Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

lịch sử các học thuyết kinh tế phân tích các học thuyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.56 KB, 26 trang )

a/ Phân tích nội dung lý thuyết của W. Rostow. Đưa ra nhận xét từ sự nghiên cứu của
lý thuyết này.
b/ Ý nghĩa rút ra từ sự nghiên cứu lý thuyết này.
a/ Phân tích nội dung lý thuyết của W Rostow. Nhận xét:
W. Rostow cho rằng sự tăng trưởng kinh tế của các nước phải trải qua các giai đoạn khác
nhau, khác với lý thuyết phân tích sự phát triển thông qua các yếu sản xuất. Lý thuyết của
ông đi từ gốc độ kinh tế lịch sử, nó nghiên cứu tiến độ, quá trình phát triển của nền kinh tế
từ thấp mà đi đến đỉnh cao nhất. W. Rostow cho rằng sự phát triển của mỗi nước nhất thiết
phải trải qua 5 giai đoạn đi từ thấp đến cao:
1. XH truyền thống: Với những đặc trưng cơ bản là không có khoa học hiện đại, phân bố
tài nguyên quá nhiều và không có hiệu quả nông nghiệp, phân bố ít trong nông nghiệp
chế tạo, cơ cấu XH cân nhắc, năng xuất lao động thấp, thu nhập đủ sống. Ứng với giai
đoạn này là các nước Châu Âu thời Trung Cổ.
2. Chuẩn bị cất cánh: Với đặc trung cơ bản là: Áp dụng những biện pháp mới trong sản
xuất nông nghiệp và công nghiệp chế tạo, xuất hiện những cơ chế tài chính như: ngân
hàng, cải thiện các phương tiện giao thông vận tải để mở rộng thương mại, đã có tầng
lớp chủ xí nghiệp đủ khả năng thực hiện đổi mới cơ cấu hạ tầng sản xuất. Bắt đầu xuất
hiện những khu vực có tác động lôi kéo nền kinh tế. Ứng với giai đoạn này là thời kỳ
công nghiệp hóa.
3. Cất cánh: Với các đặc trưng: Tốc độ tăng trưởng nhanh và tỷ lệ đầu tư cho nền kinh tế
khoảng 5-10% tổng sản phẩm quốc dân, áp dụng những biện pháp kỹ thuật và tổ chức
hiện đại vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, có các ngành công nghiệp mới, lớn
ra đời. Mặt khác cơ cấu kinh tế chính tế trong giai đoạn này phải cho phép khai thác
các xung lực kinh tế trong tất cả các lĩnh vực kinh tế. Ở giai đoạn này quá trình cất
cánh được bắt đầu từ khu vực đầu đàn rồi tới khu vực địa lý, ngành kỹ thuật kinh tế, từ
đó kéo theo sự phát triển một số ngành khác (giai đoạn này khoảng 30 năm).
4. Chuyển tới sự chín mùi về kinh tế: Với những đặc trưng: Tỷ lệ đầu tư lên tới 10-20%
tổng sản phẩm quốc dân, xuất hiện nhiều cực tăng trưởng mới, tốc độ tăng GNP nhanh
hơn nhiều so với tốc độ tăng dân số, nền kinh tế đóng vai trò quan trọng trong ngoại
thương thế giới (giai đoạn này khoảng 40 năm).
5. Trưởng thành – xã hội tiêu dùng cao, hàng loạt: với những đặc trưng tỉ lệ cao các


nguồn tài nguyên được dùng cho sản xuất hàng tiêu dùng và dịch vụ, công nhân lành
nghề, lao động trí tuệ tăng nhanh, một bộ phận lớn tài nguyên được dùng cho phúc lợi
và an ninh. Quốc gia thịnh vượng, xã hội hóa sản xuất cao nhưng dần dần có dấu hiệu
giảm sút tăng trưởng.
Nhận xét:
Lý thuyết của Rostow có căn cứ thực tế không thể chối cãi nhưng có những hạn chế sau:
- Tăng trưởng là một quá trình liên tục chứ không phải đứt đoạn nên không thể phân
chia thành những giai đoạn chính xác như vậy. Mặt khác, sự tăng trưởng và phát triển ở
một số nước không nhất thiết phải giống phân chia 5 giai đoạn như trên, câu hỏi đặt ra
là “Tại sao cất cánh lại xảy ra ở nước này mà không xảy ra ở nước khác?” Lý thuyết
chưa giải thích được điều đó.
- Cách tiếp cận không lấy tính đặc thù của mỗi nước làm điểm xuất phát.
- Lý thuyết Rostow chỉ nghiên cứu sự tăng trưởng chứ chưa đi sâu nghiên cứu và phân
tích phát triển kinh tế.
b/ Ý nghĩa rút ra từ sự nghiên cứu lý thuyết của Rostow:
- Có ý nghĩa trong việc xác định trình độ phát triển của mỗi quốc gia trong mỗi giai
đoạn.
- Lý thuyết này gợi ý về sự thúc đẩy hoàn thành những tiền đề cần thiết nào đó cho sự
phát triển của mỗi nước trong từng giai đoạn.
a/ Phân tích những luận điểm kinh tế cơ bản của CN trọng nông.
b/ Đưa ra những nhận xét về lý luận kinh tế của CN trọng nông.
c/ Ý nghĩa rút ra từ việc nghiên cứu?
a/ Phân tích những luận điểm kinh tế cơ bản của CN trọng nông.
CN trọng nông là một trong những trường phái của kinh tế chính trị học tư sản và CN
trọng nông có những luận điểm kinh tế cơ bản như sau:
Lý thuyết sản phẩm thuần túy (sản phẩm ròng):
Lý thuyết sản phẩm thuần túy là lý thuyết trung tâm của CN trọng nông. Theo đó sản
phẩm thuần túy là số chênh lệch giữa tổng sản phẩm và chi phí sản xuất. Nó là phần dôi ra
ngoài các chi phí sản xuất nông nghiệp và chỉ có nông nghiệp mới cho sản phẩm thuần túy
mà thôi. Lý luận này đã đặt cơ sở cho việc nghiên cứu vấn đề sản phẩm thặng dư.

Giải thích nguồn gốc của sản phẩm thuần túy. CN trọng nông cho rằng: vì nông nghiệp đã
được hưởng sự trợ giúp của tự nhiên, như độ màu mỡ của đất đai, của thời tiết, khí hậu,
nước… do vậy, sản xuất nông nghiệp có sự tăng thêm về chất.
Theo F. Quesnay có hai nguyên tắc hình thành giá trị tương ứng với hai lĩnh vực công
nghiệp và nông nghiệp. Nguyên tắc chung của trao đổi là phải ngang giá. Mục đích của
trao đổi chỉ là giá trị sử dụng. Tiền tệ chỉ là phương tiện của trao đổi. Giá trị trao đổi
không phải được mang đến trong lưu thông mà được đem đến trong quá trình sản xuất.
Ông cho rằng sản xuất công nghiệp cũng tạo ra giá trị trao đổi nhưng giá trị trao đổi ấy chỉ
để nuôi sống những người lao động trong lĩnh vực này. Đó là tiền lương cho nhà tư bản và
tiền lương cho công nhân. Trong sản xuất công nghiệp giá trị trao đổi tương ứng với các
chi phí sản xuất và do các yếu tố sản xuất chi phối quyết định. Sản xuất công nghiệp trong
điều kiện bình thường không tạo ra sản phẩm thuần túy, không tạo ra lợi nhuận. Họ giải
thích nguyên nhân là do trong công nghiệp quá trình tạo ra sản phẩm mới chỉ là quá trình
kết hợp giản đơn những chất cũ mà không tăng thêm về chất nên không tạo ra sản phẩm
thuần túy.
CN trọng nông cho rằng nông nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm thuần túy cho xã
hội. Lý luận này biểu hiện cho sự quan sát giản đơn ở hiện tượng để đưa ra kết luận.
Lý thuyết lao động sản xuất và lao động không sản xuất:
Từ lý thuyết sản phẩm thuần túy trên, F. Quesnay đã xây dựng nên lý thuyết lao động sản
xuất và lao động không sinh lời. Nghĩa là căn cứ vào kết quả để phân biệt các dạng lao
động. Theo đó, chỉ có lao động nào mà làm ra được sản phẩm thuần túy mới được coi là
lao động sản xuất hay lao động sinh lời và ngược lại những lao động nào không tạo ra sản
phẩm thuần túy thì không được coi là lao động sản xuất hay còn được gọi là lao động
không sinh lời.
Lý thuyết giai cấp:
Theo F. Quesnay, căn cứ vào lý thuyết sản phẩm thuần túy thì chỉ có lao động trong khu
vực nông nghiệp mới được coi là sản xuất, còn các lao động trong lĩnh vực khác đề không
được coi là lao động sản xuất. F. Quesnay chia xã hội thành những giai cấp sau:
- Giai cấp những người sở hữu, đó là những người chiếm lĩnh ruộng đất, phú nông…
giai cấp này sống bằng thu nhập hay sản phẩm thuần túy trong nông nghiệp mà hằng

năm giai cấp sản xuất phải nộp cho họ.
- Giai cấp sản xuất bao gồm công nhân nông nghiệp, chủ trang trại, chủ đồn điền.
- Giai cấp không sản xuất gồm công nhân công nghiệp, thương nghiệp, tư bản công
nghiệp.
CN trọng nông đã dựa vào kết cấu kinh tế để phân chia giai cấp. Cách phân chia này còn
đơn giản chỉ dựa vào tính chất ngành hoạt động sản xuất mà chưa dựa vào quan hệ, chủ
yếu là quan hệ giữa các tập đoàn người với tư liệu sản xuất.
Lý thuyết về tiền lương và lợi nhuận:
CN trọng nông đã chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản
xuất, tức là đã đi tìm nguồn gốc của của cải, vật chất là trong sản xuất chứ không phải
trong trao đổi.
Lý thuyết sản phẩm thuần túy đã đặt cơ sở cho việc nghiên cứu giá trị thặng dư.
CN trọng nông bước đầu nghiên cứu các bộ phận cấu thành của tư bản và đặc biệt đặt vấn
đề phân tích có cơ sở khoa học về tái sản xuất tư bản xã hội.
Đã xác định được mức độ tối thiểu của tiền lương.
CN trọng nông đã đưa ra đề nghị trong các chính sách kinh tế của chính phủ: phải ủng hộ
phát triển nông nghiệp theo kiểu đồn điền TBCN. Ủng hộ tự do cạnh tranh trong sản xuất,
trao đổi và tự do cá nhân nói chung.
b/ Nhận xét:
Mặt hạn chế:
- CN trọng nông mới dừng việc nghiên cứu ở giới hạn xem xét, mô tả hiện tượng bên
ngoài mà chưa đi sâu phân tích để phát triển bản chất của các quá trình kinh tế.
- Quan niệm về sản xuất còn hẹp hòi do đó đã đi đến kết luận sai lầm rằng giá trị thặng
dư tức là cái mà CN trọng nông gọi là sản phẩm thuần túy là tặng phẩm của tự nhiên.
- CN trọng nông đề cao đến mức tuyệt đối hóa sản xuất nông nghiệp, phủ nhận vai trò
của lưu thông, chưa hiểu được mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông, không thấy
được vai trò của ngoại thương đối với sự phát triển kinh tế.
- Về mặt lý luận, CN trọng nông chưa xây dựng được các phạm trù khái niệm đúng đắn
như hàng hóa, tiền tệ, giá trị lợi nhuận…
c/ Ý nghĩa nghiên cứu:

- Chính sách của CN trọng nông là đánh thuế mạnh nông nghiệp để lấy tiền phát triển
công nghiệp làm cho nông nghiệp kiệt quệ, nạn đói xảy ra khắp nơi. Từ đó thấy rằng,
ta phải phát triển nông nghiệp một cách đúng mức. Nông nghiệp thật sự quan trọng đối
với mỗi quốc gia nhưng cũng không nên tuyệt đối hóa sản xuất nông nghiệp mà phải
thấy được vai trò quan trọng của các ngành khác như: công nghiệp, ngoại thương đối
với sự phát triển kinh tế.
- Phân biệt rõ ràng, xây dựng được các phạm trù và khái niệm đúng đắn như: hàng hóa,
tiền tệ, giá trị, lợi nhuận.
a/ Hoàn cảnh và phân tích những luận điểm kinh tế cơ bản của CN trọng thương.
b/ Đưa ra những nhận xét về lý luận kinh tế của CN trọng thương.
c/ Ý nghĩa rút ra từ việc nghiên cứu?
1. Hoàn cảnh ra đời:
CN trọng thương là hệ thống tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, hình thành và
phát triển ở Tây Âu vào giữa thế kỷ XV và tồn tại trong khoảng 3 thế kỷ.
Trong thời kỳ này chế độ phong kiến ở Châu Âu bắt đầu tan rã và là thời kỳ tích lũy ban
đầu cho CN tư bản, quan hệ sản xuất TBCN bắt đầu xuất hiện.
Sự xuất hiện chủ nghĩa trọng thương gắn liền với những tiền đề lịch sử sau:
Kinh tế:
- Vào thời điểm này hàng hóa ở Châu Âu phát triển mạnh. Thị trường dân tộc trong
nước mở rộng xuất hiện các hoạt động giao thông quốc tế.
- Tiền tệ không chỉ được sử dụng làm phương tiện trung gian trong trao đổi hàng hóa mà
tiền tệ còn sử dụng làm tư bản để sinh lợi 1 cách phổ biến.
Chính trị - xã hội:
- Giai cấp phong kiến bắt đầu suy tàn, phân hóa rõ rệt. Trong xã hội vị thế của tầng lớp
thương nhân tăng lên và sự phân hóa giàu nghèo trở nên sâu sắc.
- Xuất hiện khối liên minh của nhà nước phong kiến trung ương và tư bản thương nhân
dựa vào nhau để tồn tại.
Văn hóa tư tưởng:
- Phát triển của khoa học đặc biệt là khoa học tự nhiên.
- Xuất hiện phong trào phục hưng (do giai cấp tư sản khởi xướng nhằm chống lại tư

tưởng đen tối của phong kiến thời trung cổ, đề cao tư tưởng tự do nhân quyền, bình
đẳng).
- Sự chuyển biến tâm lý và lối sống của người dân. Đặc biệt trong tôn giáo đã có sự cải
cách đáng kể.
Về quan điểm chính trị: Có 2 ý niệm cơ bản.
- Củng cố nền độc lập và chủ quyền của từng quốc gia.
- Xem con người là một thực thể hay một công dân của quốc gia, đề cao cá tính và vai
trò cá nhân.
Kết luận: Sự kiện trên làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt phong kiến trung cổ, nền sản
xuất phong kiến bắt đầu nhường chỗ cho chế độ tư bản thương mại => CN trọng thương
xuất hiện.
2. Những luận điểm kinh tế cơ bản của CN trọng thương:
Luận điểm về tiền tệ: CN trọng thương đánh giá cao vai trò của tiền, tiền được coi là tiêu
chuẩn căn bản của của cải, do đó mục đích chính trong chính sách kinh tế của mỗi nước là
phải làm gia tăng khối lượng tiền tệ. Mỗi quốc gia càng có nhiều tiền (vàng) thì càng giàu
có, còn hàng hóa chỉ là phương tiện để tăng thêm khối lượng tiền tệ.
Luận điểm về ngoại thương: CN trọng thương đánh giá cao vai trò của thương mại đặc
biệt là ngoại thương. CN trọng thương xuất phát từ chỗ cho rằng tiền tệ (vàng bạc) chỉ có
thể gia tăng qua các hoạt động thương nghiệp, cụ thể là ngoại thương. Ngoại thương đóng
vai trò sinh tử đối với phát triển kinh tế của một quốc gia. CN trọng thương cho rằng: Nội
thương là hệ thống ống dẫn, ngoại thương là ống bơm. Muốn tăng của cải phải có ngoại
thương nhập dẫn của cải qua nội thương. Khối lượng tiền tệ chỉ có thể tăng lên bằng con
đường ngoại thương và ngoại thương phải thực hiện chính sách xuất siêu bằng cách hạn
chế nhập khẩu và tăng cường xuất khẩu. Sự phồn thịnh của một quốc gia chính là nhờ
thương nghiệp đặc biệt là ngoại thương chứ không phải do sản xuất (trừ việc khai thác
vàng).
Trong quan điểm ngoại thương, tính dân tộc thể hiện rất rõ. Các đại biểu của CN trọng
thương đều đòi hỏi nhà nước phải có các biện pháp nhằm bảo vệ thị trường nội địa tránh
sự xâm nhập, cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài; chủ trương tìm mọi cách để bảo vệ
vàng bạc nước mình không chảy ra nước ngoài.

Luận điểm về chính sách ngoại thương: Xuất phát từ chỗ coi nguồn gốc của của cải được
sinh ra trong lưu thông và luận điểm về ngoại thương phải thực hiện xuất siêu của mình,
CN trọng thương chủ trương xuất siêu với các mức độ khác nhau giữa các khuynh hướng
của quốc gia trong những thời kỳ khác nhau. Để thực hiện xuất siêu thì phải phát triển
công nghiệp. Nhập khẩu có thể giảm nếu từ bỏ việc tiêu dùng quá mức hàng nước ngoài.
Chỉ nên nhập khẩu những hàng hóa mà trong nước không sản xuất được hay sản xuất
được nhưng có chi phí quá lớn so với hàng ngoại cùng kiểu cách, chất lượng. Xuất khẩu
phải chú ý đến những mặt hàng dư thừa trong nước và nhu cầu của nước quan hệ trong
hoạt động ngoại thương. CN trọng thương ủng hộ chính sách thuế quan, chính sách bảo hộ
mậu dịch có lợi cho những hoạt động ngoại thương.
Luận điểm về cơ chế kinh tế: Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển tốt đẹp nếu như có sự
điều chỉnh và quản lý của nhà nước, khuyến khích sự độc quyền trong ngoại thương. Vai
trò của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế được CN trọng thương đề cao và cho
rằng: Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển có hiệu quả nếu chịu sự chi phối, quản lý của
nhà nước. Thương nhân cần dựa vào nhà nước và nhà nước phối hợp bảo vệ thương nhân.
Luận điểm về lợi nhuận: CN trọng thương cho rằng lợi nhuận là kết quả của sự tro đổi
không ngang giá do lĩnh vực lưu thông mua bán, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả việc mua ít
bán nhiều, mua rẻ bán đắt. Họ coi thương nghiệp như là một sự lường gạt, cái được của
người này là cái mất của người kia và tương tự như vậy là quan hệ thương mại giữa các
quốc gia.
3. Nhận xét về lý luận kinh tế của CN trọng thương:
Mặt tích cực:
CN trọng thương đả phá mạnh mẽ hệ tư tưởng kinh tế phong kiến.
- Lần đầu tiên trong lịch sử, CN trọng thương giúp mọi người thoát khỏi cách giải quyết
các vấn đề kinh tế bằng các giáo lý đạo đức, các lý thuyết tôn giáo thần học.
- CN trọng thương đưa ra được cương lĩnh của giai cấp tư sản Châu Âu trong thời kỳ
tích lũy ban đầu.
CN trọng thương đã đưa ra tuyên ngôn hướng vào việc phát triển hệ thống công trường
thủ công và lần đầu tiên trong lịch sử thế giới đã cố gắng nhận thức CNTB, giải thích các
quá trình kinh tế dưới góc độ lý luận dựa trên cơ sở các thành tựu khoa học.

Mặt hạn chế:
Những thành tựu lý luận còn nhỏ bé, những vấn đề kinh tế đã được lý giải một cách giản
đơn, chỉ là sự mô tả các hiện tượng chưa đi sâu tìm hiểu bản chất bên trong của nó. Ví dụ:
chỉ thấy vấn đề lưu thông, không thấy được sản xuất là gốc và cũng chưa thấy được mối
liên hệ giữa sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng.
Hệ thống các luận điểm kinh tế chủ yếu xuất phát từ kinh nghiệm thực tế.
4. Ý nghĩa:
Mặc dù CN trọng thương còn những hạn chế khó tránh được do điều kiện lịch sử khách
quan cũng như chủ quan nhưng CN trọng thương đã tạo những tiền đề lý luận kinh tế - xã
hội cho kinh tế chính trị tư sản phát triển. Bởi lẽ CN trọng thương đã cho rằng: Sự giàu có
không phải là ở giá trị sử dụng mà là ở giá trị (tiền); Mục đích của hoạt động kinh tế hàng
hóa là lợi nhuận. Các chính sách thuế quan bảo hộ đã góp nhần thúc đẩy sự ra đời của
CNTB.
Hiện nay, những nghiên cứu về CN trọng thương vẫn còn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
đối với chúng ta. Ví dụ: vấn đề tích lũy vốn, kêu gọi đầu tư từ nước ngoài. Vai trò của
ngoại thương trong thời kỳ mở cửa hội nhập với thế giới. Vấn đề bảo hộ mậu dịch, các
chính sách bảo vệ sản xuất trong nước, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và những vấn
đề xã hội. Việc nghiên cứu CN trọng thương có ý nghĩa thời sự đáng được nghiên cứu và
vận dụng đối với nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước
theo định hướng XHCN như Việt Nam ta hiện nay.
a/ Phân tích và so sánh lý luận giá trị của A. Smith với lý luận giá trị của Walros.
b/ Rút ra nhận xét từ những lý luận trên.
a/ Phân tích so sánh lý luận giá trị của A. Smith với lý luận giá trị của Walros
*Adam Smith:
Lý luận giá trị của ông chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị và lao
động là thước đo cuối cùng của giá trị. Ông khẳng định giá trị sử dụng không quyết định
giá trị trao đổi. Cái quyết định mức độ giàu có của một dân tộc là số lượng lao động và
năng suất lao động.
Q=W x t
Trong đó: Q: Số lượng sản phẩm của cải.

W: Năng suất lao động
t: Số lượng lao động
Khi phân tích giá trị hàng hóa, ông cho rằng giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi hàng
hóa. Lượng giá trị của hàng hóa là do hao phí lao động trung bình quyết định. Lao động là
cái thật sự đo lường giá trị của hàng hóa, nghĩa là hao phí lao động sản xuất ra hàng hóa
quyết định. Giá trị của hàng hóa bằng số lượng lao động mà người ta có thể mua được nhờ
hàng hóa đó. Trong vấn đề phân phối giá trị ông cho rằng khi sức lao động biến thành
hàng hóa hay khi xuất hiện tư bản thì phần sản phẩm do lao động tạo ra chia làm 2: tiền
lương của công nhân và lợi nhuận của nhà tư bản. Theo ông, năng suất lao động phụ thuộc
vào sự phân công lao động xã hội. Đây là tư tưởng của giai đoạn công trường thi công.
Phân công lao động XH theo ông là một bước tiến vĩ đại nhất trong lịch sử XH loài người,
là thiên hướng tự nhiên của con người. Cái quyết định sự phân công lao động XH ấy là do
trao đổi mua bán hàng theo quy định. Tất cả các vấn đề trên đều xuất phát từ lợi ích kinh
tế của mỗi cá nhân. Tính chuyên biệt của lao động một phần nhỏ là do bẩm sinh, chủ yếu
là do quá trình đào tạo, học tập, rèn luyện.
Ông đưa ra 2 định nghĩa về giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Giá cả tự nhiên là biểu
hiện tiền tệ của giá trị, giá cả thị trường là giá bán thực tế của hàng hóa được đưa ra thị
trường. Giá cả tự nhiên có tính khách quan, còn giá cả thị trường thường chênh lệch với
giá cả tự nhiên: thấp hơn hoặc cao hơn do phụ thuộc nhiều yếu tố như quan hệ cung – cầu
của hàng hóa đó trên thị trường và sự độc quyền hàng hóa.
*Leon Walras:
Là sự phát triển ở một khía cạnh nhất định ở một lý thuyết giá trị của trường phái Áo. Lý
thuyết khan hiếm, và lý luận bàn tay vô hình của Adam Smith. Adam Smith chưa đề cập
đến sự tác động của bàn tay vô hình, còn Walras thì đề cập đến. Theo Walras khan hiếm là
một khái niệm khách quan theo đó giá trị phát sinh từ tình trạng bất cân xứng giữa cung và
cầu. Một vật có giá trị khi cầu lớn hơn cung và ngược lại sẽ giảm giá trị nếu cung lớn hơn
cầu, vật phẩm trở nên dư thừa mất giá trị. Mặt khác ý niệm về lợi ích biên chế thì theo đó
giá trị một vật tùy thuộc vào tương quan giữa khả năng thỏa mãn của đồ vật đó với cường
độ nhu cầu của mỗi cá nhân.
b/ Nhận xét về 2 lý luận giá trị trên:

Adam Smith:
- Theo A.S, lao động là cái mình có thể mua bán. Thực tế giá trị hàng hóa được tính
bằng số lượng lao động mà người ta có thể mua được nhờ hàng hóa đó. Vì vậy, lao
động là cái không thể mua bán, chỉ có sức lao động mới có thể mua bán.
- Ông đã không phân biệt nguồn gốc của giá trị trao đổi và việc phân phối giá trị khi nói
tiền lương, lợi nhuận, địa tô là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, cũng như mọi
giá trị trao đổi. Khác với các nhà kinh tế trước ông cho rằng nông nghiệp thì cao hơn
(tư tưởng trọng nông)
Leon Walras:
- Đã nghiên cứu cân bằng cả XH. Ông đề cặp đến sự tác động của bàn tay vô hình đối
với nền kinh tế. Sự phân chia thị trường của Walras còn nhiều khiếm khuyết.
a/ Phân tích nội dung lý thuyết của Harrod Domar.
b/ Đưa ra nhận xét và ý nghĩa từ việc nghiên cứu của lý thuyết này.
a/ Nội dung lý thuyết của Harrod Domar:
Vào những năm 40 các nhà kinh tế R. Harrod và E. Dornar đã đề xuất quan điểm về mối
tăng trưởng kinh tế và các nhu cầu về vốn tư bản.
R. Harrod coi phạm trù kinh tế động là tình trạng của nền kinh tế khi tổng đầu tư của sản
phẩm có thay đổi, tăng lên hoặc giảm đi. Ông cho rằng nghiên cứu một nền kinh tế đang
mở rộng thì cần xem xét mối tương quan giữa 3 nhân tố: sức lao động, quy mô tư bản hiện
có và sản lượng sản phẩm được sản xuất ra. Việc xác định khối lượng tư bản cần thiết đủ
để làm cho 2 yếu tố kia phát sinh tác dụng là điều quan trọng nhất. Ông nêu ra các phương
trình tăng trưởng kinh tế động như:
Phương trình tăng trưởng thực tế của sản xuất:
GxC= Sản xuất
C= (C2-C1)/ Giá trị
Trong đó: G là mức tăng tổng đầu ra trong thời kỳ xem xét
C là tư bản tăng lên trong thời kỳ đó so với mức tăng của sản phẩm cùng kỳ.
Sản xuất là tiết kiệm
C1 là tư bản lúc đầu kỳ nghiên cứu
C2 là tư bản vào cuối kỳ

Nhưng tiết kiệm là đại lượng khó xác định chính xác trước được, như vậy vấn đề là làm
sao xác định được tốc độ tăng trưởng giá trị, trong đó tiết kiệm thực sản xuất cần phải
bằng đầu tư cần thiết. Ông ra khái niệm tăng trưởng có bảo đảm theo phương trình sau:
GW x Cr= Sản xuất
Trong đó:
- GW là tốc độ tăng trưởng có bảo đảm, đáp ứng được lợi ích của người sản xuất, nghĩa
là tốc độ tăng trưởng theo sản phẩm đầu ra tạo được điều kiện cho quá trình tiếp tục
diễn ra.
- Cr là hệ số cơ bản cần thiết.
Trong lý thuyết tăng trưởng của mình Harrod – R. Harrod chủ yếu nghiên cứu và đề xuất
quan điểm về mối quan hệ tăng trưởng và các nhu cầu về vốn cơ bản. Tư tưởng cơ bản của
thuyết cho rằng mức tăng trưởng của bất kỳ đơn vị kinh tế nào, hay toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, phụ thuộc chặt chẽ vào tổng số tư bản đầu tư cho đơn vị kinh tế đó. Trong điều
kiện kinh tế thị trường, về cơ bản thu nhập được chia làm thành 2 phần: Phần dành cho
tiêu dùng trực tiếp và phần dành cho tái đầu tư gián tiếp hoặc trực tiếp. Với giả định toàn
bộ tiết kiệm được dành cho đầu tư thì tổng đầu tư bằng tổng tiết kiệm. Như vậy, mối quan
hệ tăng trưởng và đầu tư được biểu hiện thành mối quan hệ giữa mức tăng trưởng và mức
tiết kiệm. Nói cách khác tốc độ của sản xuất tỷ lệ thuận với tỷ lệ tiết kiệm trên tổng sản
phẩm kinh tế quốc dân.
Lý thuyết R. Harrod – Dornar cho rằng tư bản được tạo ra bằng đầu tư dưới dạng nhà máy
và thiết bị là nguồn xác định chính của sự tăng trưởng và số tiền tiết kiệm của dân cư, các
công ty là nguồn để có vốn đầu tư.
Để đo năng lực sản xuất tăng thêm hay khả năng tăng trưởng, người ta dùng chỉ số gia
tăng tư bản – đầu ra là 2:1. Chỉ số này thường được dùng để lựa chọn việc quyết định đầu
tư cho loại sản phẩm hay ngành nào đó trong mỗi giai đoạn ở một thời điểm nhất định.
b/ Nhận xét lý thuyết:
Lý thuyết Harrod – Dornar về thực chất chỉ gói gọn trong khái niệm tăng trưởng kinh tế.
Dù vậy, lý thuyết này vẫn còn ảnh hưởng lớn đến các nước đang phát triển muốn nhanh
tốc độ tăng trưởng của mình, bởi nó đã nhắm trúng vấn đề thiết yếu nhất và cũng nan giải
nhất ở đây là vốn thất nghiệp. Đi theo hướng này là một loạt các chính sách ở nhiều quốc

gia nhằm vào việc nâng cao mức độ tích lũy trong tổng sản phẩm quốc dân đang tập trung
tăng nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Ưu điểm:
Chỉ số gia tăng tư bản – Đầu ra: vận dụng đã đề ra kế hoạch cho sự ưu tiên phát triển của
một ngành hay một khu vực nào đó của nền kinh tế quốc dân, dựa vào đó cũng có thể đưa
ra những chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế khi xét tới mối tương quan giữa nguồn tài
chính và nguồn nhân lực hiện có.
Hạn chế:
Nếu như xem xét nó trên các nước đang phát triển, vì những nước này có cái vòng lẩn
quẩn (thu nhập thấp, tiết kiệm thấp, đầu tư thấp, tích lũy thấp, năng suất lao động thấp ).
Mặt khác ở các nước đang phát triển thị trường tài chính và thị trường hàng hóa hoạt động
yếu ớt. Rõ ràng là toàn bộ tiết kiệm sẽ không được đưa ra đầu tư hết.
Lý thuyết Harrod – Dornar không giải thích rõ một số điểm khác nhau căn bản trong sự
tăng trưởng giữa các quốc gia, trong khi mọi người muốn biết tại sao lại có sự khác nhau
rất lớn giữa các nước, các khu vực về chỉ số gia tăng tư bản – đầu ra.
a/ Trình bày nội dung cơ bản lý thuyết về nền ktế hỗn hợp của trường phái chính hiện
đại.
b/ Cơ chế kinh tế của nước ta hiện nay có phải là cơ chế kinh tế hỗn hợp không? Vì
sao?
c/ Ý nghĩa rút ra từ sự nghiên cứu lý thuyết này trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh
tế nước ta.
a/ Nội dung cơ bản lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của trường phái chính hiện đại:
Về cơ cấu thị trường:
Nói đến thị trường là nói đến sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế để xác định giá cả
hàng hóa. Không có sự cạnh tranh này thì không có thị trường. Thị trường đồng nghĩa với
tự do kinh tế, tự do trao đổi, tự do xác định giá cả. Thị trường có vai trò tự động điều
chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, gia đình và doanh nghiệp. Lời ích kinh tế là động lực của
cá nhân hay doanh nghiệp, cơ chế thị trường là hình thức tổ chức kinh tế. Trong đó cá
nhân người ta tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác
định 3 vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là gì? Cho ai? Như thế nào? Cơ chế thị trường

không phải là hỗn hợp mà là một trật tự kinh tế. Sự biến động giá cả làm cho trạng thái
cân bằng cung-cầu thường xuyên biến đổi và ngược lại.
Lợi nhuận là động lực chi phối mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy hệ thống thị
trường luôn phải dùng lỗ và lãi để quyết định 3 vấn đề trung tâm của hoạt động kinh tế.
Theo trường phái chính hiện đại thì nền kinh tế chính trị thường có những nét đặc trưng cơ
bản sau:
- Nó thông qua sự tác động qua lại của người tiêu dùng và người sản xuất mà tuổi hoạt
động tùy theo lợi ích từng phía, để thỏa mãn người tiêu dùng và lợi nhuận của người
sản xuất được tối đa hóa.
- Những tác động này nằm trong một thị trường tự do mà giá cả độc lập như một người
trung gian. Ở đây người tiêu dùng và xí nghiệp được tự do lựa chọn, nhà nước không
can thiệp vào. Sự tối đa hóa lợi ích người tiêu dùng và doanh thu hoặc lợi nhuận của
doanh nghiệp không bị biến dạng. Vì vậy, người tiêu dùng phải cẩn thận, định giá đúng
kẻo bị thiệt thòi.
- Cạnh tranh là động lực cơ bản có tính hiệu quả trong sản xuất. Tín hiệu giá cả với
người sản xuất là nhu cầu của người tiêu dùng. Cạnh tranh là để bảo đảm rằng cái mà
người tiêu dùng muốn có được sản xuất ra một cách hiệu quả nhất.
- Lợi nhuận là động lực cá nhân hay doanh nghiệp.
- Giá cả của bất cứ sản phẩm nào cũng đều phụ thuộc vào cung – cầu của sản phẩm đó
trên thị trường. Vì vậy, nó có thể thực hiện mục tiêu của người tiêu dùng và người sản
xuất.
Kinh tế thị trường chịu điều khiển của hai ông vua:
- Người tiêu dùng thống trị thị trường vì họ bỏ tiền ra mua hàng do doanh nghiệp sản
xuất ra. Kỹ thuật: hạn chế người tiêu dùng, nhu cầu phải chịu theo cung ứng của người
kinh doanh.
- Lý thuyết cung – cầu là lý thuyết trung tâm của trường phái chính hiện đại. Quy luật
cung – cầu là mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa cung và cầu và việc hình thành
giá cả. Khi các đường cung-cầu được vạch ra, điểm giao tuyến của chúng xác định giá
cân đối này đều dẫn đến kết quả cung lớn hơn cầu, do đó kéo giá xuống. Ngược lại bất
kỳ giá nào dưới mức cân đối này đều dẫn đến kết quả là sản lượng cầu vượt qua số

lượng cung. Vì vậy, giá lên (tranh nhau mua). Ở mức cân đối không có sự thiếu hụt hay
dư thừa sản phẩm.
Sự cân bằng giá cả thị trường xảy ra tại mức giá cả và khối lượng tại đó các lực lượng
hoạt động trên thị trường cân đối nhau. Tại đó, số lượng người mua bằng số lượng người
bán.
Vai trò của nhà nước:
- Trường phái này cho rằng chính phủ tốt nhất là chính phủ quản lý ít nhất.
- Tạo môi trường ổn định cho các doanh nghiệp kinh doanh.
- Thực hiện các hoạt động phúc lợi công cộng, đưa tiêu chuẩn về sức khỏe, an toàn lao
động, trợ cấp người già, tàn tật.
- Chính phủ dành những đặc quyền kinh tế cho một số nhóm đặc biệt thông qua trợ cấp
có đặc biệt, chương trình ứng dụng, hỗ trợ giá, thuế
- Duy trì cạnh tranh, nghiêm cấm các công ty độc quyền không được điều chỉnh các việc
buôn bán, và sử dụng lao động bất công.
a/ Trình bày nội dung cơ bản lý thuyết kinh tế của John Mayvard Keynes và điều chỉnh
kinh tế theo lý thuyết Keynes.
b/ Nhận xét về lý thuyết này.
c/ Ý nghĩa rút ra từ sự nghiên cứu lý thuyết của John Mayvard Keynes.
a/ Những nội dung cơ bản lý thuyết kinh tế Keynes:
Vai trò kinh tế của nhà nước:
Keynes đã bác bỏ quan điểm giá cả và tiền lương sinh hoạt, để tự cân đối cung – cầu của
trường phái kinh tế cổ điển và tân cổ điển. Ông cho rằng một nền kinh tế không có khả
năng tự động điều chỉnh một cách hoàn hảo. Theo ông trong điều kiện một nền kinh tế
mới thì giá cả và tiền lương là cân nhắc. Vì thế thị trường không còn khả năng tự điều
chỉnh. Các tổ chức độc quyền và nhà nước đã can thiệp vào giá cả mặt hàng và sự đấu
tranh của công đoàn dẫn đến các thỏa ước lao động, chính nó ràng buộc mức tiền lương.
Vì vậy, vai trò kinh tế của nhà nước là hết sức quan trọng, để chống lại tình trạng khủng
hoảng, suy thoái và thất nghiệp. Vai trò của nhà nước sẽ làm tăng mức sản lượng của nền
kinh tế gần với mức sản lượng tiềm năng.
Thất nghiệp, suy thoái:

Theo ông tình trạng thất nghiệp kéo dài do thiếu hụt một số an hữu hiệu, mức cầu bảo đảm
lợi nhuận cho các nhà đầu tư, sỡ dĩ có tình trạng này là do:
- Khuynh hướng tiết kiệm ngày càng gia tăng, nó mang tính chất tâm lý, biểu hiện trong
từng cá nhân, tổ chức XH và ngay cả trong các doanh nghiệp. Khuynh hướng tiết kiệm
được biểu hiện như sau: Khi sản xuất tăng lên thì thu nhập tăng lên, thu nhập chia làm
hai bộ phận là tiêu dùng và tiết kiệm (để dự phòng cho tương lai). Khi thu nhập tăng thì
bộ phận tiêu dùng có thể tăng tuyệt đối và giảm tương đối. Khuynh hướng tiết kiệm
trong tiêu dùng cá nhân làm cho cầu tiêu dùng cá nhân tăng chậm hơn là cung. Cầu đầu
tư cũng có khả năng tăng chậm hơn do cầu tiêu dùng chậm, lãi suất ngân hàng thường
cố định ở mức tương đối cao trong khi tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm sút. Vì thế
tổng cầu giảm sút do với tổng cung.
o Giải pháp chống suy thoái và thất nghiệp: theo ông đó là hai căn bệnh chủ yếu của nền
kinh tế, vì thế tất cả mọi nỗ lực của XH là làm sao giảm suy thoái và thất nghiệp. Ông
đề ra giải pháp là tăng mức cầu, vì theo ông tổng cầu tăng ảnh hưởng đến tổng cung sẽ
làm giảm suy thoái và thất nghiệp. Cách làm tăng mức cầu D cần có sự can thiệp của
nhà nước: Sự can thiệp của nhà nước sử dụng công cụ chính là chủ yếu (thu thuế, chi
ngân sách). Theo ông phần chi của chính phủ là công cụ chính yếu bởi vì khi chi tiêu
chính phủ tăng làm kích thích mang tính đẩy chuyển để làm tăng tổng cầu nói chung.
Sự tăng tổng cầu tác động đến tổng cung cũng theo một tác động dây chuyền.
Lý thuyết mô hình số nhân:
Số nhân là hệ số bằng số phản ánh mức độ gia tăng của sản lượng do kết quả của việc gia
tăng, đầu tư hay là con số mà ta phải nhận sự thay đổi đầu tư với nó, để xác định sự thay
đổi trong tổng sản lượng.

Y=L/MPS x

L hay

Y= I/(I-MPC) x


I
Với Y: số giá của sản lượng
 I: số giá của đầu tư
MPS: tiết kiệm trên hạn mức
MPC: tiêu dùng trên hạn mức
Số nhân tỷ lệ thuận với mức tiêu dùng trên hạn mức và tỷ lệ nghịch với mức tiết kiệm trên
hạn mức.
Ngoài ra Keynes còn đề nghị một chính sách tiền lương tối thiểu vì tiền lương giảm sẽ dẫn
đến khối lượng tiền tiết kiệm giảm, sẽ khuấy động nền kinh tế (lương thấp: chủ tư bản sẽ
thuê được nhiều công nhân: tiền lương công nhân không tiết kiệm được đem ra tiêu dùng
hết).
Điều chỉnh kinh tế theo thuyết Keynes:
* Điều chỉnh bằng lãi suất: Theo Keynes lãi suất là phần trả công cho việc không sử dụng
tiền mặt trong một thời gian xác định nào đó, lãi suất sẽ tỷ lệ nghịch với ý muốn giữ tiền
mặt của dân cư, hai yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất.
- Khối lượng tiền tệ trong lưu thông tỷ lệ nghịch với lãi suất, Keynes chủ trương đưa
thêm tiền vào lưu thông, làm giảm lãi suất thực tế, sẽ kích thích dân cư.
- Sự ưa chuộng tiền mặt trong nền kinh tế do: động lực giao dịch, động lực dự phòng và
động cơ đầu tư.
 lãi suất là một khuynh hướng tâm lý cao độ, có tính quy ước, chính phủ có thể dùng
chính sách điều chỉnh lãi suất để tác động vào kinh tế.
* Sử dụng hệ thống tài chính, tiền tệ nhằm kích thích lòng tin, tính lạc quan và tính tiêu
cực đầu tư của các nhà kinh doanh. Chủ trương:
- Tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông để giảm lãi suất thực tế cho vay.
- Khuyến khích các nhà tư sản mở rộng quy mô vay vốn mở rộng đầu tư.
- Dùng lạm phát có kiểm soát.
- Nhà nước có thể in thêm tiền để bù đắp thân hụt ngân sách, mở rộng đầu tư và bảo đảm
chi tiêu chính phủ.
* Sử dụng công cụ thuế: Tăng thuế với người lao động để giảm phần tiết kiệm từ thu nhập
của họ và đưa phần này vào đầu tư của nhà nước, Giảm thuế cho các nhà tư bản kinh

doanh, nhằm khuyến khích cho các nhà tư bản kinh doanh và nâng cao hiệu quả đầu tư.
* Mở rộng các hoạt động đầu tư của nhà nước kể cả các hoạt động đầu tư như: sản xuất
vũ khí, quân sự hóa nền kinh tế, chiến tranh đều tốt vì nó tạo công ăn việc làm, tạo thu
nhập, nâng cao tiêu dùng và chống được khủng hoảng kinh tế.
* Mở rộng khuyến khích các hoạt động tiêu dùng nhất là tiêu dùng cá nhân.
b/ Ý nghĩa rút ra từ lý luận nghiên cứu của Keynes:
- Điều nổi bật đây là lý thuyết chống suy thoái được áp dụng hữu hiệu trong nền kinh tế
bị suy thoái, đã được các nhà tư bản ứng dụng trong nhiều thập kỷ.
- Lần đầu tiên trong kinh tế học tư bản Keynes phân tích một cách chặt chẽ cơ sở khách
quan cho sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế. Lý thuyết của ông được coi là
lý thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại và được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới và là nền
tảng lý thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại.
a/ Phân tích lý thuyết của A. Lewis. Nhận xét về lý thuyết này.
b/ Nền kinh tế nước ta hiện nay có phải là kinh tế “nhị nguyên” không? Tại sao?
a/ Lý thuyết của A. Lewis. Nhận xét:
Cho rằng, các nước chậm phát triển có những nét hoàn toàn đặc thù mà bất cứ một lý
thuyết kinh tế nào giải quyết sự tăng trưởng và phát triển thuần túy chỉ dựa vào vấn đề của
kinh tế thị trường nói chung đều vấp phải một giới hạn không vượt qua được. Ông nhận
định rằng, trong các nền kinh tế thế giới thứ 3, các cơ chế thị trường thường xuyên không
họat động, hoặc hoạt động quá yếu ớt, dung lượng thị trường nhỏ bé, quan hệ cung-cầu
đều hạn chế và không có sự cạnh tranh. Vì thế ông đưa ra một lý thuyết để lý giải về kinh
tế của những nước chậm phát triển. Theo Lewis trong nền kinh tế của các nước đang phát
triển có 2 hệ thống song song tồn tại, đó là hệ thống kinh tế truyền thống và hệ thống kinh
tế du nhập (thường là hệ thống kinh tế TBCN tiên tiến).
Ở khu vực kinh tế truyền thống có nét đặc trưng là kỹ thuật sản xuất lạc hậu và năng suất
lao động thấp. Vì thế yêu cầu đặt ra là nhanh chóng chuyển khu kinh tế truyền thống sang
khu kinh tế hiện đại bằng con đường công nghiệp hóa để khởi động cho sự tăng trưởng.
Như vậy, công nghiệp hóa khu vực kinh tế truyền thống được coi là sự khởi động, là yếu
tố cốt lõi cho sự tăng trưởng. Trong khu vực kinh tế truyền thống thì sản xuất nông nghiệp
là chủ yếu. Song song với lao động năng suất kém là nạn dư thừa lực lượng lao động (có

thể giảm bớt số lao động hiện có mà không hề giảm sút quy mô sản xuất và khối lượng
sản phẩm làm ra). Vì thế theo ông, số lao động dư thừa đó nên chuyển bớt sang khu vực
kinh tế hiện đại, cho phép đạt được sự tăng trưởng kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Lewis đi đến kết luận là ở khu kinh tế truyền thống luôn tồn tại một số lượng lao
động muốn có việc làm và hễ ở đâu có thu nhập cao thì số lao động này sẽ sẵn sàng
chuyển đến đó làm việc.
Bên cạnh khu vực kinh tế truyền thống là khu vực kinh tế du nhập: là khu vực sản xuất
TBCN hiện đại, sử dụng lao động ăn lương. Kỹ thuật công nghệ hiện đại, người lao động
tạo ra một lượng giá trị lớn hơn mức lương họ hưởng. Do vậy, nhà tư bản có điều kiện để
tăng lượng vốn tích lũy, trên cơ sở đó tăng đầu tư, đổi mới kỹ thuật sản xuất. Theo ông,
tiền lương của người lao động trong khu vực này tương đối ổn định do thu nhập của người
lao động không thể thấp hơn chi phí để tái sản xuất ra sức lao động. Nếu không thì quá
trình sản xuất tiếp theo sẽ không thực hiện được và người lao động cũng không làm việc ở
đây nữa. Mặc khác nó cũng không đòi hỏi cao hơn chi phí để tái sản xuất lao động trong
điều kiện nhất định, vì sự tồn tại của đội quân lao động dự trữ đông đảo ở nông thôn, đội
quân luôn sẵn sàng từ bỏ ruộng đồng đi làm việc mới ở thành thị, ở khu vực kinh tế hiện
đại. Cũng chính vì lý do đó tạo nên sức ép ngăn chặn việc tăng lương ở khu vực này.
Chính lao động ở khu vực du nhập hiện đại luôn tạo ra một lượng giá trị lớn hơn mức
lương mà họ được hưởng với sự ổn định của đồng lương đó sẽ cho phép khu vực này được
sự mở rộng sản xuất không ngừng  tăng về quy mô  tăng về quy mô tích lũy  đầu tư
tăng  mở rộng sản xuất, đổi mới kỹ thuật  tăng trưởng.
Theo thuyết này, đối với các nước đang phát triển, để đạt được tăng trưởng và phát triển
phải tập trung vào khu vực kinh tế hiện đại, mà không cần quan tâm đến khu vực kinh tế
truyền thống vốn là khu vực phát triển trì trệ. Theo Lewis, việc giải quyết tình trạng trì trệ
của khu vực kinh tế truyền thống hoàn toàn phụ thuộc vào việc giải quyết tăng trưởng ở
khu sản xuất hiện đại, có nghĩa là, để tạo ra sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế
quốc dân thì tác động chủ yếu là vào khu vực sản xuất hiện đại. Và nhịp độ tăng trưởng,
phát triển của khu vực này cũng ảnh hưởng đến nhịp độ tăng trưởng, phát triển của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
Nhận xét:

Những câu hỏi đặt ra là:
- Khi nghiên cứu lý thuyết này liệu có thể di chuyển lao động, cơ cấu kinh tế liên tục từ
nông nhiệp sang công nghiệp cho đến khi trở thành nền kinh tế phát triển được không?
Chắc chắn là không bởi vì sự di chuyển này gắn liền với nhiều yếu tố liên quan như
yêu cầu kỹ thuật, tay nghề của người lao động, phong tục, tập quán, điều kiện sinh
sống
- Mặt khác, liệu nếu tập trung toàn bộ để phát triển khu vực sản xuất hiện đại thì nền
kinh tế có tăng trưởng như mong muốn không? Rõ ràng là không vì ở những nước
đang phát triển thì giá trị sản phẩm của khu vực kinh tế hiện đại thì kỹ thuật và năng
suất lao động vẫn ở trình độ thấp.
b/ Nền kinh tế nước ta nước ta có phải là nền kinh tế “nhị nguyên” không? Vì sao?
- Nền kinh tế Việt nam hiện nay không phải là nền kinh tế nhị nguyên mà là nền kinh tế
chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Chúng ta không hề từ bỏ lĩnh vực truyền thống là sản xuất nông nghiệp để đi đến sản
xuất công nghiệp hiện đại mà phát triển nông nghiệp một cách có kế hoạch, cân đối với
cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp vẫn là mặt trận chủ lực của chúng ta. Chúng
ta cần có nông nghiệp để xuất khẩu lúa gạo, lấy tiền đem về nguyên vật liệu, máy móc
để phát triển nông nghiệp tạo tiền đề tăng trưởng cho kinh tế Việt Nam.
a/ Phân tích lý thuyết của A. Lewis. Nhận xét về lý thuyết này.
b/ Nền kinh tế nước ta hiện nay có phải là kinh tế “nhị nguyên” không? Tại sao?
a/ Lý thuyết của A. Lewis. Nhận xét:
Cho rằng, các nước chậm phát triển có những nét hoàn toàn đặc thù mà bất cứ một lý
thuyết kinh tế nào giải quyết sự tăng trưởng và phát triển thuần túy chỉ dựa vào vấn đề của
kinh tế thị trường nói chung đều vấp phải một giới hạn không vượt qua được. Ông nhận
định rằng, trong các nền kinh tế thế giới thứ 3, các cơ chế thị trường thường xuyên không
họat động, hoặc hoạt động quá yếu ớt, dung lượng thị trường nhỏ bé, quan hệ cung-cầu
đều hạn chế và không có sự cạnh tranh. Vì thế ông đưa ra một lý thuyết để lý giải về kinh
tế của những nước chậm phát triển. Theo Lewis trong nền kinh tế của các nước đang phát
triển có 2 hệ thống song song tồn tại, đó là hệ thống kinh tế truyền thống và hệ thống kinh
tế du nhập (thường là hệ thống kinh tế TBCN tiên tiến).

Ở khu vực kinh tế truyền thống có nét đặc trưng là kỹ thuật sản xuất lạc hậu và năng suất
lao động thấp. Vì thế yêu cầu đặt ra là nhanh chóng chuyển khu kinh tế truyền thống sang
khu kinh tế hiện đại bằng con đường công nghiệp hóa để khởi động cho sự tăng trưởng.
Như vậy, công nghiệp hóa khu vực kinh tế truyền thống được coi là sự khởi động, là yếu
tố cốt lõi cho sự tăng trưởng. Trong khu vực kinh tế truyền thống thì sản xuất nông nghiệp
là chủ yếu. Song song với lao động năng suất kém là nạn dư thừa lực lượng lao động (có
thể giảm bớt số lao động hiện có mà không hề giảm sút quy mô sản xuất và khối lượng
sản phẩm làm ra). Vì thế theo ông, số lao động dư thừa đó nên chuyển bớt sang khu vực
kinh tế hiện đại, cho phép đạt được sự tăng trưởng kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Lewis đi đến kết luận là ở khu kinh tế truyền thống luôn tồn tại một số lượng lao
động muốn có việc làm và hễ ở đâu có thu nhập cao thì số lao động này sẽ sẵn sàng
chuyển đến đó làm việc.
Bên cạnh khu vực kinh tế truyền thống là khu vực kinh tế du nhập: là khu vực sản xuất
TBCN hiện đại, sử dụng lao động ăn lương. Kỹ thuật công nghệ hiện đại, người lao động
tạo ra một lượng giá trị lớn hơn mức lương họ hưởng. Do vậy, nhà tư bản có điều kiện để
tăng lượng vốn tích lũy, trên cơ sở đó tăng đầu tư, đổi mới kỹ thuật sản xuất. Theo ông,
tiền lương của người lao động trong khu vực này tương đối ổn định do thu nhập của người
lao động không thể thấp hơn chi phí để tái sản xuất ra sức lao động. Nếu không thì quá
trình sản xuất tiếp theo sẽ không thực hiện được và người lao động cũng không làm việc ở
đây nữa. Mặc khác nó cũng không đòi hỏi cao hơn chi phí để tái sản xuất lao động trong
điều kiện nhất định, vì sự tồn tại của đội quân lao động dự trữ đông đảo ở nông thôn, đội
quân luôn sẵn sàng từ bỏ ruộng đồng đi làm việc mới ở thành thị, ở khu vực kinh tế hiện
đại. Cũng chính vì lý do đó tạo nên sức ép ngăn chặn việc tăng lương ở khu vực này.
Chính lao động ở khu vực du nhập hiện đại luôn tạo ra một lượng giá trị lớn hơn mức
lương mà họ được hưởng với sự ổn định của đồng lương đó sẽ cho phép khu vực này được
sự mở rộng sản xuất không ngừng  tăng về quy mô  tăng về quy mô tích lũy  đầu tư
tăng  mở rộng sản xuất, đổi mới kỹ thuật  tăng trưởng.
Theo thuyết này, đối với các nước đang phát triển, để đạt được tăng trưởng và phát triển
phải tập trung vào khu vực kinh tế hiện đại, mà không cần quan tâm đến khu vực kinh tế
truyền thống vốn là khu vực phát triển trì trệ. Theo Lewis, việc giải quyết tình trạng trì trệ

của khu vực kinh tế truyền thống hoàn toàn phụ thuộc vào việc giải quyết tăng trưởng ở
khu sản xuất hiện đại, có nghĩa là, để tạo ra sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế
quốc dân thì tác động chủ yếu là vào khu vực sản xuất hiện đại. Và nhịp độ tăng trưởng,
phát triển của khu vực này cũng ảnh hưởng đến nhịp độ tăng trưởng, phát triển của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
Nhận xét:
Những câu hỏi đặt ra là:
- Khi nghiên cứu lý thuyết này liệu có thể di chuyển lao động, cơ cấu kinh tế liên tục từ
nông nhiệp sang công nghiệp cho đến khi trở thành nền kinh tế phát triển được không?
Chắc chắn là không bởi vì sự di chuyển này gắn liền với nhiều yếu tố liên quan như
yêu cầu kỹ thuật, tay nghề của người lao động, phong tục, tập quán, điều kiện sinh
sống
- Mặt khác, liệu nếu tập trung toàn bộ để phát triển khu vực sản xuất hiện đại thì nền
kinh tế có tăng trưởng như mong muốn không? Rõ ràng là không vì ở những nước
đang phát triển thì giá trị sản phẩm của khu vực kinh tế hiện đại thì kỹ thuật và năng
suất lao động vẫn ở trình độ thấp.
b/ Nền kinh tế nước ta nước ta có phải là nền kinh tế “nhị nguyên” không? Vì sao?
- Nền kinh tế Việt nam hiện nay không phải là nền kinh tế nhị nguyên mà là nền kinh tế
chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Chúng ta không hề từ bỏ lĩnh vực truyền thống là sản xuất nông nghiệp để đi đến sản
xuất công nghiệp hiện đại mà phát triển nông nghiệp một cách có kế hoạch, cân đối với
cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp vẫn là mặt trận chủ lực của chúng ta. Chúng
ta cần có nông nghiệp để xuất khẩu lúa gạo, lấy tiền đem về nguyên vật liệu, máy móc
để phát triển nông nghiệp tạo tiền đề tăng trưởng cho kinh tế Việt Nam.
a/ Trình bày lý luận lợi nhuận của Adam Smith. Đưa ra những nhận xét về lý luận này.
b/ Phân tích và so sánh lý luận địa tô của Adam Smith với lý luận địa tô của David
Ricardo. Nhận xét rút ra từ lý luận địa tô của hai ông.
a/ Lý luận lợi nhuận của Adam Smith:
Adam Smith cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của lao động,
không chỉ lao động trong nông nghiệp mà cả trong công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận. Lợi

nhuận tăng hay giảm tùy thuộc vào sự giàu có tăng hay giảm của XH. Ông thừa nhận sự
đối lập của tiến công là lợi nhuận. Ông nhìn thấy sự cạnh tranh giữa các ngành và thường
xuyên thì tỷ xuất lợi nhuận giảm sút. Theo ông, tư bản đầu tư càng nhiều thì tỷ suất lợi
nhuận càng thấp.
Ngoài ra, ông cũng cho rằng tư bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như tư bản trong lĩnh vực
lưu thông đều đẻ ra lợi nhuận như nhau.
Theo cách giải thích của Adam Smith thì lợi nhuận địa tô lợi tức chỉ là những hình thái
khác nhau của giá trị thặng dư.
Nhận xét:
- Không thấy được sự khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận. Ông cho rằng toàn
bộ lợi nhuận là do tư bản đẻ ra.
- Do không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu thông nên ông cho rằng tư bản trong
lĩnh vực sản xuất cũng như trong lưu thông đều đem lại lợi nhuận như nhau.
- Ông coi lợi nhuận trong phần lớn trường hợp chỉ là món tiền thưởng cho việc mạo
hiểm và cho lao động khi đầu tư tư bản. Lợi nhuận là một trong những nguồn gốc đầu
tiên của mọi thu nhập cũng như của mọi giá trị trao đổi. Một tiến bộ của Adam Smith
là nêu được nguồn gốc thật sự của giá trị thặng dư sinh ra từ lao động.
b/ Phân tích và so sánh lý luận địa tô của Adam Smith với lý luận địa tô của David
Ricardo. Nhận xét rút ra từ hai lý luận trên.
Adam Smith:
1/ Khi ruộng đất trở thành sở hữu tư nhân thì địa tô chỉ là khoản khấu trừ thứ nhất vào sản
phẩm lao động. Ông coi địa tô như là tiền trả về việc sử dụng đất đai  Độc quyền tư hữu
ruộng đất là điều kiện chiếm hữu địa tô.
Quy mô địa tô nhiều hay ít là kết quả của giá cả sản phẩm, ông coi địa tô là giá cả của độc
quyền.
2/ Ông phân biệt được địa tô và lợi tức do tư bản đầu tư vào đất đai. Theo cách giải thích
của ông thì địa tô là hình thái của giá trị thặng dư.
3/ Ông phân biệt được địa tô chênh lệch do độ màu mỡ đất đai nhưng lại không đi sâu vào
nghiên cứu vấn đề này.
Ông chỉ ra mức độ địa tô trên mảnh đất, ruộng là do thu nhập của mảnh đất ruộng đó đem

lại và ông chỉ ra rằng địa tô trên những mảnh ruộng canh tác chủ yếu quyết định địa tô
trên ruộng đất trồng cây khác.
David Ricardo:
1/ Ông bác bỏ những lý luận địa tô là sản vật của những lực lượng tự nhiên hay do năng
suất lao động đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp đem lại. Ông cho rằng địa tô là biểu
hiện của sự bần cùng, là nguyên nhân của nạn đói. Ông lên án địa tô.
2/ Để giải thích địa tô, ông hoàn toàn dựa vào quy luật giá trị, ông cho rằng địa tô không
đi ngược với quy luật giá trị mà đi theo quy luật giá trị. Ông cho rằng giá trị nông sản hình
thành trên điều kiện “ruộng đất xấu nhất” vì ruộng đất là yếu tố có giới hạn. Tư bản kinh
doanh trên ruộng đất tốt và trung bình thu được nhiều lợi nhuận thì lợi nhuận này phải nộp
cho địa chủ, ông phê phán tư tưởng ăn bám của địa chủ, thu địa tô qua nhân danh quyền
sở hữu ruộng đất.
3/ Ông thừa nhận cái gọi là địa tô chênh lệch, nghĩa là sự chênh lệch giữa các vùng đất tốt
và xấu khác nhau.
Nhận xét:
Adam Smith còn có những hạn chế sau:
- Ông coi địa tô là phạm trù vĩnh viễn và còn coi lợi ích của chủ đất phù hợp với lợi ích
của xã hội.
- Ông chưa hiểu được một cách đúng đắn sự chuyển hóa lợi nhuận siêu ngạch thành địa
tô.
- Ông bị khống chế bởi tư duy sai lầm, giá cả tự nhiên của hàng hóa do các nguồn thu
nhập quyết định mâu thuẫn: trước kia coi địa tô là yếu tố hình thành của giá cả tự
nhiên, sau lại cho là khoản dôi ra ngoài giá cả tự nhiên, trước coi địa tô là nguyên nhân
của giá cả, sau lại coi nó là hiệu quả của giá cả.
- Ông chưa hiểu được địa tô chênh lệch nhất và phủ nhận địa tô tuyệt đối.
- Vẫn còn chịu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng nông khi cho rằng năng suất lao động
trong nông nghiệp cao hơn năng suất lao động trong công nghiệp vì cho rằng trong
nông nghiệp còn có sự giúp đỡ của tự nhiên.
Những hạn chế của David Ricardo:
- Ông đã gắn lý luận địa tô với quy luật ruộng đất sinh lợi ngày càng giảm vì ruộng đất

là cái có hạn. Điều này đã bị phê phán trong kinh tế chính trị học.
- Ông chưa đề cập đến “địa tô chênh lệch II” và phủ nhận địa tô tuyệt đối vì không biết
cấu tạo hữu cơ, không thấy được tính quy luật cấu tạo hữu cơ trong công nghiệp
thường lớn hơn so với trong nông nghiệp, chưa thừa nhận địa tô tuyệt đối nghĩa là phủ
nhận quy luật giá trị.
a/ Phân tích lý thuyết “bàn tay vô hình” của Adam Smith. Đưa ra nhận xét về lý thuyết
này.
b/ Phân tích nội dung “quy luật lợi thế so sánh” của David Ricardo. Ý nghĩa rút ra của
quy luật này trong việc xây dựng cơ chế kinh tế mở ở nước ta.
a/ Lý thuyết “bàn tay vô hình” của Adam Smith:
Adam Smith là nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh và trên thế giới, là tiền bối
lớn nhất của Mác. Ông có nhiều lý luận rất có giá trị trong đó chúng ta phải nhắc đến lý
thuyết “bàn tay vô hình” của ông.
Học thuyết “bàn tay vô hình” nghiên cứu cơ chế hoạt động của một cơ chế thị trường cạnh
tranh và nó cũng phản ánh quan điểm chung của các nhà kinh tế học cổ điển.
Theo ông, một chế độ kinh tế bình thường phải dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi hàng
hóa và một nền kinh tế hàng hóa bình thường phải dựa trên cơ sở tự do cạnh tranh. Ngược
lại thì chỉ là sản phẩm của ngẫu nhiên, độc đoán và ngu dốt của con người.
Liên minh trao đổi là đặc tính vốn có của con người. Nó tồn tại vĩnh viễn với loài người.
Ông cho rằng mỗi người trong quá trình trao đổi sản phẩm không ai xuất phát từ lợi ích
công mà xuất phát từ lợi ích cá nhân của mình. Lợi thế cá nhân chính là mục đích, là động
lực xuất phát. Khi chạy theo lợi ích cá nhân thì lợi ích công cộng cũng được hình thành
bởi một bàn tay vô hình dẫn dắt mọi người phục vụ cho lợi ích công, phục vụ cho lợi ích
xã hội. Bàn tay vô hình đó không nằm trong ý muốn ban đầu của con người.
Bàn tay vô hình đó chính là các quy luật kinh tế khách quan chi phối hành động của con
người. Adam Smith gọi hệ thống các quy luật khách quan đó là một trật tự thiên định. Ông
chỉ ra các điều kiện cần thiết để cho các quy luật hoạt động là: phải có sự tồn tại và phát
triển sản xuất trao đổi hàng hóa, nền kinh tế phải phát triển trên cơ sở tự do kinh tế, tự do
mậu dịch. Quá trình ấy được thực hiện bởi chính quá trình cạnh tranh giữa các lợi ích cá
nhân. Không ai cần kế hoạch, không ai cần mệnh lệnh, thị trường sẽ tự động giải quyết tất

cả.
Theo ông quan hệ giữa người và người là quan hệ phụ thuộc về kinh tế chỉ có CNTB mới
là XH bình thường, nó được xây dựng trên cơ sở các quy luật tự nhiên. Ông cho rằng các
chế độ XH trước đó là không bình thường. Từ đó ông cho rằng nhà nước không nên can
thiệp vào kinh tế, nhà nước chỉ có chức năng bảo vệ quyền sở hữu tư bản, đấu tranh chống
kẻ thù bên ngoài, chống tội phạm trong nước. Nhà nước chỉ nên can thiệp vào các chức
năng kinh tế khi nó vượt ra ngoài khả năng của các chủ doanh nghiệp. Ông cho rằng chính
sách kinh tế tốt nhất của nhà nước là tự do kinh tế.
Nhận xét:
Quan điểm kinh tế của ông phản ánh phù hợp với điều kiện kinh tế XH của CNTB vào
thời kỳ đó. Vào thời kỳ đó, trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp thì tự do cạnh tranh là đặc
trưng chủ yếu và phổ biến vì lúc đó quy mô các doanh nghiệp còn nhỏ, số lượng các
doanh nghiệp còn ít. Sự lựa chọn của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp là có hiệu quả nhất
và thích hợp nhất.
Lý thuyết bàn tay vô hình là lý thuyết kinh tế vĩ mô trong điều kiện tự do cạnh tranh.
Trong một nền kinh tế cạnh tranh không hoàn toàn thì lý thuyết này vẫn là cơ sở của lý
thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại.
Phương pháp lý luận của ông có tính rõ rệt khoa học và tầm thường:
- Khoa học: quan sát các mối liên hệ bên trong, các phạm trù kinh tế hoặc cơ cấu bị che
lấp của hệ thống kinh tế tư sản.
- Tầm thường: lý luận của ông còn nhiều mâu thuẫn, ông đặt các mối quan hệ trên như
mối liên hệ bề ngoài của hiện tượng cạnh tranh.
Ý nghĩa:
- Tôn trọng quy luật kinh tế khách quan.
- Tôn trọng tư tưởng tự do kinh tế (tự do kinh doanh, tự do sản xuất, tự do cạnh tranh,
thọ trường tự do…)
- Nhà nước đôi khi cũng có chức năng kinh tế.
b. Quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo:
1. Trong thời đại D. Ricardo ngoại thương đóng vai trò quan trọng. Học thuyết lợi thế so
sánh của ông nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, dựa trên nền móng là

học thuyết về giá trị lao động.
Các chi phí để sản xuất sản phẩm được quy về hao phí lao động, và chuyên môn hóa
trong việc sản xuất các loại hàng hóa. Vì vậy, theo ông phải tính được lợi thế của sự so
sánh. Theo nguyên tắc này mỗi nước chỉ nên tập trung vào sản xuất một loại hàng hóa
nào dựa trên thế mạnh của mình.
2. Lý thuyết LTSS của R cho rằng ngoại thương có lợi cho mọi quốc gia miễn là xác định
đúng lợi thế so sánh, tức là tạo ra phân công lao động giữa các nước. LTSS xuất hiện
khi đối chiếu so sánh hao phí lao động cho mỗi đơn vị sản phẩm ít nhất 2 quốc gia.
Muốn xác định LTSS ta phải xác lập lợi thế tuyệt đối.
3. Lợi thế tuyệt đối là khi tách ra xem xét một mặt hàng sản phẩm nào đó giữa vùng này
với vùng khác, nước này với nước khác. Lợi thế tuyệt đối xuất hiện khi mặt hàng này
nước này sản xuất được mà trước kia không sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng
với chi phí cao hơn nhiều. Điều này xảy ra là do điều kiện tự nhiên giữa các quốc gia
khác nhau, trình độ khác nhau, hàng từ nơi có lợi thế sang nơi không có lợi thế như là
một yếu tố khách quan là cơ sở sâu xa trong quan hệ ngoại thương.
4. Xác lập lợi thế tuyệt đối có nghĩa là hình thành tỷ lệ so sánh về hao phí lao động cho
mỗi loại sản phẩm giữa các nước, so sánh các tỷ lệ được thiết lập. Các mặt hàng có tỷ
lệ càng nhỏ thì được xem là có lợi thế và ngược lại. Các mặt hàng có lợi thế thì tăng
cường sản xuất, các mặt hàng không có lợi thế nên hạn chế sản xuất mà nên nhập khẩu.
5. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, mỗi nước đều ra sức sử dụng các lợi thế tuyệt đối của
mình để chế ngự lợi thế tuyệt đối của đối phương, tìm ra sự công bằng chung.
6. Vấn đề đặt ra là nếu một nước hoàn toàn có lợi thế tuyệt đối và nước kia thì không. Có
nên thiết lập quan hệ thương mại giữa hai nước trên không? D. Ricardo cho rằng ngay
cả trong những trường hợp như vậy thì ngoại thương vẫn có lợi cho cả hai bên miễn là
phải dựa trên cơ sở lợi thế so sánh, nghĩa là mọi quốc gia phải xác định được sử dụng
lợi thế so sánh của mình.
7. LTSS xã hội được xác lập khi đặt tất cả các sản phẩm để so sánh lẫn nhau về chi phí
sản xuất tương đối. Chi phí sản xuất tương đối chính là tỷ số so sánh hao phí lao động
của mỗi mặt hàng giữa hai nước.
VD: Chi phí lao động cho hai mặt hàng: quần áo và thực phẩm ở Mỹ và Châu Âu được

cho bởi bảng sau:
Mặt hàng Mỹ Châu Âu
Thực phẩm 1 3
Quần áo 2 4
Lợi thế so sánh của Châu Âu
Lợi thế tuyệt đối:
Thực phẩm: 3/1>1
Quần áo: 4/2 = 2/1>1
cả hai mặt hàng thì Châu Âu đều không có lợi htế tuyệt đối
Lợi thế so sánh : 3/1 (thực phẩm) > 2/1 (quần áo)
Theo nguyên tắc so sánh thì Châu Âu có lợi thế so sánh ở sản phẩm quần áo (cái yếu ít
nhất trong các cái yếu)
Nếu có hoạt động giữa Mỹ và Châu Âu:
Châu Âu sẽ sản xuất và xuất khẩu quần áo cho Mỹ và nhập khẩu thực phẩm từ Mỹ. Giá
một đơn vị quần áo ở Châu Âu là 4, xuất khẩu sang Mỹ với giá bằng 6 thì Châu âu sẽ lời
-2
Khi nhập thực phẩm, bán 2. Nhập khẩu số lượng thực phẩm đổi được 2:1 = 2 đơn vị sản
phẩm. Để có 2 đơn vị sp Châu Âu phải tốn 2x3=6. Qua hoạt động nhập khẩu thực phẩm
Châu Âu lời -2+6=4
Chung quy lại họat động ngoại thương Châu Âu lời -2+4 = 2 (vẫn lời mặc dù không lợi
thế tuyệt đối cả hai mặt hàng quần áo và thực phẩm)
Giả sử tổng đơn vị hao phí lao động mỗi nước là 600. Phân công lao động:
Mỹ: Thực phẩm
Châu Âu: quần áo
Khi chưa có ngoại thương:
Mỹ: Nhịn ăn để mặc áo quần: 600/2 = 300
Nhịn mặc để ăn: thực phẩm: 600/1 = 600
Châu Âu: Nhịn ăn để mặc áo quần: 600/4 = 150
Nhịn mặc để ăn thực phẩm: 600/3 = 200
Qua hoạt động ngoại thương:

Thực phẩm Châu Âu: (150 x 2)/1 = 300 (>200 ban đầu)
Số quần áo Mỹ: (600 x 3)/4 = 450 (>300 ban đầu)
Ý nghĩa trong việc xây dựng cơ chế kinh tế mở đối với Việt Nam:
Phân công lao động quốc tế có hoạt động ngoại thương đã đem lại lợi ích cho tất cả các
quốc gia nghĩa là với năng lực sản xuất không đổi nó làm cho tổng sản phẩm tăng lên, thu
nhập thực tế của xã hội nói chung, của mỗi thành viên nói riêng cũng tăng lên. Tự do
thương mại quốc tế là tốt và có lợi.
Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì hoạt động ngoại thương không thể thiếu. Mở cửa
làm ăn buôn bán với các nước có ý nghĩa thiết thực, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Chúng
ta phải xác định rõ đâu là mặt hàng có lợi thế của mình để mà tăng cường sản xuất, xuất
khẩu, lấy tiền mang về những thứ mà chúng ta chưa có khả năng sản xuất hay không có
lợi thế. Tránh xuất khẩu những mặt hàng mà chúng ta đang thiếu và nhập về những thứ mà
chúng ta không cần thiết. Xuất nhập khẩu phải rõ ràng, có chọn lọc. Huấn luyện nhân sự,
đào tạo những cán bộ giỏi trong lĩnh vực ngoại thương có trình độ quốc tế. Hợp đồng
ngoại thương cần phải rõ ràng, chính xác để sau này tranh chấp xảy ra thì có chứng cớ mà
giải quyết, hoạt động ngoại thương hướng vào tất cả các quốc gia có chế độ chính trị khác
nhau, không phân biệt với mục đích chính là phát triển kinh tế.
a/ Phân tích nội dung cơ bản lý thuyết kinh tế của Jean Baptiste Say. Đưa ra nhận xét
về lý thuyết này.
b/ So sánh lý luận giá trị của Say với lý luận giá trị của D. Ricardo.
a/ Lý thuyết kinh tế của Jean Baptiste Say và những nhận xét:
Say xuất thân từ một gia đình thương nhân lớn ở Lyon. Tư tưởng và luận điểm kinh tế của
Say thể hiện những vấn đề chủ yếu sau:
Lý luận về giá trị:
Ông xa rời lý thuyết giá trị lao động và ủng hộ lý thuyết giá trị ích lợi hay giá trị chủ quan.
Ông cho rằng có sản xuất thì có tạo ra giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng đó truyền cho mỗi
vật phẩm giá trị trao đổi hay giá trị. Trong “học thuyết về tính hữu dụng” Say cho rằng giá
cả là thước đo giá trị, còn giá trị là thước đo lợi ích (do giá trị sử dụng của vật phẩm). Ích
lợi của vật phẩm càng nhiều thì giá trị của vật phẩm càng cao.
Nhận xét:

- Về nguồn gốc giá trị nó đối lập hoàn toàn với học thuyết giá trị lao động của David
Ricardo và Adam Smith.
- Chưa giải thích được vì sao có những của cải có giá trị sử dụng mà không có giá trị
trao đổi, chưa làm rõ giá trị sử dụng ở đây là giá trị sử dụng khách quan hay giá trị sử
dụng chủ quan.
Chính luận điểm này là một trong những cơ sở xuất phát để hình thành học thuyết giá trị
công dụng sau này dưới hình thức học thuyết công dụng cận biên.
Quan điểm về thu nhập:
Được phản ánh trong học thuyết 3 nhân tố của ông và nó liên quan mật thiết với thuyết giá
trị công dụng của ông. Say phủ nhận vai trò thuần túy của lao động trong việc hình thành
giá trị. Theo ông, 3 nhân tố tạo nên giá trị là lao động, tư sản và tự nhiên (đất đai). Mỗi
nhân tố chỉ đưa lại một lợi ích (giá trị) nhất định. Ông cho rằng nên đầu tư thêm tư bản
vào sản xuất sẽ làm tăng thêm sản phẩm phù hợp với phần tăng thêm về giá trị. Máy móc
tham gia vào quá trình sản xuất sẽ tham gia vào tăng giá trị 3 nhân tố trên sẽ tạo ra cho các
chủ sở hữu của nó những nguồn thu nhập riêng biệt, lao động tạo ra tiền lương, đất đai tạo
ra địa tô, tư bản tạo ra lợi tức. Theo ông, ở đây không có quan hệ bóc lột. Nhà tư bản kinh
doanh cũng như những người lao động, thu nhập của họ cũng là tiền lương nhưng đó là
loại tiền lương đặc biệt, là phần thưởng đặc biệt cho năng lực kinh doanh và tinh thần làm
việc của anh ta. Công nhân làm việc đơn giản nên nhận được tiền lương thấp, ông thừa
nhận tiền lương chưa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cho công nhân nhưng ông cho rằng XH tư
bản không chịu trách nhiệm về tình hình này.
Nhận xét:
Quan điểm về thu nhập của Say đối lập với học thuyết giá trị lao động về nguồn gốc của
thu nhập. Ông phủ nhận về sự bóc lột của chủ tư bản đối với người làm thuê. Quan điểm
về thu nhập của Say là cơ sở để hình thành học thuyết năng suất cận biên sau này.
Lý thuyết bồi hoàn:
Say coi sự tiến bộ kỹ thuật có vai trò đặc biệt đối với cả nhà tư bản lẫn công nhân làm
thuê. Ông cho rằng chỉ thời kỳ đầu áp dụng máy móc kỹ thuật thì người công nhân mới có
sự bất lợi vì gạt bỏ một số công nhân làm cho họ tạm thời không có việc làm. Nhưng cuối
cùng thì công nhân vẫn có lợi do việc sử dụng máy móc làm cho các sản phẩm rẻ, người

công nhân được hưởng.
Nhận xét:
Vẫn chưa đề cập đến sự bóc lột khốn cùng của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân
làm thuê.
b/ So sánh lý luận giá trị của Say với lý luận giá trị của David Ricardo.
Say:
1/ Say đã đem thuyết về tính hữu dụng đối lập với lý luận giá trị của David Ricardo.
2/ Cho rằng lao động tạo ra giá trị. Phân biệt giá trị trao đổi và giá trị sử dụng của hàng
hóa. Ông cho rằng: giá trị sử dụng truyền lại cho các vật phẩm giá trị trao đổi, là thước đo
của giá trị trao đổi, như là giá trị trao đổi cao hay thấp.
3/ Say cho rằng: giá trị của cải càng cao thì tính hữu dụng càng lớn, của cải càng nhiều thì
giá trị càng lớn.
4/ Say nói: giá trị được xác định trên thương trường hay giá trị chỉ xuất hiện trong trao
đổi, nói cách khác theo ông giá trị được quyết định bởi quan hệ cung-cầu, luận điểm này
cho thấy vật nào càng hiếm thì giá trị càng cao. Nó mâu thuẫn với lý luận của ông cho
rằng vật có giá trị sử dụng cao thì có giá trị cao.
David Ricardo:
1/ Đứng vững trên cơ sở lý luận giá trị lao động và xem xét các phạm trù kinh tế dưới ánh
sáng lý luận đó.
2/ Phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, chỉ rõ giá
trị sử dụng là điều cần thiết cho giá trị trao đổi nhưng không phải là thước đo của giá trị
trao đổi.
3/ Cho rằng giá trị càng giảm khi năng suất lao động tăng lên. Ông gạt bỏ quan điểm của
Say về của cải càng nhiều thì giá trị càng lớn.
4/ Ông hình dung vai trò của người lao động quá khứ nghĩa là vai trò của các yếu tố vật
chất trong việc hình thành giá trị sản phẩm mới.
a/ Phân tích nội dung lý thuyết của Harry Toshima. Nhận xét về lý thuyết này.
b/ Nền kinh tế nước ta nước ta có phải là nền kinh tế “nhị nguyên” không? Vì sao?
c/ Ý nghĩa rút ra cho sự hoạch định chính sách kinh tế từ sự nghiên cứu lý thuyết này?
a/ Phân tích nội dung lý thuyết của Harry Toshima. Nhận xét:

Ông là nhà kinh tế Nhật Bản, đưa ra lý thuyết tăng trưởng của các nước kinh tế gió mùa.
Theo ông, mô hình tăng trưởng của Lewis không có ý nghĩa thực tế với tình trạng dư thừa
lao động trong nông nghiệp gió mùa. Bởi vì nền nông nghiệp lúa nước vẫn thiếu lao động
trong các đỉnh cao thời vụ và chỉ thừa lao động trong mùa nhàn rỗi. Trong mô hình này, sự
phát triển được bắt đầu bằng việc vẫn giữ lại lao động trong nông nghiệp và chỉ tạo thêm
những hoạt động mới trong những tháng nhàn rỗi như: tăng vụ, đa dạng hóa cây trồng, đẩy
mạnh chăn nuôi
Lý thuyết này cũng giải thích tình trạng nghèo khổ của những nước Châu Á gió mùa: Nền
kinh tế các nước Châu Á gió mùa chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp lúa nước chịu ảnh
hưởng sâu sắc của điều kiện khí hậu gió mùa. Khí hậu gió mùa chia một năm thành hai
mùa rõ rệt là mùa mưa (mùa canh tác) và mùa khô (mùa nhàn rỗi). Như vậy lao động
trong nông nghiệp không được sử dụng một cách đầy đủ: thiếu lao động trong các đỉnh
cao thời vụ và thừa lao động trong mùa nhàn rỗi. Vì vậy, hiệu quả sử dụng lao động thấp
 năng suất lao động thấp  thu nhập thấp.
Giải pháp kinh tế của lý thuyết này là: tăng vụ, đa dạng hóa cây trồng, phát triển chăn
nuôi, đánh cá, quan tâm phát triển ngành công nghiệp chế biến và ngành công nghiệp có
thể sử dụng nhiều lao động ở nông thôn. Khi lao động nông nghiệp sử dụng một cách đầy
đủ làm cho mức thu nhập của họ hằng năm tăng lên. Nhu cầu tiêu dùng tăng, từ đó mở
rộng thị trường cho các ngành công nghiệp và dịch vụ. Như vậy lực lượng nông nghiệp sẽ
được sử dụng hết.
Mặt khác, khi thị trường lao động bị thu hẹp thì tiền lương thực tế tăng nhanh. Hầu hết các
nông trại phải chuyển sang cơ giới và việc thay thế lao động thủ công bằng các loại máy
móc nhỏ sẽ làm tăng năng suất lao động, tăng GNP tính theo đầu người.
Nhận xét:
Chúng ta có những câu hỏi đặt ra là:
1. Thứ 1: Có phải nền kinh tế của các nước đang phát triển đều là kinh tế nhị nguyên
không? Câu trả lời là chỉ đúng với một số nước, trên thực tế ở một số nước đang phát
triển thị khu vực kinh tế hiện đại, năng động lại là khu vực dịch vụ.
2. Thứ 2: Có thực sự thừa lao động trong khu vực truyền thống không? Vì thực tế cho
thấy rằng: Khi thời vụ xảy ra, sản xuất nông nghiệp vẫn còn có nhu cầu về lao động.

3. Thứ 3: Sự chuyển giao lao động từ khu vực sản xuất truyền thống sang khu vực sản
xuất hiện đại hay không? Vì khu vực này có bảo đảm vừa tăng lao động vừa tăng lợi
nhuận được không? Trên thực tế có xu hướng việc ứng dụng các kỹ thuật sản xuất hiện
đại lại gắn liền với việc tăng tỷ xuất vốn đầu tư và ít sử dụng công nhân không có tay
nghề. Mặt khác ở các nước đang phát triển khu vực kinh tế hiện đại kém có khả năng
tích lũy do kỹ thuật sản xuất lạc hậu và năng suất lao động thấp.
b/ Nền kinh tế nước ta nước ta có phải là nền kinh tế “nhị nguyên” không? Vì sao?
Nền kinh tế Việt nam hiện nay không phải là nền kinh tế nhị nguyên mà là nền kinh tế
chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Chúng ta không hề từ bỏ lĩnh vực truyền thống là sản xuất nông nghiệp để đi đến sản xuất
công nghiệp hiện đại mà phát triển nông nghiệp một cách có kế hoạch, cân đối với cơ cấu
nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp vẫn là mặt trận chủ lực của chúng ta. Chúng ta cần có
nông nghiệp để xuất khẩu lúa gạo, lấy tiền đem về nguyên vật liệu, máy móc để phát triển
nông nghiệp tạo tiền đề tăng trưởng cho kinh tế Việt Nam.
c/ Ý nghĩa rút ra cho sự hoạch định chính sách kinh tế từ sự nghiên cứu lý thuyết trên:
- Nông nghiệp hóa là con đường tốt nhất để bắt đầu một cuộc chiến lược phát triển ở
Châu Á gió mùa, tiến tới một XH có cơ cấu kinh tế công – nông – dịch vụ.
- Lý thuyết này gợi cho ta rằng: trước hết phải tập trung vào phát triển nông nghiệp và sử
dụng lao động nông nghiệp hợp lý, có hiệu quả. Mặt khác, phải phát triển một nền
nông nghiệp đa dạng, tạo ra thị trường của nông nghiệp và dịch vụ nông nghiệp.
a/ Phân tích lý thuyết của trường phái Trọng Tiền hiện đại ở Mỹ. Đưa ra nhận xét về lý
thuyết này.
b/ So sánh luận điểm xác định số lượng tiền cần thiết trong lưu thông của William
Petty với thuyết “số lượng tiền tệ”. Nhận xét về những luận điểm này.
a/ Các quan điểm kinh tế của trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ:
Trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ chủ trương tự do hóa nền kinh tế đồng thời nhấn
mạnh vai trò tự điều tiết của thị trường.
Trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ đối lập và phê phán gay gắt những quan điểm chủ
yếu của Keynes:
- Về tình trạng nền kinh tế: Cho rằng giá cả và tiền lương trong điều kiện mới là tương

đối linh hoạt mềm dẻo.
- Thị trường vẫn có khả năng tự động điều tiết.
- Do thị trường có khả năng tự điều chỉnh nên nền kinh tế có khả năng phát huy tiềm
năng của mình. GNP thực tế gần sát GNP tiềm năng. Do đó đường tổng mức cung
không phải là một khoảng nằm ngang mà là một đường dốc đứng gần với GNP (GNP:
tổng thu nhập quốc dân)
- Tổng cầu: Khi đường tổng cung là một đường dốc đứng, tổng cầu thay đổi thì nó
không thay đổi hình dáng kể GNP thực tế mà chỉ làm thay đổi giá cả.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu: Trường phái này cho rằng chính sách tài chính
không làm ảnh hưởng nhiều đến tổng cầu mà nhân tố quan trọng quyết định chính là
khối lượng tiền tệ (ký hiệu: M) nói đúng hơn là tổng mức cung về tiền tệ.
Theo quan điểm trọng tiền hiện đại ở Mỹ: Tổng cung tiền tệ là một nhân tố chủ quan. Vì
vậy, nó thường không ổn định và nó thường đặc biệt dễ bị chi phối bởi nhân tố chính trị
như là chu kỳ kinh doanh chính trị (chu kỳ bầu cử tổng thống, nghị sĩ quốc hội ). Trong
khi đó tổng mức cầu về tiền tệ là một đại lượng khách quan, tương đối ổn định vì nó phụ
thuộc vào GNP tiềm năng.
Trường phái trọng tiền hiện đại Mỹ quan tâm đến căn bệnh chủ yếu của nền kinh tế:
không phải là suy thoái và thất nghiệp mà căn bệnh nguy hiểm nhất là lạm phát. Họ đề ra
biện pháp để chống lạm phát như sau: Thực hiện một chính sách tiền tệ, cụ thể, chủ động
làm tăng tổng mức cung tiền tệ từ 3-4%/ năm (phù hợp với tốc độ tăng của tổng mức cầu
tiền tệ là xấp xỉ mức phát triển của GNP tiềm năng. Một điểm cần chú ý ở đây là lạm phát
giảm sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp tăng.
Nhận xét:
- Đã đề ra một giải pháp hữu hiệu để tránh lạm phát nhưng cũng cần phải lưu tâm đến
suy thoái và thất nghiệp, là căn bệnh trầm kha của chủ nghĩa tư bản.
b/ So sánh luận điểm xác định số lượng tiền cần thiết trong lưu thông của William
Petty với thuyết “số lượng tiền tệ”. Nêu nhận xét.
Số lượng tiền cần thiết trong lưu thông của W.Petty:
Ông là người đầu tiên xác định số tiền trong lưu thông trên cơ sở số lượng hàng hóa và tốc
độ chu chuyển của tiền, là người tiên phong trong việc nghiên cứu ảnh hưởng của thời hạn

thanh toán đối với lưu thông tiền tệ, thời hạn thanh toán càng dài thì số tiền cần thiết cho
lưu thông càng nhiều.
Nhận xét:
Ông chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương khi cho rằng hai thứ kim loại giữ vai trò
tiền tệ là vàng bạc. Quan hệ tỷ lệ giữa chúng là giá trị của chúng là do số lượng lao động
bỏ vào việc khai thác vàng bạc quyết định.
Trường phái Mỹ:
Tốc độ lưu thông của tiền tệ là tốc độ quay vòng của tổng khối lượng tiền tệ. Công thức’
PQ GNP
V= = (1)
M M
V= Tốc độ lưu thông của tiền tệ
M= Khối lượng tiền tệ

×