Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Nghiên cứu, tuyển chọn cây đầu dòng và biện pháp nhân giống chè trung du tại xã tân cương – TP thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 72 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây chè (Camellia sinensis (L) O kuntze) là cây công nghiệp dài ngày có
nguồn gốc nhiệt đới và á nhiệt đới, sinh trưởng và phát triển tốt trong điều kiện khí
hậu nóng ẩm, tập trung chủ yếu ở các nước châu Á, châu Phi. Ngày nay, khi khoa
học kĩ thuật phát triển thì cây chè được trồng ở hơn 60 nước trên Thế Giới, trong
đó có Việt Nam [10].
Chè có giá trị về kinh tế, văn hóa và dinh dưỡng. Hầu hết các bộ phận của
cây chè như búp, lá, nụ hoa, không những là nguyên liệu chính dùng để chế biến
các loại sản phẩm trà uống giải khát, thanh nhiệt mà còn có nhiều tác dụng như là
một vị thuốc trong y học. Nước chè có tác dụng bổ dưỡng, chống được lạnh, làm
giảm sự mệt mỏi của cơ bắp và hệ thần kinh trung ương, kích thích vỏ đại não,
làm cho tinh thần minh mẫn. Sở thích thưởng trà từ lâu đã trở thành thú vui thanh
tao, quý phái và là nét đẹp văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc trên Thế Giới.
Thói quen uống trà ngày càng phổ biến ở nhiều lứa tuổi và nhiều quốc gia trên thế
giới [5].
Ngoài vai trò là thức uống có giá trị dinh dưỡng và dược liệu, việc trồng
chè còn có khả năng khai thác tốt tiềm năng đất đai, bảo vệ môi trường sinh thái,
giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động, thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là nông nghiệp nông thôn miền
núi [2].
Việt Nam được xem là một trong những quê hương của cây chè và sản
phẩm chè từ lâu đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng của nền nông nghiệp
và công nghiệp chế biến thực phẩm của nước ta. Chè Việt Nam đứng thứ 5 trên
Thế Giới về diện tích và sản lượng xuất khẩu. Nước ta là một trong những nước có
nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất chè, nhất là ở địa bàn
miền núi và trung du. Cây chè được trồng ở Việt Nam từ lâu đời (4000 năm), hiện
nay đã được phát triển ở 34 tỉnh, thành phố trong cả nước. Cây chè ở Việt Nam
cho năng suất, sản lượng tương đối ổn định và có giá trị kinh tế. Với ưu thế là một
1


cây công nghiệp dễ khai thác, nguồn sản phẩm đang có nhu cầu lớn về xuất khẩu
cũng như tiêu dùng trong nước. Cây chè được coi là cây mũi nhọn, một thế mạnh
của khu vực trung du và miền núi [2].
Thái Nguyên là một tỉnh trung du, miền núi Bắc Bộ,được thiên nhiên ưu đãi
một hệ thống đất đai và điều kiện khí hậu thời tiết khá thích hợp cho phát triển cây
chè. So với các huyện trong tỉnh, thành phố Thái Nguyên có diện tích chè khá lớn
được phân bố chủ yếu ở các xã phía Tây, với các vùng trọng điểm là các xã: Tân
Cương, Phúc Trìu, Phúc Xuân, Thịnh Đức. Hiện nay, cây chè Thái Nguyên trở thành
một trong những cây trồng mũi nhọn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cải thiện
đời sống nhân dân trong Tỉnh.
Thực tế trong sản xuất người dân đang dần bỏ các giống chè Trung Duthay
thế bằng các giống chè lai hay loại cây trồng khác. Để phục tráng lại giống chè
Trung Du cần thực hiện chọn lọc cây đầu dòng để duy trì nguồn gen quý, lựa chọn
cây ưu tú phục vụ cho nhân giống chè Trung Du bằng cành chất lượng tốt đảm bảo
đồng đều cho quần thể chè. Đây là lợi thế để nghiên cứu giống chè Trung du phát
triển trong sản xuất. Trên cơ sở đó tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu, tuyển chọn
cây đầu dòng và biện pháp nhân giống chè Trung Du tại xã Tân Cương – TP
Thái Nguyên”.
2.Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Điều tra, tuyển chọn được những cây chè Trung Du ưu tú cho năng suất
cao, chất lượng tốt, phù hợp điều kiện ngoại cảnh tại xã Tân Cương -Thái Nguyên.
- Đánh giá được khả năng sinh trưởng, phát triển và đặc điểm hình thái của cây
chè trung du ưu tú.
- Đánh giá được khả năng nhân giống của cây chè trung du ưu tú.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Chọn được các cây chè Trung du đầu dòng làm vườn ươm cây giống gốc có năng
suất cao, chất lượng tốt, cung cấp hom chè giống để phát triển vùng chè.
- Góp phần bảo tồn giống chè Trung du mang nhiều đặc tính quý.
2
- Kết quả của đề tài là tài liệu tham khao có giá trị cho cán bộ khoa học kỹ thuật,

cho người sản xuất kinh doanh chè, cho giáo viên, sinh viên, học viên học tập,
nghiên cứu về cây chè.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Điều tra đánh giá về năng suất, chất lượng, khả năng sinh trưởng, tuyển chọn
cây chè Trung du đầu dòng.
- Đề tài nghiên cứu được giới hạn trong xã Tân Cương- tỉnh Thái Nguyên.
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Chè là cây lâu năm, nở hoa hàng năm. Cây chè sau trồng 2 – 3 năm đã có
khả năng ra hoa. Cây chè có từ 2000 – 4000 nụ hoa/năm, nhưng tỷ lệ đậu quả rất
thấp, thường chỉ đạt từ 2 – 4 %. Hoa chè là hoa lưỡng tính nhưng khả năng tự thụ
của hoa chè rất thấp, hầu hết các quả chè là kết quả của sự thụ phấn khác hoa, đây
là nguyên nhân quan trọng làm cho cây chè mọc từ hạt có sự phân ly lớn về hình
thái, về khả năng cho năng suất, chất lượng. Nói chung những cây chè con mọc từ
hạt có sự phân ly lớn so với cây mẹ.
Mặt khác chè là cây thân gỗ, ngoài khả năng nhân giống bằng hạt thì người ta
có thể nhân giống chè bằng phương pháp nhân giống vô tính như phương pháp
nuôi cấy mô tế bào, ghép cành, giâm cành… Ưu điểm của phương pháp nhân
giống vô tính là hệ số nhân giống cao, cây con giữ được những đặc tính tốt của
cây mẹ, vườn chè có độ đồng đều cao, có khả năng cho năng suất cao hơn so với
trồng hạt,nguyên liệu có độ đồng đều cao, dễ canh tác, thu hái và chế biến. Dựa
trên cơ sở khoa học này, ngày nay ở hầu hết các cơ sở sản xuất chè trên thế giới
cũng như Việt Nam, các giống chè thường được nhân giống bằng phương pháp
giâm cành.
3
Khả năng giâm cành của chè phu thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trong đó có
3 yếu tố quan trọng đó là yếu tố hom giống. Thời vụ giâm cành (điều kiện môi
trường ngoại cảnh) và các biện pháp kỹ thuật chăm sóc trong vườn ươm.
Giống chè Trung Du của tỉnh Thái Nguyên, hầu hết được mọc từ hạt do vậy

phân ly rất lớn về sinh trưởng, phát triển và các đặc điểm hình thái.
Những vấn đề trên là cơ sở thực tiễn quan trọng của đề tài. Nghiên cứu chọn
lọc cây đầu dòng phục vụ công tác nhân giống cho vùng.
2.2. Nguồn gốc, phân loại và sự phân bố cây chè
2.2.1. Nguồn gốc cây chè
Nguồn gốc của cây chè là vấn đề phức tạp, cho đến nay có nhiều quan điểm
khác nhau về nguồn gốc cây chè, dựa trên những cơ sở về lịch sử, khảo cổ học và
thực vật học. Một số quan điểm được nhiều người công nhận nhất là:
Cây chè có nguồn gốc ở Vân Nam - Trung Quốc:
Theo Daraselia, Gruzia (1989) thì các nhà khoa học Trung Quốc như
Schenpen, Jaiding … đã giải thích sự phân bố của cây chè mẹ ở Trung Quốc như sau:
Tỉnh Vân Nam là nơi bắt đầu của hàng loạt con sông lớn đổ về các con sông ở Việt
Nam, Lào, Campuchia, Mianma. Đầu tiên, cây chè mọc ở Vân Nam, sau đó hạt chè di
chuyển trôi theo dòng nước đến các vùng nói trên và lan sang các vùng khác. Cũng
theo Daraselia, dựa trên cơ sở học thuyết “Trung tâm khởi nguyên cây trồng” của
Vavilop thì cây chè có nguồn gốc ở Trung Quốc, phân bố ở khu vực Đông nam, men
theo cao nguyên Tây Tạng [5].
Cây chè có nguồn gốc ở vùng Atxam (Ấn Độ):
Năm 1823, R.Bruce đã phát hiện được những cây chè dại lá to ở vùng
Atxam (Ấn Độ ), từ đó các học giả người Anh cho rằng: Nguyên sản của cây chè là
ở vùng Atxam chứ không phải ở Vân Nam - Trung Quốc [5].
Cây chè có nguồn gốc ở Việt Nam:
Những công trình nghiên cứu của Djemukhatze (1961 - 1976) về phức
catechin của lá chè có nguồn gốc khác nhau, so sánh về thành phần các chất catechin
4
của lá chè được trồng trọt và mọc hoang dại đã nêu lên luận điểm về sự tiến hoá sinh
hoá của cây chè và trên cơ sở đó xác minh “Nguồn gốc cây chè chính là ở Việt
Nam”[5].
Các quan điểm nêu trên tuy có khác nhau về địa điểm nhưng đều có điểm
chung thống nhất là: Nguyên sản của cây chè là ở châu Á, nơi có điều kiện khí hậu

nóng ẩm [5].
2.2.2. Phân loại cây chè
Khi nghiên cứu về cây chè, năm 1753 nhà thực vật học nổi tiếng Line đã đặt
tên cho cây chè là: Thea sinensis, sau lại đặt là Camellia Sinensis. Vấn đề này cũng
được nhiều nhà nghiên cứu tranh luận và cũng có rất nhiều cách đặt tên. Theo
Nguyễn Ngọc Kính thì cách phân loại của Cohen Stuart (1919) được các nhà thực
vật học thống nhất đến nay:
Cây chè thuộc:
- Ngành Hạt kín Angiospermae
- Lớp Song tử diệp Dicotyledonae
- Bộ Chè Theales
- Họ Chè Theaceae
- Chi Chè Camellia (Thea)
- Loài Camellia Sinensis
Dựa vào các đặc điểm thực vật học, đặc điểm sinh hóa, nguồn gốc phát sinh
cây chè Cohen Stuart chia Camellia Sinensis ra làm bốn thứ:
a) Chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis var. Bohea)
Đặc điểm:
- Cây bụi thấp phân cành nhiều.
- Lá nhỏ, dày nhiều gợn sóng, màu xanh đậm, lá dài 3,5 - 6,5 cm.
- Có 6 - 7 đôi gân lá không rõ, răng cưa nhỏ, không đều.
- Búp nhỏ, hoa nhiều, năng suất thấp, phẩm chất bình thường.
5
- Khả năng chịu rét ở độ nhiệt -12
0
C đến -15
0
C.
Phân bố chủ yếu ở miền đông, đông nam Trung Quốc, Nhật Bản và một số
vùng khác.

b) Chè Trung Quốc lá to (Camellia sinensis var. macrophylla)
Đặc điểm:
- Thân gỗ nhỡ cao tới 5m trong điều kiện sinh trưởng tự nhiên.
- Lá to trung bình chiều dài 12 - 15 cm, chiều rộng 5 - 7 cm, màu xanh nhạt,
bóng, răng cưa sâu không đều, đầu lá nhọn.
- Có trung bình 8 - 9 đôi, gân lá rõ.
- Năng suất cao, phẩm chất tốt.
Nguyên sản ở Vân Nam, Tứ Xuyên (Trung Quốc).
c) Chè Shan (Camellia sinensis var. Shan)
Đặc điểm:
- Thân gỗ, cao từ 6 đến 10 m.
- Lá to và dài 15 - 18 cm màu xanh nhạt, đầu lá dài, răng cưa nhỏ và dày.
- Tôm chè có nhiều lông tơ, trắng và mịn trông như tuyết, nên còn gọi là chè
tuyết.
- Có khoảng 10 đôi gân lá.
- Có khả năng thích ứng trong điều kiện ấm ẩm, ở địa hình cao, năng suất
cao, phẩm chất thuộc loại tốt nhất.
Nguyên sản ở Vân Nam - Trung Quốc, miền Bắc của Miến Điện và Việt
Nam.
d) Chè Ấn Độ (Camellia sinensis var. assamica)
Đặc điểm:
- Thân gỗ cao tới 17 m phân cành thưa.
6
- Lá dài tới 20 - 30 cm, mỏng, mềm, thường có màu xanh đậm, dạng lá hình
bầu dục, phiến lá gợn sóng, đầu lá dài.
- Có trung bình 12 - 15 đôi gân lá.
- Rất ít hoa quả.
- Không chịu được rét hạn.
- Năng suất, phẩm chất tốt.
Trồng nhiều ở Ấn Độ, Miến Điện, Vân Nam (Trung Quốc) và một số vùng

khác.
2.2.3. Sự phân bố của cây chè
Sự phân bố của cây chè phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu. Các kết quả
nghiên cứu đều đưa đến một kết luận chung là: Vùng khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới
thích hợp cho cây chè. Ngày nay, do trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát
triển đã lai tạo, chọn lọc ra nhiều giống chè khác nhau và được trồng rộng rãi ở
nhiều nước khác nhau trên thế giới. Theo Đỗ Ngọc Quỹ[10], thì hiện nay chè được
phân bố khá rộng từ 42º vĩ Bắc Pochi (Liên Xô cũ) đến 27º Nam Coriente
(Achentina).
Sự phân bố của cây chè theo điều kiện khí hậu đất đai và địa hình cũng có sự
khác nhau. Đất trồng chè tốt phải nhiều mùn, thoát nước tốt và có độ dốc thoải.
Ảnh hưởng của độ cao đã hình thành nên các vùng chè với nhiều giống chè, chất
lượng khác nhau. Các nhà khoa học cho rằng: Chè trồng ở những vùng có độ cao
lớn hơn so với mặt nước biển thường có chất lượng tốt hơn so với chè trồng ở vùng
thấp.
Về điều kiện khí hậu, chè sinh trưởng tốt ở điều kiện nhiệt độ từ 15ºC đến
20ºC, tổng nhiệt độ hàng năm vào khoảng 8.000ºC; lượng mưa trung bình hàng
năm 1500 – 2000 mm; độ ẩm đất 70 - 80%. Tuy nhiên với khả năng thích nghi
rộng cùng với sự tiến bộ của khoa học hiện nay chè được trồng ở những vùng khắc
nghiệt hơn [5].
2.2.4. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển của cây chè
7
Chè là cây công nghiệp lâu năm có chu kì kinh tế dài, sản phẩm cho thu
hoạch chính là lá và búp non. Trong thời gian sống cây chè trải qua 2 chu kì phát
triển lớn và chu kì phát triển nhỏ.
- Chu kỳ phát triển lớn bao gồm suốt cả đời sống của cây chè được chia làm
5 giai đoạn: Giai đoạn phôi thai, đây là giai đoạn đầu tiên của cây chè chủ yếu nằm
ở vườn chè giống lấy hạt hoặc lấy cành -> giai đoạn cây con trong vườn ươm ->
giai đoạn cây con -> giai đoạn cây chè trưởng thành -> giai đoạn chè già cỗi.
- Chu kỳ phát triển nhỏ (chu kỳ phát triển hàng năm) bao gồm giai đoạn sinh

trưởng và giai đoạn tạm ngừng sinh trưởng. Giai đoạn sinh trưởng của cây chè gồm 2
quá trình hoạt động song song: Sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực. Tùy
điều kiện ngoại cảnh và sinh trưởng của giống mà cây chè có những ưu thế sinh
trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực khác nhau.
Những đặc điểm sinh trưởng phát triển của cây chè là kết quả phản ánh tổng
hợp giữa các đặc điểm của giống (tính di truyền) với các điều kiện ngoại cảnh.
Như vậy nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển của giống trong các vùng sinh
thái khác nhau chúng ta sẽ đánh giá được khả năng thích ứng của giống trong từng
vùng sinh thái, từ đó đề ra các biện pháp kỹ thuật canh tác thích hợp tạo điều kiện
cho cây chè sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất búp cao, phẩm chất tốt.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa giống chè và môi trường sống, tác giả Carr.
(1972), Wickramaratne (1981) cho thấy, sự thay đổi môi trường nếu không được xem
xét kỹ khi lựa chọn giống chè sẽ không phát huy được bản chất tốt của giống mà còn
có tác dụng ngược lại. Cây chè trồng trong môi trường thích hợp là yếu tố quan trọng
quyết định đến sản lượng và chất lượng chè.
2.3. Tình hình sản xuất, nghiên cứu chè trên thế giới và trong nước
2.3.1. Tình hình sản xuất, nghiên cứu chè trên thế giới
2.3.1.1. Tình hình sản xuất
Chè là cây trồng có lịch sử lâu đời (khoảng hơn 4000 năm) [5]. Ngày nay
chè là thứ nước uống chủ yếu và phổ biến với những sản phẩm chế biến đa dạng và
phong phú. Ngoài việc thỏa mãn nhu cầu về giải khát, dinh dưỡng, thưởng thức
chè ở nhiều nước đã được nâng lên tầm văn hóa với cả những nghi thức trang trọng
và thanh cao của trà đạo.
8
Theo Đỗ Ngọc Quỹ (2008)[13], quốc gia đầu tiên trên Thế Giới phát triển sản
xuất chè là Trung Quốc, sau đó được truyền bá sang Nhật Bản vào những năm 805
sau Công Nguyên, vào Indonexia năm 1654, vào Ấn Độ năm 1780, vào Nga năm
1833, vào Malaixia năm 1914, đến năm 1920 thì tiến tới các nước Châu Phi như:
Kenia, Malavi, Ghine, Trên Thế Giới cây chè được phát triển với tốc độ rất nhanh,
đặc biệt là từ đầu thế kỷ 18 trở lại đây. Đến năm 2000, đã có hơn 100 nước trồng và

xuất khẩu chè.
Theo FAO (2013) thì tình hình sản xuấtchè trên Thế Giới tính đến năm 2011
như sau:
* Về diện tích:
Bảng 2.1: Diện tích chè của thế giới và một số nước trồng chè chính
năm 2008 - 2012
(Đơn vị tính: ha)
(Nguồn: Số liệu thống kê của FAO năm 2013)[18]
Qua số liệu Bảng 2.1 cho thấy:
Tính đến năm 2012.diện tích chè trên toàn thế giới đạt 3.275.991 ha. Trong
đó Trung Quốc là nước có diện tích chè lớn nhất với 1.513.000ha,chiếm 46.18%
9
Tên nước
Năm
2008 2008 2010 2011 2012
Trung Quốc 1.298.374 1.298.374 1.419.530 1.514.000 1.513.000
Ấn Độ 578458 578458 583.000 580.000 605.000
Sri LanKa 221969 221969 218300 221.969 221.969
Kenya 157700 157700 171900 187.855 190.600
Việt Nam 108.800 108.800 113.200 114.800 115.964
Indonexia 106.948 106.948 107.800 127.000 122.500
Turkey 75826 75826 75851 75.890 75.860
Myanmar 76.900 76.900 76.800 79.343 79.000
Bangladest 58.005 58.005 59.700 56.670 58.000
Nhật 48.000 48.000 46.800 46.200 45.900
Thế giới 2.967.935 2.967.935 3.123.561 3.256.762 3.275.991
diện tích toàn thế giới. Tiếp đó là Ấn Độ đứng thứ hai với 605.000 ha,chiếm
18.46% so với thế giới. Đứng thứ ba là Sri lanka với diện tích 221.969 ha, chiếm
6.7%. Diện tích chè tập trung chủ yếu ở khu vực châu Á với khoảng 88% diện tích,
đây cũng là nơi phát sinh ra cây chè.

* Về năng suất:
Bảng 2.2: Năng suất chè của thế giới và một số nước trồng chè chính
năm 2008 – 2012
Đơn vị: tạ khô/ha/năm
Tên nước
Năm
2008 2009 2010 2011 2012
Trung Quốc 9,820 10,416 10,338 10,834 11,334
Ấn Độ 17,063 17,005 17,001 16,668 16,529
Sri LanKa 14,358 13,065 12,932 14,754 14,867
Kenya 21,928 19,830 23,211 20,117 19,381
Việt Nam 15,947 16,670 17,532 17,997 18,704
Indonesia 14,105 12,992 13,915 11,606 12,253
Myanmar 3,771 3,935 4,219 3,992 4,051
Bangladest 10,172 10,085 10,050 10,676 10,603
Japan 20,104 18,182 18,162 20,565 18,715
Thế giới 14,190 14,152 14,464 14,336 14,707
(Nguồn: Số liệu thống kê của FAO năm 2013)[18]
Qua số liệu Bảng 2.2 cho thấy:
Tính đến năm 2012, năng suất chè trên Thế Giới đạt 14,707 tạ chè khô/ha
tăng 3,52 tạ chè khô/ha tương đương 19,88% so với năm 2008. Kenya là nước có
năng suất chè cao nhất đạt 19,381tạ chè khô/ha, vượt hơn năng suất bình quân của
thế giới là 9,45%. Mianma là nước có năng suất thấp nhất chỉ đạt 4,051tạ chè
khô/ha tương ứng 22,88% năng suất chè thế giới. Việt Nam tính đến năm 2012 đạt
10
năng suất 18,704tạ chè khô/ha vượt hơn năng suất bình quân của Thế Giới là 5,6%,
so với năng suất bình quân Châu Á là 303,32%.
* Về sản lượng:
Bảng 2.3: Sản lượng chè của thế giới và một số nước trồng chè chính
năm 2008 - 2012

(Đơn vị tính: tấn)
Tên nước
Năm
2008 2009 2010 2011 2012
Trung Quốc 1.257.384 1.375.780 1.467.467 1.640.310 1.714.902
Ấn Độ 987.000 972.700 991.180 966.733 1.000.000
Sri LanKa 318700 290000 282300 327.500 330.000
Kenya 345800 314100 399000 377.912 369.400
Việt Nam 173.500 185.700 198.466 206.600 216.900
Indonexia 150.851 146.440 150.000 142.400 150.100
Turkey 198046 198601 235000 221.600 225.000
Myanmar 29.000 30.500 32.400 31.670 32.000
Bangladest 59.000 59.500 60.000 60.500 61.500
Nhật 96.500 86.000 85.000 95.012 85.900
Thế giới 4.211.397 4.242.280 4.518.060 4.668.968 4.818.118
(Nguồn: Số liệu thống kê của FAO năm 2013)[18]
Qua số liệu Bảng 2.3 cho thấy:
Sản lượng chè toàn Thế Giới năm 2012 là 4.818.118tấn tăng 606,721tấn,
tương đương 12,59 % so với năm 2008. Trung Quốc là nước có sản lượng chè lớn
nhất Thế Giới đạt 1.714.902tấn chiếm 35,59 % tổng sản lượng chè toàn Thế
Giới,chiếm 41,79 % tổng sản lượng chè Châu Á. Sản lượng chè thấp nhất là
Mianma chỉ đạt 32.000tấn chiếm 0,66% tổng sản lượng chè toàn Thế Giới. Việt
Nam đạt sản lượng 216.900tấn chiếm 4,50% tổng sản lượng chè toàn Thế Giới.
2.3.1.2.Tình hình nghiên cứu chè trên Thế Giới
11
Trung Quốc là quốc gia sản xuất chè hàng đầu thế giới. Nghiên cứu sử dụng
giống chè tốt trong sản xuất được các nhà khoa học Trung Quốc quan tâm từ rất
sớm.
Ngay từ đời nhà Tống, Trung Quốc đã có 7 giống chè tốt ở Vũ Di Sơn. Các
giống chè Thuỷ Tiên (1821 - 1850), Đại Bạch Trà (1850), Thiết Quan Âm đã có từ

hơn 200 năm về trước đều là những giống chè chiết cành
Năm 1956 Trần Khôi Dũ đưa ra phương pháp chọn giống 100 điểm, đối với
cây ăn quả và phương pháp này đã được phát triển theo chiều sâu. Giống chè được
chọn lọc, khảo nghiệm đánh giá bằng cách xác định mối tương quan giữa các yếu
tố hình thái, sinh trưởng của cây chè với sản lượng hoặc dựa trên mối tương quan
giữa các yếu tố đó với nhau.
Ngoài những giống nổi tiếng từ lâu đời, hiện nay Trung Quốc có nhiều
giống chè cho năng suất cao, chất lượng rất tốt cho cả chế biến chè xanh và chè
đen như: Phúc Vân Tiên (1957 - 1971), Hoa Nhật Kim, Hùng Đỉnh Bạch (Phúc
Kiến), Phú Thọ 10 (Vân Nam), Long Vân 2000 (Triết Giang)
Srilanca rất chú ý đến công tác chọn dòng, kết hợp chọn dòng có sản lượng
cao, có khả năng chống hạn và chống bệnh. Trong những năm 1940 đã chọn ra các
dòng chè TRI
2020
, trong đó có các giống nổi tiếng như TRI
777
, TRI
2043
. Trong những
năm 1950, 1960 Srilanca đã chọn ra các dòng chè triển vọng như TRI
14
, DT, DN,
DP và DV
Hiện nay diện tích trồng chè bằng các giống chè được nhân giống vô tính đạt
trên 40% diện tích trồng chè trong cả nước.
Theo Satoshi Yamagushi, Jitanaka (1995), giống chè chủ yếu ở Nhật Bản là
giống chè lá nhỏ, phù hợp cho chế biến chè xanh.
Công tác chọn dòng cũng được đặc biệt chú ý ở Nhật Bản, nhiều giống chè
mới đã được đưa vào sản xuất, trong đó giống Yabukita được trồng phổ biến nhất
chiếm tới 70% diện tích chè ở Nhật Bản.

12
Kenia mới chỉ bắt đầu sản xuất chè vào những năm 1925 - 1927 tuy nhiên do
có điều kiện tự nhiên phù hợp cho cây chè sinh trưởng phát triển, do chú trọng đầu
tư, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất cho nên Kênia là một trong những
quốc gia có năng suất chè cao nhất thế giới, đạt trên 1500kg chè khô/ha. Kênia lần
đầu tiên nhập giống chè vào năm 1903 và trồng thành công ở Limuri với diện tích
ban đầu là 0,81ha, cho đến nay công tác giống được quan tâm rất nhiều ở Kênia.
Các giống chè chọn lọc, giâm cành cho năng suất cao hơn giống chè đại trà tới
20%. Diện tích chè được trồng bằng các giống chọn lọc, giâm cành chiếm tới 67%
ở khu vực tiểu nông và chiếm tới 33% diện tích chè ở các đồn điền lớn. Ngoài
nhân giống bằng hình thức giâm cành, Kênia còn nhân giống bằng hình thức ghép.
2.3.2. Tình hình sản xuất, nghiên cứu chè ở Việt Nam
2.3.2.1. Tình hình sản xuất chè ở Việt Nam
Việt Nam có lịch sử trồng chè từ rất lâu nhưng mới được chú ý trồng và phát
triển trên quy mô lớn khoảng 100 năm trở lại đây. Điều kiện đất đai và khí hậu
nước ta rất thích hợp cho cây chè phát triển, 2/3 diện tích là đất đồi núi, đặc biệt ở
những vùng núi cao và có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt lại tạo lên những giống
chè đặc sản nổi tiếng.
Những năm gần đây chè được quan tâm nhiều hơn, đầu tư phát triển trên
mọi phương diện nhằm khuyến khích người trồng chè tăng thu nhập cho người sản
xuất và kim ngạch xuất khẩu Nhà nước.
Việt Nam có 35 trên 63 tỉnh, thành phố trồng chè, chủ yếu tập trung ở vùng
trung du miền núi phía Bắc và cao nguyên Lâm Đồng với gần 130.000 ha. Hiện có
khoảng 650 nhà máy chế biến chè (công suất từ 2 đến 10 tấn nguyên liệu chè búp
tươi/ngày) cùng với hàng ngàn hộ dân lập xưởng để chế biến tại gia đình. Đội ngũ
làm chè lên tới 3 triệu lao động, chiếm 50% tổng số dân sống trong vùng chè.
13
Bảng 2.4: Diện tích, năng suất và sản lượng chè của Việt Nam
từ năm 2002 – 2011
14

Năm
Diện tích chè kinh
doanh (1000ha)
Năng suất Sản lượng
(tạ khô/ha) (1000 tấn khô)
2002 77,2 12,2 94,2
2003 86,1 12,11 104,3
2004 92,4 12,93 119,5
2005 97,7 13,56 132,53
2006 102,1 14,79 151
2007 107,4 15,27 164
2008 108,8 15,95 173,5
2009 111,4 16,67 185,7
2010 113,2 17,53 198,47
2011 114,8 17,99 206,6
2012 115,9 18,7 216,9
( Nguồn: Số liệu thống kê của FAO năm 2013)[18]
Theo số liệu bảng 2.4 cho thấy rằng :
Từ năm 2002 đến 2012 diện tích, năng suất, sản lượng và xuất khẩu chè tăng
nhanh. Năm 2012 diện tích chè là 115.900 ha, tăng 38.700ha tương ứng 40,13% so
với năm 2002. Năng suất bình quân năm 2012 là 18.700tạ khô/ha, tăng 6.500 tạ
khô/ha tương ứng 53,28 % so với năm 2002. Sản lượng chè theo đó cũng tăng
mạnh đạt 216.900tấn búp khô vào năm 2011 tăng 122.700 tấn tương ứng 130,25%
so với năm 2002.
Việt Nam có 35 trên 63 tỉnh, thành phố trồng chè, chủ yếu tập trung ở vùng
trung du miền núi phía Bắc và cao nguyên Lâm Đồng với gần 130.000 ha. Hiện có
khoảng 650 nhà máy chế biến chè (công suất từ 2 đến 10 tấn nguyên liệu chè búp
tươi/ngày) cùng với hàng ngàn hộ dân lập xưởng để chế biến tại gia đình. Đội ngũ
làm chè lên tới 3 triệu lao động, chiếm 50% tổng số dân sống trong vùng chè.
2.3.2.2. Tình hình sản xuất chè ở Thái Nguyên

Tỉnh Thái Nguyên là một tỉnh có điều kiện đất đai địa hình, khí hậu khá phù hợp
với sự phát triển của cây chè. Thái Nguyên xác định cây chè là cây công nghiệp
chủ lực, đóng góp trong nền kinh tế thị trường.
Thái Nguyên nằm ở vị trí cửa ngõ giao lưu kinh tế giữa vùng Trung Du
Miền Núi phía Bắc và Đồng bằng Bắc Bộ, có độ cao trung bình so với mặt nước
biển khoảng 200 – 300m, thấp dần từ bắc xuống nam và từ tây sang đông. Tỉnh
Thái Nguyên được bao bọc bởi các dãy núi cao bắc Sơn, Ngân Sơn và Tam Đảo.
Đỉnh cao nhất thuộc dãy Tam Đảo có độ cao 1.592m. Thái Nguyên có diện tích tự
nhiên 3.562,82 km
2
, dân số khoảng 1.127.200 người.
Tỉnh Thái Nguyên có phía Bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc Kạn, phía Tây tiếp
giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Phía đông giáp với các tỉnh Lạng Sơn,
Bắc Giang và phía nam tiếp giáp với thủ đô Hà Nội. Với vị trí địa lý như vậy Thái
Nguyên đã trở thành một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, giáo dục của
khu vực Việt Bắc nói riêng và của vùng Trung Du Miền Núi phía Bắc nói chung.
Tỉnh có diện tích đất nông nghiệp là 275.301,11 ha, địa hình Thái Nguyên ít
bị chia cắt, độ cao trung bình so với mắt nước biển khoảng 200 – 300m, nằm trong
15
vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu nên Thái Nguyên có khí hậu mang tính chất nhiệt đới
gió mùa. Khí hậu Thái Nguyên chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng
10 và mùa khô từ tháng 10 đến tháng 10 đến tháng 5. Lượng mưa trung bình năm
khoảng 2.000 đến 2.500 mm. Tổng số giờ nắng dao động từ 1300 đến 1750 giờ và phân
phối tương đối đều trong các tháng trong năm.
Trong tổng diện tích đất nông nghiệp ở Thái Nguyên, nhóm đất chủ yếu là nhóm
đất Feralit với độ cao 20 - 200 m so với mặt nước biển rất thích hợp để trồng và
pháttriển cây chè. Trong nhóm đất này thì ưu thế hơn cả là đất vàng đỏ trên phiến
thạch sét, đất vàng nhạt trên đá cát, đất nâu vàng trên phù sa cổ.
Thái Nguyên đã quy hoạch vùng sản xuất chè thành 2 vùng chính: Vùng chè
Tân Cương gồm có Tân Cương, Phúc Trìu, PhúcXuân và vùng chè Trại Cài. Sản

phẩm ở Thái Nguyên với thương hiệu nổi tiếng chè Tân Cương đã chiếm được một
thị trường khá rộng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân địa phương, trong
nước và nhu cầu thế giới, góp phần phát triển ngành chè Việt Nam trong việc hợp
tác kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới.
Người dân có nhiều kinh nghiệm trong trồng trọt và chế biến đặc biệt có
kinh nghiệm sản xuất chè truyền thống từ lâu đời, đã hình thành nên nhiều vùng
chuyên canh cây chè có sản phẩm chè ngon được người tiêu dùng ưa chuộng như:
Tân Cương, Trại Cài Thái Nguyên đã có những bước tăng trưởng mạnh mẽ cả về
diện tích, năng suất, sản lượng cũng như chất lượng chè và đã trở thành một trong
những vùng chè nổi tiếng của cả nước.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Nguyên thì diện tích,
năng suất, sản lượng chè Thái Nguyên trong những năm trở lại đây được thể
hiện ở bảng 2.5:
16
Bảng 2.5: Diện tích, năng suất và sản lượng chè của Thái Nguyên
từ năm 2005 - 2011
Năm
Tổng diện
tích(ha)
Diện tích
kinh
doanh(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
tươi
(nghìn tấn)
Sản lượng
khô
(nghìn tấn)

2004 15.700 13.000 73,07 95,00 19,00
2005 16.446 14.133 79,42 122,24 24,45
2006 16.716 14.662 88,06 129,11 25,82
2007 16.726 15.118 92,72 140,18 28,04
2008 16.994 15.730 94,88 149,26 29,85
2009 17.309 16.053 98,90 158,70 31,74
2010 17.661 16.289 105,50 171,90 34,38
2011 18.138 16.648 108,73 181,02 36,20
(Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Nguyên năm 2013)[14]
Qua bảng 2.5 ta thấy: Diện tích trồng chè ngày càng được mở rộng tính đến
năm 2011 toàn tỉnh có 18.138 ha , tăng 2.438ha so với năm 2004.
Năng suất chè năm 2004 mới chỉ đạt 73,07tạ/ha nhưng đến năm 2011 đạt
108,73 tạ/ha, tăng 35,66 tạ/ha . Cùng với sự tăng nhanh về diện tích và năng suất
thì sản lượng chè cũng tăng mạnh. Năm 2011 đạt 181,02 tấn tăng 86,02 tấn so với
năm 2004. Kết quả cho thấy sự quan tâm, đầu tư phát triển cây chè trở thành cây
trồng mũi nhọn của lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên. Hiệu quả từ các chủ trương, chính
sách, các dự án phát triển cây chè mang lại là rất cao.
Cây chè được tỉnh Thái Nguyên xác định là cây xóa đói giảm nghèo và làm
giàu của nông dân được trồng tập trung ở một số huyện như Định Hóa, Đồng Hỷ,
Đại Từ, Phú Lương, Phổ Yên, thành phố Thái Nguyên. Giai đoạn 2000 - 2005, tỉnh
đã thực hiện đề án phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè. Sau 5 năm thực
hiện các mục tiêu của đề án cơ bản đã đạt được. Ngày 28 tháng 3 năm 2006,
UBND tỉnh ra quyết định số 520/QĐ - UBND về việc phê duyệt đề án phát triển
chè Thái Nguyên giai đoạn 2006 - 2010 với các mục tiêu chủ yếu: Tổng diện tích
17
đạt 17.500 ha (50% diện tích sản xuất nguyên liệu chè xanh, 30% diện tích sản
xuất nguyên liệu chè cao cấp, 20% diện tích sản xuất nguyên liệu chè đen) năng
suất bình quân 8,5 tấn búp tươi/ha/năm, giá trị thu nhập bình quân 50 triệu
/ha/năm.
Những năm gần đây Chè Thái được tiêu thụ cả thị trường trong và ngoài

nước, trong đó thị trường nội tiêu chiếm trên 70% sản lượng chè toàn tỉnh. Năm
2005, Thái Nguyên xác định mục tiêu phát triển chè trong giai đoạn 2006 - 2010
là: Tập trung mọi nguồn lực để khai thác hiệu quả, bền vững tiềm năng và lợi thế
của cây chè đặc sản Thái Nguyên trên cơ sở phát triển đồng bộ sản xuất, chế biến
và tiêu thụ chè gắn với công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến… nhằm mang lại sản
phẩm đa dạng, an toàn và chất lượng, để chè Thái Nguyên chiếm lĩnh thị trường
trong Nước và Thế Giới.
Bảng 2.6: Diện tích trồng, diện tích thu hoạch, sản lượng chè của một số địa
phương trong tỉnh Thái Nguyên năm 2011
Địa phương
Diện tích trồng
(ha)
Diện tích thu
hoạch (ha)
Sản lượng
(tấn)
TP Thái Nguyên 1.255 1.106 15.954
Thị xã Sông Công 545 471 4.782
Huyện Định Hóa 2.152 1.945 20.073
Huyện Võ Nhai 714 530 3.950
Huyện Phú Lương 3.811 3.717 40.709
Huyện Đồng Hỷ 2.838 2.525 30.179
Huyện Đại Từ 5.307 4.990 51.604
Huyện Phú Bình 114 101 753
Huyện Phổ Yên 1.402 1.263 13.020
Tổng số 18.138 16.648 181.024
(Nguồn:Theo niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2011)[7]
Qua bảng 2.6 ta thấy: Huyện Đại Từ là địa phương đứng đầu trong tỉnh về diện
tích, diện tích thu hoạch và sản lượng; đứng cuối cùng là huyện Phú Bình.
18

Về diện tích trồng chè: Huyện Đại Từ dẫn đầu với 5.307 ha chiếm 29,25%
diện tích toàn tỉnh. Đứng thứ 2 là huyện Phú Lương (3.811 ha) chiếm 21,01% tổng
diện tích.Thành phố Thái Nguyên đứng thứ 6 với 1.255 ha, chiếm 6,92% tổng diện
tích. Đứng cuối là huyện Phú Bình với 114 ha, chiếm 0,63% tổng diện tích.
Về diện tích thu hoạch: Đứng đầu là huyện Đại Từ (4.990 ha) chiếm 29,97%
tổng diện tích thu hoạch; thứ 2 là huyện Phú Lương với 3.717 ha chiếm 22,33%
tổng diện tích thu hoạch. Đứng thứ 6 là thành phố Thái Nguyên (1.106 ha) chiếm
6,64% tổng diện tích thu hoạch. Đứng cuối là huyện Phú Bình (101 ha) chiếm
0,61% tổng diện tích thu hoạch.
Về sản lượng: Đứng đầu về sản lượng là huyện Đại Từ (51.604 tấn) chiếm
28,51% tổng sản lượng; thứ 2 là huyện Phú Lương với 40.709 tấn, chiếm 22,49%
tổng sản lượng. Thành phố Thái Nguyên đứng thứ 5 về sản lượng với 15.954 tấn,
chiếm 8,81% tổng sản lượng. Thấp nhất là huyện Phú Bình với 753 tấn, chiếm
0,42% tổng sản lượng toàn tỉnh.
2.3.2.3. Tình hình nghiên cứu chè ở Việt Nam
*Tình hình nghiên cứu về giống chè
Khi đến Đông Dương người Pháp đã chú ý ngay đến việc điều tra thu thập
giống chè. Đầu tiên là khảo sát của G.Baux ở Bắc Kỳ năm 1885, tiếp theo là điều
tra của phái đoàn Davie năm 1890 - 1892; Năm 1907 Eberhardt đã phát hiện ra
cây chè dại đầu tiên ở núi Ba Vì (Hà Tây).
Theo Dupasquier (1923) - dẫn theo Đỗ Ngọc Quỹ (1991) thì đến năm 1923
Việt Nam đã trồng được 10.368 ha chè đầu tiên với các giống chè thuộc thứ chè
Trung Quốc lá to, chè Shan và chè Ấn Độ, đã thu thập được tập đoàn gồm: 43
giống chè trong đó chủ yếu là chè Trung Quốc lá to.
- Từ năm 1918 - 1927 Việt Nam đã nhập 13 giống chè từ Ấn Độ, Mianma,
Trung Quốc và Lào.
- Năm 1923 khi nghiên cứu tập đoàn giống chè nhập nội; Dupasquier cho
rằng: Manipur và Assamica đã tỏ ra thích hợp và có khả năng sinh trưởng tốt ở
Việt Nam. Dupasquier cũng cho rằng: Giống chè Trung Quốc đòi hỏi ít nhất, chịu
19

đất xấu, tỷ lệ lẫn tạp cao, có đặc tính hình thái sinh lý khác nhau, đa số các cây
chè ra hoa, kết quả sớm, do vậy cần phải tiến hành chọn lọc. Về chọn giống
Dupasquier đã đề ra tiêu chuẩn giống chè tốt như sau:
+ Chọn cây khoẻ, cành mọc đều, liên tục, ít hoa quả, hình dáng cân đối, búp
có tuyết, các cá thể trong giống phải giống nhau.
Năm 1931 Trạm nghiên cứu chè Bảo Lộc được thành lập và tiếp nhận từ Phú
Hộ các giống chè Shan như Thanh Thuỷ, Bắc Hà, Tham Vè, Makomen, đã chọn
được 2 dòng chè tốt là TB
11
và TB
14
.
Sau hoà bình lập lại, công tác nghiên cứu chè được tiến hành trở lại: Theo
Đỗ Ngọc Quỹ (1980) [12],Trạm nghiên cứu chè Phú Hộ (nay là Trung tâm nghiên
cứu phát triển chè - Viện KHKT Nông lâm nghiệp Miền núi phía Bắc) đã tiến hành
hai cuộc điều tra ở các vùng chè miền Bắc (1969 - 1970) và ở miền Nam (1978) và
ở Grudia thuộc Liên Xô cũ (1978) kết quả của các cuộc điều tra là:
Ở Việt Nam, qua nhiều năm nghiên cứu, Viện nghiên cứu chè đã ứng dụng
thống kê sinh học qua phân tích tương quan dựa vào các đặc trưng hình thái để lựa
chọn nhanh các loại hình chè có triển vọng khi cây chè 2 - 3 tuổi, sơ đồ tuyển
chọn gồm 4 bước:
Bước 1: Đánh giá khả năng cho sản lượng của cây chè của các cá thể 2 -
3tuổi, bằng các chỉ tiêu hình thái và sinh trưởng trên đồng ruộng kết hợp với phân
tích trong phòng theo các chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Số búp nhiều, trọng lượng búp tương đối lớn.
- Tán rộng, chiều cao cây lớn, số cành cấp 1 nhiều.
- Số lá mọc, kích thước lá (dài, rộng) thời gian sinh trưởng đạt trung bình
tiên tiến trong quần thể chọn lọc (sơ đồ 1.1).
+ Giai đoạn 1: Loại bỏ các cá thể có các chỉ tiêu đo đếm dưới mức trung
bình (X

1
) của quần thể;
20
Số cây
Các chỉ êu
Loại bỏ ở giai đoạn 1 Loại bỏ ở giai đoạn 2 Giữ lại ở giai đoạn 2
X1
X2
+ Ở giai đoạn 2: Loại bỏ các cá thể có các chỉ tiêu do đếm dưới mức trung
bình tiên tiến (X
2
), chỉ giữ lại những cá thể sau giai đoạn 2 có các chỉ tiêu đo đếm
≥ X
2
.
X
1
: Là giá trị trung bình đo đếm các chỉ tiêu của quần thể lựa chọn.
X
2
: Là giá trị trung bình đo đếm các chỉ tiêu của cây sau khi đã loại bỏ ở giai
đoạn 1 (X
2
≥ X
1
).
Theo kết quả thực tế các cá thể giữ lại sau giai đoạn 2 thường có giá trị chỉ
tiêu đo đếm được gấp 1,7 lần trở lên so với trung bình quần thể.
Ngoài các chỉ tiêu trên cần kết hợp xem xét các đặc điểm phát triển bộ rễ,
sinh trưởng sinh thực, màu sắc lá, sâu bệnh, khả năng giâm cành, điểm thử nếm

cảm quan chất lượng
Bước 2: Xác định sản lượng cây tốt nhất giữ lại ở giai đoạn 2 (sau đốn tạo
hình) kết hợp với đánh giá khả năng giâm cành.
Bước 3: Tiếp tục khảo sát những cá thể có những đặc tính, đặc trưng nông
học tốt, lựa chọn rồi giâm cành từng dòng có triển vọng.
Bước 4: So sánh dòng triển vọng với giống tiêu chuẩn (dòng phổ biến trong
sản xuất), chỉ giữ lại cây có tỷ lệ sống trên 70%, sau khi trồng ra đồi được 10 tháng
và chế biến được chè thành phẩm có chất lượng tốt, đáp ứng thị trường và có giá trị
hàng hoá cao.
21
Sơ đồ 1.1: Loại bỏ các cá thể qua các chỉ tiêu đo đếm
Về lai tạo giống: Nghiên cứu về lai tạo giống, các tác giả: Trần Thị Lư,
Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Văn Niệm (1998) cho rằng: Ở Việt Nam các giống chè
thường có hoa, nở vào tháng 11, tháng 12. Vì thế việc lai giống chè không cần phải
bảo quản hạt. Trong trường hợp hoa nở không cùng nhau có thể bảo quản trong
điều kiện ẩm độ từ 25 - 30%, nhiệt độ bình thường của không khí, trong điều kiện
như vậy, ở Phú Hộ (Phú Thọ) có thể giữ sức nảy mầm của hạt phấn trong vòng 40
ngày.
Bằng phương pháp gây đột biến bằng bức xạ, Trung tâm nghiên cứu phát
triển chè - Viện KHKT Nông lâm nghiệp Miền núi phía Bắc, đã chọn được một số
cá thể có biểu hiện tốt về sinh trưởng và sản lượng ở những năm đầu thu hái, đó là
N
0
8950, N
0
89401 và N
0
8819, trong đó cây N89502 có số cành cấp 1 nhiều, lá lớn,
gồ ghề, đang được nhân vô tính thành dòng để tiến hành thí nghiệm so sánh.
Ngoài ra các nhà khoa học Trung tâm nghiên cứu phát triển chè - Viện

KHKT Nông lâm nghiệp Miền núi phía Bắc còn sử dụng Consixin xử lý trên mầm
chè giống PH
1
, trong thời gian 24 - 48h với nồng độ 0,2% cũng đã thu được kết
quả bước đầu.
Vật liệu khởi đầu
22
Bước 1
Chè 1 đến 2
tuổi
Đánh giá khả năng cho sản lượng, khả
năng nhân giống vô tính, một số chỉ tiêu
chất lượng sản phẩm
Đánh giá
hình thái
Đánh giá
sinh
trưởng
Đánh giá
trong
phòng thí
nghiệm
Bước 2
Chè 4 tuổi
Chọn các cây tốt nhất để tiếp tục đánh giá
(Các chỉ tiêu không nhỏ hơn trung bình tiên
tiến
Đánh giá khả
năng tạo tán
Đánh giá

khả năng
nhân
giống
Đánh giá
sản lượng
Đánh giá
chỉ tiêu đạt
Đánh giá
chỉ tiêu lá
Bước 3
Chè 5 tuổi
Khảo sát
tính nông học
Phân dòng bằng nhân giống vô
tính
kết hợp đánh giá khả năng nhân
giống
23
Bước 4
Chè 5 tuổi
So sánh dòng có triển vọng với
giống
tiêu chuẩn - Khảo nghiệm - Khu
vực hoá
Sơ đồ 1.2: Chọn lọc cá thể chè
Nghiên cứu khả năng giâm cành của một số giống chè ở Thái Nguyên:
Tác giả Lê Tất Khương (1997), cho rằng: Các giống PH
1
, TRI
777

, TH
3

những giống dễ giâm cành. Tỷ lệ xuất vườn đạt từ 69,7 - 72,0%, giống 1A là giống
khó giâm cành, tỷ lệ xuất vườn chỉ đạt 50,7%.
Nghiên cứu một số biện pháp nâng cao tỷ lệ xuất vườn cho chè giâm cành
tác giả Lê Tất Khương (1997), và số lần bón phân cho chè giâm cành đã làm tăng tỉ
lệ xuất vườn và hạ giá thành cây xuất vườn từ 5,6 - 11,5% trong đó, công thức đạt
hiệu quả kinh tế cao nhất là tăng 25% lượng phân so với quy trình (78g Ns, 36g Ps,
và 60g Ks cho 1m
2
- 100 bầu) và bón 7 lần vào tháng thứ 3 đến tháng thứ 9 sau
cắm hom.
Nghiên cứu về đặc điểm hình thái giải phẫu lá và hom chè có liên quan đến
tỷ lệ mô sẹo của hom chè giâm cành, tác giả (Nguyễn Thị Ngọc Bình, 2002)[1],
cho rằng: Sự hình thành mô sẹo ở hom chè giâm không hoàn toàn do các mô, mà
chỉ giới hạn ở một số mô có khả năng phân chia tế bào mạnh như tượng tầng, trụ
bì, libe và một phần nội bì ở vỏ tế bào hom xanh tạo ra. Các hoạt động tạo mô sẹo
và ra rễ xảy ra tập trung chủ yếu cách bề mặt vết cắt 0,2 - 0,5mm, các tế bào ở xa
vết cắt không tham gia quá trình phân chia mà duy trì hoạt động bình thường.
Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển của cây chè
Các kết quả nghiên cứu về đặc tính sinh trưởng của cây chè đều cho thấy: Một
năm cây chè có từ 3 - 5 đợt sinh trưởng tự nhiên, tuy nhiên trong điều kiện có đốn
hái búp lá thì một năm chè có thể có tới 6 - 7 đợt sinh trưởng búp, trong điều kiện
24
Mầm chè được phát độngLá vẩy ốc mở Lá thật
xuất hiện
Cành chè ngừng sinh trưởng Mầm chè được phát động
Giai đoạn ẩn
Giai đoạn hiện

Thời kỳ
hoạt động
Thời kỳ
ềm sinh
Đợt
Sinh trưởng
thâm canh cao cây chè có thể có tới 8 - 9 đợt sinh trưởng búp. Thời gian hình thành
1 đợt sinh trưởng dài hay ngắn phụ thuộc vào giống, tuổi cây, điều kiện đất đai, khí
hậu và điều kiện canh tác
Theo Nguyễn Ngọc Kính (1979)[4], Sự hình thành một đợt sinh trưởng búp
chè theo 1 tuần tự nhất định, được mô tả theo sơ đồ sau:
Nghiên cứu số đợt sinh trưởng của các giống chè PH
1
, IA, TH
3
Trung Du,
TRI
777
trong điều kiện có đốn hái và trong điều kiện tự nhiên tác giả Lê Tất
Khương (1997), cho thấy: Tùy điều kiện tự nhiên giữa các giống ít có sự sai khác
về số đợt sinh trưởng, số đợt sinh trưởng tự nhiên của các giống biến động từ 3,4 -
3,6 đợt/năm. Tuy nhiên, trong điều kiện có đốn, hái giữa các giống có sự sai khác
đáng kể về số đợt sinh trưởng, biến động từ 5,5 - 6,2 đợt/năm.
25

×