Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARIXTỐT GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.78 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC



TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


Đề tài:
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARIXTỐT VÀ
NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ



Thực hiện: Nguyễn Thị Thu Hương
STT: 69
Lớp: CHKT K21 - Đêm 5
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa




Tp.HCM, Tháng 02 - 2012
MỤC LỤC

ĐỀ MỤC TRANG
1. PHẦN MỞ ĐẦU 1
2. NỘI DUNG CHÍNH 2
2.1 Những tư tưởng cơ bản 2
2.1.1 Siêu hình học 2
2.2.2 Quan niệm về nhận thức 3


2.2.3 Lôgích học 4
2.2.4 Thuyết vận động - cơ sở của Vật lý học 5
2.2.5 Quan niệm về sinh thể, con người và linh hồn 5
2.2.6 Quan niệm về đạo đức 6
2.2.7 Quan niệm về chính trị - xã hội 7
2.2.8 Thẩm mỹ học và những tư tưởng kinh tế học của Arixtốt 7
2.2.8.1 Thẩm mỹ học 7
2.2.8.2 Kinh tế học 7
2.2.1 Giá trị 8
2.2.2 Hạn chế 10
3. KẾT LUẬN 11
TÀI LIỆU THAM KHẢO 12


1

1. PHẦN MỞ ĐẦU
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu
dài và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ. Mặc dù xuất hiện trong điều kiện các tri
thức khoa học sơ khai, nhưng triết học Hy Lạp cổ đại đã đề cập hầu hết các vấn
đề cơ bản của triết học mà sau này các học thuyết triết học khác sẽ từng bước giải
quyết theo nội dung của thời đại mình, nó bao chứa mầm mống của tất cả thế giới
quan về sau này. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
giữa phép biện chứng và phép siêu hình được thể hiện rất rõ. Những thành tựu
triết học cơ bản của nó xứng đáng ghi một mốc son trong lịch sử triết học của
loài người.
Nổi bật lên trong các triết gia thời kỳ Hy Lạp cổ đại là Arixtốt. Ông là một
đại diện tiêu biểu của trào lưu triết học nhị nguyên đồng thời là người đã đưa triết
học Hy Lạp cổ đại lên đỉnh cao cực thịnh và trở thành “Bộ óc bách khoa” vĩ đại

nhất trong các bộ óc vĩ đại nhất của nền triết học Hy Lạp cổ đại.
Để tìm hiểu rõ hơn về triết học Arixtốt, chúng tôi quyết định thực hiện tiểu
luận: “Tư tưởng triết học cơ bản của Arixtốt và những giá trị, hạn chế của nó”.
Như vậy, có hai vấn đề chúng tôi đề cập tới: một là làm rõ tư tưởng triết học cơ
bản của Arixtốt, hai là làm nổi bật những giá trị và hạn chế của tư tưởng đó.
Về mặt tài liệu tham khảo, gồm 4 tài liệu chính sau đây:
Nguyễn Văn Dũng, 1996. Arixtốt với học thuyết phạm trù. Trung tâm
khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia - Viện triết học. Nhà xuất bản
Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
Bùi Văn Mưa và đtg, 2011. Triết học - Phần I Đại cương về lịch sử
triết học. Trường đại học kinh tế Tp.HCM.
Samuel Enoch Stumf, 1994. Lịch sử triết học và các luận đề (Đỗ Văn
Thuấn và Lưu Văn Hy dịch). Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội.
Tailieu, 2011. Triết học Arixtốt. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2011.
<
2

2. NỘI DUNG CHÍNH
2.1 Những tư tưởng cơ bản
2.1.1 Siêu hình học
Theo Arixtốt, để khám phá bản chất tồn tại đích thực, lý giải cụ thể các
vấn đề về nguồn gốc, bản chất của thế giới thì cần phải có siêu hình học, đây là
tác phẩm triết học quan trọng nhất của ông. Nó nghiên cứu những gì có tính chất
vĩnh hằng trong thế giới hiện thực, vì thế nó là nền tảng mọi lĩnh vực thế giới
quan khác của con người. Đối tượng nghiên cứu của siêu hình học là “những cái
thần thánh” trong đó có Thượng đế. Do vậy, ông còn gọi triết học là thần học.
Định nghĩa các vấn đề của siêu hình học
Tồn tại nghĩa là gì? Đây là câu hỏi Arixtốt quan tâm trong siêu hình học
làm cho siêu hình học trở nên “khoa học về mọi tồn tại xét như là cái tồn tại” [3,
78]. Vấn đề siêu hình học mà ông thấy chính là nghiên cứu cái hiện hữu cùng các

“nguyên lý” và “nguyên nhân” của nó.
Siêu hình học của Arixtốt chủ yếu phát sinh từ quan điểm của ông về
lôgích và sự quan tâm của ông về sinh vật học. Theo quan điểm lôgích học, “tồn
tại” hay “hiện hữu” có nghĩa là một cái gì đó có thể xác định được và vì vậy có
thể trở thành một chủ đề bàn luận. Theo quan điểm sinh vật học, “tồn tại” là một
cái gì đó bao hàm trong một quá trình hoạt động. Như vậy, siêu hình học gắn liền
với cái hiện hữu (nghĩa là thực thể tồn tại) và với các nguyên nhân của nó (nghĩa
là các quá trình làm cho các thực thể trở nên hiện hữu).
Thuyết nguyên nhân - cơ sở của siêu hình học
Arixtốt cho rằng, tồn tại nói chung phải xuất phát từ bốn nguyên nhân cơ
bản: vật chất, hình thức, vận động và mục đích. Trong đó, hình thức và vật chất
giữ vai trò quan trọng nhất (nhị nguyên luận), vận động và mục đích chỉ là những
khía cạnh khác nhau của nguyên nhân hình thức. Trong hai nguyên nhân cơ bản
vật chất và hình thức, Arixtốt cho rằng, hình thức có vai trò quyết định hơn so
với vật chất (nhất nguyên luận duy tâm), bởi nó là bản chất của sự vật. Mọi sự
vật trong thế giới đều là sự thống nhất giữa vật chất và hình thức. Mặt khác, ông
thừa nhận tồn tại cả “hình thức ban đầu” phi vật chất hoàn toàn thuộc về lĩnh vực
3

tư tưởng lẫn “vật chất ban đầu” phi hình thức - động cơ đầu tiên của thế giới làm
cho mọi vật đều có thể vận động được, đó là thượng đế hay trí tuệ thuần tính.
Như vậy, Arixtốt đã có sự dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm trong quan niệm về vật chất và hình thức. Khi chuyển từ lập trường nhị
nguyên sang duy tâm, Arixtốt đã rơi vào mục đích luận của thần học, thuyết
nguyên nhân của ông tiến gần và hòa nhập vào thuyết ý niệm của Platông.
2.2.2 Quan niệm về nhận thức
Học thuyết của Arixtốt về tri thức được xây dựng dựa trên nền tảng quan
niệm về thế giới của ông. Ông cho rằng, tất cả con người, về bản tính đều khát
vọng hướng đến tri thức, con người sinh ra để nhận thức, kẻ nào không nhận thức
kẻ đó không là người. Ông coi nhận thức là một quá trình xuất phát từ thực tại

khách quan trải qua giai đoạn cảm giác, biểu tượng để đến tư duy, lý luận. Sẽ
không có một tri thức nào nếu không có sự tác động của đối tượng nhận thức
(hiện tượng khách quan) vào giác quan (cơ sở của nhận thức). Nhận thức cảm
tính đó là giai đoạn đầu tiên, là điểm xuất phát của mọi quá trình nhận thức, nó
đem lại cho con người những hiểu biết xác thực và sinh động về sự vật đơn nhất,
nhưng nhận thức cảm tính không có khả năng đi sâu vào bản chất sự vật. Chỉ có
nhận thức lý tính (khái quát hóa, trừu tượng hóa ) mới khám phá được cái phổ
biến, tất yếu (quy luật, bản chất của sự vật).
Theo Arixtốt linh hồn của con người vừa mới sinh ra như một tấm bảng
trắng và nhận thức là quá trình ghi chép lên linh hồn những dòng tri thức, điều
này khác với Platông, Platông coi nhận thức là quá trình hồi tưởng lại. Đối với
Arixtốt, linh hồn lý tính phải được các trang bị các phương pháp suy nghĩ đúng
đắn, phải tuân thủ những yêu cầu của lôgích học để đạt được chân lý và tránh sai
lầm trong quá trình tìm hiểu bản chất, khám phá quy luật của hiện thực khách
quan.
Khoa học là một hệ thống tri thức phức tạp nhằm khám phá ra bản chất,
quy luật trong các sự vật, hiện tượng riêng lẻ để tích lũy tri thức. Aritốt chia khoa
học thành ba nhóm: khoa học thực hành (đạo đức học, chính trị học ), khoa học
4

sáng tạo (hùng biện, thi ca, nghệ thuật ) và khoa học tư biện - lý thuyết (siêu
hình học, vật lý học, toán học, lôgích học ).
2.2.3 Lôgích học
Arixtốt là người sáng lập môn lôgích học hình thức. Ông cũng sáng tạo ý
niệm về việc phân loại các khoa học. Đối với ông, có một mối tương quan mật
thiết giữa lôgích và khoa học như là công cụ để diễn tả các phân tích về khoa học
bằng ngôn ngữ thích hợp. Theo ông, lôgích học là dụng cụ phân tích tư duy con
người khi nó suy nghĩ về thực tại. Hiển nhiên, tư tưởng không luôn luôn phản
ánh chính xác thực tại, nhưng nhiệm vụ của lôgích học luôn luôn là làm việc
nhằm đạt tới một sự tương quan cân xứng hơn giữa ngôn ngữ và thực tại.

Ông đã xây dựng nên hệ thống các phạm trù như những hình thức của tư
tưởng: bản chất, vật chất và hình thức, số lượng và chất lượng, quan hệ, các
phạm trù vận động không gian (vị trí) và thời gian, các phạm trù khả năng và
hiện thực, các phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên, các phạm trù cái chung và cái
đơn nhất, phạm trù mục đích. Những phạm trù này là sự phân loại các khái niệm
được dùng trong nhận thức khoa học. Chúng là những cách thức biểu hiện
chuyên biệt của bất cứ sự vật nào tồn tại.
Ông cũng là người xây dựng phép tam đoạn luận (nếu A thuộc B, B thuộc
C, thì A thuộc C) dựa trên các quy luật cơ bản của tư duy lôgích: quy luật đồng
nhất, quy luật phi mâu thuẫn, quy luật triệt tam.
Ví dụ:
Đại tiền đề: Tất cả mọi người đều phải chết.
Tiểu tiền đề: Xôcrát là người.
Kết luận: Vậy, Xôcrát phải chết.
Học thuyết tam đoạn luận của Arixtốt là một công cụ để xác định những
tương quan nào giữa các tiền đề và kết luận là chặt chẽ, nhưng mối quan tâm
chính của ông khi triển khai học thuyết tam đoạn luận không chỉ nhằm mục đích
bảo đảm tính chặt chẽ của suy luận. Mục tiêu của ông là cung cấp một công cụ
cho việc chứng minh khoa học, vì thế ông nhấn mạnh mối tương quan giữa
5

lôgích học và siêu hình học, giữa cách nhận thức của chúng ta và bản chất của sự
vật là gì và hoạt động của nó ra sao.
Dưới con mắt Arixtốt, Thượng đế là một nhà lôgích lý tưởng.
2.2.4 Thuyết vận động - cơ sở của Vật lý học
Vật lý học được coi là “triết học thứ hai” được xây dựng trên nền tảng của
“triết học thứ nhất” là Siêu hình học. Arixtốt cho rằng, giới tự nhiên là toàn bộ
các sự vật, quá trình luôn vận động có liên hệ với nhau và được cấu thành từ một
bản thể vật chất. Vì thế, nghiên cứu vận động là điều kiện cần thiết để hiểu giới
tự nhiên. Vận động gồm sáu hình thức là phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái,

tăng, giảm, di chuyển vị trí. Coi vận động là mọi sự biến đổi chung, Arixtốt nhấn
mạnh việc không thể có vận động bên ngoài sự vật và thừa nhận cái hích đầu tiên
của Thượng đế nằm bên ngoài giới tự nhiên là nguồn gốc thần thánh của mọi vận
động xảy ra trong giới tự nhiên. Theo ông, vũ trụ là hữu hạn và khép kín về
không gian, vĩnh viễn về thời gian. Vạn vật trong vũ trụ từ Mặt Trăng trở xuống
Trái Đất đều được cấu thành từ bốn yếu tố vật chất (đất, nước, lửa, không khí)
mang bốn tính chất nguyên thủy (nóng, lạnh, khô và ẩm) luôn vận động (cưỡng
bức, thẳng) dựa trên nguyên lý vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ. Ông là người
khởi xướng ra thuyết địa tâm coi trái đất là hình cầu, là trung tâm của vũ trụ.
2.2.5 Quan niệm về sinh thể, con người và linh hồn
Arixtốt thấy rằng: “nhận thức linh hồn con người thúc đẩy mạnh mẽ nhận
thức mọi chân lý, nhất là nhận thức giới tự nhiên”. Dựa trên thuyết nguyên nhân,
ông cho rằng sinh thể và con người được hình thành từ thể xác và linh hồn.
Không có linh hồn bất tử, linh hồn trong cơ thể chết và cũng không có linh hồn
nằm bên ngoài thể xác vật chất. Ông phê phán quan điểm của Platông coi thể xác
chỉ là chỗ trú tạm thời của linh hồn bất tử.
Ông chia linh hồn thành ba loại: linh hồn thực vật khả tử thực hiện chức
năng nuôi dưỡng và sinh sản, linh hồn động vật khả tử thực hiện chức năng cảm
ứng với môi trường xung quanh, và linh hồn lý tính bất tử thực hiện chức năng
hoạt động nhận thức. Theo ông, con người là một sinh thể có lý trí. Trong thể xác
con người có đủ ba loại linh hồn trên, linh hồn thực vật và linh hồn động vật sẽ
6

mất đi khi con người chết đi, chỉ có linh hồn lý tính chứa tri thức vẫn tồn tại bất
diệt.
2.2.6 Quan niệm về đạo đức
Arixtốt xây dựng học thuyết về đạo đức dựa vào tâm lý học, coi đạo đức
học là sự mở rộng nhận thức vào lĩnh vực hành vi con người. Học thuyết đạo đức
của Arixtốt xoay quanh niềm tin, ông cho rằng con người giống như mọi sự vật
khác trong thiên nhiên, có một “mục đích” đặc trưng phải đạt tới hay một chức

năng phải hoàn thành. Vì vậy, lý thuyết đạo đức của ông được gọi là mục đích
luận. Ông mở đầu đạo đức học Nichomachus bằng câu: “Mọi nghệ thuật và mọi
sự tìm tòi, cũng như mọi hành động và mọi sự theo đuổi, đều được nghĩ là nhắm
tới một cái thiện nào đó…” [3, 85]. Nguyên lý về cái thiện và đúng được ghi tạc
trong lòng mỗi người. Nguyên lý này có thể được khám phá ra nhờ nghiên cứu
bản chất cốt yếu của loài người và có thể đạt tới qua hành vi cư xử thực tế trong
đời sống hằng ngày. Trong đạo đức học, ông đặc biệt quan tâm đến vấn đề phẩm
hạnh. Phẩm hạnh là cái tốt đẹp nhất, là lợi ích tối cao mà mọi công dân cần phải
có.
Arixtốt chia phẩm hạnh làm hai loại:
Phẩm hạnh lý tính: phẩm hạnh của con người có được nhờ vào việc
hiểu thấu và làm theo chân lý. Phẩm hạnh lý tính có được nhờ vào
giáo dục.
Phẩm hạnh luân lý: mọi phẩm hạnh phát sinh do tập quán, phẩm
hạnh luân lý có được nhờ vào thói quen làm theo lẽ đời thường.
Các phẩm hạnh luân lý cốt yếu là: can đảm, tiết độ, công bằng,
khôn ngoan, cao thượng, hào phóng, bằng hữu và tự trọng.
Phẩm hạnh của con người thể hiện ở quan niệm về hạnh phúc. Theo
Arixtốt hạnh phúc là mục đích mà một mình nó đủ đáp ứng mọi yêu cầu để là
mục đích cuối cùng của hành vi con người. Hạnh phúc của con người gắn liền
với hoạt động nhận thức. Hạnh phúc bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan (sự khôn
ngoan của lý trí, đức hạnh trong hành vi…) và điều kiện khách quan (tiền bạc,
sức khỏe, tình bạn…).
7

2.2.7 Quan niệm về chính trị - xã hội
Trong chính trị học, cũng như trong đạo đức học, Arixtốt nhấn mạnh yếu
tố mục đích. Con người là một sinh vật xã hội, bản tính là sống cộng đồng. Nhà
nước là một hình thức giao tiếp cộng đồng cao nhất. Nhà nước tồn tại để duy trì
sự sống cho các gia đình và làng xóm. Sứ mạng của nhà nước là đảm bảo hạnh

phúc và công lý cho mọi người (trừ nô lệ) dựa trên sự thống trị. Thể chế chính trị
là trật tự làm cơ sở để phân bố chính quyền nhà nước. Thể chế chính trị điều
hành và quản lý xã hội về ba phương diện: lập pháp, hành chính và xét xử.
Theo ông chế độ chính trị tốt nhất là chế độ cộng hòa chính trị, chính
quyền nên thuộc về tầng lớp chủ nô trung lưu.
2.2.8 Thẩm mỹ học và những tư tưởng kinh tế học của Arixtốt
2.2.8.1 Thẩm mỹ học
Arixtốt khẳng định giá trị nhận thức của nghệ thuật, và nói rằng vì nghệ
thuật thật sự mô phỏng thiên nhiên nên nó truyền đạt thông tin về thiên nhiên.
Nghệ thuật phát minh do nhu cầu của con người muốn diễn tả những cảm nghĩ,
cảm giác của mình. Mục đích của nghệ thuật là diễn tả ý nghĩa bên trong của sự
vật.
Ngoài giá trị nhận thức của nó, nghệ thuật còn có một ý nghĩa tâm lý quan
trọng. Một đằng, nghệ thuật phản ánh một khía cạnh thâm sâu của bản chất con
người là cái phân biệt con người với con vật, và đó chính là khă năng bắt chước.
Ngoài bản năng này, còn có sự kiện là con người cảm thấy vui thú khi đứng
trước nghệ thuật.
Trong số các dạng nghệ thuật, Arixtốt đặc biệt đề cao thơ ca, coi đó là
ngôn ngữ nói chung. Nó bao hàm cả sử thi hài kịch, bi kịch Mỗi dạng nghệ
thuật có một dạng và tính chất mô phỏng khác nhau.
2.2.8.2 Kinh tế học
Arixtốt có những quan điểm kinh tế học rất sâu sắc. C.Mác dã gọi ông là
nhà nghiên cứu vĩ đại, lần đầu tiên trong lịch sử đã hiểu được hình thức giá trị
của trao đổi. Ông đã nghiên cứu những hiện tượng của đời sống xã hội như: phân
công lao động, hàng hóa, trao đổi, phân phối… và đã tìm ra mối quan hệ giữa
8

trao đổi với phân công lao động, sự phân ra gia đình nguyên thủy thành những
gia đình nhỏ. Tư tưởng độc quyền và giá cả độc quyền đã xuất hiện trong học
thuyết kinh tế của ông.

2.2 Những giá trị và hạn chế
2.2.1 Giá trị
Arixtốt là người đầu tiên tổng kết và hệ thống hóa tư tưởng triết học trong
lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại với một sự chính xác đến mức kinh ngạc. Ông
không những có công trong việc tổng kết tư trưởng triết học, làm sống lại những
tư tưởng của các bậc tiền bối, mà còn là người tổ chức, định hướng cho công tác
nghiên cứu và phát triển triết học của những người kế tục ông.
Là bộ óc bách khoa, Arixtốt đã nghiên cứu nhiều ngành khoa học: triết
học, lôgích học, tâm lý học, khoa học tự nhiên, sử học, chính trị học, đạo đức
học và mỹ học.
Arixtốt đã có những nghiên cứu sâu sắc về phép biện chứng. Phép biện
chứng của Arixtốt ngoài sự thể hiện ở các quan niệm về các vật thể tự nhiên và
sự vận động của chúng, còn thể hiện rõ trong sự giải thích về cái riêng và cái
chung. Ông có nhiều tư tưởng biện chứng sâu sắc về mối quan hệ giữa vật chất
và hình dạng, khả năng và hiện thực, thực thể và cơ chất, … coi các sự vật đang
tồn tại và bản chất được cấu thành từ các mặt đối lập.
Ông là người đầu tiên đã xây dựng một hệ thống các phạm trù. Trong hệ
thống phạm trù của Arixtốt ta thấy còn mang nhiều nét trực quan và cảm tính, có
sự dao động giữa biện chứng và siêu hình, giữa duy vật và duy tâm, song những
vấn đề mà ông đặt ra và giải quyết thường thiên về hướng những quan điểm duy
vật và biện chứng. Đây là một tiến bộ đáng kể. Việc Arixtốt vạch ra mối quan hệ
có tính chất biện chứng giữa các phạm trù đã góp phần to lớn vào sự phát triển
phép biện chứng chất phác của người Hy Lạp cổ đại nói riêng và phép biện
chứng nói chung.
Arixtốt đã sử dụng phương pháp lôgích để diễn đạt quan điểm của mình.
Tuy mới đề cập được một số nguyên tắc của tư duy lôgích, nhưng Arixtốt được
coi là người sáng tạo ra lôgích hình thức cổ điển. Những nguyên tắc lôgích học
9

của ông, sau này được Ph.Bêcơn, R.Đềcáctơ và các nhà triết học cổ điển Đức kế

thừa và phát triển lên một trình độ cao hơn.
Công lao của Arixtốt là tìm ra một phương pháp mới: phương pháp thống
nhất lôgích lịch sử trong nghiên cứu lịch sử triết học. Arixtốt không chỉ nghiên
cứu những quy luật lôgích của tư duy con người, mà còn xác lập phong cách
khoa học để xem xét các vấn đề triết học.
Nghiên cứu siêu hình học của ông, chúng ta thấy ông coi lịch sử của tư
tưởng triết học chính là lịch sử con người đi tìm chân lý. Theo ông, tìm chân lý
trong một mối quan hệ là rất khó, nhưng trong nhiều mối quan hệ thì dễ hơn.
Việc tìm chân lý trong lịch sử xã hội không thể dựa vào một vài sự kiện mà cần
phải có sự khảo sát công phu từ nhiều góc độ khác nhau với nhiều sự kiện khác
nhau.
Nhận thức luận của Arixtốt chứa đựng các yếu tố cảm giác luận và kinh
nghiệm luận có khuynh hướng duy vật. Trong lý luận nhận thức của mình, ông
thừa nhận thế giới khách quan là đối tượng nhận thức, là nguồn gốc, kinh nghiệm
và cảm giác. Ở đây, Arixtốt đã thừa nhận tính khách quan của thế giới.
Arixtốt là học trò xuất sắc của Platông, nhưng chính ông lại nhận ra sai
lầm của thầy học mình về học thuyết “ý niệm”. Theo Arixtốt, ý niệm của platông
là không có lợi cho nhận thức của con người, vì nó thuộc về thế giới bên kia - là
cái phi thực thể, do đó nó không có lợi cho cắt nghĩa tri thức về các sự vật của
thế giới quanh ta, dựa vào nó con người không thể nhận biết được thế giới bên
ngoài.
Ông còn phê phán những quan những sai lầm trong học thuyết “con số”
của pitago, chống lại sự đồng nhất giữa cái tồn tại và cái không tồn tại của
pắcmênít.
Tư tưởng giáo dục của ông có nhiều tiến bộ, hệ thống giáo dục hướng tới
là một nền giáo dục thường trực, thường xuyên, liên tục, bao trùm và kéo dài suốt
đời người.
10

2.2.2 Hạn chế

Triết học Arixtốt thể hiện thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp chủ nô
thống trị. Nó là công cụ lý luận của chủ nô nhằm duy trì trật tự xã hội theo kiểu
chiếm hữu nô lệ, bảo vệ sự thống trị của giai cấp chủ nô.
Các quan niệm của ông không nhất quán, dao động giữa lập trường duy
vật và duy tâm. Ví dụ như quan niệm về giới tự nhiên, theo ông vừa là vật, cơ sở
của mọi sinh tồn, vừa là hình dáng (cái đưa từ bên ngoài vật chất). Nhận thức của
con người là thu nhận hình dáng chứ không phải chính sự vật; …
Học thuyết của Arixtốt về các phạm trù còn mang tính trực quan và cảm
tính, số lượng các phạm trù được ông xem xét còn rất hạn chế.
Sai lầm có tính chất duy tâm của Arixtốt trong lý luận nhận thức là thần
thánh hóa nhận thức lý tính, coi nó như là chức năng của linh hồn, của thượng đế.
Từ chỗ chưa hiểu đúng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, vật chất và hình
dạng, Arixtốt chưa hoàn toàn thoát khỏi lập trường duy tâm trong quan niệm về
vật chất và tinh thần.
Do hạn chế lịch sử, việc phân loại các khoa học ở Arixtốt mang nặng tính
thơ ngây và cảm tính. Vì thế, không nhìn thấy mối liên hệ giữa các dạng khoa
học, coi thường khoa học thực tiễn, đề cao các khoa học tư biện.
Vật lý học và vũ trụ học của Arixtốt có nhiều tư tưởng duy tâm: vũ trụ là
hữu hạn và khép kín về không gian, vĩnh viễn về thời gian; ông coi trái đất là
hình cầu, là trung tâm của vũ trụ; vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ; ông còn quan
niệm có một loại nguyên tử thứ năm mang đầy chất linh thiêng được ông gọi là
ê-te cùng kết hợp với bốn hành chất: đất, nước, lửa và không khí cùng cấu tạo
nên sự vật…
11

3. KẾT LUẬN
Triết học Arixtốt đã kết thúc giai đoạn thứ hai - giai đoạn phát triển rực rỡ
nhất, nhưng phức tạp nhất của lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại (thế kỷ V - IV Tr.
CN). Tuy còn những hạn chế, dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm, nhưng Arixtốt đã mở ra một chân trời mênh mông của khoa học và triết học

Hy Lạp nói riêng, cũng như nhân loại nói chung.
Arixtốt đã để lại cho hậu thế một di sản triết học đồ sộ mà trong đó những
luận giải của ông về các phạm trù đã được nhiều người coi là một học thuyết có
giá trị.
Điểm nổi bật của Arixtốt là dám mạnh dạn phê phán học thuyết “ý niệm”
của thầy mình - Platông. Ông đã sử dụng tư duy lôgích để diễn đạt quan điểm của
mình.
Arixtốt đã được nhiều triết gia lớn đánh giá cao. Hêghen nhận xét: “Trí tuệ
của Arixtốt đã thấm sâu vào mọi mặt và mọi lĩnh vực của thế giới hiện thực”.
(Hêghen. Các tác phẩm. T.10. Mátxcơva, 1932, tr.224 (tiếng Nga)). Khi so sánh
Arixtốt với các nhà triết học khác, Ph.Ănghen đã gọi ông là “Bộ óc bách khoa
nhất trong các nhà triết học ấy” (C.Mác và Ph.Ănghen. Tuyển tập (gồm 6 tập),
T.V. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1983, tr.34 và tr.581.). C.Mác ví ông như
“Alếchxanđrơ Mêxêđoan của triết học Hy Lạp” (C.Mác và Ph.Ănghen. Từ những
tác phẩm đầu tay. Mátxcơva, 1956, tr.27 (tiếng Nga)).

12

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Văn Dũng, 1996. Arixtốt với học thuyết phạm trù. Trung tâm khoa học
xã hội và nhân văn Quốc gia - Viện triết học. Nhà xuất bản Khoa Học Xã
Hội, Hà Nội.

2. Bùi Văn Mưa và đtg, 2011. Triết học - Phần I Đại cương về lịch sử triết học.
Trường đại học kinh tế Tp.HCM.

3. Samuel Enoch Stumf, 1994. Lịch sử triết học và các luận đề (Đỗ Văn Thuấn
và Lưu Văn Hy dịch). Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội.


4. Tailieu, 2011. Triết học Arixtốt. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2011.
<





×