Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

đánh giá khả năng sinh trưởng và năng suất của một số loài phụ japonica tại huyện yên thế, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771.96 KB, 86 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
–––––––––––––––––





NGUYỄN XUÂN HẢI





ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG VÀ NĂNG SUẤT
CỦA MỘT SỐ GIỐNG LÚA THUỘC LOÀI PHỤ JAPONICA
TẠI HUYỆN YÊN THẾ, TỈNH BẮC GIANG







LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP













THÁI NGUYÊN - 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





NGUYỄN XUÂN HẢI




ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG VÀ NĂNG SUẤT
CỦA MỘT SỐ GIỐNG LÚA THUỘC LOÀI PHỤ JAPONICA
TẠI HUYỆN YÊN THẾ, TỈNH BẮC GIANG

Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 60 62 01 10





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Hữu Hồng
2. TS Đặng Quý Nhân








THÁI NGUYÊN - 2013

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng cho bảo vệ một học vị nào, mọi
sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn này đều đã được cảm ơn, các thông
tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả



Nguyễn Xuân Hải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ii
LỜI CẢM ƠN


Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài từ năm 2012 đến năm 2013,
tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Ban Giám Hiệu nhà trường, Phòng
quản lý đào tạo Sau Đại Học, Khoa nông học, Viện khoa học sự sống, cùng
các thầy cô giáo và sinh viên Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên; các
Phòng, Ban ngành của huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Tôi xin trân trọng
cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Hữu Hồng, TS. Đặng Quý Nhân, Trường Đại học Nông lâm
Thái Nguyên là những người thầy đã tận tình trực tiếp hướng dẫn tôi thực
hiện đề tài và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn Phòng Nông nghiệp & PTNT, Chi cục Thống kê
huyện Yên Thế, các bạn đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi để luận văn
của tôi sớm được hoàn thành.
Do khả năng và điều kiện thời gian có hạn, luận văn này khó tránh khỏi
còn có những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của
đồng nghiệp, bạn đọc và xin trân trọng cảm ơn.
Tác giả


Nguyễn Xuân Hải








Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

iii
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu của đề tài 3
2.1 Mục tiêu tổng quát 3
2.2 Mục tiêu cụ thể: 4
3. Ý nghĩa của đề tài 4
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 5
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 5
1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa trên thế giới 7
1.2.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới 7
1.2.2. Tình hình nghiên cứu giống lúa trên Thế giới 11
1.2.3. Tình hình nghiên cứu giống lúa thuộc loài phụ Japonica trên thế giới
18
1.3. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa ở Việt Nam 19
1.3.1. Tình hình sản xuất lúa trong nước 19
1.3.2. Tình hình nghiên cứu lúa ở Việt Nam 24
1.3.3. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống lúa chất lượng ở Việt Nam 27
1.3.4. Tình hình sản xuất lúa gạo chất lượng cao ở Việt Nam 30

1.3.5. Tình hình nhập nội và sản xuất giống lúa thuộc loài phụ Japonica
31
Chƣơng 2 ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 33
2.1. Đối tượng, nội dung và địa điểm nghiên cứu 33
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu 33
2.1.2. Nội dung nghiên cứu 33
2.1.3.Thời gian, địa điểm tiến hành nghiên cứu 34
2.2. Bố trí thí nghiệm 34
2.3 Các chỉ tiêu cần theo dõi: 35

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

iv
2.3.1. Chỉ tiêu chất lượng mạ 35
2.3.2. Chỉ tiêu về khả năng đẻ nhánh 35
2.3.3. Chiều cao cây cuối cùng 36
2.3.4. Các chỉ tiêu về sâu bệnh hại 36
2.3.5. Tính chịu lạnh ở giai đoạn mạ 38
2.3.6. Tính chống đổ 39
2.3.7. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất: 39
2.3.8. Đánh giá phẩm chất, chất lượng các giống lúa 39
2.4. Phương pháp sử lý số liệu 41
Chƣơng 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 42
3.1. Đặc điểm khí hậu thời tiết vụ mùa 2012 và vụ xuân năm 2013 tại
huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang 42
3.1.1. Nhiệt độ 43
3.1.2. Lượng mưa 44
3.1.3. Ẩm độ không khí 44
3.2. Khả năng sinh trưởng và phát triển của các giống lúa thí nghiệm vụ

mùa 2012 và vụ Xuân 2013 tại huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang. 45
3.2.1. Các thời kỳ sinh trưởng, phát triển của các giống lúa thí nghiệm 47
3.2.2. Chiều cao cây của các giống lúa thí nghiệm 49
3.2.3. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm 50
3.2.4. Khả năng chống chịu sâu bệnh chính hại lúa 52
3.2.5. Các yếu tố cấu thành năng suất lúa 55
3.3. Phẩm chất và chất lượng các giống lúa 61
3.3.1 Chất lượng xay sát 62
3.3.2 Chất lượng thương trường 63
3.3.3. Chất lượng chế biến (chất lượng cơm) 64
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 65
1. Kết luận 65
2. Đề nghị 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NSLT : Năng suất lý thuyết
NSTT : Năng suất thực thu
Đ/c : Đối chứng
TGST : Thời gian sinh trưởng
LSD : Sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa
CV : Hệ số biến động


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


vi
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa trên Thế giới qua các năm 9
Bảng 1.2. Các quốc gia có diện tích sản xuất lúa lớn nhất Thế giới 10
Bảng 1.3 Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Việt Nam giai đoạn
2000 – 2011 23
Bảng 3.1. Diễn biến thời tiết khí hậu năm 2012, 2013 tại huyện Yên Thê,
tỉnh Bắc Giang 43
Bảng 3.2. Chất lượng mạ của các giống lúa thí nghiệm 45
Bảng 3.3. Các thời kỳ sinh trưởng, phát triển các giống lúa 48
Bảng 3.4. Chiều cao cây cuối cùng của các giống lúa thí nghiệm 50
Bảng 3.5. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm vụ mùa 2012 50
Bảng 3.6. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm vụ Xuân 2013 51
Bảng 3.7. Tình hình sâu bệnh hại các giống lúa thí nghiệm 53
Bảng 3.8. Các yếu tố cấu thành và năng suất của các giống lúa thí
nghiệm vụ Mùa 2012 55
Bảng 3.9. Các yếu tố cấu thành và năng suất của các giống lúa thí nghiệm
vụ Xuân 2013 57
Bảng 3.10. Chất lượng gạo của các giống lúa tham gia thí nghiệm 62











Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

1
MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Cây lúa (Oryza sativa L.) là cây lương thực quan trọng nhất của nước ta
và một số nước trên Thế giới, diện tích dành cho gieo trồng lúa gạo hàng năm
trên Thế giới khoảng 160 triệu ha, sản lượng thóc trên 700 triệu tấn. Trong đó
châu Á là nơi sản xuất và cũng là nơi tiêu thụ đến 90% sản lượng gạo trên
Thế giới. Ở những nước sử dụng lúa gạo làm lương thực việc phát triển cây
lúa được coi là chiến lược quan trọng trong nền sản xuất nông nghiệp. Lúa
gạo cũng là cây lượng thực chính góp phần vào đảm bảo an ninh lương thực
trên toàn Thế giới. Theo FAO, nước xuất khẩu gạo lớn nhất Thế giới là Thái
Lan (hàng năm xuất từ 8 - 9 triệu tấn), thứ nhì là Việt Nam ( xuất khẩu
khoảng 7,5 triệu tấn), còn lại là các nước Mỹ, Pakistan, Ấn Độ hàng năm xuất
khẩu khoảng trên 4 triệu tấn. Trong tương lai xu thế sử dụng lúa gạo để ăn sẽ còn
tăng hơn vì đây là loại lương thực dễ bảo quản, dễ chế biến và cho năng lượng
khá cao. Đặc biệt đối với dân nghèo gạo vẫn là nguồn thức ăn chủ yếu.
Ở Việt Nam mặc dù diện tích đất tự nhiên cũng như đất trồng lúa không
lớn nhưng Việt Nam không những sản xuất lương thực đủ đảm bảo an ninh
lương thực Quốc gia mà còn vươn lên thành nước xuất khẩu đứng thứ 2 Thế
giới. Tuy nhiên, so với các nước khác thì chất lượng gạo Việt Nam còn thấp
chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng đối với một số thị trường khó tính
như Nhật Bản, Hàn Quốc và giá gạo xuất khẩu của nước ta thấp hơn với giá
gạo của Thái Lan. Nguyên nhân do trình độ sản xuất của nước ta còn thấp và
chỉ chú ý tác động các biện pháp kỹ thuật để nâng cao năng suất mà chưa chú
ý đến vấn đề chất lượng; gạo Thái Lan có giá bán cao là do họ sử dụng giống
bản địa có thời gian sinh trưởng dài ngày nên có chất lượng gạo cao.
Để nâng cao chất lượng lúa gạo Việt Nam, nhằm đẩy mạnh giá trị xuất

khẩu và đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của một số thị trường khó tính trên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

2
Thế giới, đồng thời có thể khai thác triệt để tiềm năng đất đai, khí hậu của
vùng trung du, miền núi phía Bắc, ngoài tác động các biện pháp kỹ thuật thâm
canh như bón phân, tưới nước, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hợp lý thì việc
sử dụng giống lúa có chất lượng cao phù hợp với điều kiện sinh thái của vùng
và đáp ứng yêu cầu của thị trường cũng rất quan trọng.
Công tác chọn tạo giống lúa của nước ta trong những năm gần đây đã thu
được nhiều thành tích đáng kể. Trong thời gian qua các giống mới đã được
nghiên cứu và ứng dụng phục vụ cho nhu cầu đa dạng của sản xuất. Từ sử
dụng các giống nhập nội đến giống lai đều nhằm mục đích tạo ra giống mới
có năng suất cao, sinh trưởng tốt và phù hợp với điều kiện sản xuất. Do thích
ứng với phong thổ, đặc biệt về nhiệt độ, lúa O.sativa L. đã được tiến hóa làm
hai nhóm: lúa Indica thường trồng ở khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, có
thân cao, dễ đổ ngã, nhiều chồi, lá ít xanh, cong và kháng được nhiều sâu
bệnh nhiệt đới, hạt gạo dài hoặc trung bình, có nhiều tinh bột, năng suất kém
hơn lúa Japonica; lúa Japonica thường được trồng ở những vùng ôn đới hoặc
những nơi có độ cao trên 1.700 m (trên mặt biển), có thân ngắn, chống đổ
ngã, lá xanh đậm, thẳng đứng, ít chồi, hạt gạo thường tròn, ngắn hoặc trung
bình, và dẻo khi nấu vì hàm lượng amilopectin cao.
Yên Thế là huyện miền núi, nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Bắc Giang với
tổng diện tích tự nhiên là 30.141,31 ha trong đó đất lâm nghiệp có 14.599,16
ha chiếm 48,43% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện, đất sản xuất nông
nghiệp có 9.057,83 ha chiếm 30,05% diện tích tự nhiên.
Trên địa bàn huyện có một số địa phương đã thử nghiệm gieo trồng lúa
chất lượng cao với quy mô nhỏ hẹp với tổng diện tích ước khoảng 300
ha/năm, cấy chủ yếu bằng các giống như: HT1, Bắc thơm số 7 , số lượng này

chỉ đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng tại chỗ từ 5-10%, còn lại toàn bộ lượng
thiếu hụt phải nhập từ các tỉnh lân cận khác.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

3
Cơ cấu giống lúa nhất là giống chất lượng có giá thành cao, có hiệu quả
kinh tế tại địa bàn huyện còn đơn điệu, chưa có nhiều giống có năng suất cao,
chất lượng tốt phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, ổn định và có thể sản
xuất bền vững, đảm bảo đáp ứng được mục tiêu chung của xã hội.
Mục tiêu phấn đấu trong thời gian tới là góp phần nâng cao thu nhập cho
nông dân trên đơn vị diện tích, thực hiện thành công chủ trương chuyển dịch
cơ cấu cây trồng trong vụ Xuân và vụ Mùa tiến tới khai thác các cây trồng vụ
Đông, xây dựng thành công mô hình những cánh đồng mẫu, cánh đồng thu
nhập cao theo phong trào thi đua mà ngành nông nghiệp phát động.
Để thực hiện chủ trương của Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Yên Thế
về thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng “sản xuất
nông lâm nghiệp hàng hóa” (6 cây 4 con), trong đó mở rộng diện tích gieo cây
lúa có triển vọng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích, góp
phần cung cấp lương thực lúa gạo chất lượng phục vụ cho tiêu dùng tại chỗ.
Theo hướng đó huyện Yên Thế cũng cần có vùng chuyên canh gieo cấy lúa
triển vọng về năng suất khá và chất lượng tốt, có hiệu quả kinh tế, để thoả
mãn cho nhu cầu tiêu dùng tại chỗ và cung cấp cho một số tỉnh lân cận và có
thể tham gia vào chương trình xuất khẩu chung của toàn ngành. Tuy nhiên
muốn làm được điều đó, trước hết cần phải có nghiên cứu thử nghiệm ban đầu
để làm mô hình khuyến cáo mở rộng.
Xuất phát từ tình hình trên chúng tôi thực hiện đề tài:"Đánh giá khả
năng sinh trưởng, năng suất của một số giống lúa chất lượng thuộc loài
phụ Japonica tại huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang".
2. Mục tiêu của đề tài

2.1 Mục tiêu tổng quát
Xác định được giống lúa mang nhiều đặc tính tốt của loài phụ Japonica
có khả năng cho năng suất, chất lượng cao, tính chống chịu tốt và phù hợp với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

4
điều kiện sản xuất lúa tại huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang để khuyến cáo phát
triển bổ sung cơ cấu giống lúa của địa phương.
2.2 Mục tiêu cụ thể:
- Đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của một số giống lúa chất
lượng thuộc loài phụ Japonica trong vụ mùa 2012 và vụ xuân 2013
- Đánh giá khả năng chống chịu sâu, bệnh của các giống lúa thuần thuộc
loài phụ Japonica trong vụ mùa 2012 và vụ xuân 2013.
- Đánh giá khả năng cho năng suất của các giống lúa thí nghiệm trong vụ
mùa 2012 và vụ xuân 2013.
- Đánh giá chất lượng gạo bằng phương pháp đánh giá cảm quan.
3. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa khoa học
- Nghiên cứu xác định được thời gian sinh trưởng, phát triển, khả năng
thích ứng của các giống lúa thuần thuộc loài phụ Japonica.
- Là cơ sở cho việc đề xuất chuyển dịch cơ cấu giống cây trồng theo
hướng sản xuất hàng hoá.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Lựa chọn được một vài giống lúa có chất lượng, có hiệu quả kinh tế
cao, khuyến cáo nhân rộng mô hình với quy mô hợp lý.
- Góp phần định hướng cho nông dân chuyển từ sản xuất tự cung, tự cấp,
sang sản xuất hàng hoá.
- Đa dạng hoá thêm các giống lúa chất lượng tại địa phương.
- Đề tài mang tính ứng dụng cao, được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất,

góp phần làm thay đổi tập quán sản xuất tự cung, tự cấp, chuyển sang sản
xuất hàng hoá của nông dân.





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Trong điều kiện tự nhiên sẵn có phải đánh giá chon lọc giống phù hợp
với sinh thái địa phương. Vì vậy một trong những biện pháp kinh tế kỹ thuật
nhằm tận dụng các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, là bố trí cơ cấu cây
trồng phù hợp với một vùng hay một đơn vị sản xuất nông nghiệp. Trong việc
xác định giống cây trồng hợp lý đạt hiệu quả kinh tế cao, đất đai là một trong
những căn cứ quan trọng sau điều kiện khí hậu, cho nên cần phải nắm vững
mối quan hệ giữa một nhóm cây trồng với đặc điểm đất đai thì mới xác định
được cơ cấu cây trồng hợp lý, đạt hiệu quả kinh tế cao.
Giống là tư liệu sản xuất vô cùng quan trọng trong sản xuất nông nghiệp,
cũng như đất đai, phân bón và công cụ sản xuất.Nếu không có giống thì
không thể sản xuất ra một loại nông sản nào. Ngày nay, quan niệm “nhất
nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” đã không còn phù hợp nữa. Nếu xếp giống
vào hệ thống các khâu kỹ thuật canh tác thì giống tốt phảiđược xếp vào vị trí
trung tâm. Trong những năm gần đây, sản lượng lươngthực ở một số nước tăng
lên khá nhanh, chủ yếu nhờ áp dụng trên quy mô lớn các biện pháp kỹ thuật
nông nghiệp thích hợp mà chủ yếu là cải tiếngiống. Vì giống lúa là một trong

những điều kiện quyết định đến năng suấtvà phẩm chất của sản phẩm thu hoạch.
Theo Thanh Tri-1987 [20] giống lúa là một trong những biện pháp quan
trọng trong việc tăng năng suất sản lượng lương thực, trong thực tiễn sản xuất
ở nhiều địa phương nếu có cơ cấu giống phù hợp với điều kiện tự nhiên và sử
dụng loại giống có độ thuần cao, phẩm chất giống tốt thì có thể nâng cao được
năng suất lúa lên từ 15-20% trở lên .
Các giống lúa khác nhau có khả năng thích ứng với điều kiện sinh thái,
thổ nhưỡng ở mỗi vùng khác nhau. Để xác định được giống tốt cho một vùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

6
sản xuất nào đó cần phải tiến hành khảo nghiệm, gieo cấy thử nghiệm qua
một vài vụ sản xuất để đánh giá khả năng thích ứng của giống đó. Do đó việc
xác định tính thích nghi của giống nào đó trước khi đưa ra sản xuất trên diện
tích rộng phải tiến hành bố trí gieo trồng tại nhiều vùng có đặc điểm sinh thái
khác nhau nhằm đánh giá khả năng thích ứng, độ đồng đều, tính ổn định, khả
năng chống chịu sâu, bệnh, mức độ chịu đất chua mặn, khả năng cho năng
suất, hiệu quả kinh tế của giống đó so với các giống đang gieo trồng đại trà
hiện có tại một khu vực hoặc một địa phương nào đó.
Ở đề tài này với mục tiêu xác định được giống lúa mang nhiều đặc tốt, có
khả năng cho năng suất, chất lượng cao, tính chống chịu tốt với mục đích chuyển
dịch cơ cấu cây trồng có giá trị, thay thế những cây trồng hiện có chưa đáp ứng
được nhu cầu thực tiễn, cải tiến để đưa giống lúa có năng suất cao, chất lượng tốt
vào sản xuất phù hợp với điều kiện của nông dân và vùng sinh thái.
Cần phải tạo ra các giống lúa triển vọng, tạo ra sản phẩm hàng hoá, sử
dụng hợp lý phân bón, thuốc trừ sâu, giống mới có triển vọng song vẫn đảm
bảo có năng suất khá, sử dụng nước tưới và các biện pháp kỹ thuật không
khác nhiều so với tập quán canh tác của địa phương.
Đối với lúa trong sản xuất hiện nay khi đưa giống mới vào sản xuất

người ta thường quan tâm đến thị hiếu người tiêu dùng và việc tiêu thụ sản
phẩm đó ra sao.
Trong thực tế sản xuất thì mỗi giống lúa đều có ưu, nhược điểm song sự
chuyển dịch cơ cấu giống lúa như thế nào để giải quyết được nhu cầu cấp
bách của người dân nghèo mà vẫn có lợi về mặt tài chính, đem lại hiệu quả
kinh tế cao và phù hợp với đặc điểm của vùng sản xuất, của một không gian,
thời gian nhất định và được người nông dân chấp nhận và mở rộng.Cơ cấu
các giống lúa đang được gieo trồng được chọn dựa trên lợi ích cho đa số
người dân, cơ cấu các giống lúa triển vọng phải được bố trí hợp lý, có độ an
toàn, xác suất gặp rủi ro thấp nhất, phù hợp với tập quán canh tác của địa
phương, đảm bảo an toàn hệ sinh thái trong.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

7
1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa trên thế giới
Trải qua các thời kỳ cách mạng từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn
khẳng định tầm quan trọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong những năm
qua cũng lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu và là khâu đột phá. Chỉ thị
100 của ban Bí thư (khoá IV), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khoá VI) được
triển khai đã đưa đến những thành tựu to lớn trong nông nghiệp, nông thôn
nước ta. (Chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về tiếp tục đổi mới và
phát triển nông nghiệp - nông thôn) [Website: Faostat.fao.org]
Ngày nay trong cơ chế thị trường, Đảng và Nhà nước có chủ trương phát
triển kinh tế nông nghiệp bằng việc thâm canh tăng vụ, ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất trong đó vấn đề tiến bộ về giống được đặc biệt quan
tâm. Trong những năm gần đây thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây
trồng trong nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả
kinh tế, Nhà nước luôn khuyến khích và mong muốn sản phẩm của nông dân

phải trở thành hàng hoá và người nông dân phải có thu nhập ổn định. Chuyển
dịch cơ cấu cây trồng nhất là cơ cấu giống lúa cần khuyến khích sự phát triển
theo hướng nằm trong khuôn khổ của sự kết hợp của 4 nhà: Nhà nước,
nhàDoanh nghiệp, nhà Khoa học và nhà nông. Sản phẩm làm ra phục vụ cho
thị trường hay nói cách khác sản xuất ra sản phẩm theo tiếng gọi của thị
trường, đảm bảo thu nhập cho người nông dân.
1.2.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới
Dân số thế giới không ngừng tăng cao. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao về lương thực, sản xuất lúa gạo trong vài thập kỷ gần đây đã có mức tăng
trưởng đáng kể, nhưng phân bố không đều do các trở ngại về tiếp cận lương
thực, thu nhập quốc gia và thu nhập của hộ gia đình không đủ để mua lương
thực, sự bất ổn giữa cung cầu, thiệt hại do thiên tai mang lại là những nhân tố
khiến cho vấn đề lương thực trở nên cấp thiết hơn lúc nào hết. Tuy tổng sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

8
lượng lúa không ngừng được gia tăng, năm sau cao hơn năm trước nhưng dân số
tăng nhanh hơn, nhất là ở các nước đang phát triển, nên lương thực vẫn làvấn đề
cấp bách phải quan tâm trong những năm trước mắt cũng như lâu dài.
Cây lúa là một loại cây ngũ cốc có lịch sử lâu đời, trải qua một quá trình
biến đổi và chọn lọc từ cây lúa dại thành cây lúa ngày nay. Cây lúa có nguồn
gốc ở vùng nhiệt đới, có khả năng thích nghi rộng nên cây lúa có thể trồng ở
nhiều vùng khí hậu khác nhau và được trồng ở nhiều nơi trên thế giới.
Cây lúa trên Thế giới được trồng ở 5 vùng đất chính là: Vùng chủ động
tưới tiêu, vùng đất thấp chịu nước trời, vùng đất cao, vùng ngập nước, vùng
đất ngập do thủy triều. Có khoảng 80 triệu ha hoặc 55% diện tích đất trồng
lúa của thế giới được tưới tiêu chủ động trong suốt vụ gieo trồng. Người ta
ước tính khoảng 75% sản lượng lúa của thế giới thu từ các vùng được tưới
tiêu này. Diện tích lúa của thế giới vào khoảng 150 triệu ha hàng năm (chiếm

11% đất gieo trồng của thế giới) [19]. Trên thế giới có khoảng trên 100
nướcđang trồng lúa thì đa số nằm ở Châu Á. Cây lúa gắn bó mật thiết với các
quốc gia thuộc Đông Nam Á và Nam Á, trải rộng từ Pakistan đến Nhật Bản.
Trong số 25 nước sản xuất lúa chính của thế giới có 17 nước nằm trong vùng
này và 8 nước nằm ngoài vùng (Jay Maclean, 1985). Trên 85% sản lượng lúa
trên thế giới phụ thuộc 8 nước mà những nước này đều tập trung ở Châu Á
(gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, Banladesh, Việt Nam, Thái Lan,
Myanmar và Nhật Bản) [4].
Từ năm 1995 đến nay diện tích, năng suất và sản lượng lúa trên thế giới
có tăng nhưng với mức độ chậm, thậm chí sản lượng năm 2003 thấp hơn năm
1999. Bởi vì giai đoạn này trình độ sản xuất lúa của nhiều nước trên thế giới
đã phát triển tương đối cao, một số nước năng suất đã vượt trần, diện tích khai
hoang đã hết, tốc độ chuyển đổi cơ cấu cây trồng tăng, đô thị hoá diễn ra
nhanh chóng. Chúng ta thấy được điều này qua bảng 1.1.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

9
Cây lúa còn được trồng ở nhiều nước khác trên thế giới. Riêng khối châu
Âu có 10 nước trồng lúa, với sản lượng của tất cả các vùng là 3,2 triệu tấn
(1992), chiếm 0,6% sản lượng lúa thế giới, ở Châu Phi người ta cũng đã tự túc
được 2/3 nhu cầu lương thực bằng lúa gạo, với năng suất chỉ bằng 40% năng
suất bình quân của thế giới, số còn lại phải nhập khẩu [12].
Diện tích, năng suất và sản lượng lúa ngày một tăng nhưng tốc độ tăng
diện tích chậm hơn nhiều so với tốc độ tăng sản lượng, như vậy sản lượng
tăng là do tăng năng suất là chủ yếu. Trong những năm gần đây, do việc sử
dụng các giống lúa mới cộng với việc áp dụng các biện pháp canh tác và bố
trí cơ cấu các trà lúa hợp lý, làm cho sản lượng lúa tăng một cách đáng kể ở
hầu hết các quốc gia trồng lúa.
Bảng 1.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa trên Thế giới qua các năm

Năm
Diện tích
( triệu ha )
Năng suất
( Tạ/ha)
Sản lƣợng
( Triệu tấn)
1961
115,50
18,7
215,65
1970
133,10
23,8
316,38
1980
144,67
27,4
396,87
1990
146,98
35,3
518,23
2000
154,11
38,9
598,97
2001
151,97
39,4

598,03
2002
147,69
39,1
577,99
2003
149,20
39,1
583,00
2004
151,02
40,3
608,37
2005
153,78
40,2
618,53
2006
156,30
41,21
644,1
2007
156,95
41,50
651,7
2008
158,96
43,1
685,01
2009

158,30
43,3
685,24
2010
163,054
42,78
700,23
2011
164,12
43,82
721,03
(Nguồn: FAO STAT năm 2012)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

10
Theo số liệu của bảng 1.1 thì trong 10 nước trồng lúa có sản lượng trên
10 triệu tấn/ năm đã có 9 nước nằm ở châu Á, chỉ có một đại diện của châu
khác đó là Braxin (Nam Mỹ). Trung Quốc và Nhật Bản là 2 nước có năng
suất cao hơn hẳn đạt 65,82 tạ/ha (Trung Quốc) và 65,22 tạ/ha (Nhật Bản).
Điều đó có thể lý giải là vì Trung Quốc là nước đi tiên phong trong lĩnh vực
phát triển lúa lai và người dân nước này có tinh thần lao động cần cù, có trình
độ thâm canh cao (ICARD, 2003). Còn Nhật Bản là nước có trình độ khoa
học kỹ thuật cao, đầu tư lớn (Nguyễn Hữu Hồng, 1993). Việt Nam cũng là
nước có năng suất lúa cao đứng hàng thứ 3 trong 10 nước trồng lúa chính đạt
52,27 tạ/ha. Thái Lan tuy là nước xuất khẩu gạo đứng hàng đầu Thế giới trong
nhiều năm liên tục, song năng suất chỉ đạt 28,69 tạ/ha, bởi vì Thái Lan chú
trọng nhiều hơn đến canh tác các giống lúa dài ngày, chất lượng cao (Bùi Huy
Đáp, 1999) [3]. Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước có sản lượng lúa gạo lớn
nhất Thế giới. Năm 2009, sản lượng lúa gạo của Trung Quốc đạt 196,68 triệu

tấn; Ấn Độ có sản lượng gạo là 133,70 triệu tấn.
Bảng 1.2. Các quốc gia có diện tích sản xuất lúa lớn nhất Thế giới
Tên nƣớc
Diện tích
( Triệu ha)
Năng suất
( Tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
Trung Quốc
29,88
65,82
196,68
Ấn Độ
41,85
31,94
133,70
Inđônêxia
12,88
49,98
64,40
Băngladesh
11,35
42,03
47,72
Thái Lan
10,96
28,69
31,46
Myanma

8,00
40,85
32,68
Việt Nam
7,44
52,27
38,90
Philippin
4,53
35,88
16,27
Braxin
2,87
44,05
12,65
Nhật Bản
1,62
65,22
10,59
(Nguồn: FAO STAT, 2012)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

11
Việt Nam có tổng sản lượng lúa hàng năm đứng thứ 5 trên Thế giới
(Bảng 1.1), nhưng lại là nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 2 Thế giới hiện
nay với sản lượng gạo xuất khẩu bình quân trên 7,0 triệu tấn/năm. Thái Lan
luôn là nước xuất khẩu gạo dẫn đầu Thế giới, hơn hẳn Việt Nam (thứ 2) cả về
số lượng và giá trị, do có thị trường truyền thống rộng hơn và chất lượng gạo
cao hơn. Mỹ, Ấn Độ, Pakistan cũng là những nước xuất khẩu gạo quan trọng,

sau Việt Nam. Theo IRRI, lúa gạo sản xuất ra chủ yếu là để tiêu dùng nội địa,
chỉ có khoảng 6-7% tổng sản lượng lúa gạo trên Thế giới được lưu thông trên
thị trường Quốc tế [19].
1.2.2. Tình hình nghiên cứu giống lúa trên Thế giới
Trên thế giới người ta quan tâm đến việc bảo tồn nguồn gen nói chung,
và nguồn gen cây lúa nói riêng. Ngay từ những năm 1924 Viện nghiên cứu
cây trồng Liên Xô (cũ) đã được thành lập, nhiệm vụ chính là thu nhập và đánh
giá bảo tồn nguồn gen cây trồng. Tổ chức Lương thực và nông nghiệp Thế
giới (FAO) đã tổng hợp các kết quả nghiên cứu và đề ra phương hướng thúc
đẩy việc xây dựng ngân hàng gen phục vụ cho việc giữ gìn tài nguyên thiên
nhiên nhằm phục vụ lợi ích lâu dài của nhân loại. Trong vùng nhiệt đới và á
nhiệt đới đã hình thành nhiều tổ chức quốc tế, đảm nhận việc thu thập tập đoàn
giống trên thế giới đồng thời cung cấp nguồn gen để cải tạo giống lúa trồng [11]
Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế với tên tiếng Anh là International
Rice Research Institute (IRRI) ở Los Banos, Philippines đã bắt đầu chương
trình thu thập, bảo tồn và đánh giá các giống cổ truyền và các cây lúa dại từ
năm 1962. Từ khi thành lập IRRI đã tiến hành thu thập nguồn gen cây lúa,
năm 1977 chính thức khai trương ngân hàng gen, tại đây đã thu thập tập đoàn
cây lúa từ 110 quốc gia trên Thế giới trong bộ sưu tập có hơn 80 nghìn mẫu,
trong đó các giống lúa trồng ở châu Á (O. sativa) chiếm đến 95% [32].
Khoảng 90.000 giống lúa trồng trên khắp thế giới đã được tồn trữ ở IRRI và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

12
cùng một số lượng giống lúa này được IRRI gửi bảo quản ở Phòng Khảo
nghiệm tồn trữ hạt giống quốc gia Mỹ (US. National Seed Storage
Laboratory) tại Fort Collins thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ, Colorado - Mỹ và ở
Viện Quốc gia Tài nguyên Nông sinh (National Institute of Agrobiological
Resources) ở Nhật Bản. Nhưng sự bảo quản tại các phòng lạnh hiện nay có

thể làm ngăn trở sự tiến hóa của các giống lúa này với môi trường. Vì vậy,
bảo quản các giống lúa ngoài ruộng rất cần thiết nhưng tốn kém.
Trong hơn 40 năm tồn tại và phát triển IRRI đã lai tạo, chọn lọc hàng
trăm giống lúa tốt phổ biến khắp thế giới, tiêu biểu như các giống IR, Jasmin.
IR8 mở đầu cho cuộc cách mạng xanh ở các nước Nam Á và Đông Nam Á.
Tiếp theo là sự ra đời của các giống lúa, mà sự ra đời củacác giống này đã tạo
ra sự nhảy vọt về năng suất, phẩm chất lúa như: IR5, IR6, IR20, IR22, IR26,
IR36, Những năm 80 (thế kỷ XX) giống IR8 được trồng phổ biến ở Việt
Nam đã đưa năng suất lúa tăng cao đáng kể. Cuộc “cách mạng xanh” từ giữa
thập niên 60 (thế kỷ XX) đã có ảnh hưởng tích cực đến sản lượng lúa của
châu Á. Nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được tạo ra để nâng cao năng suất và sản
lượng lúa gạo. Các nhà nghiên cứu của viện lúa Quốc tế đã nhận thức rằng
các giống lúa mới thấp cây, lá đứng, tiềm năng năng suất cao cũng chỉ có thể
giải quyết vấn đề lương thực trong phạm vi hạn chế. Hiện nay Viện IRRI
đang tập trung vào nghiên cứu chọntạo ra các giống lúa cao sản (siêu lúa) có
thể đạt 13 tấn/ha/vụ, đồng thời phát huy kết quả chọn tạo 2 giống là IR64 và
Jasmin là giống có phẩm chất gạo tốt, được trồng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế
giới. Trên cơ sở một số giống lúa chất lượng cao Viện IRRI đang tập trung
vào nghiên cứu, chọn tạo các giống lúa có hàm lượng Vitamin và Protein cao,
có mùi thơm, cơm dẻo ) vừa để giải quyết vấn đề an ninh lương thực, vừa
đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng [27].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

13
IRRI đã có quan hệ chính thức với Việt Nam từ năm 1975 trong
chương trình thí nghiệm giống quốc tế trước đây và hiện nay là chương trình
đánh giá nguồn gen cây lúa. Trong quá trình hợp tác, Việt Nam đãnhập được
279 tập đoàn lúa gồm hàng ngàn mẫu giống, mang nhiều đặcđiểm sinh học
tốt, chống chịu với sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bấtthuận như nhiệt độ,

nhiễm mặn, hạn hán, úng lụt vv [31].
Các nhà khoa học Ấn Độ và Nhật Bản là những người đầu tiên đề xuất
mởrộng sản xuất lúa lai thương phẩm [29]. Tại viện nghiên cứu lúa quốc tế -
IRRI các nhà khoa học đã xây dựng chương trình nghiên cứu về lúa lai làm cơ
sở cho phát triển sản xuất lúa lai thương phẩm. Song tất cả họ đều chưa thành
công vì chưa tìm ra phương pháp thích hợp để sản xuất hạt lai [30]. Nhưng
việc nghiên cứu chọn tạo giống lúa không chỉ dừng lại ở đó, sự miệt mài của
các nhà khoa học ở Viện nghiên cứu lúa Quốc tế đã lai tạo chọn lọc hàng trăm
giống lúa tốt được gieo trồng phổ biến trên thế giới. Các giống lúa IR5, IR6,
IR8, IR30 và những giống lúa khác đã tạo ra sự nhảy vọt về năng suất. Các
viện khác như IRAT, EAT, ICRISAT cũng đã chọn lọc ra nhiều những giống
lúa tốt phục vụ sản xuất.
Hiện nay người ta ứng dụng ưu thế lai trong sản xuất lúa. Trong lịch sử
phát triển lúa lai, Trung Quốc là nước đầu tiên sử dụng thành công ưu thế này.
Năm 1974, các nhà khoa học Trung Quốc đã cho ra đời những tổ hợplai có ưu
thế lai cao, đồng thời xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất hạt lai hệ "3 dòng"
được hoàn thiện và đưa vào sản xuất năm 1975. Năm 1996, Trung Quốc lại
thành công với quy trình sản xuất lúa lai "2 dòng" và đẩy mạnh nghiên cứu
lúa lai 1 dòng và lúa lai siêu cao sản nhằm tăng năng suất và sản lượng lúa
gạo của đất nước [35]. Cụ thể như sau: năm 1973 Shiming Song phát hiện ra
được dòng bất dục mẫn cảm với ánh sáng ngày ngắn (PGMS) từ giống
Nongken 58. Nhiều kết quả nghiên cứu khác về lúa lai hai dòng cũng đã được
công bố. Năm 1991 các nhà khoa học Nhật Bản đã áp dụng phương pháp gây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

14
đột biến nhân tạo để tạo ra dòng bất dục đực mẫn cảm với nhiệt độ [29].
Chương trình phát triển lúa lai giữa các loài phụ indica và japonica được bắt
đầu từ năm 1987 nhờ sự phát hiện và sử dụng gen tương hợp rộng, mở ra tiềm

năng về năng suất cao cho các giống lúa lai hai dòng [34]. Những tổ hợp giữa
các loài phụ như: Chen 232/26 Zhazao; 3037/02428 và 6154S/vaylava đưa ra
ở Trung Quốc nhưng không được sử dụng trong sản xuất đại trà, vì cây F1
quá to, bông quá lớn, số dảnh ít, dạng lá rộng. Bởi thế, Yang Z và CS (1997)
[37] đã đề xuất một lý thuyết chọn giống năng suất siêu cao thông qua việc
kết hợp hình dạng lý tưởng và ưu thế lai thích hợp.
Nhờ ưu thế hơn hẳn về năng suất nên diện tích lúa lai của Trung Quốc
không ngừng được mở rộng. Năm 1992 diện tích gieo trồng lúa lai của Trung
Quốc là 15.000 ha với năng suất 9 - 10 tấn/ha, năng suất cao nhất đạt 17
tấn/ha [3]. Năm 1997 đã có 640.000 ha, năng suất trung bình cao hơn lúa lai 3
giống từ 5 - 15% [37]. Đến năm 2001 diện tích lúa lai 2 dòng đạt 2,5 triệu ha.
Một số tổ hợp lai hai giống điển hình có năng suất đạt hơn 10,5 tấn/ha ở điểm
trình diễn và năng suất trung bình trên diện rộng là 9,1 tấn/ha. Đã có những tổ
hợp lúa lai 2 dòng đều mới đạt 12 - 14 tấn/ha trong ô thí nghiệm [36]. Hầu hết
các tổ hợp lai hai dòng đều cho năng suất cao và phẩm chất tốt hơn so với tổ
hợp lai ba dòng [3]. Gần đây hướng nghiên cứu phát triển lúa lai một giống là
muc tiêu cuối cùng và rất quan trọng của công tác chọn tạo lúa lai của Trung
Quốc. Ý tưởng của Yuan L.P là cố định ưu thế lai và sản xuất lúa lai thuần đã
trở thành đề tài lớn, quan trọng trong các chương trình quốc gia về phát triển
khoa học và công nghệ cao.
Như vậy xu thế phát triển tất yếu của lúa lai theo Yuan Long Ping đã
khởi xướng là phát triển từ hệ thống ba dòng đến hệ thống hai dòng và sau đó
là hệ lai một dòng hay cố định ưu thế lai ở F1 thành lúa lai thuần.
Sự phát triển thành công của công nghệ sản xuất lúa lai ở Trung Quốc
đã được ứng dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Hiện nay có 17 nước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

15
trên thế giới nghiên cứu và sản xuất lúa lai đã đưa tổng diện tích lúa lai của

thế giới lên tới khoảng 10% tổng diện tích trồng lúa và chiếm 20% tổng sản
lượng lúa gạo toàn thế giới, song phát triển mạnh nhất vẫn là Việt Nam và Ấn
Độ. Lúa lai đã thực sự mở ra hướng phát triển mới để nâng cao năng suất, sản
lượng lúa cho xã hội loài người.
Ấn Độ là một nước đi đầu trong cuộc “cách mạng xanh” và thành công
lớn trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhất là giống mới vào
sản xuất. Trong công tác nghiên cứu giống lúa, Viện nghiên cứu giống lúa
trung ương của Ấn Độ được thành lập vào năm 1946 tại Cuttuck bang Orisa là
nơi tập trung nghiên cứu, lai tạo các giống lúa mới phục vụ sản xuất. Ngoài ra
tại các bang của Ấn Độ đều có các cơ sở nghiên cứu, trong đó các cơ sở quan
trọng ở Madras heydrabat, Kerala, hoặc Viện Nghiên cứu câytrồng cạn Á
nhiệt đới (ICRISAT). Nhờ vậy Ấn Độ là nước có nhiều giống lúa chất lượng
cao nổi tiếng trên thế giới như: Basmati, Brimphun trong đó giống lúa Basmati
có giá trị trên thị trường tới 850 Đô la Mỹ/tấn, trong khi giống gạo thơm Thái
Lan nổi tiếng trên Thế giới cũng chỉ có giá trị 460 Đô la Mỹ /tấn [9].
Mặt khác, Ấn Độ cũng là nước nghiên cứu lúa lai khá sớm và đã đạt
được một số thành công nhất định, một số tổ hợp lai tốt được sử dụng ở Ấn
Độ như; IR58025A/IR9716, IR62829A/IR46, PMS8A/IR46, ORI 161, ORI
136, 2RI 158, 3RI 160, 3RI 086, PA- 103 Một trong những giống lúa chất
lượng cao do các nhà khoa học chọn tạo thành công được nhập về Việt Nam
là giống BTE-1, giống này đã được Bộ Nông nghiệp & PTNT Việt Nam công
nhận năm 2007 [9].
Thái Lan là nước xuất khẩu lúa gạo đứng đầu thế giới. Với những ưu
đãi của thiên nhiên Thái Lan có vùng châu thổ trồng lúa phì nhiêu, mặc dù
năng suất và sản lượng lúa gạo của Thái Lan không cao song họ chú trọng
đến việc chọn tạo giống có chất lượng gạo cao. Các trung tâm nghiên cứu lúa
của Thái Lan được thành lập ở nhiều tỉnh và các khu vực. Các trung tâm này

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


16
có nhiệm vụ tiến hành chọn lọc, phục tráng, lai tạo, nhân giống phục vụ cho
nhu cầu sản xuất của người dân với mục tiêu phục vụ nhu cầu trong nước và
xuất khẩu. Các đặc điểm nổi bật của các giống lúa mà các nhà khoa học tập
trung nghiên cứu và lai tạo đó là hạt gạo dài và trong, ít dập gãy khi xay sát,
có hương thơm, coi trọng chất lượng hơn là năng suất, điều này cho chúng ta
thấy rằng giá lúa gạo xuất khẩu của Thái Lan bao giờ cũng cao hơn của Việt
Nam. Một số giống lúa chất lượng cao nổi tiếng thế giới của Thái Lan là:
Khaodomali, Jasmin (Hương nhài).
Đối với Nhật Bản, công tác giống lúa cũng được đặc biệt chú trọng về
giống chất lượng cao vì người Nhật giàu có, nên nhu cầu đòi hỏi lúa gạo chất
lượng cao. Để đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng, các Viện và các Trạm nghiên
cứu giống lúa được thành lập ở hầu hết các tỉnh thành của Nhật Bản, trong đó
có các trung tâm quan trọng nhất đặt ở Sendai, Niigata, Nagoya, Fukuoka,
Kochi, Miyazaki, Sags, là những nơi diện tích trồng lúa lớn. Trong công tác
nghiên cứu giống lúa ở các Viện, các nhà khoa học Nhật Bản đã tập trung lai
tạo và đưa vào sản xuất các giống lúa vừa có năng 25 suất cao, chất lượng tốt
như Koshihikari, Sasanisiki, Koenshu đặc biệt ở Nhật đã lai tạo được 2
giống lúa có mùi thơm đặc biệt, chất lượng gạo ngon và năng suất cao như
giống: Miyazaki1 và Miyazaki2. Cho đến giờ các giống này vẫn giữ được vị
trí hàng đầu về 2 chỉ tiêu quan trọng đó là hàm lượng Protein cao tới 13%,
hàm lượng Lysin cũng rất cao [Nguyễn Hữu Hồng (1993) [8]. Ngoài ra, thành
công trong công tác giống lúa của Nhật Bản còn được đánh dấu bởi giống
Tongil đã tạo ra bước nhảy vọt về năng suất lúa.
Các nước Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên, Đài Loan chủ yếu nghiên cứu và
sử dụng giống lúa thuộc loại hình Japonica, hạt gạo tròn, cơm dẻo phù hợp
với thị hiếu tiêu dùng của người dân khu vực này. Các giống lúa nổi tiếng của
khu vực này là Tongil (Hàn Quốc), Tai chung 1, Tai chung 2, Gang chan gi,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


17
Đee- Geo-Wô-Gen (Đài Loan)… đặc biệt giống Đee-Geo-Wô-Gen là một vật
liệu khởi đầu để tạo ra giống lúa IR8 nổi tiếng một thời [26].
Các chuyên gia nông nghiệp Đài Loan cho biết đã nghiên cứu phát triển
thành công các giống lúa mới giàu dinh dưỡng. Các giống này không phải là
biến đổi gen sẵn có nhiều màu sắc khác nhau như đen, đỏ và vàng mà màu sắc
phụ thuộc vào hàm lượng dinh dưỡng như Beta-carotene và anthocyanins -
một chất chống ôxy hoá. Đây là kết quả nghiên cứu gần 9 năm thí nghiệm để
kết luận đột biến trên cây lúa với việc sử dụng các tác nhân hoá học. Như trên
ta thấy, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người các nhà chọn giống
không những chọn tạo ra được những giống lúa có năng suất cao mà còn chọn
tạo ra những giống có chất lượng cao, hàm lượng dinh dưỡng lớn. Đây cũng
là một giải pháp để giảm áp lực cho y học. Vì vậy, một số viện nghiên cứu
quốc tế đang tập trung vào giống lúa mới “gạo vàng 2” để chống lại nguy cơ
bệnh mù do thiếu vitamin A đang tăng lên trên thế giới. So với giống "gạo
vàng" phát triển vào năm 2000, “gạo vàng 2” này có hàm lượng beta-carotene
cao gấp 23 lần.
Theo ông Jagadish Mittur - giám đốc Trung tâm nghiên cứu Monsanto
ở Bangalore (Ấn Độ), bộ gen của giống lúa mới được ghép thêm gen của cây
thủy tiên hoa vàng hoặc cây ngô. Giống lúa đang được nghiên cứu và phát
triển ở sáu nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Vì giống lúa mới là sản phẩm
của công nghệ biến đổi gen, các nhà khoa học đang nghiên cứu để xác định
độ an toàn thực phẩm và an toàn môi trường của giống lúa này, trước khi đưa
vào gieo trồng đại trà mang tính thương mại trong vòng 3-4 năm tới [23].
Ngoài châu Á, thì ở Mỹ, năm 1926, J.W Jones đã bắt đầu nêu vấn đề ưu
thế lai của lúa khi khảo sát lúa ở Đài Loan. Có 2 người tham gia vào đề xuất
vấn đề sản xuất lúa lai thương phẩm là Stansent và Craiglules. Trong thời
gian gần đây các nhà khoa học Mỹ không chỉ quan tâm đến việc chọn lọc, lai
tạo và đưa ra những giống lúa có năng suất cao, ưa thâm canh và ổn định, mà

×