Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

phương pháp phát vấn học sinh trong dạy học toán 7 giúp học sinh tiếp cận vấn đề chính xác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.83 KB, 14 trang )

ĐỀ TÀI
PHƯƠNG PHÁP PHÁT VẤN HỌC SINH TRONG DẠY HỌC TOÁN 7 GIÚP
HỌC SINH TIẾP CẬN VẤN ĐỀ CHÍNH XÁC
1
PHẦN I. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI,với sự phát triển nhanh chóng và đa
dạng của khoa học kĩ thuật trên toàn thế giới, trong khi nước ta đang ở tình trạng
lạc hậu về nhiều mặt. Để vượt qua được thử thách đó, ta phải phát huy được nguồn
lực con người, phát huy cao tiềm năng trí tuệ để vượt qua được nguy cơ tụt hậu, bắt
kịp trình độ phát triển hoà nhập với khu vực và thế giới. Xuất phát từ thực tế đó,
Đảng ta đã đặc biệt coi trọng sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra cho ngành Giáo
dục nhiệm vụ: “Đổi mới phương pháp dạy và học,phát huy tư duy sáng tạo và năng
lực tự đào tạo của người học”. Bản thân tôi khi được tiếp cận tài liệu liên quan đến
vấn đề thay đổi sách giáo khoa, đổi mới chương trình và phương pháp dạy học, tôi
rất tâm đắc với phương pháp dạy học môn Toán ở trường THCS theo hướng hình
thành và phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh. Ở đây tôi chỉ nêu ra một vài
kinh nghiệm của mình được rút ra trong việc tìm hiểu và áp dụng phương pháp
mới. Đó là “Phương pháp đặt câu hỏi trong dạy học môn toán ở trường THCS”.
Thực tế đứng lớp cọ sát với chương trình, trao đổi thảo luận với đồng nghiệp qua
các tiết dự giờ đánh giá xếp loại, tôi thấy rất trăn trở với việc áp dụng phương pháp
mới, đặc biệt là phương pháp đặt câu hỏi. Đó cũng chính là lí do tôi chọn đề tài
này.
Toán học là công cụ giúp học tốt các môn học khác, chính vì vậy nó đóng một
vai trò vô cùng quan trọng trong nhà trường. Bên cạnh đó nó còn có tiềm năng phát
triển các năng lực tư duy và phẩm chất trí tuệ,giúp học sinh hoạt động có hiệu quả
trong mọi lĩnh vực của đời sống sản xuất.
Toán học mang sẵn trong đó chẳng những phương pháp quy nạp thực nghiệm,
mà cả phương pháp suy diễn lôgic. Nó tạo cho người học có cơ hội rèn luyện khả
năng suy đoán và tưởng tượng. Toán học còn có tiềm năng phát triển phẩm chất


đạo đức, góp phần hình thành thế giới quan khoa học cho học sinh. Toán học ra đời
từ thực tiễn và lại quay trở về phục vụ thực tiễn. Toán học còn hình thành và hoàn
thiện những nét nhân cách như say mê và có hoài bão trong học tập, mong muốn
được đóng góp một phần nhỏ của mình cho sự nghiệp chung của đất nước, ý chí
vượt khó, bảo vệ chân lý, cảm nhận được cái đẹp, trung thực, tự tin, khiêm tốn,….
2
Biết tự đánh giá mình, tự rèn luyện để đạt tới một nhân cách hoàn thiện toàn diện
hơn. Mặt khác toán học còn có nhiệm vụ hình thành cho HS những kỹ năng:
- Kỹ năng vận dụng tri thức trong nội bộ môn toán để giải các bài tập toán
- Kỹ năng vận dụng tri thức toán học để học tập các môn học khác.
- Kỹ năng vận dụng tri thức toán học vào đơì sống, kỹ năng đo đạc, tính
toán,sử dụng biểu đồ, sử dụng máy tính….
Tuy nhiên cả ba kỹ năng trên đều có quan hệ mật thiết với nhau. Kỹ năng thứ
nhất là cơ sở để rèn luyện hai kỹ năng kia. Chính vì vậy kỹ năng vận dụng kiến
thức để giải bài tập toán là vô cùng quan trọng đối với học sinh. Trong đó việc trình
bày lời giải một bài toán chính là thước đo cho kỹ năng trên. để có một lời giải tốt
thì học sinh cần có kiến thức, các kỹ năng cơ bản và ngược lại có kiến thức, có các
kỹ năng cơ bản thì học sinh sẽ trình bày tốt lời giải một bài toán
Là giáo viên dạy toán, đã có 20 năm gắn bó với nghề trong quá trình giảng
dạy tôi luôn học hỏi đồng nghiệp và tìm tòi những phương pháp thích hợp để giúp
các em học sinh yêu thích và học tốt môn toán hơn, vững bước vào các kỳ thi, kiểm
tra và có kĩ năng vận dụng vào cuộc sống.
Vì vậy, tôi chọn đề tài “PHƯƠNG PHÁP PHÁT VẤN HỌC SINH TRONG
DẠY HỌC TOÁN 7 GIÚP HỌC SINH TIẾP CẬN VẤN ĐỀ CHÍNH XÁC ”
II. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu mong muôn sẽ giúp học sinh khắc phục được những yếu điểm đã
nêu về toán học từ đó đạt được kết quả cao khi giải bài toán nói riêng và đạt kết quả
cao trong quá trình học tập nói chung.
3
Ý nghĩa rất quan trọng mà đề tài đặt ra là: Tìm được một phương pháp tối ưu

nhất để trong quỹ thời gian cho phép hoàn thành được một hệ thống chương trình
quy định và nâng cao thêm về mặt kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo trong việc giải các
bài toán. Từ đó phát huy, khơi dậy, sử dụng hiệu quả kiến thức vốn có của học
sinh, gây hứng thú học tập cho các em.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Sáng kiến kinh nghiệm có nhiệm vụ giải đáp các câu hỏi khoa học sau đây:
- Kỹ năng là gì? Cơ chế hình thành kỹ năng là như thế nào?
- Những tình huống điển hình nào thường gặp trong quá trình giải quyết những
vấn đề liên quan.
- Trong quá trình giải quyết các vấn đề liên quan, học sinh thường gặp những
khó khăn và sai lầm nào?
- Những biện pháp sư phạm nào được sử dụng để rèn luyện cho học sinh kỹ
năng giải quyết các vấn đề liên quan?
- Kết quả của thực nghiệm sư phạm là như thế nào?
IV. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu:
- Các dạng toán về và phương pháp giảng dạy toán để giúp nâng cao hứng thú và
kết quả học tập của học sinh.
- Học sinh lớp trường THCS XXX
V. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, sáng kiến kinh nghiệm sử dụng những phương
pháp sau: Nghiên cứu lý luận, điều tra quan sát thực tiễn, thực nghiệm sư phạm.
Trên cơ sở phân tích kỹ nội dung chương trình của Bộ giáo dục và Đào tạo,
phân tích kỹ đối tượng học sinh (đặc thù, trình độ tiếp thu…). Bước đầu mạnh dạn
thay đổi ở từng tiết học, sau mỗi nội dung đều có kinh nghiệm về kết quả thu được
(nhận thức của học sinh, hứng thú nghe giảng, kết quả kiểm tra,…) và đi đến kết
luận.
4
Lựa chọn các ví dụ các bài tập cụ thể phân tích tỉ mỉ những sai lầm của học
sinh vận dụng hoạt động năng lực tư duy và kỹ năng vận dụng kiến thức của học
sinh để từ đó đưa ra lời giải đúng của bài toán.

5
PHẦN II. NỘI DUNG
I . CƠ SỞ LÝ LUẬN
Như chúng ta đã biết đối với học sinh không có gì có thể động viên các em
bằng tâm trạng thoả mãn có được khi trả lời đúng một câu hỏi và nhận lời khen của
giáo viên. Khi các em đang suy nghĩ vấn đề có nhiều hướng bế tắc, nếu được gợi ý
hướng giải quyết thì việc giải quyết vấn đề sẽ được tiến hành tốt đẹp hơn. Trong
quá trình dạy học, dạy cho học sinh cách tự học, tự giải quyết vấn đề là chủ yếu cho
nên việc trang bị cho học sinh hệ thống câu hỏi gợi ý để các em tự phát hiện và giải
quyết vấn đề là điều bức xúc. Vì vậy người giáo viên dạy toán phải nắm bắt đặc
điểm đối tượng học sinh để có thể đưa ra hệ thống câu hỏi và các gợi ý của mình để
dẫn dắt học sinh đi đến kiến thức mới
II. BIỆN PHÁP CỤ THỂ
Đặt câu hỏi là phương pháp rất quan trọng. Nếu không sử dung phương pháp
này, không thể làm cho học sinh thực sự hiểu bài và trang bị cho các em tư duy cấp
cao. Phương pháp này giúp cho học sinh vận dụng khái niệm, quy tắc, giúp cho
giáo viên kiểm tra và sửa lỗi cho học sinh ngay tại lớp;Cung cấp cho giáo viên
thông tin phản hồi để biết học sinh có hiểu bài hay không; Học sinh thấy câu hỏi và
câu trả lời là hoạt động thú vị sôi nổi
Định hướng đặt câu hỏi
1 . Kĩ năng đặt câu hỏi :
Khuyến khích cả lớp suy nghĩ để học sinh có thói quen động não.Hệ thống
câu hỏi từ đơn giản đến phức tạp

Ví dụ 1: Chứng minh định lí: “Ba đường phân giác của một tam giác
cùng đi qua một điểm. Điểm này cách đều ba cạnh của tam giác đó”.
-GV: Nêu câu hỏi gợi ý chứng minh
6
Kiến thức cũ Câu hỏi gợi mở Kết luận




A
B
C
+Vẽ
ABC∆
?
+Vẽ I là giao điểm hai đường phân giác góc B, C
+Vì sao IL=IH (1) ?
+Vì sao có IK=IH (2) ?
+Từ (1) và (2) suy ra điều gì ?
+Vì sao từ IL=IK lại suy ra được I nằm trên tia phân của góc A
+Vì sao I cách đều ba cạnh của
ABC∆

Ví dụ 2: Cho hai phân số
4
6

5
6
. Xét xem phân số nào lớn hơn
+Em hãy xác định phân số
4
6
bằng hình vẽ trên đoạn thẳng thứ nhất ?
+Xác định phân số
5
6

trên đoạn thẳng thứ hai ?
+Nhìn vào hình vẽ em hãy so sánh độ dài hai đoạn thẳng AB và CD ?
+Từ đó em rút ra được kết luận gì về việc so sánh hai phân số trên ?
2. Tính chất câu hỏi:

Câu hỏi phải rõ ràng, chính xác, không mơ hồ chung chung
7
C
B
I
H
K
L
A
2
1
B
A
1
D
C
2

Câu hỏi phải nêu bật được nội dung toán học cần giải quyết

Câu hỏi phải vừa sức suy nghĩ đối với học sinh
Giáo viên không nên hỏi những câu mà học sinh chỉ trả lời “có” hoặc
“không”, “đúng”hoặc “sai”
3. Đa dạng hoá các lọai câu hỏi


Câu hỏi đóng

Câu hỏi mở

Ví dụ 3: Điền các số 6; 12; 8; 36 vào chỗ trống và giải bài toán
Từ thị trấn A, lúc ……giờ, ông Hán đi xe đạp ra thành phố H với vận tốc
…….km/h. lúc ……Anh thành đi mô tô từ thị trấn A đến thành phố H với vận tốc
…….km/h. Hai người cùng đến thành phố H cùng một lúc, hỏi lúc đó là mấy giờ
và và thành phố H cách thị trấn A bao nhiêu kilômét?

Ví dụ 4: (Dạng loại trừ )
Hãy chỉ ra kết quả đúng trong số các kết quả đã cho,mà không tính kết quả
đó:
a) 11 495 : 95 bằng: A)90; B)230; C)121 (Đáp:
121)
b) 46 201 :47 bằng: A)1 102; B)983; C)1 024 (Đáp:
983)
c) 84
×
63 bằng: A)4 612; B)4 732; C)5 292 `
(Đáp:5292)
d) 198
×
42 bằng: A)8 526; B)8 316; C)8 234 (Đáp:
8316)
e) 35
×
107 bằng: A)3 475; B)3 647; C)3 745 (Đáp: 3745)
8
4. Cấp độ câu hỏi


Câu hỏi đơn thuần yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức nhằm củng cố kiến
thức mới học. Những câu hỏi này không giúp học sinh phát triển tư duy.

Ví dụ 5: Củng cố định lí ở ví dụ 1
Sử dụng các từ “giao điểm”, “cách đều”, “không cách đều” để điền vào chỗ
trống trong các câu sau:
+Điểm I là ….của ba đường phân giác của
DEF∆
+Điểm I ….ba đỉnh của
DEF∆
+Điểm I ….ba cạnh của
DEF∆

Dạng câu hỏi bậc cao: Nêu lý do, đánh giá, giải quyết vấn đề. Trong thực
tế, các kĩ năng suy nghĩ cấp cao thường tồn tại lâu dài bởi vì các kĩ năng này
thường mang tính thực tiễn nên hay được sử dụng

Ví dụ 6: Để giải quyết vấn đề “Khi nào thì AM + MB =AB ?” giáo viên
không cung cấp trực tiếp cho học sinh, mà nêu các tình huống -vấn đề, yêu cầu học
sinh tiến hành hoạt động xây dựng và tổ chức kiến thức nhằm đáp ứng tình huống
-vấn đề đặt ra.
*Hoạt động 1: Giáo viên nêu tình huống -vấn đề
+Vẽ ba điểm: A, M, B ?
+Kẻ các đoạn thẳng: AM, MB, AB?
+Đo các đoạn thẳng: AM, MB, AB?
+So sánh độ dài AM +MB với độ dài AB ?Rút ra nhận xét?
-Đây là một bài toán mở (Vẽ ba điểm tuỳ ý ). Giáo viên không đưa ra một
gợi ý nào về cách giải bài toán. Từ đó nảy sinh ra các chiến lược đa dạng về cách
vẽ ba điểm và do đó tạo cho học sinh một lưỡng lự. Từ chiến lược vẽ ba điểm. Học

sinh có những kết quả khác nhau sau khi thực hiện các hoạt động còn lại.
9
E
I
D
F
-Việc lựa chọn cách làm việc của học sinh không phải theo hình thức cá
nhân mà có thể theo nhóm tạo điều kiện để có thể trao đổi giữa các thành viên
trong từng nhóm, từ đó thấy được quan niệm khác nhau của học sinh về cách vẽ ba
điểm, dẫn dắt học sinh tiến hành hoạt động tìm tòi lời giải bài toán.
-Học sinh có thể nêu ra một số chiến lược về vẽ các điểm A, M, B, và các
đoạn thẳng AM, MB, AB như sau:
+)Ba điểm A, M, B thẳng hàng
+)Ba điểm A, M, B không thẳng hàng
-Từ những chiến lược vẽ ba điểm: Học sinh rút ra những nhận xét tương
ứng:
+)Ba điểm A, M, B thẳng hàng. Khi đó
o
Nếu M nằm giữa A và B thì AM +MB =AB (Hình a)
o
Nếu M không nằm giữa A và B thì AM +MB

AB (Hình c)
+)Ba điểm A, M, B không thẳng hàng thì AM + MB

AB (Hình b)
-Xét về mặt sư phạm:Tiến trình của tiết học phụ thuộc chủ yếu vào hoạt
động của các nhóm học sinh và những kiến thức sẵn có trước đó mà học sinh có thể
huy động được. Giáo viên đóng vai trò là người cố vấn, gợi ý, tháo gỡ một số hoạt
động học sinh gặp khó khăn trong việc giải quyết tình huống -vấn đề đặt ra

*Hoạt động 2: Giáo viên tạo điều kiện để học sinh tranh luận, thảo luận để đi
đến nhận xét về kết quả của hoạt động. Cuối cùng giáo viên xác nhận tri thức mới
cho học sinh. Ba điểm A, M, B thẳng hàng. Điểm nằm M giữa hai điểm A và B

AM + MB =AB
10
A
M
B
(a
)
(b
)
A
M
B
(c
)
M
A
B
*Hoạt động 3: Giáo viên yêu cầu học sinh vận dụng tri thức vừa học vào tình
huống cụ thể. Thực hiện xong các hoạt động trên học sinh nắm được tính chất:
“Nếu điểm M nằm giữa A và B thì AM + MB =AB, nếu AM +MB =AB thì điểm
M nằm giữa A và B “.Đó là một tiên đề về độ dài đoạn thẳng

Ví dụ 7: Tạo tình huống có vấn đề để cả lớp cùng suy nghĩ, học sinh động
não tư duy, phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề:
-Cho học sinh quan sát hình vẽ sau:
+Hình thang ABCD (AB//CD)trên có gì đặc biệt?

+Qua câu hỏi và hình tượng có sẵn học sinh dự đoán, mò mẫm, có thể đo đạc
để nhận biết
µ
µ
C D=

Ví dụ 8: Cho hai tam giác DEG và ACB như hình vẽ.
+
ABC∆
đồng dạng với
DEG∆
? Nếu có, hãy tính tỉ số đồng dạng ?
+
DEG∆
có đồng dạng với
ABC∆
không ? Nếu có, hãy tính tỉ số đồng
dạng ?
+Em có nhận xét gì về hai tỉ số đồng dạng ở hai câu trên ?
Để đi đến tính chất :
ABC∆
:

DEG∆
(theo tỉ số k)thì
DEG∆

:

ABC∆


(theo tỉ số
1
k
)

Ví dụ 9: Để hình hình thành công thức.
11
A
B
C
D
x
x
x
=





A

B

C

D

G


E

3

2.5

3.5

7.5

10.5

9

nếu x

0
nếu x<0
Giáo viên đặt hệ thống câu hỏi như sau:
a) Cho x =3.5 thì
x

=
….
Cho x=
4
7

thì

x
=….
b) Nếu x>0 thì
x
=….
Nếu x=0 thì
x
=….
Nếu x<0 thì
x
=….
c)Tóm tắt kết quả câu trong bảng sau:
nếu x

0
nếu x<0
12
x


=



PHẦN III. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Sau khi áp dụng các biện pháp sáng kiến trên, tôi nhận thấy hiệu quả đạt
được tăng lên rõ rệt, số lượng học sinh yếu kém giảm nhiều , tỷ lệ học sinh khá giỏi
tăng. Lớp học sôi nổi hào hứng, học sinh phát huy được tính tích cực sáng tạo. Kiến
thức đến với mỗi học sinh tự nhiên do vậy học sinh hiểu bài sâu sắc và nhớ lâu hơn.

Học sinh được rèn luyện tác phong làm việc luôn phải suy nghĩ, phải chú ý vận
dụng kiến thức cũ để hình thành kiến thức mới
Trong quá trình giảng dạy, mỗi giáo viên cần định ra cho mình một phương
pháp phù hợp với đặc trưng bộ môn do mình đảm nhiệm, để việc dạy và học tập đạt
kết quả cao. Theo tôi để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học
toán, người giáo viên cần tạo ra cho học sinh các tình huống có vấn đề để làm xuất
hiện ở học sinh nhu cầu nghiên cứu kiến thức mới. Muốn làm tốt điều này thì người
giáo viên phải chọn hệ thống câu hỏi gợi ý hợp lý để giúp học sinh phát hiện và giải
quyết vấn đề. Tăng cường các câu hỏi mà học sinh phải phán đoán và lựa chọn
Biết phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học toán,cũng như
khai thác được khả năng vô tận của các em thì kết quả học tập của các em sẽ nâng
cao rõ rệt. Chúng ta sẽ góp phần hình thành cho các em những phẩm chất năng
động, sáng tạo, những phẩm chất cần thiết cho con người phát triển toàn diện, để
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước và sự
nghiêp. “trồng người “
2. KIẾN NGHỊ
1. Với Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT
- Quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo
viên dạy toán. Nên tổ chức các hội thảo chuyên đề chuyên sâu cho giáo viên trong
tỉnh.
2. Với BGH nhà trường
- Hiện nay, nhà trường đã có một số sách tham khảo tuy nhiên có vẻ như
chưa đầy đủ. Vì vậy nhà trường cần quan tâm hơn nữa về việc trang bị thêm sách
tham khảo môn Toán để học sinh được tìm tòi, học tập khi giải toán để các em có
13
thể tránh được những sai lầm trong khi làm bài tập và nâng cao hứng thú, kết quả
học tập môn toán nói riêng, nâng cao kết quả học tập của học sinh nói chung.
3. Với PHHS
- Quan tâm việc tự học, tự làm bài tập ở nhà của con cái. Thường xuyên
kiểm tra sách, vở và việc soạn bài trước khi đến trường của các con

Trên đây là một vài kinh nghiệm mà bản thân tôi rút ra được trong quá trình
giảng dạy và nghiên cứu tài liệu, tuy nhiên còn rất nhiều hạn chế,tôi rất mong được
sự góp ý của các cấp lãnh đạo, để bản thân tôi được học hỏi và vận dụng tốt hơn
trong quá trình giảng dạy
14

×