Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Công tác giáo dụchọc sinh cá biệt ở trường THCS Quỳnh Long - Quỳnh Lưu - Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.14 KB, 40 trang )


LỜI CẢM ƠN.
Với lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành gửi tới thầy NGUYỄN SỸ
TUẤT đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo, động viên giúp đỡ em trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong tổ xã hội và các thầy
cô trong Khoa Xã Hội Trường Cao Đẳng Sư Phạm Nghệ An đã tạo điều kiện
thuận lợi giúp em hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu nhà trường và các bạn sinh viên đã
giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Em xin chân tành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Ánh
MỤC LỤC
A. NỘI DUNG
B. NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Khái niệm về học sinh cá biệt.
1.1.2. Vị trí và đặc điểm của công tác giáo dục cho học sinh cá biệt.
1.1.3. Nguyên tắc giáo dục cho học sinh cá biệt.
1.1.4. Phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THCS Quỳnh Long.
1.1.4.1. Phương pháp thuyết phục
1.1.4.2. Phương pháp rèm luyện
1.1.4.3. Phương pháp thúc đẩy
1.1.5. Vai trò của giáo dục đối với học sinh cá biệt.
1.2. Nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt ở trường THCS
1.2.1. Nguyên nhân có học sinh cá biệt
1.2.2. Nguyên nhân về phía gia đình
1.2.3. Nguyên nhân về phía nhà trường
1.2.4. Nguyên nhân về phía môi trường xã hội


1.2.5. Nguyên nhân chủ quan về phía các em
Chương 2. Thực trạng công tác giáo dục học sinh cá biệt hiện nay
ở trường THCS Quỳnh Long – Quỳnh Lưu.
2.1. Tình hình chung của địa phương
2.1.1. Vài nét về tình hình của địa phương
2.1.2. Tình hình địa phương đối với học sinh cá biệt
2.2. Thực trạng công tác giáo dục cho học sinh cá biệt trong năm học.
2.2.1. Tình hình chung về giáo dục học sinh trong năm học ở trường
2.3. Những quy trình giáo dục đã vận dụng trong năm học
2.3.1. Hoạt động ngoại khóa
2.3.2. Các hoạt động lao động hướng nghiệp
2.3.3. Chú trọng đến hoạt động của giáo viên chủ nhiệm
2.3.4. Sự tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt của giáo viên bộ môn
2.4. Chất lượng đạo đức nếp sống của học sinh cá biệt
2.4.1. Những biểu hiện của thực trạng về nếp sống của học sinh cá biệt
Chương 3. Một số giải pháp giáo dục hoc sinh cá biệt ở trường
THCS Quỳnh Long trong giai đoạn hiện nay
3.1. Giải pháp xây dựng môi trường trong sáng để giáo dục đạo đức cho học
sinh cá biệt
3.1.1. Ý nghĩa của việc xây dựng môi trường trong sáng cho học sinh cá biệt
3.1.2. Nội dung
3.1.3. Cách tiến hành
3.1. Biện pháp giáo dục bằng tâm lý
3.2. Biện pháp giáo dục bằng tập thể
3.3. Biện pháp giáo dục kết hợp với phụ huynh học sinh
3.4. Biện pháp giáo dục kết hợp giáo dục qua giáo viên bộ môn
3.5. Biện pháp giáo dục kết hợp với các ban ngành trong và ngoài nhà
trường
3.5.1. Kết hợp với các tổ chức đội thiếu niên
3.5.2. kêt hợp với bộ phận chuyên môn

3.5.3. Kết hợp hội phụ nữ xã.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh sách các từ viết tắt
Các Từ Viết Tắt

HS Học sinh
GV Giáo viên
HSCB Học sinh cá biệt
GD & ĐT Giáo dục & Đào tạo
THCS Trung học cơ sở
PHHS Phụ huynh học sinh
GVCN Giáo viên chủ nhiệm
GD Giáo dục
TPTĐ Tổng phụ trách đội
CNHHĐH Công nghiệp hoá hiện đại hoá
SL Số lượng
CB Cán bộ
TS Tổng số
HK Học kỳ

A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
“ Trong cuộc đấu tranh tự khẳng định để phát triển, theo kinh nghiệm của
UNESCO, giáo dục giữ vai trò to lớn “giáo dục có thể đóng một vai trò năng động
và xây dựng”. Có thể nói giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng
(trong đó có trung học cơ sở) đã góp phần “Xoá đói giảm nghèo”, “Tăng tiềm lực
quốc gia, nâng cao trình độ quản lí xã hội, nâng cao kinh tế nước nhà…”
.
Từ nhận

xét trên, ta có thể nói, giáo dục trong nhà trường THCS càng đòi hỏi nhiều chính
sách, những chính sách thích hợp cần thiết trong hệ thống giáo dục này. Và cũng
theo UNESCO, việc tạo ra cơ hội bình đẳng về giáo dục giữa các đối tượng học
sinh trong nhà trường luôn phải được quan tâm, phải là yếu tố bao trùm xem như
nguyên tắc chỉ đạo mọi hoạt động của giáo dục. Nhưng khi xét từ thực tế giảng dạy
trong trường THCS, tôi nhận thấy rằng phần lớn giáo viên có cái nhìn ác cảm về
những học sinh này và dùng phương pháp “Cá biệt” để giáo dục.
Xuất phát từ mục đích của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là đào tạo ra những
con người phát triển toàn diện, con người có vai trò quan trọng trong việc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Và nhà trường là nơi quan trọng và góp phần rất lớn trong
việc hình thành nhân cách và phát triển con người, đó là những học sinh, những
chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy công tác rèn luyện và giáo dục học sinh
phải được chú trọng ngay từ những bước đầu. Trong thực tế thì mỗi học sinh đều
có hoàn cảnh gia đình khác nhau, mà hoàn cảnh đó sẽ tác động trực tiếp đến việc
hình thành nhân cách của học sinh, nên chúng ta cần phải có những biện pháp giáo
dục những học sinh cá biệt để giúp các em trở thành những học sinh bình thường,
có nhân cách tốt, có kiến thức, là những công dân tốt, những người chủ tương lai
của đất nước có đủ cả đức lẫn tàì.
Nền giáo dục của nước ta đang trên đà phát triển, nước ta mở cửa hội nhập
quốc tế đón nhận những thành tựu phát triển của thế giới, bên cạnh đó cũng tiếp
nhận những tiêu cực, những mặt trái của xã hội. Và những điều này đã ảnh hưởng
không nhỏ đền đạo đức của người Việt Nam ta nói chung và tầng lớp thanh thiếu
niên nói riêng đặc biệt là đối tượng học sinh. Trong đó học sinh bậc THCS có ảnh
hưởng rất lớn.
Trong những năm qua, ngành Giáo dục – Đào tạo đã có những thành tựu
đáng kể về chất lượng Giáo dục - Đào tạo, tuy nhiên Giáo dục - Đào tạo nước ta
còn nhiều yếu kém bất cập cả về quy mô cơ cấu và nhất là về chất lượng và hiệu
quả chưa đáp ứng được những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực.
Thực tế đã cho chúng ta thấy mặc dù nhà nước, các cơ quan tư pháp, nhà
trường đã chú ý tăng cường giáo dục, phòng ngừa tội phạm và các tệ nạn xã hội,

nhưng các tệ nạn xã hội và các vụ phạm pháp vẫn còn, thậm chí còn gia tăng. Đặc
biệt là tệ nạn buôn bán, xử dụng ma túy lan tràn cả vào trường học. Đang lo ngại là
tỷ lệ thanh thiếu niên phạm pháp ngày càng gia tăng. Thực trạng trên đang gây mất
an ninh trật tự, mất an ninh trong đời sống cộng đồng dân cư, làm ảnh hưởng xấu,
gây áp lực lớn đối với công tác giáo dục. Đối với công tác giáo dục thực trạng trên
gây ra những băng hoại về đạo đức và đời sống, phá hoại tác dụng lên hiệu quả của
giáo dục, nếu không ngăn chặn, xóa bỏ đựơc thì hậu quả rất nghiêm trọng bởi vì nó
tạo ra những tiền đề cho các ảnh hưởng xấu từ bên ngoài dội vào, tạo nên những
lệch lạc về ý thức, hành vi của một số học sinh. Do đó phải chủ động, tích cực kết
hợp giáo dục theo hướng giáo dục mà Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung
ương Đảng đề ra chiến lược phát triển Giáo dục – Đào tạo trong thời kỳ
CNHHĐH, trong đó có nêu “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm
xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ
tổ quốc, CNHHĐH đất nước, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, có
năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc
và con người việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của con
người Việt Nam, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng
tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ
luật, có sức khỏe là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”
vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ. Vì những lẽ trên tôi thấy, việc giáo dục
toàn diện học sinh là hết sức quan trọng và cấp bách. Nhà trường phải đẩy mạnh
đồng bộ các hoạt động để giáo dục học sinh. Muốn cung cấp cho xã hội những con
người phát triển toàn diện thì ngay từ trong nhà trường chúng ta phải đặc biệt chú ý
đến những học sinh cá biệt, phải tìm ra các nguyên nhân và biện pháp tích cực để
uốn nắn giáo dục để học sinh phát triển một cách toàn diện.
Hiện đang còn đáng lo ngại về vấn đề gia tăng các tệ nạn xã hội một trong
những biểu hiện đó là một số người chạy theo giá trị của đồng tiền, lao vào cuộc
sống thực dụng làm lu mờ giá trị đạo đức, nhân cách tốt đẹp ở mỗi con người tệ
nạn xã hội biểu hiện ngày càng nhiều và ở nhiều mức độ khác nhau, ở nhiều lứa

tuổi khác nhau và điều đáng lo ngại ở đây là số lượng thanh thiếu niên bị rơi vào
các tệ nạn xã hội thì ngày càng nhiều.
Các công trình nghiên cứu và tổng kết ở nước ta cho thấy các loại hình tội
phạm xảy ra rất phức tạp theo thống kê của bộ công an thì năm 2010 ở nước ta đã
có 13.572 đối tượng phạm tội là thanh thiếu niên.
Trong các trường THCS nói chung và trường THCS Quỳnh Long nói riêng
thì vấn đề ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Học sinh vi phạm
các quy dịnh của nhà trường ngày càng nhiều làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo
dục. Vì thế tôi chọn đề tài “Công tác giáo dục học sinh cá biệt ở trường THCS
Quỳnh Long – Quỳnh Lưu Nghệ An”
II. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu đề tài “Công tác giáo dục học sinh cá biệt ở trường THCS
Quỳnh Long – Quỳnh Lưu – Nghệ An”
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn ở trong trường THCS Quỳnh Long nơi bản
thân tôi từng học tập, đề xuất một số biện pháp khả thi về công tác giáo dục cho
học sinh cá biệt nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, đáp
ứng được yêu cầu ở bậc THCS và ngành giáo dục hiện nay. Tìm ra giải pháp giáo
dục cho học sinh ở trường THCS Quỳnh Long nói riêng và học sinh THCS cả
nước nói chung giúp cho học sinh ngày càng tốt hơn, trở thành con ngoan trò giỏi.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số cơ sở lý luận có liên quan về công tác giáo dục học sinh
cá biệt.
- Phân tích nguyên nhân và thực trạng giáo dục học sinh cá biệt hiện nay của
trường THCS Quỳnh Long, huyện Quỳnh Lưu.
- Đề xuất một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THCS trong
giai đoạn hiện nay.
IV. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
- Vấn đề lý luận của việc giáo dục học sinh đặc biệt là HS cá biệt ở trường
THCS Quỳnh Long và tìm ra nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt để từ đó tìm ra

các biện pháp để giáo dục học sinh cá biệt.
Khách thể nghiên cứu
- Công tác giáo dục học sinh cá biệt bằng các biện pháp cụ thể ở trường
THCS Quỳnh Long
Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu học sinh ở trường THCS Quỳnh Long, Huyện Quỳnh Lưu,
Tỉnh Nghệ An trong năm học gần đây nhất.
V. Giả thuyết khoa học
Nếu nghiên cứu được công tác giáo dục học sinh cá biệt ở trường THCS để
tìm ra đươc những nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt ở trong nhà trường. Từ đó
có cơ sở thực tiễn cho quá trình sư phạm, đưa ra được giải pháp nhằm góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục cho các em học sinh cá biệt.
VI. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu lý thuyết : Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến “Công tác
giáo dục học sinh cá biệt ở trường Trung Học Cơ Sở Quỳnh Long – Quỳnh Lưu–
Nghệ An”. Trên cơ sở tiếp cận những kiến thức về tâm lý, giáo dục học và những
quan điểm đường lối của Đảng và các văn bản của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo để
đánh giá xếp loại khen thuongr và kỷ luật học sinh để làm cơ sở khoa học cho việc
triển khai nội dung của đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Qua quan sát thực tế về tình hình học sinh ở trường, đặc biệt chú ý đến
những học sinh cá biệt ở THCS Quỳnh Long từ đó có giải pháp đối với giúp học
sinh cá biệt này.
+ Qua trò chuyện, trao đổi với học sinh cá biệt, giáo viên chủ nhiệm, phụ
huynh học sinh từ đố tìm ra tâm tư nguyện vọng để đưa ra biện pháp giáo dục cho
các em dung nhất.
VII. Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu “Công tác giáo dục học sinh cá biệt ở trường THCS
Quỳnh Long – Quỳnh Lưu – Nghệ An” cung cấp cơ sở lý luận về học sinh cá biệt
để từ đó tìm ra được những nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt và có những giải

pháp giúp các em nhận thức được hành động và tự điều chỉnh cho đúng với các nội
quy của lớp học, của nhà trường và xã hội.
Đề tài còn cung cấp đưa ra những giải pháp cụ thể có thể ứng dụng vào thực
tiễn cuộc sống.
B. NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Khái niệm về học sinh cá biệt.
Hiện tượng học sinh cá biệt là một trong những hiện tượng đặc biệt ở lưới tuổi
học sinh. Là những HS vi phạm các chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội biểu
hện ở phẩm chất đạo đức và học lực của người HS.
Những học sinh cá biệt có tính giảm sút phổ biến trong tất cả các lĩnh vực, trừ
những lĩnh vực gắn liền với những nhu cầu trái với xã hội, trái với đạo đức. Có thể
phân loại HSCB 2 loại:
- Học sinh cá biệt về học tập
- Học sinh cá biệt về đạo đức lối sống.
1.1.2. Vị trí và đặc điểm của công tác giáo dục cho học sinh cá biệt.
Giáo dục học sinh cá biệt có ý nghĩa vô cùng to lớn giúp các em hoàn thiện
nhân cách, giúp cho cha mẹ các em tránh được nỗi lo lắng về con cái hư hỏng, đối
với xã hội sẽ góp phần gìn giữ an ninh trật tự, an toàn cho xã hội, tạo ra nhưng
công dân tốt cho gia đình và xã hội.
So sánh với trẻ em bình thường thì có thể xếp chúng vào dạng “Bất bình
thường”. cần được quan tâm và giúp đỡ trên quan điểm nhân đạo. Điều quan trọng
là phải nhận rõ những biểu hiện của chúng khi thể hiện hành vi của mình. Những
biểu hiện thường thấy nhất ở học sinh cá biệt này là:
- Có tác phong, hành vi kém: đánh bạn, chọc phá bạn; trôm cắp vặt, phá phách,vô
lễ với thầy cô, cố tình biểu hiện hành vi trái khoái….
- Có xu hướng bạo lực khi xích mích với bạn nhưng có thái độ câm lặng bất cần
đời khi tiếp xúc với thầy, cô.
Những học sinh này thường có vị thế kép trong lớp học, bạn học thường tránh

xa, thường xuyên bị chế giễu, nếu có tập trung được một nhóm bạn thì đó chỉ là sự
phục tùng, miễn cưỡng.
Trên đây, chỉ là những cách phân biệt theo lí luận, còn trong thực tế, các dấu hiệu
thường lồng vào nhau, đan chéo nhau khó mà tách bạch ra. Tuy cách phân loại này
còn rất giản đơn nhưng đó chính là một số đặc điểm hường xuất hiện của học sinh
cá biệt, hành vi của loại học sinh này thường biểu hiện ở các cấp độ mức độ khác
nhau. Nếu không được giáo dục kịp thời, dần dần nhân cách các em sẽ phát triển
một cách méo mó, để hội nhập lại các em phải khôi phục nhân cách, sửa chữa,
khắc phục các khuyết tật đó.
Điều đáng lo ngạy là các giáo viên, vì nhiều lí do, không muốn đầu tư thời gian
công sức để giải quyết vấn đề, thường đưa ra những chấp nhận giản đơn: trẻ khó
thích nghi là do chúng thiếu khả năng hoặc do tính cách của chúng có vấn đề. Và
giải quyết theo xu hướng thụ động: bỏ mặc chúng muốn làm gì thì làm, hoặc gây
áp lực trả chúng về gia đình. Trong nhà trường muốm giáo dục loại học sinh cá
biệt này, theo chúng tôi, người giáo viên phải thực sự xem xét lại cơ chế tổ chức,
quản lí học sinh của mình, sự đầu tư mọi mặt cho quá trình giáo dục (đặc biệt là
giáo dục nhân cách của chúng) sao cho gữi lòng mong muốn, ý đồ tốt đẹp của giáo
viên với những việc làm phải tương xứng.
Vậy nên trong giáo dục học sinh giáo dục nhân cách cho HSCB chiếm vai trò
quan trọng học sinh THCS có ít kinh nghiệm sống nhưng lại rất tích cực trong tất
cả các hoạt động và với bản tính tò mò ở tuổi mới lớn sẽ kiến các em sẽ có những
quyết định mà nó ảnh hưởng lớn tới cuộc sống sau này của các em.
Do đó GD phải có những yêu cầu nhất định:
Thứ nhất: Giáo dục phải được diễn ra theo một quá trình và một trình tự
đồng bộ.
Thứ hai: Giáo dục phải đi trước và khéo léo theo sự phát triển của con
người được giáo dục và phù hợp với khả năng của người được giáo dục.
Thứ ba: Giáo dục và nhân cách luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, kích
thích sự phát triển nhân cách.
Thứ tư: Giáo dục một mặt quan tâm đến trình độ, đặc điểm tâm sinh lý

chung của người được giáo dục, mặt khác phải quan tâm đến trình độ văn hóa
riêng của người được GD.
Giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là một trong những nhiệm vụ thiết
yếu trong nhà trường THCS, hạn chế được những đối tượng HS yếu về mặt đạo
đức là góp phần vào chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Thế nhưng thực
tế trong các trường THCS hiện nay một bộ phận học sinh cá biệt dường như trường
nào cũng có, lớp nào cũng có và năm nào cũng có.
Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa GD là vạn năng, là sự hình thành
phát triển nhân cách mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà giáo dục là một trong
những thành tố đó. Chính vì vậy người GV khi làm công tác GD phải biết kết hợp
nhiều yếu tố trong và ngoài nhà trường để làm tốt công việc trồng người của mình.
1.1.3. Nguyên tắc giáo dục cho học sinh cá biệt.
Phải đảm bảo sự nhất trí cao về yêu cầu giáo dục đạo đức cho HS cá biệt của
những thành viên trong nội bộ nhà trường và sự thống nhất phối hợp giáo dục học
sinh cá biệt giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Giáo dục học sinh cá biệt theo nguyên tắc tập thể, sẽ phát huy được điểm
mạnh mẽ và tính tự giác của HS.
Chủ yếu thực hiện là phát huy ưu điểm của học sinh là chính. Vì đặc điểm tâm
sinh lý của HS THCS là thích được khen, thích được bạn bè thầy cô và gia đình
biết được những điểm tốt của mình.
Như thế đòi hỏi người thầy người cô phải kiên trì, hết sức trân trọng những
mặt tốt của học sinh và chính mình là tấm gương tốt để các em noi theo. Lời nói
của thầy cô nói ra thì phải có sức nặng tức là có uy tín đối với HS, thầy cô nói phải
đi đôi với làm.
- Thứ nhất: Tôn trọng nhân cách học sinh đề ra yêu cầu ngày càng ca đối
với HS
- Thứ hai: GD đạo đức cho HSCB thì phải phối hợp về đặc điểm tâm sinh
lý HS THCS và hoàn cảnh gia đình của các em.
- Thứ ba: Trong giáo dục HSCB thì chính người thầy phải có phẩm chất
đạo đức tốt và nhân cách mẫu mực và tầm ảnh hưởng GD đối với HS.

1.1.4. Phương pháp giáo dục học sinh cá biệt
1.1.4.1. Phương pháp thuyết phục
Là những phương pháp tác động vào lý trí tình cảm của học sinh để xây dựng
những niềm tin đạo đức, gồm các nội dung sau:
- Giảng giải về đạo đức: được tiến hành trong giờ dạy môn giáo dục công dân cũng
như trong các giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt dưới cờ…
- Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể chuyện,
đọc sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói chuyện, nêu gương
tốt của giáo viên và học sinh trong trường.
- Trò chuyện với học sinh hoặc nhóm học sinh để khuyến khích động viên những
hành vi cử chỉ đạo đức tốt của các em, khuyên bảo, uốn nắn những mặt chưa tốt.
1.1.4.2. Phương pháp rèm luyện
Là những phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn luyện cho các
em những thói quen đạo đức, thể hiện được nhận thức và tình cảm đạo đức của các
em thành hành động thực tế:
- Rèn luyện thói quen đạo đức thông qua các hoạt động cơ bản của nhà trường: dạy
học trên lớp, lao động, hoạt động xã hội đoàn thể và sinh hoạt tập thể.
- Rèn luyện đạo đức thông qua các phong trào thi đua trong nhà trường là biện pháp
tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích thích bên trong của
học sinh, làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành người có đạo đức tốt, vì vậy
nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua và động viên học sinh tham gia tốt
phong trào này.
- Rèn luyện bằng cách chuyển hướng các hoạt động của học sinh từ hoạt động có hại
sang hoạt động có ích, phương pháp này dựa trên đặc tính ham hoạt động của trẻ
và được dùng để giáo dục học sinh bỏ một thói hư xấu nào đó bằng cách gây cho
học sinh hứng thú với một hoạt mới bổ ích, lôi kéo trẻ ra ngoài những tác động có
hại.
1.1.4.3. Phương pháp thúc đẩy
Là phương pháp dùng những tác động có tính chất “ cưỡng bách đạo đức
bên ngoài ” để điều chỉnh, khuyến khích những “ động cơ kích thích bên trong”

của học sinh nhằm xây dựng đạo đức cho học sinh.
- Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những yêu cầu với học sinh, vừa
là những điều lệnh có tính chất mệnh lệnh đòi hỏi học sinh tuân theo để có những
hành vi đúng đắn theo yêu cầu của nhà trường.
- Khen thưởng: là tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học sinh làm cho
bản thân học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em khác noi
theo.
- Xử phạt: là phê phán những khiếm khuyết của học sinh, là tác động có tính chất
cưỡng bách đến danh dự lòng tự trọng của cá nhân học sinh để răn đe những hành
vi thiếu đạo đức và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó và những học sinh
khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực, không được lạm dụng phương pháp này.
Khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai lầm, khuyết điểm, thấy hối hận
và đặc biệt sau đó phải theo dõi, giúp đỡ, động viên học sinh sửa chữa khuyết
điểm, cần phải tỏ rõ thái độ nghiêm khắc nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo
đánh đập, xỉ nhục hoặc các nhục hình xúc phạm đến thân thể học sinh.
1.1.5. Vai trò của giáo dục đối với học sinh cá biệt.
Giáo dục có vai trò quan trọng trong việc giáo dục học sinh cá biệt. Mục tiêu
của giáo dục thật sự rất rõ ràng là dạy làm người, nghĩa là rèn luyện đạo đức và
nhân cách con người. Giáo dục đồng thời cung cấp kiến thức, kỹ năng để con
người xây dựng cuộc sống hạnh phúc, văn minh.
Đối với mục tiêu giáo dục con người có ích cho xã hội, công đức tâm là dạng
đạo đức không thể thiếu trong nội dung giáo dục, nó được lồng ghép trong kỷ luật
học đường, trong sinh hoạt nhà trường, trong những bài giáo dục công dân và trong
mọi nội dung sách giáo khoa. Khi thế hệ mới được đánh thức trở lại đạo đức này
thì sự đùm bọc và thương yêu nhau sẽ làm cho trật tự xã hội được cải thiện, vốn xã
hội sẽ được hồi phục, việc phát triển kinh tế ắt sẽ có những tiến bộ vượt bậc, đời
sống ắt sẽ được nâng cao hơn, sức mạnh của đất nước, của con người Việt Nam sẽ
to lớn hơn.
1.2. Nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt ở trường THCS
1.2.1. Nguyên nhân có học sinh cá biệt

Từ các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này từ trước đến nay đã cho phép ta rút
ra được các nguyên nhân chính sau:
- Nguyên nhân về phía gia đình
- Nguyên nhân về phía nhà trường
- Nguyên nhân về phía môi trường xã hội
- Nguyên nhân chủ quan về phía các em
1.2.2. Nguyên nhân về phía gia đình
Phải nói rằng thời gian mà các em sống với gia đình là khoảng thời gian dài
nhất, chính vì thế môi trường sống của gia đình có ảnh hưởng rất lớn đối với các
em, những thái độ, hành vi, cách cư xử trong gia đình sẽ hình thành cho các em
nền móng để các em tiếp xúc ngoài xã hội.
Không phải ngẫu nhiên mà ông bà ta thường nói: “ Con nhà tông không giống lông
cũng giống cánh” Hoặc : “ Trứng rồng lại nở ra rồng liu điu lại nở ra dòng liu điu”
Từ xưa người ta đã chú trọng đến yếu tố gia đình với sự hình thành và phát
triển nhân cách của trẻ. Nếu đi sâu vào nghiên cứu từng trường hợp phát triển tâm
lí lệch lạc, có chiều hướng xấu của học sinh phần lớn đều do ảnh hưởng trực tiếp từ
gia đình.
Hiện tượng học sinh có hành vi phản ứng mạnh trước thầy cô cố tình gây gổ
phá phách bạn, thậm chí thách thức các biện pháp giáo dục của giáo viên….là do
ảnh hưởng thực tế từ cuộc sống gia đình. Có thể trẻ có mối quan hệ căng thẳng với
các thành viên trong gia đình. Hoặc những đứa trẻ này bị buộc phải sống theo sự sa
đọa về nhân cách của bố mẹ dẫn đến sự phát triển tâm lí về chiều hướng tiêu cực.
Theo sự quan sát của tôi những học sinh bị xếp vào loại cá biệt gần như là 60 đến
70 % ảnh hưởng từ gia đình, bởi các nguyên nhân sau đây:
- Hư hỏng do thiếu sự chăm sóc ( gia đình quá khó khăn)
- Hư hỏng do ảnh hưởng lối sống tha hóa của bố mẹ, hoặc anh chị.
- Hư hỏng do phương hướng giáo dục của cha mẹ không phù hợp.
Rất nhiều những nguyên nhân từ phía gia đình khiến cho trẻ mất phương
hướng, mất niềm tin và dần dần trở nên thoái hóa về nhân cách. Những em thiếu
may mắn sinh ra trong gia đình cha mẹ bất hoà, cách cư xử của cha mẹ thô bạo,

rượu chè bê bết đã tạo cho các em một ấn tượng không tốt điều đó có thể dẫn đến
tình trạng HS trở nên lầm lì ít nói, có em ảnh hưởng những thói quen không tốt đó
cũng có những hành vi cử xử không tốt với mọi người Hình thành nên tính cách
cá biệt trong HS.
1.2.3. Nguyên nhân về phía nhà trường
Đây là ngôi nhà thứ hai của các em, nơi để phụ huynh gửi gắm niềm tin vào
việc giáo dục con em của họ, từ đây các em được học tập, được hiểu biết, được lớn
lên về mọi mặt. Nhưng để đạt được đúng như điều vừa nêu cũng không phải là dễ,
trong thực tế cũng có một vài trường chưa thực hiện được chức năng là ngôi nhà
thứ hai của các em, bởi vẫn còn đâu đó có những thầy cô giáo chưa nhiệt tình, chưa
thật sự yêu nghề, chưa có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục nên chưa nhiệt tình với
các em, chưa thật sự là nơi đáng tin cậy. Cũng có một vài thầy cô giáo do cách cư
xử chưa phù hợp nên đâu đó cũng xúc phạm học sinh, đối xử thiếu công bằng với
các em, ngại khó khi phải giáo dục những em cá biệt, cáu giận, sỉ nhục học sinh
đã làm mất lòng tin ở các em, tạo ra một khoảng cách không đáng có giữa thầy và
trò và chính điều này đã dẫn đến biểu hiện chống đối lại từ phía HS.
Đôi khi để giáo dục học sinh cá biệt này, giáo viên thiếu kinh nghiệm, chưa được
chuẩn bị kỹ năng, kiến thức…. đã giải quyết các tình huống giáo dục gay cấn bằng
thói quen, bằng kinh nghiệm, bằng trực giác vì thế khó tránh khỏi những sai lầm.
Như đa số giáo viêm thiên về trừng phạt nặng có thái độ cứng rắn đến mức độ thờ
ơ lạnh nhạt, với long tự tin và mong muốn của trẻ. Điều này dẫn đến sự nhầm lẫn
giữa giáo dục học sinh cá biệt và giáo dục tội phạm. Lúc này trong mắt trẻ thầy cô
chỉ là những người quản giáo lạnh lùng nghiêm khắc.
Sự non kém trong sư phạm cũng gián tiếp tạo ra học sinh cá biệt. Thầy cô
nào cũng cho môn học của mình là quan trọng, bất chấp sức lực và quỹ thời gian
của trẻ, yêu cầu quá nặng hoặc là vô lý. Chính sự phản khoa học này dẫn đến trẻ
không sao chịu nổi. Khi tác dụng ảnh hưởng giáo dục từ nhà trường, gia đình càng
yếu đi thì ảnh hưởng tự phát tiêu cực của môi trường cã hội đường phố sẽ nhanh
chóng xâm nhập vào đầu óc trẻ và tăng dần ảnh hưởng xấu đối với trẻ.
1.2.4. Nguyên nhân về phía môi trường xã hội

Còn phía môi trường xung quanh thì phức tạp hơn nhiều. Tôi xin trích dẫn
bài viết của Nguyễn Sinh Huy nói về môi trường xung quanh tác động đến trẻ em
như sau: “Ví như trẻ sống trong một khu vực dân cư có nhiều tệ nạn xã hội- thậm
chí ngay trong môi trường gia đình mà trẻ phải tiếp xúc hàng ngày, phải sống và
hoạt động- thế là chúng bị tiêm nhiểm, bị ảnh hưởng. Nói rõ hơn, môi trường gần
gũi nhất luôn để lại ấn tượng, ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với trẻ. Vậy là trách
nhiệm trực tiếp không phải là đức trẻ mà là thuộc về cơ quan xã hội, các tổ chức
đoàn thể, các cộng đồng dân cư, đã không đấu tranh ngăn chặc các tệ nạn, để ảnh
hưởng tiêu cực đến tâm tư, tình cảm, lối sống của trẻ, để chúng buộc phải sống
trong môi trường phức tạp, phi đạo đức. Những vụ việc tham nhũng, những vụ lừa
đảo chiếm đoạt tài sản là những tấm gương xấu làm đổ vỡ niềm tin của trẻ”
Rõ ràng theo Nguyễn Sinh Huy thì môi trường xung quanh có ảnh hưởng rất
lớn đến chiều hướng phát triển tâm lí tiêu cực của trẻ. Ông bà ta thường nói “Ở bầu
thì tròn, ở ống thì dài”. Như vậy vấn đề ở đây là phải xem xét kỹ, tìm nguồn gốc
xuất phát của hiện tượng cá biệt, nhận ra đâu là những nguyên nhân sâu xa của nó.
Bên cạnh đó, ta cấn lưu ý rằng: trong mối quan hệ giao lưu văn hóa và hội nhập,
đôi khi trẻ chưa có sự lựa chọn chính xác thậm chí làm cho mình là cá biệt để xem
đó là “ mốt” là “cá tính” “ bản lĩnh”. Ở tuổi này, trẻ có thể do ảnh hưởng bởi các
nguyên nhân sau đây:
- Do bạn bè xấu lôi kéo.
- Do nhận thức sai các hiện tượng, các giá trị, các chuẩn mực đạo đức dẫn
đến mất niềm tin hoặc hành động mù quáng.
- Do hoạt động thần kinh không cân bằng, khả năng kiềm chế yếu nên bị
kích động bởi những kích thích bên ngoài.
Học sinh THCS phụ thuộc rất lớn vào môi trường xã hội. Hiện nay do sự
phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự du
nhập của nhiều loại hình văn hoá khác nhau đã ảnh hưởng không ít đến tầng lớp
thanh thiếu niên. Các loại hình dịch vụ như Internet, bi a, karaoke đã lôi kéo
không ít học sinh vào đam mê những trò chơi vô bổ. Hiện tượng học sinh trốn học
để chơi điện tử, bi a, đánh bạc là chuyện thường ngày, có cả em hết tiền nảy sinh

hành vi trộm cắp, cướp giật.
Đặc biệt với địa lý gần biển Quỳnh Long – Quỳnh Lưu có sự phát triển về
nghề bển, tuổi lao động đi làm còn trẻ, một số em học sinh THCS ở địa phương dễ
bị các đàn anh rủ rê lôi kéo và dẫn đến có biểu hiện dua đòi các anh, học đòi bắt
chước làm người lớn và từ đó dễ bị sa ngã, dần chán học, bỏ học triền mien là điều
không tránh khỏi. Điều tốt thì khó nạp nhưng cái xấu thì lại dễ tiêu, chính vì thế
một bộ phận HS mà theo tôi là nhạy cảm với vấn đề xã hội này các em dễ bị lôi
cuốn bởi những thói hư, tật xấu của môi trường xã hội chung quanh là điều tất yếu.
1.2.5. Nguyên nhân chủ quan về phía các em
Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, lứa tuổi, suy nghĩ còn non nớt, nhận
thức chưa cao chính vì thế các em có những hành vi thiếu chuẩn xác là điều không
thể tránh khỏi.
Những HS cá biệt ta thường gặp phần lớn là những em có năng lực học tập
yếu kém, điều đó cũng hoàn toàn dễ hiểu bởi nhận thức của các em kém thì làm
sao có hành động tốt được. Việc hạn chế trong tiếp thu kiến thức của các em cũng
dẫn đến sự lười biếng, chán nản, muốn phá phách, nhất là đối với HS nam. Xét ở
một khía cạnh khác thì cũng có thể các em vì tự ái về sự chê cười của thầy cô và bè
bạn, các em muốn chứng minh cho mọi người thấy rằng mình học không tốt nhưng
mình có thể nổi trội hơn về mặt khác, hoặc các em muốn thầy cô chú ý mình hơn
chẳng hạn, chính vì thế mà các em có những hành động vượt ra khỏi những quy
định chung.
Chương 2. Thực trạng công tác giáo dục học sinh cá biệt hiện nay
ở trường THCS Quỳnh Long – Quỳnh Lưu.
2.1. Tình hình chung của địa phương
2.1.1. Vài nét về tình hình của địa phương
Quỳnh Long là một trong 43 xã thuộc huyện Quỳnh Lưu, nằm ở phía đông nam
huyện, cách thị trấn Cầu Giát 10km, nằm vào giữa hai cửa lạch: Lạch Quèn và
Lạch Thơi, phía đông, phía bắc, phía nam giáp xã Quỳnh Thuận, phía sau lưng có
kênh nhà Lê, núi Bà Bà, núi Bàn cờ, núi Kiến che chắn cho làng mạc Quỳnh Long
đã bao đời nay.

Quỳnh Long có gần 3 km bờ biển: phía tây nam giáp cửa Lạch Thơi, phía đông
bắc giáp cửa Lạch Quèn. Toàn bộ cư dân định cư và sinh sống ven biển từ thôn
Thành Công đến thôn Cộng Hòa. Dân số Quỳnh Long hiện có khoảng trên một
vạn, người lao động Quỳnh Long hầu hết làm nghề khai thác hải sản biển, ngoài ra
còn có nhiều ngành nghề khác như làm muối, chế biến hải sản (làm nước mắm,
làm chượp …), nuôi trồng thủy hải sản, chăn nuôi, thủ công nghiệp, dịch vụ, kinh
doanh buôn bán nhỏ v.v. Hiện nay Quỳnh Long có thôn Minh Thành được công
nhận làng nghề (mây tre đan xuất khẩu).
Đến nay ngành khai thác hải sản biển ở Quỳnh Long đã từng bước hiện đại hóa
với các nghề chính là câu mực, đánh bắt xa bờ, lưới vây, lưới ghẹ … Các ngành
nghề khác cũng phát triển phong phú và đa dạng. Thu nhập của người dân ngày
càng ổn định, đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao.
Chính vì có sự phát triển kinh tế qua những năm qua thì Quỳnh Long có một số
không nhỏ lực lượng lao động nhỏ tuổi sớm tham gia vào sản xuất, trong đó HS bỏ
học đi làm kinh tế nhiều đây là vấn đề nhức nhối ở địa phương. Sức hút của đồng
tiền về cái lợi trước mắt đã làm một số bộ phận HS trượt theo con đường lôi kéo
của người khác.
2.1.2. Tình hình địa phương đối với học sinh cá biệt
Tình hình lớp học của trường THCS trường có 4 khối là khối 6, khối 7, khối 8,
khối 9. Với 16 lớp, tổng cộng 545 em học sinh.
Trường THCS Quỳnh Long được xây dựng trên địa bàn thôn Phú Thành, xã
Quỳnh Long, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Những năm qua, Quỳnh Lưu
(Nghệ An) có sự tăng trưởng nhanh về kinh tế, ổn định về chính trị, đời sống nhân
dân theo đó cũng được nâng lên đáng kể. Nằm trong sự phát triển chung đó, ngành
GD&ĐT Quỳnh Lưu đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Theo xu hướng của nền kinh tế phát triển mạnh các em học sinh nhất là ở lưới tuổi
HS THCS dễ chểnh mảng học tập, sa ngã theo các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu
chè, bỏ học… và dần trở thành HS cá biệt.
Trước tình hình đó nhà trường phối hợp với lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy và Ủy
ban nhân dân xã Quỳnh Long, sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của lãnh đạo ngành

giáo dục; sự giúp đỡ của các cấp các ngành, sự phối hợp có hiệu quả với Ban đại
diện cha mẹ học sinh, Hội khuyến học, Hội và các ban ngành, đoàn thể địa phương
góp phần trực tiếp chấn chỉnh nề nếp cho HS trên địa bàn.
Vì là địa bàn còn tồn tại một số phần tử xấu chuyên dụ dỗ lôi kéo các em vào các
trò chơi như game, cờ bạc, lô đề, và uống rượu và sử dụng chất kích thích.
Cơ sở vật chất nhà trường vẫn còn nghèo, chưa được đầu tư đúng dắn nên việc
cung cấp các kỹ thuật vào dạy học chưa tốt, ảnh hưởng đến hứng thú học của các
em HS, các em dễ sao nhãng và dẫn đến chán nản.
Từ đó giúp công tác quản lý HS được sát sao và có những biện pháp cụ thể để
làm giảm tối đa số lượng HS cá biệt, giúp các em hoàn thiện dần.
2.2. Thực trạng công tác giáo dục cho học sinh cá biệt trong năm học.
2.2.1. Tình hình chung về giáo dục học sinh trong năm học ở trường
Từ lâu việc khắc phục cho những học sinh cá biệt đều được các nhà trường chú
trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ năm học hằng năm. Ở nhiều địa phương có
một số chương trình ở đó tập trung mọi biện pháp nhằm hạn chế tối đa học sinh cá
biệt, nhất là khối trung học cơ sở.
Từ thực tế hoạt động trong năm học ở trường, trong số các học sinh luôn có sự
phân hoá phức tạp về thể chất, mức độ trí tuệ, về phẩm chất đạo đức… Trong sự
phân hoá đó có một số có một số bộ phận tiến bộ vượt lên trên bạn bè cùng trang
lứa. Nhưng cũng có không ít bộ phận lại rơi vào tình trạng trì trệ, chậm phát triển,
thậm chí bị tụt hậu khá xa có thể rơi vào tình trạng suy thoái về nhân cách, có thể
bị trượt dài vào vòng tội lỗi. Một tỉ lệ khá lớn các em được nhà trường giáo dục
tích cực, đúng hướng đã có tiến bộ và dần dần hoàn chỉnh lại diện mạo nhân cách
của mình, nhưng cũng có một bộ phận không nhỏ phải rời nhà trường để các cơ
quan giáo dục khác của xã hội giáo dục với tên gọi khác “ Giáo dục lại”.
Đây là một vấn đề phức tạp và tế nhị, nó đòi hỏi phải có cái nhìn tổng quát và
khách quan về tình hình học sinh cá biệt.
Xét về lí luận, trong phạp vi nhà trường, các trẻ em thường “ trục trặc” trong sự
phát triển thường được gọi là “ trẻ em chậm tiến bộ”, “ trẻ em chưa ngoan” hoặc có
nơi gọi là “trẻ khó dạy”, phổ biến hơn “rè cá biệt” hay “học sinh cá biệt”. Tuy cách

gọi khác nhau, nhưng nội dung và và tính chất của các biểu hiện ở những học sinh
này thông thường là giống nhau. Cái khó ở đây là “ phạm vi” và mức độ giữa các
tên gọi này co giãn chứ nó chưa nêu bật được đặc trưng đối tượng.
Trong điều kiện bình thường, nhà trường cố gắng cá biệt hoá trong đối xử và
giáo dục học sinh cá biệt. Nhưng Cômenxki - một nhà giáo dục học đã xem cung
cách đối xử cá biệt với học sinh là phương tiện đấu tranh với nhà trường kinh viện.
Ông quan niệm “ Trẻ em là thứ báu vật vô cùng quí giá, thậm chí quí giá hơn so
với bất kì loại vàng nào; nhưng nó cũng là một tấm gương dễ vỡ hoặc bị hư hỏng
dẫn đến những tác hại không sao sửa chữa được nữa”
( theo Ia-môt Cômenxki- Tuyển tập sư phạm, phần 2) .
Bảng 1. Chất lượng giáo dục năm học 2012 – 2013 trường THCS Quỳnh Long
Xếp
Loại
Tốt (Giỏi) Khá Trung
Bình
Yếu Kém
SL % SL % SL % SL % SL %
Hạnh
Kiểm
265 49 185 34 80 15 10 2 0 0
Học
Lực
100 18 265 49 170 31 10 2 0 0
Thực hiện cuộc vận động Hai không với bốn nội dung, các cuộc vận động lớn của
ngành, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,
phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, đặc biệt thực hiện
chủ đề năm học “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin”, “Đổi mới quản lý và
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện”, trường THCS Quỳnh Long đã quan tâm
đến công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên, tích cực
tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đổi mới phương pháp dạy học, đổi

mới kiểm tra đánh giá đối với học sinh. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng
hàng năm nhà trường đã quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang bị các thiết
bị, đồ dùng dạy học nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy. Thực hiện nghiêm túc
chương trình, kế hoạch giảng dạy, các hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động
hướng nghiệp, dạy nghề, các phong trào văn nghệ, thể dục thể thao nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện.
Trường THCS Quỳnh Long, huyện quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An luôn chú trọng đến
chất lượng HS. Hằng năm nhà trường cũng đã đưa ra nhiều biện pháp, theo dõi
chặt chẽ mọi diễn biến về chất lượng học sinh, đặc biệt là các HSCB trong mỗi lớp
để từ đó giúp các em hoàn thiện bản thân mình, trở thành người tốt, ở đó vai trò
giáo viên chủ nhiệm là cực kì quan trọng.
Bảng 2. Số lượng cán bộ giáo viên và học sinh ở THCS Quỳnh Long
(2012 -2013)
Khối Lớp CB quản lý Giáo viên Số lớp Học sinh
6
2
4 4 150
7 4 4 140
8 5 4 130
9 5 4 125
Tổng số 2 18 16 545
2.3. Những quy trình giáo dục đã vận dụng trong năm học
2.3.1. Hoạt động ngoại khóa
Trường THCS Quỳnh Long tổ chức cho học sinh (trong đó quan tâm đặc biệt
đến học sinh cá biệt) tham gia tích cực các hoạt động giáo dục theo quy định của
biên chế năm học 2008-2009 do Sở phòng GD- ĐT huyện Quỳnh Lưu đã triển khai
cụ thể như sau:
- Tổ chức sinh hoạt dưới cờ hàng tuần phát động các phong trào thi đua có liên quan
đến các hoạt động giáo dục đạo đức trong nhà trường, nêu gương người tốt việc
tốt, vượt khó học giỏi…

- Hàng tuần trường đều tổ chức sinh hoạt đội vào ngày thứ năm nhằm giáo dục HS
làm theo 5 điều Bác Hồ dạy, GD cho HS các kỹ năng sinh hoạt tập thể, để học sinh
rèn luyện trở thành con ngoan, trò giỏi, bạn tốt, công dân tốt.
- GD cho học sinh tham gia tìm hiểu tháng an toàn giao thông, viết báo tường,
tổ chức cuộc thi giao lưu văn nghệ chào mừng các ngày lễ như 20/11 do nhà
trường tổ chức.
Trong năm học vừa qua nhà trường đã tổ chức được các hoạt động ngoại khoá
phong phú dưới nhiều hình thức và thu hút được sự tham gia và hưởng ứng của các
em HS rất lớn. Từ đó hình thành đạo đức, phẩm chất và tinh thần đoàn kết trong
tập thể lớp, giúp cho các em có lối sống lành mạnh, có ý thức chấp hành nội quy
của lớp nhà trường và xã hội.
2.3.2. Các hoạt động lao động hướng nghiệp
- Giáo dục lao động: trường tổ chức cho học sinh lao động hàng tuần, thu dọn vệ
sinh môi trường, cải tạo cảnh quan sư phạm. Thông qua các buổi lao động giáo dục
cho học sinh tinh thần kỷ luật, biết thương yêu và kính trọng người lao động.
- Giáo dục thẩm mỹ : Thông qua bộ môn Mỹ thuật, sinh nhoạt Liên đội TN TP
HCM để giáo dục cho các em biết cảm nhận được cái đẹp chân chính.
- Tổ chức các buổi hoạt động về định hướng nghề nghiệp cho các em, ở đó
các em được các thầy cô nói chuyện một cánh cởi mở, được nói lên suy
nghĩ và ước mơ.
Từ đó giúp các em định hướng nghề nghiệp cho tương lai
2.3.3. Chú trọng đến hoạt động của giáo viên chủ nhiệm
- Công tác giáo viên chủ nhiệm đối với công tác giáo dục HS cá biệt trong nhà
trường: Giáo viên chủ nhiệm là lực lượng chính là nhân tố quyết định chất luợng
trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. Cũng là người quán xuyến nắm
chắc các đối học sinh cá biệt và mọi hoạt động của hs lớp học, là người triển khai
thực hiện mọi hoạt động của nhà trường đến từng lớp, từng học sinh. Phải xây
dựng bộ máy của tổ chủ nhiệm mạnh, gồm những giáo viên hết lòng vì học sinh
thân yêu và thường xuyên họp để chủ nhiệm thống nhất phương pháp giáo dục
chung. Muốn vậy giáo viên chủ nhiệm phải thật sự là gương mẫu mọi mặt, quan

tâm giúp đỡ học sinh đặc biệt là học sinh cá biệt, phải thực sự là người mẹ hiền
của các em, thấu hiểu hoàn cảnh của từng em mà có biện pháp tác động phù hợp,
giáo viên chủ nhiệm phải bám lớp, năm vững những diễn biến tư tưởng, thái độ,
hành động của học sinh lớp mình phụ trách.
Tạo điều kiện giúp đỡ giáo viên chủ nhiệm mới về những biện pháp giáo dục quả
lý nếu không thu được kết quả. Muốn vậy phải kiểm tra sát, đôn đốc kịp thời đề ra
phương hướng, biện pháp giáo dục những học sinh mắc lỗi.
Coi trọng giờ sinh hoạt lớp của chủ nhiệm, hướng dẫn, yêu cầu chủ nhiệm phải xây
dựng đội ngũ tự quản, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh và giáo viên
chủ nhiệm trong quản lý, giáo dục học sinh cá biệt. Tạo dư luận trong lớp lên án
những những hành vi bạo lực của các cá nhân trong lớp. Không cho phép định kiến
trong lớp học, nghiêm khắc với những học sinh có những nhận xét định kiến với
người khác.Thường xuyên nhắc nhở các em tuân thủ quy định của lớp của trường.
Yêu cầu giáo viên nhất là các giáo viên chủ nhiệm phải chịu trách nhiệm cả trong
và ngoài lớp học vì hiện nay một số giáo viên chỉ quan tâm với những gì xảy ra
trong lớp mà ít quan tâm nhưng chuyện xảy ra ngoài lớp học. Hàng tháng bình xếp
loại hạnh kiểm và thông báo về gia đình.
2.3.4. Sự tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt của giáo viên bộ môn

×