Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Đánh giá hiệu quả và đề xuất giải pháp sử dụng hợp lý đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.24 KB, 89 trang )


1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




NGUYỄN TRUNG SƠN



Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
SỬ DỤNG HỢP LÝ ĐẤT SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÚ LƢƠNG - TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số: 60. 62. 16


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hà Xuân Linh







THÁI NGUYÊN - 2012

2
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là nguồn nội lực, nguồn vốn to lớn của đất nước, là thành phần quan
trọng của môi trường sống và có vai trò đặc biệt quan trọng với sản xuất nông
nghiệp. Bất kỳ quốc gia nào đất đều là tư liệu sản xuất nông - lâm nghiệp chủ
yếu, cơ sở lãnh thổ để phân bố các ngành kinh tế quốc dân.
Trong những năm gần đây, hoà cùng với xu thế toàn cầu hoá nền kinh
tế thế giới, kinh tế của Việt Nam ngày càng phát triển. Cùng với sự vận động
và phát triển này, con người ngày càng “vắt kiệt” nguồn tài nguyên đất để
phục vụ cho lợi ích của mình, dẫn đến sự thoái hoá đất, giảm tính bền vững
trong phát triển kinh tế nói chung và trong nông nghiệp nói riêng.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi phía Bắc, cùng với xu thế hội nhập
nền kinh tế thế giới của cả nước, trong những năm qua nền kinh tế của Thái
Nguyên có những bước phát triển đáng kể. Phú Lương là huyện nằm trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên, có diện tích đất tương đối lớn và nhiều tiềm năng để
phát triển kinh tế , trong đó nông nghiệp có tầm quan trọng lớn đối sự phát
triển của huyện, 80% dân số của huyện sống bằng nghề nông nghiệp, diện tích
đất nông nghiệp bình quân trên đầu người còn thấp. Vì vậy việc sử dụng đất
nông nghiệp có hiệu quả nhằm đem lại nhiều hơn những sản phẩm cho xã hội
có ý nghĩa rất lớn đối với tỉnh Thái Nguyên nói chung, huyện Phú Lương nói
riêng. Do phải chịu sức ép về gia tăng dân số nên một số năm gần đây trong
sản xuất nông nghiệp ở huyện Phú Lương chưa chú trọng đúng mức việc sử
dụng đất đai mà chỉ quan tâm đến năng suất sản lượng cây trồng. Chính vì

vậy, hệ sinh thái nông nghiệp đã bị thay đổi đáng kể và tính bền vững trong hệ

3
thống nông nghiệp không được duy trì. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến
nguy cơ làm thoái hoá đất đai đặc biệt là ở các vùng sản xuất chuyên canh.
Xuất phát từ thực tiễn đó, với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả
kinh tế trong sản xuất nông nghiệp và sử dụng hợp lý hơn đất nông nghiệp
hiện có, góp phần bảo vệ môi trường. Chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Đánh giá hiệ u quả và đề xuất hướng sử dụng đất nông nghiệ p bề n vữ ng
tại huyện Phú Lương - tỉnh Thái Nguyên”
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp huyện Phú Lương là cơ sở
định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp trong tương lai theo hướng phát
triển nông nghiệp bền vững.
- Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và nâng cao
mức thu nhập của người dân.
















4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Một số vấn đề lý luận về sử dụng đất nông nghiệp bền vững
1.1.1 Khái quát về đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất
nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu
thí nghiệm về nông nghiệp. Theo Luật đất đai 2003 trong phân loại đất thì đất
nông nghiệp bao gồm các loại đất sau đây "đất trồng cây hàng năm, đất trồng
cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất
nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác.
Theo báo cáo của World Bank, cho đến cuối thế kỷ XX vẫn còn 1/10
dân số thế giới thiếu ăn và bị nạn đói đe doạ, hàng năm mức sản xuất so với
yêu cầu sử dụng lương thực vẫn thiếu hụt từ 150 - 200 triệu tấn, trong khi đó
vẫn có từ 6 - 7 triệu ha đất nông nghiệp bị loại bỏ do xói mòn {47}.
Theo tài liệu của FAO, năm 1980 diện tích trồng trọt trên toàn thế giới còn
khoảng gần 15 tỷ ha, chiếm khoảng 10% tổng diện tích tự nhiên trái đất, trong đó
có khoảng 973 triệu ha là đất vùng núi. Trong 1.200 triệu ha đất bị thoái hoá có tới
544 triệu ha đất canh tác mất khả năng sản xuất do sử dụng đất không hợp lý {43}.
Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên là 33.069.348,12 ha trong đó đất
nông nghiệp chỉ có 9.415.568,0 ha, đất lâm nghiệp có 14.677.409,10 ha. Dân
số là 83.121,0 triệu người, bình quân diện tích đất nông nghiệp là 1.132,75
m
2
/người, bình quân đất lâm nghiệp là 1.765,78 m
2
/người. So sánh với 10
nước khu vực Đông Nam Á, tổng diện tích tự nhiên của Việt Nam xếp hàng

thứ 4, nhưng dân số lại xếp hàng thứ 2 nên bình quân diện tích tự nhiên trên
đầu người của Việt Nam đứng vị trí thứ 9 trong khu vực (Bộ TN&MT, 2007).

5
Theo quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, diện tích đất nông nghiệp tăng từ 8.793.783 ha (năm 2000) lên
9.363.063 ha (năm 2010). Tuy nhiên, dân số nước ta cũng tăng từ 77.635.400
người (năm 2000) lên 86.408.856 người (năm 2010). Bình quân diện tích đất
nông nghiệp trên đầu người của cả nước lại có xu thế giảm từ 0,113 ha (năm
2000) xuống 0,108 ha (năm 2010). Như vậy, trong 10 năm (2000-2010), bình
quân diện tích đất nông nghiệp giảm 50 m
2
/người, hàng năm giảm 5 m
2
/người.
Đây là con số còn rất khiêm tốn (Bộ TN&MT, 2007).
Đáng báo động hơn là tình trạng suy giảm chất lượng đất nông nghiệp
do rửa trôi, xói mòn, khô hạn và sa mạc hoá, mặn hoá, phèn hoá, chua hoá,
thoái hoá lý hoá học đất, ô nhiễm Suy thoái chất lượng đất dẫn tới việc giảm
khả năng sản xuất, giảm đa dạng sinh học và nhiều hậu quả khác. Những tác
động tiêu cực trên đây ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 50% diện tích đã và đang
sản xuất nông nghiệp, đồng thời cũng là thách thức to lớn đối với sự phát triển
nông nghiệp bền vững ở nước ta. Mặt khác, việc sử dụng đất còn lãng phí, chỉ
tính riêng ở 68 nông trường quốc doanh và 33 vùng kinh tế mới và chuyên
canh trước đây đã có trên 30.000 ha sau khi khai hoang lại bị bỏ hoá trở lại,
không đưa vào sản xuất nông, lâm nghiệp. Để sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu
quả và bền vững cần quan tâm quản lý tốt cả về số lượng và chất lượng đất đai
Vì vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất, sử dụng đất có hiệu quả
nhằm thoả mãn nhu cầu cho xã hội về nông sản phẩm đang trở thành một
trong những mối quan tâm lớn nhất của người quản lý và sử dụng đất.

1.1.2. Sử dụng đất theo hướng phát triển bền vững
Đất đai ngày càng thể hiện vai trò vô cùng quan trọng của nó không chỉ
trong hiện tại mà cả tương lai. Khi dân số trên trái đất còn ít thì đất đai có thể
đáp ứng một cách dễ dàng nhu cầu của con người về số lượng cũng như chất
lượng, trong điều kiện ấy con người cũng ít có tác động lớn đến tài nguyên quí

6
báu này. Một vài thập kỷ gần đây, dân số thế giới tăng nhanh kéo theo những
nhu cầu về lương thực, thực phẩm, chỗ ở… tăng lên tạo nên một sức ép vô
cùng lớn đến vấn đề sử dụng đất, những diện tích đất đai màu mỡ ngày càng
bị thu hẹp trước những nhu cầu công nghiệp hoá, đô thị hoá… dẫn đến con
người phải tìm cách khai thác những vùng đất ít thích hợp cho sản xuất. Hậu
quả của quá trình này là đất đai bị thoái hoá, rửa trôi, xói mòn nghiêm trọng
làm một diện tích lớn đất đai trên thế giới bị suy kiệt, ngoài ra còn ảnh hưởng
đến môi trường sống của con người và nhiều loài động thực vật khác.
Nhằm đảm bảo cho cuộc sống của con người hiện tại cũng như thế hệ
tương lai nên cần phải có những chiến lược sử dụng đất đảm bảo duy trì khả
năng sản xuất của đất ở hiện tại cũng như tương lai. Thuật ngữ “sử dụng đất
bền vững” ra đời dựa trên những mong muốn trên. Việc tìm kiếm các giải pháp
sử dụng đất một cách hiệu quả và bền vững luôn là mong muốn của con người
trong suốt cả thời gian. Việc sử dụng đất bền vững là sử dụng đất với tất cả
những đặc trưng vật lý, hoá học, sinh học có ảnh hưởng đến khả năng sử dụng
đất. Thuật ngữ đất đai được đề cập đến ở đây gồm thổ nhưỡng, địa hình, khí
hậu, thuỷ văn, thực vật và động vật, kể cả vấn đề cải thiện các biện pháp quản
lý đất đai. Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) sử dụng thuật ngữ “chất
lượng đất đai” trong sử dụng đất bền vững bao gồm các nhân tố ảnh hưởng đến
sự bền vững của tài nguyên đất khi sử dụng cho các mục đích nhất định, chất
lượng đất đai có thể khác nhau trên nhiều phương diện như khả năng cung cấp
nước tưới, khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cho mục đích sản xuất nông
nghiệp, khả năng chống chịu xói mòn, sức sản xuất tự nhiên và phân bố địa

hình ảnh hưởng đến khả năng cơ giới hoá. Để duy trì được sự bền vững của đất
đai, Smyth AJ và Julian Dumanski (1993) đã xác định 5 nguyên tắc có liên
quan đến sự sử dụng đất bền vững là {41}:

7
- Duy trì hoặc nâng cao các hoạt động sản xuất.
- Giảm mức độ rủi ro đối với sản xuất.
- Bảo vệ tiềm năng của các nguồn tài nguyên tự nhiên, chống lại sự
thoái hoá chất lượng đất và nước.
- Khả thi về mặt kinh tế.
- Được xã hội chấp nhận
Như vậy, theo các tác giả, sử dụng đất bền vững không chỉ thuần tuý
về mặt tự nhiên mà còn cả về mặt môi trường, lợi ích kinh tế và xã hội.
Năm nguyên tắc trên đây là trụ cột của việc sử dụng đất bền vững, nếu
trong thực tiễn đạt được cả năm nguyên tắc trên thì sự bền vững sẽ thành
công , ngược lại sẽ chỉ đạt được ở một vài bộ phận hay sự bền vững có điều
kiện. Tại Việt Nam, theo ý kiến của Đào Châu Thu và Nguyễn Khang
(1998), việc sử dụng đất bền vững dựa trên những nguyên tắc và được thể
hiện trong 3 yêu cầu sau:
- Bền vững về mặt kinh tế.
- Bền vững về mặt môi trường.
- Bền vững về mặt xã hội.
Khía cạnh môi trường trong phát triển bền vững đòi hỏi chúng ta duy trì
sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức độ
khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi
trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên
trái đất.
Khía cạnh xã hội của phát triển bền vững cần được chú trọng vào sự
phát triển sự công bằng và xã hội luôn cần tạo điều điện thuận lợi cho lĩnh vực

phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm
năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được.

8
Yếu tố kinh tế đóng một vai trò không thể thiếu trong phát triển bền
vững. Nó đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp
xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử
dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được
chia sẻ một cách bình đẳng. Khẳng định sự tồn tại và phát triển của bất cứ
ngành kinh doanh, sản xuất nào cũng được dựa trên những nguyên tắc đạo lý
cơ bản. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất
cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong
một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những
quyền cơ bản của con người.
1.1.3. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững
* Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp:
Tận dụng triệt để các nguồn lực, khai thác lợi thế so sánh về khoa học,
kỹ thuật, đất đai, lao động để phát triển cây trồng, vật nuôi có tỷ suất hàng hoá
cao, tăng sức cạnh tranh và hướng tới xuất khẩu.
Thực hiện sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tập trung chuyên môn
hoá, sản xuất hàng hoá theo hướng ngành hàng, nhóm sản phẩm, thực hiện
thâm canh toàn diện và liên tục.
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên cơ sở thực hiện đa
dạng hoá hình thức sở hữu, tổ chức sử dụng đất nông nghiệp, đa dạng hoá cây
trồng vật nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với sinh thái và
bảo vệ môi trường.
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp phù hợp và gắn liền với
định hướng phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Chú ý đầu tư có trọng điểm để tạo ra các vùng kinh tế làm động lực lôi
cuốn nhưng không lãng quên đầu tư diện rộng nhằm giảm bớt sự chênh lệch

giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư.

9
1.2. Đặc điểm sử dụng đất nông nghiệp vùng khí hậu nhiệt đới
Vùng khí hậu nhiệt đới ẩm là một vùng chiếm một diện tích rộng lớn của
thế giới và chứa các phần lãnh thổ của khoảng 60 quốc gia (hoàn toàn hay
một phần trong vùng sinh khí hậu này). Việc sử dụng sáng suốt tài nguyên đất
và nước trong vùng nhiệt đới ẩm là những vấn đề chủ yếu của toàn thế giới
hiện tại, vì những sự tương tác giữa dân số con người, các yếu tố xã hội - kinh
tế và chính sách, với tài nguyên thiên nhiên của các vùng sinh thái mong
manh này. Quản lý sai lầm tài nguyên đất và các hệ thống nông nghiệp dựa
trên tài nguyên không hiệu quả đang gây ra sự xuống cấp nghiêm trọng các
vùng sinh thái này cùng với tình trạng thiếu lương thực, suy dinh dưỡng và
nghèo nàn đang đeo bám dai dẳng các cộng đồng dân cư. Hiện nay nhiều diện
tích rộng lớn của rừng mưa nhiệt đới đang bị biến mất hàng năm do lửa rừng,
búa rìu, cưa xích, máy ủi, và thuốc khai quang, để sản xuất lương thực nuôi
sống một dân số không ngừng tăng lên, nguyên liệu cho công nghiệp, và nông
sản hàng hoá để xuất khẩu cũng như để phát triển cơ sở hạ tầng cho những
người nhập cư mới đến khu vực và cho nhu cầu công nghiệp hoá. Các phương
pháp không tương thích về mặt sinh thái của sự chuyển hoá rừng, các hệ
thống sử dụng đất không phù hợp, và sự quản lý đất và hoa màu không khoa
học dựa trên các kỹ thuật bóc lột độ phì của đất, đã thúc đẩy xói mòn đất, góp
phần ô nhiễm các mặt nước tự nhiên, phá vỡ cân bằng nước và năng lượng ở
các hệ sinh thái với các cấp độ từ vi mô cho đến trung và vĩ mô, và phá vỡ các
chu trình của các nguyên tố (ví dụ, C, N, và S) cùng với các hệ quả sinh thái
toàn cầu. Một hệ quả toàn cầu chính của sự mất, đốt, và chuyển hoá rừng
thành các hệ thống sử dụng đất không bền vững là sự phóng thích của những
lượng lớn CO
2
và các chất hoạt động phóng xạ hay các khí gây hiệu ứng nhà

kính vào khí quyển. Nếu các phương pháp chuyển hoá rừng, sử dụng đất và

10
các hệ thống nông nghiệp được cải thiện dựa trên các hiểu biết khoa học
không được chấp nhận rộng rãi trong tương lai gần, sự nhiễu loạn lớn trong
các hệ sinh thái mong manh của rừng mưa nhiệt đới có thể dẫn tới sự xuống
cấp không hồi phục được của đất và môi trường.
1.2.1. Các hệ thống canh tác chính trong vùng nhiệt đới ẩm
Vì các hệ thống canh tác trong vùng nhiệt đới dựa ít hay không dựa vào
các nhập lượng từ bên ngoài và được tiến hành trên đất không màu mỡ, chúng
thường có hiệu quả và năng suất thấp. Các hệ thống này có các đặc trưng sau:
- Rất đa dạng và phức tạp, nông dân gieo trồng đồng thời đến 12 loài hoa
màu trên cùng mảnh đất, vì đa canh là phương thức phổ biến.
- Dựa vào tài nguyên và thâm canh lao động, với sự phụ thuộc tối thiểu
vào các nhập lượng mua từ bên ngoài. Sự phục hồi độ phì của đất dựa trên
thời gian bỏ hoá dài. Thời gian canh tác so với thời gian bỏ hoá phụ thuộc vào
khí hậu, thảm thực vật, loại đất, và áp lực dân số.
- Quy mô nông trại nhỏ (1-2 ha) phù hợp để quản lý bởi hộ gia đình và
sản xuất thủ công.
1.2.2. Sự xuống cấp của đất trong vùng nhiệt đới ẩm
Tổng diện tích bị xuống cấp do các tiến trình suy thoái của đất khác nhau
trên thế giới được ước lượng vào khoảng 2 tỷ ha. Diện tích đất bị xuống cấp lớn
nhất là ở Châu Á (38%) và Châu Phi (27%). Phần lớn sự xuống cấp này gây ra
bởi sự xói mòn gia tốc, là một vấn đề nghiêm trọng trong vùng nhiệt đới ẩm. Tải
lượng vật liệu bồi lắng cao đã được báo cáo từ các vùng ẩm của Costa Rica,
Malaysia, Panama, Papua New Guinea, Australia, Philippines, và Thái Lan. Mức
độ xuống cấp của đất cao được quan sát trong các vùng nhiệt đới ẩm của Trung
Mỹ, Châu Phi, và Châu Á. Sự xói mòn do nước xảy ra nghiêm trọng và phổ biến
trong các vùng ẩm của Đông Nam Châu Á, bao gồm Mianma, Thái Lan,


11
Malaysia, và Indonesia; nhiều đảo trong Thái Bình Dương và Châu Đại Dương;
dọc theo các dãy núi của vùng bờ biển Thái Bình Dương ở Trung Mỹ, bao gồm
vùng Đông Nam Mexico, Honduras, Nicaragua, và Costa Rica; và trong các
vùng bị nhiễu loạn mạnh của lưu vực Amazon {42}.
Sử dụng đất không phân biệt và thâm canh để sản xuất hoa màu theo
mùa hay lập vùng chăn thả gia súc có mật độ cao, các hệ thống sản xuất dựa
vào tài nguyên không hay chỉ sử dụng rất ít nhập lượng mua từ bên ngoài vào
để trả lại dưỡng liệu bị lấy đi trong khi thu hoạch hoa màu và động vật, bản
thân đất rất nghèo dưỡng liệu, và môi trường khắc nghiệt là một số yếu tố chịu
trách nhiệm dẫn tới nhịp độ xuống cấp nhanh chóng của đất được quan sát
trong vùng nhiệt đới ẩm. Tính chất nghiêm trọng của sự xuống cấp của đất là
là do tác dụng tương hỗ giữa các nguyên nhân, yếu tố, và tiến trình của sự
xuống cấp của đất. Các nguyên nhân hay các tác nhân của sự xuống cấp của
đất là các động lực xã hội-kinh tế và văn hoá, được thúc đẩy bởi các biến số
dân số học (ví dụ mật độ dân số và sự di dân); các lý do chiến lược của sự mất
rừng để tạo ra khả năng tiếp cận các tài nguyên có tiềm năng, bao gồm chính
sách quốc gia và các yếu tố định chế như sự hỗ trợ hậu cần và kỹ thuật; tập
quán về quyền sử dụng đất; và vài đặc trưng văn hoá và dân tộc học xác định
nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Các yếu tố của sự xuống cấp của đất
có liên quan đến các tài nguyên tự nhiên, bao gồm khí hậu vi mô và trung quy
mô, thuỷ văn, địa hình và cảnh quan, thảm thực vật, sử dụng đất, và các hệ
thống quản lý đất và hoa màu. Các yếu tố thể hiện các tài nguyên tự nhiên,
hoạt động sử dụng đất, và mức nhập lượng dựa trên khoa học để khai thác các
tài nguyên. Tác dụng tương tác của các nguyên nhân và các yếu tố này kích
hoạt vài cơ chế và tiến trình dẫn tới sự suy giảm khả năng chống chịu và chất
lượng đất, chất lượng môi trường, và sức sản xuất của cơ sở tài nguyên {47}.

12
1.3. Những vấn đề về hiệu quả sử dụng đất và đánh giá hiệu quả sử dụng

đất nông nghiệp theo hƣớng phát triển bền vững
1.3.1. Khái quát về hiệu quả sử dụng đất
a. Một số vấn đề lý luận về hiệu quả và hiệu quả sử dụng đất:
Hiệu quả là một thuật ngữ mà con người thường dùng để chỉ mục tiêu
cho mọi hành động có chủ đích. Và sau này trong ngôn ngữ học phát triển,
cụm từ “hiệu quả” được hiểu như một phạm trù triết học. Quan niệm khá
“nguyên thuỷ” của một nhà kinh tế học người Mỹ, Piter F, Drucker, giáo sư
về quản lý tại New York University, cho rằng: Xét cho cùng mang lại hiệu
quả “effect” là cái mà mỗi người khi làm bổn phận của mình, dù trong môi
trường nào đều mong đợi công việc được hoàn tất đúng. Thật vậy trước kia
khi nhận thức còn hạn chế, người ta thường quan niệm kết quả và hiệu quả là
một. Về sau xã hội càng văn minh, nhận thức con người phát triển lên thì dần
đi đến sự phân biệt kết quả và hiệu quả. Có nhiều quan niệm khác nhau về
hiệu quả, được đề cập đến mọi đối tượng, dù là quản lý lao động chân tay hay
mọi lĩnh vực kinh tế xã hội.
Hiệu quả là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ
đợi và hướng tới, nó có nội dung khác nhau ở những lĩnh vực khác nhau. Trong
sản xuất, hiệu quả có nghĩa là hiệu suất, là năng suất. Trong kinh doanh hiệu
quả là lãi suất, lợi nhuận. Trong lao động nói chung, hiệu quả lao động là năng
suất lao động, được đánh giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra
một đơn vị sản phẩm, hoặc là bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một
đơn vị thời gian .
Từ những khái niệm chung về hiệu quả, ta xem xét trong lĩnh vực sử
dụng đất thì hiệu quả đất là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng đất
trong hoạt động kinh tế. Thể hiện qua lượng sản phẩm, lượng giá trị thu được
bằng tiền, đồng thời về mặt xã hội là thể hiện hiệu quả của lực lượng lao động

13
được sử dụng trong cả quá trình hoạt động kinh tế cũng như hàng năm để khai
thác đất. Riêng đối với ngành nông nghiệp, cùng với hiệu quả kinh tế về giá

trị và hiệu quả về mặt sử dụng lao động trong nhiều trường hợp phải coi trọng
hiệu quả về mặt hiện vật là sản lượng nông sản thu hoạch được, nhất là các
loại nông sản cơ bản có ý nghĩa chiến lược (lương thực, sản phẩm xuất
khẩu…) để đảm bảo sự ổn định về kinh tế - xã hội đất nước.
Hiện nay, khi nói đến hiệu quả sử dụng đất nói chung và sử dụng đất
nông nghiệp nói riêng, chúng ta thường đề cập đến 3 khía cạnh là kinh tế, xã
hội và môi trường. Sử dụng đất bền vững là đảm bảo được cả 3 yếu tố đó.
* Hiệu quả kinh tế:
Là hiệu quả do tổ chức bố trí sản xuất hợp lý để đạt được lợi nhuận cao
với chi phí thấp hơn. Như vậy hiệu quả kinh tế của một hiện tượng hay một
quá trình kinh tế là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ khai thác các yếu
tố đầu tư, các nguồn lực tự nhiên và phương thức quản lý. Nó biểu hiện bằng
hệ thống các chỉ tiêu nhằm phản ánh các mục tiêu cụ thể của các cơ sở sản
xuất phù hợp với yêu cầu của xã hội và được xác định bằng cách so sánh kết
quả thu được với chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu phản ánh trình độ
và chất lượng sử dụng các yếu tố của sản xuất kinh doanh nhằm đạt được kết
quả kinh tế tối đa với chi phí tối thiểu.
Hiệu quả kinh tế là tiêu chí được quan tâm hàng đầu, là khâu trung tâm
để đạt được các loại hiệu quả khác. Hiệu quả kinh tế có khả năng lượng hoá
bằng các chỉ tiêu kinh tế tài chính.
* Hiệu quả xã hội:
Là hiệu quả phản ánh mối quan hệ lợi ích giữa con người với con
người, có tác động tới mục tiêu kinh tế. Hiệu quả xã hội được thể hiện bằng
các chỉ tiêu định tính hoặc định lượng.

14
Theo Nguyễn Thị Vòng và các cộng sự (2001) thì hiệu quả xã hội là
mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã hội và tổng chi phí bỏ ra
Hiệu quả về mặt xã hội sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu bằng khả
năng tạo việc làm trên một diện tích đất nông nghiệp.

* Hiệu quả môi trường:
Hiệu quả môi trường là môi trường được sản sinh do tác động của hoá
học, sinh học, vật lý chịu ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố môi trường
của các loại vật chất trong môi trường. Hiệu quả môi trường phân theo
nguyên nhân gây nên gồm: Hiệu quả hoá học môi trường, hiệu quả vật lý môi
trường và hiệu quả sinh vật môi trường. Hiệu quả sinh vật môi trường là hiệu
quả khác nhau của hệ thống sinh thái do sự phát sinh biến hoá của các loại
yếu tố môi trường dẫn đến. Hiệu quả hoá học môi trường là hiệu quả môi
trường do các phản ứng hoá học giữa các vật chất chịu ảnh hưởng của điều
kiện môi trường dẫn đến. Hiệu quả vật lý môi trường là hiệu quả môi trường
do tác động vật lý dẫn đến.
Hiệu quả môi trường là hiệu quả đảm bảo tính bền vững cho môi
trường trong sản xuất và xã hội. Hiệu quả môi trường là vấn đề đang được
nhân loại quan tâm, được thể hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế và kỹ thuật.
b) Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Theo tác giả Vũ Thị Phương Thụy (2000) thì tiêu chuẩn cơ bản và
tổng quát khi đánh giá hiệu quả là mức độ đáp ứng nhu cầu xã hội và sự tiết
kiệm lớn nhất về chi phí các nguồn tài nguyên, sự ổn định lâu dài của hiệu
quả. Đối với đất nông nghiệp thì tiêu chuẩn để đánh giá là mức độ đạt được
các mục tiêu kinh tế xã hội môi trường do xã hội đặt ra và cụ thể là: Tăng
năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng chất lượng và tổng sản phẩm hướng tới
thoả mãn tốt nhu cầu nông sản cho thị trường trong nước và tăng xuất khẩu,
đồng thời đáp ứng yêu cầu bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp bền vững.

15
- Đối với nông nghiệp, tiêu chuẩn để đánh giá là mức đạt được các
mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường do xã hội đặt ra. Cụ thể là tăng năng
suất cây trồng, vật nuôi, tăng chất lượng và tổng sản phẩm hướng tới thoả
mãn tốt nhu cầu nông sản cho thị trường trong nước và tăng xuất khẩu, đồng
thời đáp ứng yêu cầu về bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp bền vững.

- Sử dụng đất phải đảm bảo cực tiểu hoá chi phí các yếu tố đầu vào và
theo nguyên tắc tiết kiệm khi cần sản xuất ra một lượng nông sản nhất định.
- Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất
ngành nông nghiệp, đến hệ thống môi trường sinh thái nông nghiệp, đến
những người sống bằng nông nghiệp. Vì vậy đánh giá hiệu quả sử dụng đất
phải tuân theo quan điểm sử dụng đất bền vững.
1.3.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
- Nguyên tắc khi lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp:
Hệ thống chỉ tiêu phải có tính thống nhất, tính toàn diện và tính hệ
thống. Các chỉ tiêu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, đảm bảo tính so sánh có
thang bậc.
Để đánh giá chính xác, toàn diện cần phải xác định chỉ tiêu chính, chỉ
tiêu cơ bản, biểu hiện mặt cốt yếu của hiệu quả theo quan điểm và tiêu chuẩn
đã chọn, các chỉ tiêu bổ sung để hiệu chỉnh chỉ tiêu chính, làm cho nội dung
kinh tế biểu hiện đầy đủ hơn, cụ thể hơn.
Các chỉ tiêu phải phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển nông
nghiệp ở nước ta, đồng thời có khả năng so sánh quốc tế trong quan hệ đối
ngoại, nhất là những sản phẩm có khả năng hướng tới xuất khẩu.
Hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo tính thực tiễn và tính khoa học, phải có
tác dụng kích thích sản xuất phát triển.
- Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp

16
Xuất phát từ bản chất của hiệu quả là nói lên mối quan hệ giữa kết quả
và chi phí, mối quan hệ này có thể là quan hệ hiệu số hoặc quan hệ thương số
nên dạng tổng quát của hệ thống chỉ tiêu hiệu quả là:
H = K - C H = K/C
H= (K - C)/C H= (K
1

- K
0
)/(C
1
- C
0
)
Trong đó: H: Hiệu quả
K: Kết quả
C: Chi phí
0 và 1 là chỉ số về thời gian
Tuỳ vào các hệ thống tính toán khác nhau mà các chỉ tiêu kết quả và
hiệu quả sẽ khác nhau. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế đất nông
nghiệp có những sự khác nhau tuỳ vào từng hệ thống kinh tế.
- Lựa chọn hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp:
* Hiệu quả kinh tế
+ Giá trị sản xuất GO (Gross Output): Là toàn bộ giá trị sản phẩm được
tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm)
Công thức tính: GO=


n
i 1
P
i
Q
i

Trong đó: P
i

là giá trị sản phẩm thứ i
Q
i
là sản phẩm thứ i
+ Chi phí trung gian IC (Intermediate Cost): Đó là toàn bộ chi phí vật
chất trực tiếp cho sản xuất như: giống, phân bón, bảo vệ thực vật, thuỷ lợi phí,
thuê máy móc, chi phí công lao động…
Công thức: IC =


n
i
Ci
1

Trong đó: Ci: Là khoản chi phí thứ i
+ Giá trị gia tăng VA (Value Added): Là giá trị tăng thêm hay giá trị

17
sản phẩm mới tạo ra trong quá trình sản xuất VA=GO - IC
+ Thu nhập hỗn hợp NVA (Net Value Added): Là phần trả cho người
lao động (cả lao động chân tay và lao động quản lý) cùng tiền lãi thu được
trên từng loại hình sử dụng đất. Đây chính là phần thu nhập đảm bảo đời sống
người lao động và tích luỹ cho tái sản xuất mở rộng.
Ta có: NVA = VA - Dp - T (Dp là khấu hao tài sản cố định, T là thuế
sử dụng đất).
+ Giá trị ngày công lao động(Hlđ):
Hlđ=VA/số công lao động/ha/năm
+ Hiệu quả đồng vốn (hiệu quả trên một đơn vị chi phí) = NVA/IC
* Hiệu quả xã hội:

+ Nâng cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết xã hội, khoa học, kỹ
thuật: Kết quả của quá trình sử dụng đất phải đưa lại những lợi ích như nâng
cao trình độ dân trí và những hiểu biết xã hội. Kiến thức, kinh nghiệm của
người nông dân có thể được trau dồi thông qua các hoạt động như đưa các tiến
bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất hay sự nhạy bén đối với thị trường khi
sản xuất hàng hoá phát triển Ngoài ra, khi đạt được hiệu quả kinh tế, người
dân có điều kiện học tập hay đầu tư kiến thức cho bản thân hay con em mình.
+ Đảm bảo an toàn lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân: Sử
dụng đất đạt hiệu quả trước hết phải đảm bảo được những yêu cầu về lương
thực, thực phẩm cho người dân. Đối với sản xuất nông nghiệp ở các nước
đang phát triển, đảm bảo lương thực được đặt lên hàng đầu. Điều này có ý
nghĩa quan trọng cả về mặt thoả mãn các nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống
cho sự tồn tại và cả về mặt ổn định chính trị, xã hội.
+ Đáp ứng được mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của vùng: Mỗi
vùng có những điều kiện tự nhiên, xã hội khác nhau, có vai trò khác nhau
trong sự nghiệp phát triển chung. Nền kinh tế muốn phát triển thì các ngành,

18
các vùng cần có những bước đi đúng đắn và phù hợp. Sử dụng đất nói chung
và đất nông nghiệp nói riêng nên tuân thủ theo những định hướng mang tính
chiến lược.
+ Thu hút được nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho nông
dân: Hệ thống nông nghiệp thu hút nhiều lao động, mang lại lợi ích cho người
lao động sẽ giải quyết được vấn đề việc làm, giảm nạn thất nghiệp, giảm các
tiêu cực trong xã hội góp phần ổn định và phát triển đất nước.
+ Góp phần định canh, định cư: Thực tế cho thấy, hình thức du canh, du
cư không những làm cho cuộc sống thiếu ổn định mà còn gây nên tình trạng
suy thoái môi trường đất, nước Sử dụng đất có hiệu quả là phải góp phần
giúp người dân định canh, định cư, yên tâm đầu tư sản xuất.
* Hiệu quả môi trường:

Trong sử dụng đất luôn có sự mâu thuẫn giữa những lợi ích vật chất, cá
nhân trước mắt với những lợi ích xã hội, lâu dài. Việc người dân khai thác từ
đất nhiều hơn, trong khi cung cấp cho đất lượng phân hữu cơ ít và tăng các
dạng phân hoá học, thuốc bảo vệ thực vật đều là những nguyên nhân làm
tổn hại môi trường. Sử dụng đất thực sự đạt hiệu quả khi nó không có mâu
thuẫn trên. Vì vậy, một số tiêu chí đưa ra khi đánh giá đến hiệu quả môi
trường trong sử dụng đất là:
+ Tăng độ che phủ rừng, giảm thiểu thiên tai.
+ Độ phì nhiêu của đất.
+ Chế độ tưới tiêu.
+ Chế độ bón phân và sử dụng thuốc trừ sâu.
+ Hạn hán và úng ngập.
+ Bảo vệ nguồn nước cho cây trồng va nước sinh hoạt của con người.
+ Ý thức của con người trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
+ Cải tạo, bảo tồn thiên nhiên.

19
+ Sự thích hợp môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất.
1.3.3. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng đất nông nghiệp
- Tạo điều kiện sử dụng đất đai ngày càng tốt hơn, lâu dài hơn, phục vụ
cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
- Nâng cao thu nhập, tạo nhiều lợi ích cho người sử dụng đất.
- Bảo đảm nguồn lực và động lực cho đầu tư bảo vệ, bồi dưỡng và cải tạo đất.
- Thực hiện phân bổ sử dụng đất hợp lý cho các mục tiêu phát triển kinh
tế- xã hội của đất nước.
1.4. Những xu hướng sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới và  Việ t Nam
1.4.1. Những xu hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới
Theo Đường Hồng Dật (1994) trong quá trình phát triển nông nghiệp, mỗi
nước đều chịu những ảnh hưởng khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
của mỗi vùng nhưng đều có điểm chung là cùng giải quyết các vấn đề sau:

- Nâng cao năng suất, chất lượng nông sản phẩm và tăng hiệu quả đầu
tư trong nông nghiệp.
- Chiều hướng chung là đầu tư nhiều lao động trí óc, đưa tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào trong sản xuất, giảm lao động chân tay, tăng cường hiệu quả
của lao động quản lý và tổ chức.
Từ những mục đích trên tuỳ thuộc vào sự đầu tư và chiến lược phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia nên sự phát triển của nông nghiệp của mỗi nước
có sự phát triển nhưng nhìn chung là theo hai hướng chính sau:
- Nông nghiệp công nghiệp hoá
- Nông nghiệp sinh thái
Từ những bài học của lịch sử phát triển nông nghiệp, những thành tựu đạt
được của khoa học công nghệ, ở giai đoạn hiện nay muốn đưa nông nghiệp đi
lên phải xây dựng và thực hiện một nền nông nghiệp trí tuệ bởi vì tính phong
phú đa dạng và đầy biến động của nông nghiệp đòi hỏi những hiểu biết và những
xử lý đầy trí tuệ và rất biện chứng. Nông nghiệp trí tuệ thể hiện ở việc phát hiện,

20
nắm bắt và vận dụng các quy luật tự nhiên và xã hội biểu hiện trong mọi hoạt
động của hệ thống nông nghiệp phong phú, biểu hiện ở việc áp dụng các giải
pháp phù hợp, hợp lý. Nông nghiệp trí tuệ là bước phát triển mới ở mức cao, là
sử dụng đất kết hợp ở đỉnh cao của các thành tựu sinh học, công nghiệp, kinh tế,
quản lý được vận dụng phù hợp và hợp lý vào điều kiện cụ thể của mỗi nước,
mỗi vùng. Đó là nền nông nghiệp phát triển toàn diện và bền vững.
1.4.2. Xu hướng phát triển nông nghiệp ở Việt Nam
Theo văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006), định hướng phát
triển ngành nông lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 sẽ là:
- Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn theo
hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá phù hợp với nhu cầu thị trường
và điều kiện sinh thái của từng vùng. Đưa nhanh tiến bộ khoa học và công
nghệ vào sản xuất nông nghiệp, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng

và sức cạnh tranh của sản phẩm. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong
và ngoài nước. Quy hoạch hợp lý và nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ đất,
nguồn nước, vốn rừng gắn với bảo vệ môi trường.
- Điều chỉnh quy hoạch sản xuất lương thực phù hợp với nhu cầu và khả
năng tiêu thụ, tăng năng suất đi đôi với nâng cao chất lượng. Đảm bảo an ninh
lương thực trong mọi tình huống. Xây dựng các vùng sản xuất tập trung, có
chính sách bảo đảm đảm lợi ích của người sản xuất lương thực.
- Bảo vệ và phát triển rừng, nâng cao độ che phủ của rừng lên 43%.
Hoàn thành việc giao đất, giao rừng ổn định và lâu dài theo hướng xã hội
hoá lâm nghiệp, có chính sách bảo đảm cho người làm lâm nghiệp sống được
bằng nghề rừng. Kết hợp nông nghiệp với lâm nghiệp, đẩy nhanh trồng rừng
kinh tế, tạo nguồn gỗ và làm hàng mỹ nghệ xuất khẩu, nâng cao giá trị sản
phẩm rừng.
- Chú trọng tạo và sử dụng giống cây có năng suất, chất lượng và giá trị cao.
Đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất xây dựng một số khu công nghệ cao.

21
- Trên cơ sở chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang các
ngành nghề khác, từng bước tăng quỹ đất canh tác cho mỗi lao động nông
nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất, tăng việc làm và thu nhập cho dân cư
nông thôn.
- Giá trị gia tăng nông nghiệp (kể cả thuỷ sản, lâm nghiệp) tăng bình
quân hàng năm 4,0 - 5,0%. Đến năm 2010 tổng sản lượng lương thực có hạt
đạt khoảng 40 triệu tấn. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng 16 - 17%.
Bảo vệ 10 triệu ha rừng tự nhiên, hoàn thành chương trình trồng mới 5 triệu
ha rừng.
1.4.3. Sự cần thiết phải sử dụng đất nông nghiệp theo hướ ng phá t triể n
bề n vữ ng
Ngày nay, sử dụng đất bền vững, tiết kiệm và có hiệu quả đã trở thành
chiến lược quan trọng có tính toàn cầu. Nó đặc biệt quan trọng đối với sự tồn

tại và phát triển của nhân loại.
1.5. Những nghiên cứu liên quan đến nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp
1.5.1. Một số nghiên cứu trên thế giới
Nhiều chương trình và dự án khai thác sử dụng đất đã được triển khai
thực hiện ở nhiều nước trên thế giới như: Chương trình khai thác và sử dụng
đất, chương trình giải quyết sức kéo nông nghiệp và thức ăn gia súc, chương
trình phát triển thuỷ lợi, sản xuất hàng hoá đặc sản xuất khẩu, chương trình
bảo vệ đất ở những nơi có hệ sinh thái bị phá vỡ và chương trình việc làm, sử
dụng lao động nông thôn. Mỗi chương trình có mục tiêu chủ yếu khác nhau,
nhưng tựu chung lại các chương trình đều nhằm mục đích khai thác sử dụng
đất đai ngày càng có hiệu quả hơn.
Ở Inđônêxia, Luật đất đai ghi rõ người dân có quyền sử dụng trong 10
năm, quyền sở hữu không được vĩnh viễn khi Nhà nước có nhu cầu xây dựng
công trình công cộng. Các chương trình bảo vệ đất cũng đã được thực hiện

22
nhằm bảo vệ các vùng đất bậc thang và trồng cây theo đường đồng mức.
Ngoài ra, Chính phủ ưu tiên hàng đầu cho chương trình phát triển lương thực
nhằm tìm ra các giống cây trồng lương thực, cây đậu đỗ phù hợp với đặc điểm
điều kiện tự nhiên của từng vùng sinh thái. Kết quả là đã tạo được một số
giống ngô có năng suất cao chất lượng tốt, ví dụ: Giống ngô trắng Bague có
thời gian sinh trưởng 90 ngày, năng suất đạt 4 - 5 tấn/ha so với giống ngô cũ
chỉ đạt 1 - 2 tấn/ha; hoặc cây lúa Miến là loại cây có giá trị dinh dưỡng cao,
làm thức ăn cho người và gia súc có năng suất đạt 3,50 tấn/ha có thể trồng tái
giá, sức chống chịu sâu bệnh tốt với đầu tư chi phí thấp.
1.5.2. Một số nghiên cứu tại Việt Nam
1.5.2.1. Hoàn thiện chính sách đất nông nghiệp
Tại Việt Nam, đất đai càng có vai trò quan trọng do bình quân đất nói
chung, đất nông nghiệp nói riêng trên đầu người thấp. Chính vì thế, từ khi

giành được độc lập được đến nay, chính sách đất nông nghiệp và nông dân
luôn giữ vị trí quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta. Hơn nữa, trong một nước còn hơn 70% dân cư sống ở nông thôn thì chính
sách đất nông nghiệp còn có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc.
Tuy được coi trọng và thực tế chính sách đất nông nghiệp đã được triển
khai trong nhiều năm, nhưng việc hoạch định và thực thi chính sách đất nông
nghiệp ở nước ta vẫn còn nhiều vấn đề cần phải xem xét thấu đáo hơn. Nhất là
từ khi đổi mới quản lý kinh tế đến nay, việc nhà nước can thiệp như thế vào
phân bổ và sử dụng đất nông nghiệp cho phù hợp với kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa còn đang gặp nhiều lúng túng. Trên thực tế đã nảy
sinh không ít hiện tượng phức tạp, bức xúc như nông dân mất đất dẫn đến đói
nghèo hơn, nông dân trì hoãn, thậm chí phản đối chính sách giải phóng mặt
bằng của nhà nước, thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp hoạt động
không hiệu quả với các vụ đầu cơ gây sốt đất, quản lý nhà nước về đất đai còn
lỏng lẻo, tranh chấp, khiếu kiện đất đai không giảm, Chính vì thế, Đảng và

23
Nhà nước ta đã nỗ lực đổi mới chính sách đất nông nghiệp theo hướng coi hộ
nông dân là đơn vị tự chủ, nông dân được quyền sử dụng và quản lý ruộng đất
được nhà nước giao. Ngày 08/01/1988, Quốc hội thông qua Luật đất đai với
nội dung cơ bản khẳng định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
thống nhất quản lý.
1.5.2.2. Tác động kỹ thuật nhằm tăng năng suất cây trồng
Ngay từ năm 1960, các nhà khoa học đã nghiên cứu đưa ra giống lúa
xuân ngắn ngày và tập đoàn cây vụ đông vào sản xuất, tạo ra sự kiện chuyển
biến rõ nét trong sản xuất ở đồng bằng sông Hồng. Sau đó, trong vài thập kỷ
trở lại đây, hàng năm ở nước ta đã đưa ra một số giống cây trồng mới có
năng suất cao vào sản xuất: Giống lúa xuân số 5, số 6 cho năng suất đạt tới
65 - 70 tạ/ha. Giống ngô Bioseed; giống LVN10; LVN11 đạt năng suất trung
bình 55 - 65 tạ/ha, nếu thâm canh tốt năng suất có thể đạt 80 - 90 tạ/ha. Các

giống cây thực phẩm như đỗ, đậu tương, lạc, cũng được chú trọng nghiên
cứu để luân canh với ngô, lúa.
1.5.2.3. Xây dựng hệ thống canh tác và mô hình sử dụng đất phù hợp với các vùng
Vấn đề luân canh, tăng vụ, chuyển vụ để sử dụng tốt hơn các điều kiện
về đất đai, khí hậu, thời tiết và nguồn lao động trong nông thôn. Cũng được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Đối với đất trồng lúa vùng Đồng bằng sông
Hồng, dựa trên đánh giá hiện trạng và khả năng hiệu quả chuyển đổi theo tác
giả Bùi Thị Ngọc Dung sẽ chuyển từ 1 vụ lúa hoặc 2 vụ lúa bấp bênh sang lúa
+ cá kết hợp với trồng cây ăn quả và chăn nuôi gia cầm. Với loại hình sử dụng
đất lúa hai vụ (vùng ven biển thuộc tỉnh Ninh Bình và Thái Bình) chuyển sang
trồng cói. Đất lúa hai vụ ở các xã ven các đô thị lớn chuyển sang trồng rau
sạch, hoa và cây cảnh. Các huyện ven biển sẽ tăng diện tích nuôi trồng thuỷ
sản do chuyển từ đất lúa một vụ.



24
Chƣơng 2
NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Đất sản xuất nông nghiệp và vấn đề liên quan đến sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp.
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu về hiệu quả các loại hình sử dụng sử dụng đất sản
xuất nông nghiệp tại địa bàn huyện Phú Lương - Thái Nguyên.
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có liên quan đến sử dụng
đất nông nghiệp trên địa bàn huyện

- Đánh giá điều kiện tự nhiên về: Vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, địa hình,
thuỷ văn, thực vật.
- Đánh giá điều kiện kinh tế xã hội: Cơ cấu kinh tế, tình hình dân số, lao
động, trình độ dân trí, thị trường tiêu thụ nông sản phẩm, dịch vụ, và cơ sở hạ
tầng (giao thông, thuỷ lợi, công trình phúc lợi )
Từ đó rút ra những thuận lợi và hạn chế trong sản xuất nói chung và
trong sả n xuấ t nông nghiệ p nó i riêng.
2.2.2. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của huyện Phú Lương
2.2.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp
* Đánh giá hiệu quả kinh tế các loại hình sử dụng đất theo các chỉ tiêu:
+ Giá trị sản xuất
+ Chi phí trung gian
+ Lợi nhuận
+ Tỷ suất lợi nhuận.

25
* Đánh giá hiệu quả về mặt xã hội là một chỉ tiêu khó định lượng, trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài, do thời gian có hạn nên chúng tôi chỉ đề cập
đến các chỉ tiêu sau:
+ Mức độ thu hút lao động, khả năng giải quyết công ăn việc làm.
+ Thu nhập của các nông hộ.
+ Giá trị sản xuất trên công lao động.
+ Đảm bảo an ninh lương thực.
* Đánh giá hiệu quả về mặt môi trường của các loại hình sử dụng đất
thông qua sự ảnh hưởng của các loại hình sử dụng đất đến một số tính chất lý
hoá học của đất.
2.2.4. Quan điểm sử dụng bền vững đất nông nghiệp trên địa bàn
huyện
+ Quan điểm xây dựng định hướng.
+ Căn cứ đề xuất hướng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp theo hướng

phát triển bền vững.
+ Đề xuất hướng sử dụng đất nông nghiệp huyện Phú Lương.
+ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất và đảm bảo tính bền vững
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
+ Chọn xã điều tra: Chọn 3 xã với tiêu chí mỗi xã có diện tích trồng các
loại cây trồng phổ biến của địa bàn lớn.
+ Chọn hộ điều tra: Chọn ngẫu nhiên 100 hộ/ xã với tiêu chí các nông hộ
có trồng với diện tích khá lớn một trong các loại cây trồng phổ biến của huyện.
2.3.2. Phương pháp thu thập tài liệu, số liệu
- Thu thập các số liệu và thông tin sơ cấp cấp về điều kiện tự nhiên,
kinh tế xã hội từ các cơ quan nhà nước, phòng Tài nguyên và Môi trường,
phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, phòng thống kê, phòng Kế hoạch
- tài chính, trung tâm khai thác công trình thuỷ lợi huyện.

×