xuất tiến bộ như: HTX Tân Phong, HTX Vũ Thắng Thái Bình.
Năm 1961 sinh viên các trường Đại

học nông nghiệp tham gia đi
thực tế sản xuất nông nghiệp tại các HTX, nông trường quốc doanh là một
trong những nội dung đào tạo quan trọng của Nhà trường nhằm thực hiện
phương châm đào tạo “Học kết hợp với hành”; thực hiện thực tiễn hóa tay
nghề của các sinh viên nông nghiệp.
Từ năm 1963-1973, Bộ Nông nghiệp tổ chức các “Đoàn chỉ đạo sản

xuất nông nghiệp giúp …”các tỉnh. Các Đoàn chỉ đạo sản xuất nông nghiệp
là tổ chức nông nghiệp của Chính phủ do Bộ Nông nghiệp tổ chức và quản
lý nhưng hoạt động giúp các địa phương. Hoạt động của Đoàn chỉ đạo sản
xuất nông nghiệp thực chất làm các công việc khuyến nông như giúp các
địa phương thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


12


nông nghiệp, đưa các tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp vào sản xuất. Phấn đấu
thực hiện mục tiêu 5 tấn thóc/ha.
- Năm 1966 Thái Bình là tỉnh đầu tiên ở miền Bắc đạt 5 tấn thóc/ha.
Năm 1974 toàn miền Bắc đạt 5 tấn thóc/ha. Năm 1988 huyện Hưng Hà (Thái
Bình) đạt 10 tấn thóc/ha.
Từ năm1964-1980 nhìn chung nông nghiệp trì trệ kém phát triển, đời
sống nông dân gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân có nhiều nhưng chủ yếu
do chiến tranh. Chúng ta phải tập trung mọi nỗ lực cho công cuộc đấu tranh
giải phóng miềm Nam, giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
Mặt khác sau giải phóng miền Nam năm 1975 đến 1980 miền Bắc
vẫn còn duy trì HTX sản xuất nông nghiệp là một thực tế bất cập mất cân
đối giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản suất…
- Trước thực trạng sản xuất nông nghiệp trì trệ và đời sống nhân dân
gặp nhiều khó khăn, tháng 1 năm 1981, Chỉ thị 100 của Ban CHTW
Đ
ảng:
“Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động”, còn gọi là
“Khoán 100” được ra đời. HTX nông nghiệp chỉ quản lý 5 khâu:
Đ

ất- nước-
giống- phân bón và bảo vệ thực vật còn toàn bộ các khâu khác khoán cho
nhóm và người lao động. “Khoán 100” đã có tác dụng to lớn khích lệ nông
dân sản xuất. Ngoài sản lượng nông sản phải nộp HTX còn lại người nông
dân được tự do sử dụng.
- Sau 7 năm thực hiện “Khoán 100” Đảng ta xem xét rút kinh
nghiệm: “Khoán 100” có nhiều ưu điểm thúc đẩy nông nghiệp phát triển
nhưng vẫn còn nhiều hạn chế: Nông dân chưa thực sự chủ động sản xuất
kinh doanh có hiệu quả.
Trên đồng ruộng, ao hồ, chuồng trại chăn nuôi người nông dân chưa
có thể chủ động sản xuất kinh doanh vì những khâu then chốt như giống,
phân bón nông dân vẫn phải phụ thuộc vào sự quản lý của HTX.
Mảnh đất họ trồng trọt vụ này vụ sau có thể thay đổi nên không ai
nghĩ đến thâm canh bảo vệ và duy trì độ phì của đất để vụ sau năng suất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13


cao hơn vụ trước …Thứ nữa nông dân còn phải đóng góp nhiều khoản như
nộp sản của 5 khâu HTX quản lý và đóng góp quỹ phúc lợi …Những hộ
nông dân có vốn, có lao động, có trình độ dân trí cao sản xuất có hiệu quả.
Có nhiều hộ nông dân cuộc sống vẫn không khỏi đói nghèo do bởi
nguồn lực sản xuất thiếu lao động, thiếu vốn; do gặp rủi ro trong cuộc
sống; do trình độ dân trí thấp sản xuất không có hiệu quả đã dẫn đến nợ
sản nhiều vụ, nhiều năm.
Chính vì vậy ngày 5/4/1988, Bộ chính trị BCH TW Đảng khóa V ra
NQ 10: “Cải tiến quản lý kinh tế trong nông nghiệp”, còn gọi là “Khoán
10”. NQ 10 được thực hiện và hoàn thiện vài năm sau đó đã chuyển đổi hẳn

cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp. Ruộng đất giao cho nông dân quản
lý lâu dài 20 năm đối với đất nông nghiệp, 50 năm đối với đất lâm nghiệp.
Chuyển đổi từ cơ chế sản xuất tập thể tự cung tự cấp, sản xuất theo
kế hoạch hóa Nhà nước sang sản xuất kinh tế hộ gia đình và trang trại.
Người nông dân chủ động sản xuất kinh doanh trên mảnh đất, ao hồ, chuồng
trại của mình theo hướng nông nghiệp hàng hóa có sự điều tiết của Nhà
nước. Nông nghiệp của đất nước có cơ hội ngày càng phát triển mạnh.
- Năm 1992, Để điều phối và lãnh đạo công tác khuyến nông của đất
nước, Bộ Nông nghiệp thành lập “Ban điều phối Khuyến nông”
- Do nhu cầu bức súc của sản xuất, ngày 2/3/1993, Thủ tướng Chính
phủ ra NĐ

13/CP về việc thành lập hệ thống Khuyến nông, Khuyến lâm,
Khuyến ngư của đất nước.
*
Sau năm 1993
- 2/3/1993,

13/CP của Chính phủ về việc thành lập hệ thống
Khuyến nông, Khuyến lâm, Khuyến ngư.
- 2/8/1993 Thông tư 02/LB-TT cụ thể hóa việc thực hiện

13/CP. Như
vậy cuối năm 1993 nước ta chính thức có Hệ thống Khuyến nông Quốc gia.
- Thực hiện

số 86/2003/NĐ-CP ngày 18/7/2003, QĐ

số
118/2003/QĐ-BNN ngày 3/11/2003 về thay đổi cơ cấu tổ chức Cục KN-

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


14


KL, thành lập Trung tâm khuyến nông Quốc gia. Tiếp sau năm 2005 thực
hiện

số 56/2005/NĐ-CP và TT số 60/2005/TT-BNN cụ thể hoá công
tác khuyến nông, khuyến ngư trong giai đoạn hiện nay.
-Từ 1989 đến nay dưới sự lãnh đạo sát sao của Đảng, Chính phủ, sự
tăng cường hoạt động của Khuyến nông đã thúc đẩy nền nông nghiệp của
đất nước ngày càng phát triển. Bình quân hàng năm tăng 1 triệu tấn lương
thực và vươn lên từ nước thiếu lương thực đến đủ và thừa lương thực.
Nếu như những năm trước 1980 chúng ta còn thiếu lương thực thì từ
năm 1989 chẳng những chúng ta tự tức đủ lương thực mà còn dư thừa bắt
đầu xuất khẩu lương thực từ hơn 1 triệu đến gần 2 triệu tấn lương
thực/năm. Nhiều năm gần đây chúng ta đã là nước đứng vị trí thứ 2 xuất
khẩu lương thực vào thị trường TG: Hàng năm xuất khẩu vào thị trường
lương thực thế giới trên dưới 4 triệu tấn/năm, năm 2005 xuất khẩu 5,2 triệu
tấn gạo đạt kim ngạch xuất khẩu 1,4 tỷ USD.
Đến năm 2007, trên cơ sở Chính phủ hợp nhất Bộ Nông nghiệp và
PTNT với Bộ Thuỷ sản thành Bộ Nông nghiệp và PTNT và theo Nghị định
số 01/2008/NĐ-CP, ngày 03/01/2008 của Chính phủ quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn đã cho phép thành lập Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Quốc
gia trên cơ sở hợp nhất giữa Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Trung tâm
Khuyến ngư Quốc gia theo Quyết định số 236/QĐ-BNN-TCCB ngày
28/01/2008 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT. Chức năng, nhiệm vụ

và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Quốc gia thực
hiện theo Quyết định số 43/2008/QĐ-BNN ngày 11/3/2008 của Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp và PTNT.
Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 01 năm 2010 của Chính
phủ về Khuyến nông quy định tổ chức khuyến nông Trung ương đơn vị sự
nghiệp công lập trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với tên
gọi là Trung tâm Khuyến nông Quốc gia. Ngày 28/6/2010, Bộ Nông nghiệp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


15


và PTNT đã có Quyết định số 1816/QĐ-BNN-TCCB quy định chức năng,
nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia.
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia là đơn vị sự nghiệp, có các nhiệm vụ
chủ yếu là tham gia đề xuất và ban hành các chính sách, cơ chế về khuyến
nông, khuyến ngư; các định mức kinh tế-kỹ thuật; chỉ đạo, tổ chức và hướng
dẫn thực hiện công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật thông qua xây dựng mô
hình trình diễn, thông tin tuyên truyền, huấn luyện đào tạo, công tác dịch vụ
và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khuyến nông, khuyến ngư.
Tính đến tháng 11/2010 có 33.260 cán bộ khuyến nông, trong đó có
5.638 cán bộ có trình độ đại học, chiếm 16,7%.
Hệ thống khuyến nông ở địa phương được tổ chức thành 4 cấp: Tỉnh -
Huyện - Xã và Thôn bản:
Ở cấp tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương là cơ quan quản lý nhà nước về khuyến nông. Sau 15
năm hoạt động, 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều đã thành lập
Trung tâm Khuyến nông, Khuyến ngư tỉnh với tổng số 2.754 người.
Ở cấp huyện: hiện nay, hầu hết các huyện trên cả nước có Trạm

Khuyến nông huyện trực thuộc Trung tâm Khuyến nông tỉnh hoặc UBND
huyện với tổng số 4.600 người.
Ở cấp xã: Đa số các xã có cán bộ khuyến nông xã với tổng số 10.543 người.
Ở cấp thôn, bản: Hiện cả nước có 15.749 khuyến nông viên thôn, bản.
Một số tỉnh có lực lượng khuyến nông viên thôn, bản tương đối đầy đủ như
Hà Giang, Phú Thọ, Sơn La, Lai Châu.
* Chức năng nhiệm vụ của khuyến Nông lâm
- Phổ biến những tiến bộ trồng trọt, chăn nuôi, công nghệ chế biến
nông lâm thủy sản và những kinh nghiệm điển hình tiền tiến cho nông dân.
- Bồi dưỡng và phát triển kiến thức quản lý kinh tế cho nông dân để
sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Phối hợp với các cơ quan cung cấp cho nông dân những thông tin về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


16


thị trường giá cả nông sản để nông dân bố trí sản xuất kinh doanh đạt hiệu
quả cao.
*
Để phù hợp với thực tế sản xuất mới hiện nay, NĐ

số 56/2005/NĐ-
CP ngày 24/6/2005 và TT số 60/2005/TT/BNN đã qui định mục tiêu khuyến
nông-khuyến ngư:
- Nâng cao nhận thức về chủ trương, chính sách, pháp luật, kiến
thức, kỹ năng về khoa học kỹ thuật, quản lý, kinh doanh cho người sản xuất
- Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, phát triển sản xuất theo

hướng bền vững, tạo việc làm, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo, góp
phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn.
- Huy động nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
tham gia khuyến nông, khuyến ngư.
- Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về khuyến lâm
Giai đoạn 1993-2005: khi mới thành lập (1993) đã được Chính phủ đầu
tư hỗ trợ 1,268 tỷ đồng, con số này tăng lên 97,8 tỷ (2005), bình quân năm
sau tăng hơn năm trước 8,04 tỷ đồng tương đương trên 12%. Tính đến năm
2005, kinh phí hỗ trợ cho hoạt động khuyến nông là 542,931 tỷ đồng trong đó
kinh phí hỗ trợ cho hoạt động khuyến lâm là 66,6 tỉ đồng (chiếm khoảng
12,6%). Đã triển khai trên tổng diện tích xây dựng mô hình là 19.940 ha với
20.804 hộ tham gia. Nổi bật là một số chương trình như: Chương trình trồng
tre lấy măng; Chương trình trồng cây nguyên liệu giấy; Chương trình trồng
cây đặc sản [3].
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011)[4] cho biết trong
5 năm (2006-2010), chương trình khuyến lâm đã triển khai ở 55 tỉnh, với
51.575 hộ tham gia mô hình, tổng kinh phí: 76 tỷ đồng trên tổng số 843,880
tỷ đồng cấp cho toàn bộ hoạt động khuyến nông (chiếm 9%), với một số
chương trình như: Trồng rừng thâm canh cây nguyên liệu; trồng rừng thâm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17


canh cây gỗ lớn; trồng rừng thâm canh cây lâm sản ngoài gỗ; và trình tập
huấn nghiệp vụ khuyến lâm cho cán bộ kiểm lâm.

Sơ đồ 1.1 Kinh phí khuyến nông trung ương cấp cho hoạt động khuyến lâm

(Nguồn Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, 2011)
Từ nguồn ngân sách địa phương, đã huy động được 4.361 hộ tham gia
xây dựng mô hình, trồng được 4.977 ha rừng trình diễn, tập huấn 5.395 hộ
nông dân. Công tác khuyến lâm được nhiều tổ chức Quốc tế và phi Chính phủ
quan tâm trong các dự án phát triển lâm nghiệp. Nhiều cách tiếp cận và
phương pháp khuyến lâm mới đã được áp dụng và bước đầu được thể chế hoá
ở một số địa phương.
Nguyễn Xuân Quát (1985-1990) [13] đã đánh giá ảnh hưởng của cây
phù trợ Đậu tràm tới cây trồng rừng chính là Tếch và Muồng đen ở Tây
Nguyên và cho nhận xét "bước đầu cho thấy chưa rõ hiệu quả sinh trưởng
của Tếch tốt hoặc xấu hơn nhưng đã tạo được cấu trúc rừng kết hợp giữa cây
rụng lá mùa khô, cây phù trợ là Đậu tràm và cây bạn Muồng đen thường
xanh". Phạm Đình Tam (1995 –1999) đã tiến hành thí nghiệm và đánh giá
rừng trồng hỗn loài giữa Trám trắng, Lim xẹt và Keo lai đã kết luận chưa
thấy ảnh hưởng rõ rệt sinh trưởng của Trám trắng ở các phuơng thức trồng
hỗn giao khác nhau. Sau 4 năm mô hình hỗn loài Trám + Keo + Lim xẹt đã
thấy Keo lai bắt đầu che bóng Lim xẹt [15]. Tuy nhiên các thí nghiệm này
không được theo dõi và điều chỉnh tàn che thích hợp cho cây trồng chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


18


sinh trưởng. Đây cũng là tồn tại chung của các công trình nghiên cứu về
trồng rừng hỗn loài có sử dụng cây phù trợ ban đầu ở nước ta trong những
năm qua.
Để tổng kết và đánh giá các mô hình sử dụng đất vùng xung yếu ven
hồ sông Đà, Đặng Thịnh Triều (2005) [19] đã áp dụng cách tiếp cận có sự
tham gia theo 3 bước:

-Bước 1: Điều tra khảo sát tổng thể tình hình sử dụng đất vùng ven hồ
sông Đà để nắm được đặc điểm chung của các mô hình làm cơ sở cho các
điều tra, đánh giá chi tiết tiếp theo.
- Bước 2: Trên cơ sở kết quả điều tra bước 1 tiến hành phân loại và lựa
chọn đối tượng đánh giá.
- Bước 3: Tiến hành điều tra, đánh giá các mô hình cụ thể.
Từ cách tiếp cận này tác giả đã tiến hành đánh giá các mô hình sử
dụng đất tổng hợp vùng xung yếu ven hồ sông Đà, đo vẽ các lát cắt các mô
hình đại diện cho từng tiểu vùng sinh thái. Quan điểm và cách tiếp cận này
có nhiều tiến bộ vì đã kết hợp được nghiên cứu trên diện rộng với nghiên
cứu chi tiết trên diện hẹp, đặc biệt có ý nghĩa đối với những vấn đề có liên
quan nhiều đến môi trường và xã hội.
Nguyễn Trọng Bằng (2003) [2] đã sử dụng các chỉ tiêu Net Present
Value (NPV) và tỷ suất thu nhập và chi phí (BCR – Benefits to cost Ratio),
tỷ lệ thu hồi vốn nội bộ (IRR – Internal Rate of Return), để đánh giá hiệu quả
kinh tế các mô hình lâm nghiệp xã hội ở huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Kết quả
cho thấy mô hình Rừng – Vườn cho giá trị NPV cao nhất: 27.355.721 đồng,
thu nhập bình quân hàng năm đạt trên 3.900.000đ; tiếp đến là mô hình cải
tạo vườn tạp và trồng cây phân tán: 14.291.203 đồng, thu nhập bình quân
hàng năm đạt trên 2.000.000 đồng. Xem xét hiệu quả của các mô hình theo
chỉ số IRR thì mô hình có hiệu quả nhất là mô hình cải tạo vườn tạp và trồng
cây phân tán (IRR=100,44%), đây là mô hình có thu nhập từ nhiều nguồn
khác nhau, trong đó thu nhập từ nuôi Ong, Cá, và cây rừng phân tán, ăn chia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


19


sản phẩm bảo vệ rừng là thu nhập chính. Tiếp đến là mô hình Vườn nhà

(IRR = 43,78%). Các mô hình khác có IRR = 9,58% - 22,24%.
Năm 1996, Đoàn Hoài Nam [9] đã đánh giá hiệu quả kinh tế - sinh
thái của một số mô hình rừng trồng tại Yên Hương – Hàm Yên – Tuyên
Quang, trong đó tác giả đã đặc biệt chú ý đến hiệu quả tổng hợp của một số
mô hình rừng trồng chủ yếu. Tiếp đó năm 1997, Đoàn Thị Mai (1997) [7] đã
đánh giá hiệu quả kinh tế - môi trường về mục tiêu phát triển bền vững cho
một số phương án sử dụng đất trong canh tác nông lâm nghiệp vùng nguyên
liệu giấy. Đây có thể nói là những công trình bước đầu đánh giá về hiệu quả
kinh tế – sinh thái, kinh tế – môi trường ở nước ta làm cơ sở cho những công
trình tiếp theo.
Năm 1998, Cao Danh Thịnh [18] đã tiến hành đề tài “Thử nghiệm ứng
dụng một số phương pháp định lượng có trọng số để so sánh hiệu quả kinh tế
và môi trường của một số dự án lâm nghiệp tại khu vực phòng hộ đầu nguồn
sông Đà” đã đề cập đến hiệu quả tổng hợp kinh tế – môi trường, trong đó tác
giả đã sử dụng phương pháp định lượng có trọng số các chỉ tiêu bằng tương
quan để đánh giá và cho biết phương pháp này đạt độ chính xác cao. Phạm
Xuân Nam (2004) [10] cũng đã áp dụng phương pháp này và cho kết quả
tương tự.
Nguyễn Hữu Thiện (2004) [17] đã đánh giá hiệu quả xã hội các mô
hình lâm nghiệp xã hội xây dựng ở xã Bình Thanh, huyện Cao Phong, tỉnh
Hoà Bình và cho biết thông qua việc xây dựng các mô hình đã giúp cho
người dân địa phương hiểu biết hơn về các kỹ thuật gây trồng các loài cây,
đặc biệt là có cơ hội tiếp cận được với các tiến bộ kỹ thuật như giống mới có
năng suất và chất lượng cao, kỹ thuật trồng thâm canh, hiểu biết thêm các
chủ trương, chính sách của đảng và Nhà nước ta về đổi mới cơ chế quản lý
lâm nghiệp, đặc biệt là giao đất giao rừng tới tập thể và cá nhân. Tác giả
cũng cho biết để tiến đến xã hội hoá nghề rừng thì bên cạnh việc hỗ trợ vốn,
kỹ thuật gây trồng, công tác tuyên truyền, tập huấn và đào tạo giữ một vai trò
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



20


rất quan trọng. Qua đây chúng ta có thể thấy rằng mô hình đạt được thành
công khi chúng ta biết kết hợp hài hoà giữa yếu tố kinh tế và xã hội.
Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế (2005)[14] đã tiến hành đánh giá tiềm
năng sản xuất đất lâm nghiệp cho mỗi vùng, trong đó đã xác định 3 nội dung
cơ bản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau là: i) xác định đơn vị sản xuất đất
đai; ii) đánh giá tiềm năng sản xuất đất đai; iii) xác định độ thích hợp cây
trồng. Các tác giả đã dùng 5 yếu tố chủ đạo để xác định các đơn vị sử dụng
đất đai cho mỗi vùng sinh thái là: Độ cao so với mặt biển, nhóm đất hay loại
đất chính, độ dốc, độ dày tầng đất và lượng mưa. Trên cơ sở này tiến hành
phân cấp các yếu tố và đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp. Đây là
một trong những công trình nghiên cứu khá toàn diện về đánh giá đất đai,
làm cơ sở cho việc lựa chọn và đánh giá sự phù hợp của cây trồng rừng,
trong đó có các mô hình nông lâm nghiệp. Các tác giả cho biết đối với việc
đánh giá thì phương pháp giữ một vai trò chủ đạo, trong đó lựa chọn các tiêu
chí là quan trọng nhất.
Đánh giá về mặt hiệu quả môi trường của các mô hình lâm sinh ở
nước ta chưa nhiều, chủ yếu là dừng lại ở việc mô tả độ tàn che của rừng, độ
che phủ của thảm tươi,… hoặc một số ít công trình dùng phương pháp đóng
cọc để nghiên cứu xói mòn đất (Nguyễn Quang Mỹ [8]). Nổi bật nhất có
công trình nghiên cứu của Bùi Ngạnh và Nguyễn Danh Mô (1977)[11], của
Võ Đại Hải (1996) [5] về đánh giá khả năng điều tiết nước và chống xói mòn
của thảm thực vật rừng. Những nghiên cứu này bước đầu đã làm rõ vai trò
thuỷ văn của rừng, đặc biệt là các nhân tố cấu trúc rừng như tầng thứ, độ tàn
che, loài cây, tầng thảm tươi và thảm mục,… làm cơ sở cho việc đánh giá
hiệu quả môi trường của rừng. Đặc biệt, mới đây Ngô Đình Quế và các cộng
sự (2005)[14] đã tiến hành điều tra đánh giá tác động của rừng ở khu vực

miền Trung và Tây Nguyên đến một số yếu tố môi trường nhằm đề xuất cơ
sở để xây dựng tiêu chuẩn môi trường lâm nghiệp. Đây là công trình nghiên
cứu khá tổng hợp về đánh giá môi trường lâm nghiệp, nghiên cứu đã kết hợp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


21


bố trí những ô tiêu chuẩn định vị quy mô nhỏ với việc nghiên cứu quy mô
lớn trên lưu vực sông và sử dụng các phần mềm chuyên dụng để xử lý số
liệu, đánh giá kết quả. Công trình đã đưa ra được các tiểu chuẩn đánh giá
môi trường cho một số dạng rừng trồng và rừng tự nhiên.
Trong báo cáo tổng kết đề án “nghiên cứu đề xuất một số giải pháp
kinh tế xã hội nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất ở lòng hồ huyện Mộc
Châu tỉnh Sơn La. Đỗ Đức Bảo cùng các cộng sự đã sử dụng phương pháp
ma trận môi trường để đánh giá tác động của các loại hình canh tác và
phương án canh tác lâm nghiệp. Các loại hình canh tác được đánh giá ở đây
là vườn tạp, nông lâm kết hợp, rừng tự nhiên,… Trong phương pháp ma trận
môi trường, việc phân tích số liệu được thể hiện thông qua các hàng và cột.
Bằng phương pháp này có thể đưa ra hàng loạt các chỉ tiêu khác nhau thuộc
các lĩnh vực chịu tác động như kinh tế, xã hội và môi trường, phương án
được đánh giá qua tổng điểm. Tuy nhiên, sử dụng phương pháp này chỉ
mang tính tương đối vì phương pháp cho điểm phụ thuộc vào nhiều yế tố chủ
quan, kinh nghiệm và trình độ người cho điểm nên khả năng chính xác
không cao.
- Năm 2010 Lê Sỹ Trung và các cộng sự đã thực hiện công trình "
Đánh giá hiệu quả chuyển giao khoa học và kỹ thuật của các mô hình khuyến
lâm". Kết quả:[20]
+ Các mô hình khuyến lâm tại khu vực nghiên cứu gồm: Trồng cây gỗ

lớn; Trồng rừng nguyên liệu; Lâm sản ngoài gỗ; NLKH; Chủ yếu là trồng
rừng nguyên liệu, không có mô hình cải tạo rừng tự nhiên.
+ Phương pháp xây dựng mô hình là tương đối thồng nhất bao gồm
các bước: Điều tra khảo sát; Chọn hộ; Lập kế hoạch; Tập huấn; Thăm quan
học tập; Xây dựng mô hình; Giám giát đánh giá và nhân rộng. Có sự tham
gia của người dân, nhưng kết quả của các nơi không giống nhau do thời gian,
trình độ, trách nhiệm của cán bộ quyết định.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


22


+ Mô hình trồng rừng nguyên liệu hiệu quả cao được nhiều địa
phương chấp nhận và nhân rộng như: Mô hình trồng rừng thâm canh Keo tai
tượng; Mô hình trồng rừng Keo hạt nhập khẩu từ Úc; Mô hình Keo lai; Bạch
đàn U6; PN14; Urophyla.
+ Mô hình LSNG được người dân chấp nhận và nhân rộng là mô hình
Thảo quả; Mô hình Trúc sào; Mô hình Mây nếp, xong việc lựa chọn cây
trồng phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng còn hạn chế.
+ Mô hình trồng rừng cây gỗ lớn: Giổi xanh; Tếch; Lát Mehico là
không thành công.
+ Mô hình NLKH được người dân chấp nhận và nhân rộng là mô hình
R.V.A.C.Rg; R.V
Đánh giá chung
Điểm qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan tới đề
tài nghiên cứu cho thấy, trên thế giới các công trình nghiên cứu đánh giá các mô
hình lâm sinh, rừng trồng,… được triển khai tương đối toàn diện ở hầu hết các
nước, nội dung đánh giá cũng khá phong phú từ mặt kỹ thuật cho tới các vấn đề
kinh tế, xã hội, và môi trường,… Đặc biệt cách tiếp cận và các phương pháp

đánh giá đã được được chuẩn hoá nên độ chính xác của kết quả cao.
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về đánh giá các mô hình lâm
sinh, trồng rừng hoặc đánh giá tác động môi trường, dự án,… được đặc biệt
quan tâm chú ý trong những năm gần đây khi quan điểm phát triển bền vững
được đưa vào các đề tài, dự án nghiên cứu như một điều bắt buộc. Nội dung
đánh giá các mô hình liên quan đến đề tài hoặc là được đánh giá lồng ghép
trong các chương trình, đề tài/dự án hoặc được tiến hành một cách riêng rẽ. 3
vấn đề trong đánh giá được các tác giả nghiên cứu quan tâm là: i) Hiệu quả về
kinh tế, ii) hiệu quả về môi trường và iii) hiệu quả về xã hội. Phương pháp
đánh giá cũng dần được hoàn thiện và tiếp cận được với khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, việc đánh giá các mô hình ở nước ta thường mới chỉ dừng lại ở
bước đầu vì khi tiến hành đánh giá cây trồng trong các mô hình thường còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


23


nhỏ, chưa mang lại đầy đủ hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường; khi các dự
án/đề tài kết thúc công việc chăm sóc theo dõi và đánh giá các mô hình sau
này gần như không được quan tâm. Đây là một trong những tồn tại lớn nhất
hiện nay ở nước ta cần được khắc phục trong thời gian tới.
Những kết quả nghiên cứu, đánh giá mô hình, các phương pháp áp
dụng trên thế giới và trong nước có liên quan là những tài liệu thảm khảo có
giá trị của đề tài trong việc đánh giá các mô hình khuyến lâm tại tỉnh Quảng
Ninh giai đoạn 2005-2010.































Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


24



CHƢƠNG 2
ĐỐI TƢỢNG, GIỚI HẠN,
NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
2.1.1. Về khoa học
Đánh giá được các mô hình khuyến lâm tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn
2005-2010 về các mặt khối lượng công việc thực hiện, kỹ thuật áp dụng, tình
hình sinh trưởng của cây trồng và hiệu quả kinh tế, xã hội.
2.1.2. Về thực tiễn
- Lựa chọn và đề xuất được các loài cây, kỹ thuật và các mô hình
khuyến lâm có triển vọng cho việc phát triển mở rộng ở tỉnh Quảng Ninh.
2.2. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các mô hình khuyến lâm ở tỉnh
Quảng Ninh thực hiện trong giai đoạn 2005-2010.
2.3. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
- Về địa điểm: Đề tài giới hạn trong phạm vi 03 huyện mỗi huyện 02
xã đại diện cho vùng sinh thái khác nhau là:
+ Huyện Hoành Bồ: xã Sơn Dương, xã Đồng Lâm.
+ Huyện Vân Đồn: xã Vạn Yên, xã Bản Sen.
+ Huyện Ba Chẽ: xã Thanh Sơn, xã Nam Sơn.
- Về nội dung:
+ Đánh giá kết quả xây dựng các mô hình, phương pháp tổ chức thực
hiện, khó khăn trong quá trình xây dựng.
+ Đánh giá hiệu quả của các mô hình: Đề tài chỉ đánh giá hiệu quả về
kinh tế, mặt xã hội.
2.4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Để đạt được các mục tiêu đề ra, đề tài tập trung nghiên cứu các nội

dung sau:
2.4.1. Đánh giá kết quả xây dựng các mô hình khuyến lâm.
Điều tra đánh giá mô hình trồng rừng gỗ lớn; điều tra đánh giá mô hình
trồng rừng nguyên liệu; điều tra đánh giá mô hình trồng lâm sản ngoài gỗ;
điều tra đánh giá mô hình cải tạo rừng tự nhiên; điều tra đánh giá mô hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


25


nông lâm kết hợp (kết quả thực hiện so với kế hoạch và tình hình sinh trưởng
cây trồng vật nuôi).
2.4.2. Đánh giá về công tác tổ chức thực hiện xây dựng mô hình: tỉnh,
huyên, xã.
2.4.3. Đánh giá các mô hình khuyến lâm: Dự tính hiệu quả kinh tế, xã hội
(nhận thức của người dân; khả năng nhân rộng mô hình.)
2.4.4. Phân tích thuận lợi khó khăn, cơ hội và thách thức trong xây
dựng mô hình.
2.4.5. Đề xuất các giải pháp phát triển các mô hình khuyến lâm cho khu
vực nghiên cứu.
2.5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.5.1. Quan điểm và cách tiếp cận của đề tài
- Vì các mô hình khuyến lâm của tỉnh Quảng Ninh được thực hiện trên
địa bàn nhiều huyện, xã và thôn - nơi có những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã
hội và nhân văn khác nhau nên những phân tích và đánh giá phải tính đến các
yếu tố này.
- Đánh giá mô hình khuyến lâm trong tỉnh Quảng Ninh được xem xét,
đánh giá tổng hợp cả về mặt kỹ thuật và xã hội.
- Mô hình được thực hiện với sự tham gia của các hộ gia đình và một

số tổ chức chính quyền địa phương, vì vậy phương pháp đánh giá được áp
dụng là có sự tham gia.
+ Cán bộ khuyến nông từ tỉnh đến cơ sở.
+ Cán bộ quản lý địa phương các cấp, tỉnh, huyện, xã, thôn.
+ Các hộ dân tham gia thực hiện mô hình.
- Vì đối tượng đánh giá khá đa dạng từ loài cây, biện pháp gây trồng, sinh
trưởng cho tới các yếu tố xã hội, nên phương pháp chuyên gia sẽ được áp dụng.
2.5.2. Phương hướng giải quyết vấn đề của đề tài




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×